Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Hoạt động và giao dịch của TMĐT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.76 KB, 60 trang )

Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Từ giữa thập kỷ 70 của thế kỷ này, với sự xuất hiện của các máy kỹ thuật mới như máy
vi tính, vi ba, cáp quang, vệ tinh thông tin... cuộc cách mạng tin học đã có những bước chuyển
nhảy vọt, đưa thế giới vào chu kỳ phát triển mới: chu kỳ thứ 5 với nền kinh tế tri thức mà
trọng tâm là công nghệ tin học. Và từ đó cũng xuất hiện phương thức kinh doanh mới: thương
mại điện tử.
Thương mại điện tử ra đời làm thay đổi hoàn toàn tính chất nền kinh tế mỗi quốc gia
cũng như nền kinh tế toàn cầu. Khác với thương mại truyền thống, thị trường của thương mại
điện tử là hệ thống mạng Internet, việc kinh doanh được thực hiện qua các cửa hàng ảo lập
trên mạng, người bán và người mua không cần biết mặt nhau. Lợi ích lớn nhất mà thương mại
điện tử mang lại cho các doanh nghiệp là giảm tối thiểu các chi phí và tăng tối đa các lợi
nhuận.
Các chuyên gia đều cho rằng, thương mại điện tử sẽ là xu hướng mới cho phát triển nền
kinh tế toàn cầu. Bởi ngay từ khi xuất hiện, cùng với những tiện ích to lớn của mình, thương
mại điện tử đã thu hút được rất nhiều sự quan tâm của các quốc gia trên thế giới. Những quốc
gia đi tiên phong trong phát triển thương mại điện tử như Mỹ và một số nước Châu Âu đã gặt
hái được những thành công không nhỏ.
Ở nước ta, mối quan tâm đến thương mại điện tử cũng đang tăng lên hàng ngày. Chính
phủ và các Bộ, ngành có liên quan cũng đã đưa ra một vài chính sách cho phát triển thương
mại điện tử. Tuy nhiên, nó vẫn chỉ mang hình thức trên giấy tờ. Đối với Việt Nam, cơ hội phát
triển không phải là điều không thể nhưng để hoà nhập vào nhịp phát triển chung của nền kinh
tế thế giới vẫn còn là một thách thức lớn.
Do còn nhiều hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm thực tế nên chắc chắn đề án không
tránh khỏi nhiều sai sót. Rất mong được sự nhận xét góp ý của các thầy cô. Đặc biệt, tôi xin
chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, hướng dẫn của thầy giáo, Thạc sĩ Phạm Thái Hưng và các bạn
bè.


1
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368

CHƯƠNG I . KHÁI QUÁT VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
I. Thương mại điện tử là gì?
1. Số hoá và nền kinh tế số hoá
Sự phát triển và hoàn thiện của kỹ thuật số đã đưa tới cuộc “cách mạng số hoá”, thúc
đẩy sự ra đời của “ kinh tế số hóa “ và “ xã hội thông tin “ mà thương mại điện tử là một bộ
phận hợp thành.
Trong nửa đầu thế kỷ, kỹ thuật số bắt đầu phát triển và hoàn thiện dần ; hình ảnh (kể cả
chữ viết, con số, các kí hiệu khác) và âm thanh đều được số hoá thành các nhóm bit điện tử để
ghi lại, lưu giữ trong môi trường từ, truyền đi và đọc bằng điện tử, tất cả đều với tốc độ ánh
sáng.
Việc áp dụng kỹ thuật số có thể coi là cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử nhân loại,
gọi là cuộc cách mạng số hoá mở ra kỉ nguyên số hoá.
Cách mạng số hoá diễn ra với tốc độ rất cao. Máy tính điện tử ( MTĐT ) đầu tiên ra đời
năm 1946 chỉ thực hiện 5000 lệnh trong một giây. 50 năm sau, MTĐT cá nhân thông dụng có
thể thực hiện trên 400 triệu lệnh một giây( dự kiến 2012 đạt tới 100 triệu lệnh) nhờ sử dụng
các chíp vi mạch cho phép đóng mở nhiều triệu lần trong một giây.
Ngành công nghệ thông tin ngày càng chiếm tỉ trọng trong nền kinh tế các quốc gia ( ở
Mỹ năm 1998 đã đạt trên 8%). Riêng về thương mại điện tử (TMĐT) cứ 18 tháng tổng công
suất lại tăng lên gấp đôi.
Quá trình tin học hoá xã hội bắt đầu bùng nổ rồi nhanh chóng chuyển sang mang tính
chất toàn cầu sau khi Internet ra đời. Trong bối cảnh ấy, hoạt động kinh tế nói chungvà
thương mại nói riêng cũng chuyển sang dạng “số hoá”, “ điện tử hoá “; khái niệm thương mại
điện tử dần dần hình thành và ứng dụng ngày càng mở rộng.

2. Khái niệm TMĐT
TMĐT là sản phẩm tất yếu của sự phát triển cùng mối quan hệ tương hỗ giữa kinh tế
và kỹ thuật tin học.
Hiểu theo nghĩa hẹp thì khái niệm “ TMĐT “ được dùng để chỉ việc giao dịch mua bán
dựa trên cơ sở xử lý và chuyển tải thông tin, số liệu về chủng loại hàng hoá trên các mạng bỏ
2
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
ngỏ mà chủ yếu là mạng Internet. Các hàng hoá này được trưng bày trên các trang web
( website ) của Internet và người mua dùng thẻ tín dụng để thanh toán. Thông thường, đó là
những hoạt động giao dịch giữa các công ty, xí nghiệp với nhau hoặc giữa các công ty với
người tiêu dùng.
Còn hiểu theo nghĩa rộng, thì TMĐT bao gồm những hoạt động có liên quan đến mạng
khu vực, mạng nội bộ - Intranet và mạng Internet. TMĐT là việc sử dụng các phương pháp
điện tử để làm thương mại hay nói chính xác hơn, TMĐT là việc trao đổi thông tin thương mại
thông qua các phương tiện công nghệ điện tử, mà nói chung là không cần phải in ra giấy trong
bất cứ công đoạn nào của toàn bộ quá trình giao dịch. Đây là một mô hình thương mại hoàn
toàn mới, sử dụng mạng lưới thông tin chưa từng có trước đây để liên lạc từng khách hàng với
các đại lý tiêu thụ, các công ty phân phối sản phẩm, các nhân viên làm thuê ... và truyền đi
những thông tin có giá trị đến các đối tác một cách nhanh chóng kịp thời.
Khái niệm “thương mại” trong “TMĐT” với phạm vi khá rộng gồm buôn bán dịch vụ
và các thành tố thương mại có liên quan đến sản phẩm tinh thần ... nên được khai diễn với các
hình thức: mua bán hàng hoá tại nhà, thư tín thanh toán, trao đổi các dữ liệu điện tử cùng
nhiều mặt khác trong đời sống kinh tế - xã hội ...
TMĐT được chia thành hai dạng cơ bản:
 B2B ( Business to Business ): kinh doanh giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp
trong đó các doanh nghiệp thực hiện giao dịch mua bán trao đổi hàng hoá với nhau thông qua

các trang web.
 B2C ( Business to Custommer): giao dịch giữa doanh nghiệp và khách hàng với
hình thức người tiêu dùng thực hiện mua bán hàng qua trang web.
Mọi hoạt động của thương mại điện tử như hoạt động giao tiếp hoặc tìm hiểu thông tin
giữa các công nhân viên chức trong các xí nghiệp, công ty, quan hệ giao dịch giữa các bạn
hàng thương mại, hoặc các hoạt động khác trên mạng như giáo dục , giảng bài trên mạng,
thông tin về các dịch vụ hoạt động của tư nhân cũng như của nhà nước ... đều sẽ được “số
hoá”. Điều này không có nghĩa là việc số hoá nhất thiết sẽ thay thế các hoạt động giao dịch
truyền thống quen thuộc, mà nó có tác dụng hỗ trợ mạnh mẽ cho các hoạt động này.
3
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
3. Các phương tiện kỹ thuật của TMĐT
Sự ra đời và phát triển của TMĐT dựa trên ba nền tảng cơ bản: công nghệ thông tin, cơ
sở pháp luật thừa nhận giá trị của các giao dịch điện tử và sự hoàn chỉnh về hệ thống tiêu
chuẩn hoá trong công nghiệp và thương mại. Nó sử dụng các phương tiện kỹ thuật điện tử
như: điện thoại, máy fax, các thiết bị thông tin tự động, mạng nội bộ, liên mạng nội bộ và
mạng toàn cầu Internet.
 Điện thoại là một phương tiện phổ thông dễ sử dụngvà thường mở đầu cho các
cuộc giao dịch thương mại. Với sự phát triển của điện thoại di động, liên lạc qua vệ tinh, ứng
dụng của điện thoại đang và sẽ trở nên ngày càng rộng rãi hơn.Tuy nhiên, trên quan điểm kinh
doanh, công cụ điện thoại chỉ truyền tải được âm thanh, mọi giao dịch cuối cùng vẫn phải
thực hiện trên giấy tờ. Ngoài ra, chi phí giao dịch điện thoại rất cao đặc biệt là đối với giao
dịch đường dài.
 Máy fax có thể thay thế dịch vụ đưa thư và gửi công văn truyền thống. Nhưng
máy fax không thể truyền tải được âm thanh, hình ảnh động, hình ảnh ba chiều.. và chi phí sử
dụng còn cao.

 Truyền hình đóng vai trò quan trong trong thương mại, nhất là trong quảng cáo
hàng hoá, ngày càng có nhiều người mua hàng nhờ xem quảng cáo và đã có một số dịch vụ
được cung cấp qua truyền hình. Song truyền hình chỉ là công cụ viễn thông “một chiều”, qua
truyền hình khách hàng không thể có được cá chào hàng, không thể đàm phán với người bán
về điều khoản mua bán cụ thể. Nay máy thu hình được nối kết với MTĐT thì công dụng của
nó được mở rộng hơn.
 Thiết bị kỹ thuật thanh toán điện tử: Thanh toán là khâu quan trọng bậc nhất của
thương mại và TMĐT không thể thiếu được công cụ thanh toán điện tử thông qua các hệ
thống thanh toán điện tử và chuyển tiền điện tử mà bản chất là các phương tiện tự động
chuyển tiền từ tài khoản này sang tài khoản khác. Thanh toán điện tử sử dụng rộng rãi các
máy rút tiền tự động, thẻ tín dụng, thẻ mua hàng, thẻ khôn minh. thẻ từ ...
 Mạng nội bộ và liên mạng nội bộ: Theo nghĩa rộng, mạng nội bộ là toàn bộ mạng
thông tin của một xí nghiệp hay cơ quan và các liên lạc mọi kiểu giữa các MTĐT trong cơ
quan, xí nghiệp đó, cộng với liên lạc di động. Theo nghĩa hẹp , đó là mạng kết nối nhiều máy
tính ở gần nhau - gọi là mạng cục bộ(LAN); hoặc nối kết máy tính trong một khu vực rộng lớn
4
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
hơn - gọi là mạng miền rộng(WAN). Hai hay nhiều mạng nội bộ liên kết với nhau tạo thành
liên mạng nội bộ - có thể gọi là “mạng ngoại bộ”(extranet).
 Internet và web: Khi nói đến Internet ta nói tới một phương tiện liên kết các
mạng với nhau trên phạm vi toàn cầu trên cơ sở giao thức chuẩn quốc tế TCP/IP. Công nghệ
Internet chỉ thực sự trở thành công cụ đắc lực khi áp dụng thêm giao thức chuẩn quốc tế “
giao thức chuẩn truyền siêu văn bản “( HTTP: HyperTex Transfer Protocol ) với các trang
siêu văn bản viết bằng ngôn ngữ HTML( HyperTex Markup Language ), tạo ra nhiều dịch vụ
khác nhau mà tới nay nổi bật nhất là dịch vụ World Wide Web ra đời năm 1991 - thường được
gọi tắt là Web, viết tắt là WWW hoặc W3) là công nghệ sử dụng các siêu liên kết văn bản tạo

ra các văn bản chứa nhiều tham chiếu tới các văn bản khác cho phép người sử dụng tự động
chuyển từ một cơ sở dữ liệu này sang cơ sở dữ liệu khác, bằng cách đó mà truy nhập vào các
thông tin thuộc các chủ đề khác nhau vừa phong phú về nội dung, vừa hấp dẫn về hình thức.
Web giống như một cuốn từ điển khổng lồ có nhiều triệu trang, mỗi trang chứa một gói
tin có nội dung nhất định như một quảng cáo, một bài viết v.v..mà số trang không ngừng tăng
lên và không theo một trật tự nào cả.
Internet tạo ra bước phát triển mới của ngành truyền thông, chuyển từ thế giới “một
mạng, một dịch vụ” sang thế giới “một mạng, nhiều dịch vụ” và đã trở thành công cụ quan
trọng nhất của TMĐT. Ngày nay nói tới TMĐT thường có nghĩa là nói tới Internet và Web
như các phương tiện đã được quốc tế hoá cao độ và có hiệu quả sử dụng cao.
4. Các hình thức hoạt động và giao dịch của TMĐT
a. Các hình thức hoạt động
 Thư tín điện tử (e - mail) là phương thức trong đó các đối tác sử dụng hòm thư
điện tử để gửi cho nhau một cách “trực tuyến” thông qua mạng.
 Thanh toán điện tử là việc thanh toán tiền thông qua thông điệp điện tử thay vì
cho việc giao tay tiền mặt; việc trả lương bằng cách chuyển trực tiếp vào tài khoản, dùng thẻ
mua hàng, thẻ thanh toán để mua hàng. Ngày nay thanh toán điện tử đã mở sang nhiều lĩnh
vực mới như: trao đổi dữ liệu tài chính, tiền mặt Internet, túi tiền điện tử, thẻ khôn minh, giao
dịch ngân hàng số hoá và giao dịch chứng khoán số hoá.
 Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) là việc chuyển giao thông tin từ máy tính điện tử
này sang máy tính điện tử khác bằng phương tiện điện tử mà sử dụng một tiêu chuẩn đã được
5
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
thoả thuận để cấu trúc thông tin (Định nghĩa của Uỷ ban Liên hiệp quốc về luật thương mại
quốc tế - UNCITRAL). EDI ngày càng được sử dụng rộng rãi trên phạm vi toàn cầu chủ yếu
phục vụ cho mua , phân phối hàng và các dịch vụ khác.

 Giao gửi số hoá các dung liệu là phương thức dung liệu được số hoá và truyền
gửi theo mạng.
 Bán lẻ hàng hoá hữu hình: tận dụng tính năng đa phương tiện của môi trường
Web và Java, người bán hàng xây dựng trên các mạng “cửa hàng ảo” để bán hàng. Người mua
sử dụng Internet/web tìm , mua hàng trên các trang web của cửa hàng và trả tiền bằng thanh
toán điện tử. Khách có thể mua hàng tại nhà mà không phải đích thân đi tới cửa hàng.
b. Giao dịch TMĐT
 Người với người: qua điện thoại, fax, thư điện tử.
 Ngườivới MTĐT: trực tiếp hoặc qua các mẫu biểu điện tử, và qua Web.
 MTĐT với MTĐT: qua trao đổi dữ liệu điện tử, thẻ khôn minh, dữ liệu mã vạch.
 MTĐT với người: qua thư tín, fax và thư điện tử.
c. Các bên tham gia giao dịch
 Giữa doanh nghiệp với người tiêu thụ: mục đích giúp người tiêu thụ có thể mua
hàng tại nhà không cần tới cửa hàng.
 Giữa các doanh nghiệp với nhau: mục đích cuối cùng là đạt được hiệu quả cao
trong sản xuất kinh doanh.
 Giữa doanh nghiệp với các cơ quan chính phủ: nhằm mục đích mua sắm chính
phủ theo kiểu trực tuyến, quản lý thuế và thông tin.
 Giữa các chính phủ: trao đổi thông tin.
Trong các hình thức nói trên giao dịch giữa các doanh nghiệp với nhau là dạng chủ
yếu của TMĐT.
d. Hình thái hợp đồng của TMĐT
Hợp đồng TMĐT có một số điểm khác biệt so với hợp đồng thông thường:
 Địa chỉ pháp lý: ngoài địa chỉ pháp lý còn có địa chỉ e - mail, mã doanh nhgiệp.
 Quy định về phạm vi thời gian, phạm vi địa lý của giao dịch.
 Có kèm theo các văn bản và ảnh miêu tả sản phẩm hoặc dung liệu trao đổi và quy
định trách nhiệm các sai sót trong các văn bản đó.
6
Website:


Email :

Tel : 0918.775.368
 Có quy định và xác nhận điện tử các giao dịch, về quyền truy cập, cải chính
thông tin điện tử và cánh thực thi.
 Có các quy định bảo đảm rằng các giao dịch điện tử được coi là chứng cớ pháp lý
về bản chất và ngày tháng giao dịch.
 Quy định chi tiết về phương thức thanh toán điện tử.
 Quy định về trung gian bảo đảm chất lượng.
Ngoài ra TMĐT còn có cả phương thức giao dịch không có hợp đồng.
II. Vai trò và lợi ích của TMĐT
1. Vai trò của TMĐT
Sự phát triển và phồn vinh của một nền kinh tế không còn chỉ dựa vào nguồn tài nguyên
thiên nhiên và nguồn lao động, mà ở mức độ lớn được quyết định bởi trình độ công nghệ
thông tin và tri thức sáng tạo. Cùng với xu thế đó, TMĐT xuất hiện đã làm thay đổi bộ mặt
kinh tế thế giới bởi những ảnh hưởng to lớn của mình:
 Làm thay đổi tính chất của nền kinh tế mỗi quốc gia và nền kinh tế toàn cầu.
 Làm cho tính tri thức trong nền kinh tế ngày càng tăng lên và tri rhức đã thực sự
trở thành nhân tố và nguồn lực sản xuất quan trọng nhất, là tài sản lớn nhất của một doanh
nghiệp.
 Mở ra cơ hộiphát huy ưu thế của các nước phát triển sau để họ có thể đuổi kịp,
thậm chí vượt các nước đã đi trước.
 Xây dựng lại nền tảng, sức mạnh kinh tế quốc gia và có tiềm năng làm thay đổi
cán cân tiềm lực toàn cầu.
 Rút ngắn khoảng cách về trình độ tri thức giữa các nước phát triển với các nước
đang phát triển.
 Cách mạng hoá marketing bán lẻ và marketing trực tuyến.
2. Lợi ích của TMĐT
TMĐT ra đời cùng với những tiến bộ gần đây của công nghệ viễn thông và máy tính.
Đặc biệt, sự bùng nổ của Internet và Web đã gia tốc quá trình chuyển hoá thương mại toàn

cầu, cho phép mở rộng tức thì quan hệ giữa những người bán, người mua, các nhà đầu tư, các
hãng quảng cáo và các nhà tài chính trên phạm vi toàn cầu với chi phí về thời gian và tiền bạc
rất thấp. Với đặc tính như vậy, TMĐT có thể đem lại những lợi ích to lớn như: góp phần cải
7
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
thiện các dịch vụ tài chính và chống tham nhũng; góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế; cho phép
các công ty nhỏ nhất cũng có thể hiện diện và tiến hành hoạt động kinh doanh trên toàn thế
giới; nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp; rút ngắn chu trình cung cấp hàng
hoá, dịch vụ, giảm chi phí, giá thành ...
Những lợi ích mà TMĐT mang lại cho:
a. Doanh nghiệp
 Hợp lý hoá khâu cung cấp nguyên vật liệu, sản phẩm, bảo hành, tự động hoá quá
trình hợp tác , kinh doanh để nâng cao hiệu quả: TMĐT giúp các doanh nghiệp nắm được
thông tin phong phú về kinh tế, thương mại, thị trường và nắm bắt mọi nhu cầu, nhờ đó có thể
xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh thích hợp với xu thế phát triển thị trường trong
nước, thị trường khu vực và quốc tế. Và do đó làm giảm chi phí sản xuất, chi phí tìm kiếm
chuyển giao tài liệu. Mọi hoạt động hợp tác kimh doanh đều diễn ra qua hệ thống mạng.
 Cải tiến quan hệ trong công ty, với đồng nghiệp, thiết lập và củng cố quan hệ đối
tác, bạn hàng: thông qua mạng, các thành tố tham gia có thể giao tiếp trực tiếp và liên tục với
nhau gần như không còn khoảng cách địa lý và thời gian nữa. Nhờ đó, cả sự hợp tác lẫn sự
quản lý đều được tiến hành nhanh chóng và liên tục.
 Giảm chi phí kinh doanh, tiếp thị, tăng năng lực phục vụ khách hàng: bằng
phương tiện điện tử Internet - Web và do catalogue điện tử rất phong phú,thường xuyên cập
nhật nên các nhà kinh doanh có thể giao dịch với rất nhiều khách hàng, tiếp cận với khách
hàng dễ dàng hơn.
 Tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp: TMĐT giúp doanh nghiệp giảm đáng kể

thời gian và chi phí giao dịch trong đó yếu tố thời gian đáng kể hơn. Vì việc nhanh chóng làm
cho thông tin hàng hoá tiếp cận người tiêu thụ( mà không phải qua trung gian) có ý nghĩa
sống còn đối với cạnh tranh buôn bán, bám sát được nhu cầu của thị trường.
 Mở rộng phạm vi kinh doanh, dung lượng và vượt qua vùng lãnh thổ: Thông qua
hệ thống thông tin nhanh nhạy trên Internet - Web, các bạn hàng mới, các cơ hội kinh doanh
mới được phát hiện nhanh chóng trên bình diện toàn quốc, toàn khu vực, toàn thế giới, và có
nhiều cơ hội để lựa chọn hơn.
8
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
b. Người tiêu dùng
 Thuận tiện hơn: người tiêu dùng có thể mua được những mặt hàng cần thiết mà
không cần phải đi đến các cửa hàng nhờ vào hệ thống dịch vụ trên các trang Web của hệ
thống mạng Internet qua MTĐT cá nhân.
 Tăng khả năng lựa chọn: người tiêu dùng có thể tự do lựa chọn hàng hoá trên các
catalogue điện tử và các dịch vụ quảng caó trên website của các doanh nghiệp.
 Tiếp cận mặt hàng dễ dàng hơn: chỉ cần sử dụng phím chuột vào các trang
website khách hàng đã có thể tìm hiểu được về mọi tính năng, chức năng và đặc tính của sản
phẩm.
 Hưởng các dịch vụ nhiều hơn: người mua hàng qua mạng có cơ hội tận hưởng
thêm một số dịch vụ ưu đãi như phiếu giảm giá, gói quà, vận chuyển hàng hoá miễn phí... do
các hãng bán lẻ đưa ra nhằm thu hút khách hàng.
c. Chính phủ
Dễ dàng kiểm soát về thuế, phân phối thu nhập, hải quan ... Tuy nhiên đối với việc
đánh thuế trên mạng lại là một khó khăn rất lớn trong việc kiểm soát cũng như trong phân
phối.
III. Nền tảng cơ sở của TMĐT

Song song với những lợi ích to lớn có thể mang lại cho mỗi con người, mỗi quốc gia,
TMĐT cũng đòi hỏi một hạ tầng cơ sở đa dạng và vững chắc, có cả tính thường hữu, tính kinh
tế sử dụng. Nếu không chuẩn bị được một hạ tầng cơ sở vững chắc thì mọi lợi ích nêu trên
đèu chỉ là những thứ ta mới hình dung ra mà thôi, trong khi đó, những tổn thất phát sinh ra lại
hoàn toàn là thực.
1. Hạ tầng cơ sở công nghệ ( hệ thống thông tin, máy tính, truyền thông, bảo
mật và an toàn )
TMĐT không phải là một sáng kiến ngẫu hứng, mà là hệ quả tất yếu của sự phát triển
kỹ thuật số hoá, của công nghệ thông tin, mà trước hết là kỹ thuật MTĐT. Vì thế chỉ có thể
thực sự có và thực sự tiến hành TMĐT có nội dung và hiệu quả đích thực khi đã có một cơ sở
công nghệ thông tin vững chắc.
Hạ tầng cơ sở công nghệ ấy bao gồm từ sự liên kết các chuẩn của doanh nghiệp, của cả
nước với các chuẩn quốc tế tới kỹ thuật ứng dụng và thiết bị ứng dụng; và không chỉ của riêng
9
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
từng doanh nghiệp, mà phải là một hệ thống quốc gia, với tư cách như một phân hệ của hệ
thống thông tin khu vực và toàn cầu, và hệ thống ấy phải tới được từng cá nhân trong hệ
thống thương mại.Chi phí các phương tiện công nghệ thông tin (điện thoại, máy tính...) và chi
phí dịch vụ truyền thông( phí điện thoại, phí nối mạng và truy cập...) phải đủ rẻ để đông đảo
người sử dụng có thể tiếp cận được.
Tuy nhiên điều đáng lo ngại nhất là an toàn và bảo mật dữ liệu vì số vụ tấn công vào
Internet ngày càng tăng, kể cả vào các mạng được bảo vệ nghiêm ngặt. “Giặc máy tính”
(hacker) dùng nhiều thủ đoạn khác nhau: mạo quan hệ, bẻ mật khẩu, virut và các chương trình
“phá từ bên trong”, giả mạo địa chỉ Internet, phong toả dịch vụ. Ngay cả các mã mật (sử dụng
kỹ thuật mã hoá) cũng có thể bị khám phá bởi các kỹ thuật giải mã tinh vi, nhất là kỹ thuật
của bên có đẳng cấp kỹ thuật cao hơn hẳn. Cho nên một chiến lược quốc gia về mã hoá, kèm

theo các chương trình bảo vệ an toàn thông tin đang trở thành một vấn đè lớn. Và nếu không
có các luật và các phương tiện thích đáng để bảo vệ thông tin thì một nước rất có thể bị cách
ly khỏi hoạt động TMĐT quốc tế.
2. Hạ tầng cơ sở nhân lực
Áp dụng TMĐT tất yếu làm nảy sinh hai đòi hỏi: một là mọi người đều quen thuộc và
có khả năng thành thạo hoạt động trên mạng, hai là có đội ngũ chuyên gia tin học mạnh,
thường xuyên bắt kịp các công nghệ thông tin mới phát triển cũng như có khả năng thiết kế
các công cụ phần mềm đáp ứng được nhu cầu hoạt động của một nền kinh tế số hoá, tránh bị
động lệ thuộc hoàn toàn vào nước khác.
Ngoài ra, do ngôn ngữ được sử dụng chủ yếutrong thương mại nói chung hay TMĐT
nói riêng hiện nay là tiếng Anh nên đã xuất hiện một yêu cầu tự nhiên nữa là tất cả những
người tham gia kinh doanh trực tuyến đều phải giỏi tiếng Anh.
Chính những điều này sẽ dẫn tới sự thay đổi căn bản hệ thống giáo dục và đào tạo.
3. Hệ thống thanh toán tài chính tự động
TMĐT chỉ có thể thực hiện thực tế khi đã tồn tại hệ thống thanh toán tài chính phát
triển cho phép thực hiện thanh toán tự động. Khi chưa có hệ thống này thì hiệu quả của
TMĐT bị giảm thấp và có thể không đủ để bù lại các chi phí trang bị công nghệ đã bỏ ra. Hệ
thống thanh toán tài chính đi liền với việc mã hoá toàn bộ hàng hoá, hay “đánh số sản phẩm”
10
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
gọi là mã vạch ; và một máy quét sẽ nhận dạng các vạch này biến đổi thành các con số rồi đưa
vào máy tính để tính toán tự động.
4. Bảo vệ sở hữu trí tuệ
Ngày nay, cái tạo ra giá trị cao hơn cho sản phẩm không phải là bản thân sản phẩm mà
chính là “tài sản chất xám” của nó. Trong TMĐT, thông tin trở thành tài sản, và bảo vệ tài sản
cuối cùng sẽ có nghĩa là bảo vệ thông tin. Vì lẽ đó, nổi lên vấn đề bảo vệ sở hữu trí tuệ và bản

quyền của các thông tin trên Web( các hình thức quảng cáo, các nhãn hiệu thương mại, các cơ
sở dữ liệu, các dung liệu truyền gửi qua mạng...). Mọi hình thức “sao chép”, “phiên dịch” các
dữ liệu văn bản, hình ảnh, âm thanh thành dung liệu truyền gửi phải được tác giả đồng ý. Và
như vậy phải có sự quản lý, đầu tư hợp lý để điều chỉnh các mối quan hệ sở hữu trí tuệ, tránh
được hiện tượng “chảy máu chất xám”.
5. Bảo vệ người tiêu dùng
Nhìn nhận trên cơ sở lý luận thương mại và lý thuyết thông tin, thì từ xưa tới nay, một
thị trường bị sụp đổ bao giờ cũng bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa là “thông tin không đối
xứng” nghĩa là cái người bán biết khác với cái người mua biết dẫn tới cái gọi là “thị trường
chanh quả”.
Trong TMĐT, thông tin về hàng hoá đều là thông tin số hoá, nói giản dị là người mua
không có điều kiện “nếm thử” hay “dùng thử” hàng trước khi mua; khả năng rơi vào “thị
trường chanh quả” sẽ càng gia tăng, chưa kể tới khả năng bị nhầm lẫn các cơ sở dữ liệu, bị lừa
gạt bởi các thông tin và các tổ chức phi pháp có mặt trên mạng. Vì thế đang xuất hiện nhu cầu
phải có trung gian bảo đảm chất lượng mà hoạt động hữu hiệu và ít tốn kém. Trước thực tế
các rủi ro ngày càng gia tăng, đả kích vào quyền lợi của người tiêu thụ, thì đây là một vấn đề
đáng được quan tâm.
6. Hạ tầng cơ sở kinh tế và pháp lý
a. Môi trường quốc gia
Trước khi đi đến một quyết định thiết lập môi trường kinh tế, pháp lý và xã hội cho nền
kinh tế số hoá nói chung và TMĐT nói riêng( ví dụ quyết định đưa vào mạng các dịch vụ hành
chính, các dịch vụ thu trả thuế, và các dịch vụ khác như thư tín, dự báo thời tiết...), thì chính
phủ mỗi nước phải đánh giá một cách chính xác, khách quan những cơ hội hay những hiểm
11
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
hoạ mà xã hội thông tin hay cụ thể hơn là Internet mang lại. Và để có một môi trường kinh té

xã hội ổn định, nhà nước cần xây dựng một khung pháp lý phù hợp:
 Thừa nhận tính pháp lý của giao dịch TMĐT.
 Thừa nhận tính pháp lý của chữ ký điện tử, chữ ký số hoá và có các thiết chế
pháp lý thích hợp xác thực, chứng nhận chữ ký điện tử và chữ ký số hoá.
 Bảo vệ pháp lý các thanh toán điện tử.
 Quy định pháp lý đối với các dữ liệu có xuất xứ từ nhà nước ( các cơ quan chính
phủ và trung ương ).
 Bảo vệ pháp lý đối với sở hữu trí tuệ, bản quyền tác giả liên quan đến mọi hình
thức giao dịch điện tử.
 Bảo vệ bí mật riêng tư , ngăn cản các bí mật đời tư bị đưa lên mạng một cách phi
pháp.
 Bảo vệ pháp lý đối với mạng thông tin, chống tội phạm xâm nhập với các mục
đích bất hợp pháp như thu nhập tin tức mật, thay đổi thông tin trên các trang Web, thâm nhập
vào các dữ liệu, sao chép trộm các phần mềm, truyền virut phá hoại... Vấn đè là sẽ phải đưa
vào khuôn khổ của bộ luật hình sự, một khi kinh tế số hoá được thừa nhận trên tầm quốc gia.
b. Môi trường quốc tế
Ngoài những điểm chung, môi trường kinh tế, pháp lý và xã hội quốc tế còn khác với
môi trường quốc gia ở phạm vi kinh tế thương mại. Nó không chỉ diễn ra ở phạm vi một nước
mà còn vượt qua biên giới quốc gia, trong đó khía cạnh quan trọng nhất là tính không biên
giới của TMĐT dẫn tới những khó khăn to lớn về luật áp dụng để điều chỉnh hợp đồng, về
thanh toán và đặc biệt là về thu thuế (do làm mất đi tính ranh giới địa lý vốn là đặc tính của
ngoại thương truyền thống.). Chẳng hạn khó khăn trong việc đánh thuế các hàng hoá phi vật
thể (âm nhạc, chương trình phần mềm..), thu thuế trong trường hợp thanh toán vô danh bằng
thẻ khôn minh và khó khăn trong vấn đề bảo vệ sở hữu trí tuệ, chính trị, bảo vệ bí mật quốc
gia, vấn đề pháp luật quốc tế về sử dụng không gian..



12
Website:


Email :

Tel : 0918.775.368



CHƯƠNG II. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN TMĐT VỚI MỘT SỐ
NƯỚC VÀ KHU VỰC TRÊN THẾ GIỚI.
I. Xu hướng phát triển của TMĐT
1. Sự phát triển của Internet hiện nay
Internet - đỉnh cao của cuộc cách mạng thông tin, công nghệ và giáo dục ra đời với các
nội dung chủ yếu là tạo ra các kiểu máy tính có tốc độ tính toán hàng triệu đến hàng tỷ phép
tính/giây. Các bộ nhớ thông tin có thể lưu trữ được toàn bộ tri thức của nhân loại trong suốt
lịch sử phát triển của nền văn minh, tạo lập các cơ sở dữ liệu có khả năng cập nhật và truyền
13
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
bá thông tin cho bất kỳ ai, bất kỳ lúc nào, bất kỳ nơi đâu trên hành tinh này thông qua mạng
lưới các máy tính được điều khiển tự động, cũng như các mạng lưới truyền thông toàn cầu và
khu vực thông qua các phương tiện vũ trụ. kỹ thuật điện - điện tử, kỹ thuật quang - điện tử để
thu thập, xử lý, lưu trữ, truyền bá thông tin và tri thức. Với cuộc cách mạng thông tin -
Internet, quá trình toàn cầu hoá diễn ra trong tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, khoa học -
công nghệ, chính trị, quân sự một cách mạnh mẽ.
Cùng với việc ra đời thế hệ máy tính mới mô phỏng hoạt động của bộ não con người,
gọi là máy tính nơron, hệ thống Internet-2 được xây dựng và trong đầu thế kỷ tới sẽ tạo nên
một bộ não khổng lồ bao quát quy mô toàn cầu. Theo dự báo của năm 1998, thị trường máy

tính nơron đã vượt quá 2 tỷ USD và mức tăng trưởng hàng năm đạt khoảng 40%, báo hiệu mở
đầu một kỷ nguyên mới trong công nghệ thông tin. Ưu điểm nổi bật của máy tính nơron là có
khả năng tự học, tự tích luỹ tri thức theo chương trình, giống như hoạt động trí tuệ thực sự của
con người. Đặc biệt, máy tính nơron có khả năng xử lý các thông tin trừu tượng, khó hình thức
hoá dưới dạng toán học, thậm chí có thể xử lý thông tin theo kiểu trực cảm là điều máy tính
thông thường không thể làm được.
Tiếp theo thế hệ máy tính nơron điện tử, máy tính nơron quang tử sẽ ra đời, trong đó
dùng photon thay thế điện tử làm vật mang tin sẽ tạo ra thế hệ mạng thông tin toàn cầu mới,
gọi là Internet-3 với những tác động cách mạng mà đến nay chỉ có thể so sánh được với các
chuyện khoa học viễn tưởng.
Sự phát triển của Internet cả về công nghệ lẫn phạm vi bao phủ đã tạo ra vô số những
hình thức giao dịch qua mạng máy tính, mà qua đó người ta có thể tìm kiếm bất cứ thông tin
nào mà mình muốn, từ khoa học mũi nhọn đến bản đồ khí tượng, và kể cả thông cáo báo chí
của nhà Trắng..nhưng vượt lên trên hết vẫn là kinh doanh điện tử. Năm 1991 mới có 31 nước
nối mạng vào Internet, tới giữa năm 1997 đã có 171 nước; số trang Web vào giữa năm 1993 là
130, tới cuối năm 1998 đã lên tới 3,69 triệu. Số lĩnh vực sử dụng Internet/Web vào giữa năm
1991 là 1600, tới giữa năm 1997 đã lên 1,3 triệu. Giữa năm 1994, toàn thế giới có 3,2 triệu địa
chỉ Internet (chủ yếu ở Mỹ), tới giữa năm 1996 đã lên 12,9 triệu địa chỉ với khoảng 67,5 triệu
người sử dụng ở khắp các châu lục, giữa năm 1998 đã có 36,7 triệu địa chỉ Internet với
khoảng 100 triệu người sử dụng. Theo dự đoán, số người sử dụng Internet trên toàn cầu năm
1999 là 147 triệu, các site chính trên mạng sẽ theo hướng hợp nhất, địa vị của Internet sẽ có
14
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
chuyển biến lớn và bên cạnh đó giá máy tính cá nhân sẽ giảm - đây chắc chắn là một yếu tố
góp phần làm tăng gia lượng người sử dụng mạng điện tử.
2. TMĐT đang phát triển nhanh trên bình diện toàn cầu

Những năm gần đây có thể coi là những năm phát triển và diễn ra những thay đổi vô
cùng to lớn của nền thương mại toàn cầu dựa trên Internet. TMĐT đã thực sự trở thành mối
quan tâm hàng đầu của chính phủ các nước, các tổ chức và các doanh nghiệp. Doanh số buôn
bán thông qua mạng toàn cầu trong năm 1999 đã đạt con số hàng trăm tỷ USD. Các nhà kinh
tế thế giói dự báo TMĐT phát triển mạnh trên phạm vi toàn cầu có thể đạt 1500 tỷ trong 3
năm tới. TMĐT là lĩnh vực tương đối mới, thực sự khai diễn cách đây khoảng trên 10 năm và
tương đối thịnh hành ở những nước công nghiệp phát triển. Tuy sinh sau đẻ muộn nhưng là
con đẻ của nền văn minh đỉnh cao nên TMĐT đã sớm khẳng định vị thế bởi sức hấp dẫn và
phát triển nhanh về dung lượng, phạm vi và đối tượng. Năm 1997 doanh số TMĐT toàn thế
giới mới đạt 18 tỷ USD, năm 1999 dự kiến là 71 tỷ và theo các số liệu dự báo của APEC sẽ
đạt 1000 tỷ USD vào năm 2002 ( riêng các nước APEC là 600 tỷ USD). Còn theo đánh giá
của các chuyên gia Mỹ, đến năm 2002 thị trường TMĐT sẽ có thu nhập 300 tỷ USD. Và theo
ước tính của IDC, doanh số TMĐT sẽ tăng từ mức 50 tỷ USD của năm 1998 lên đến 1300 tỷ
USD vào 2003.
Đối với các công ty của Mỹ và Châu Âu, việc kinh doanh điện tử đang ngày càng phổ
biến. Công ty tư vấn Ernst and Young của Mỹ cho biết trong năm 2000 các công ty Mỹ có thể
bán được hàng từ 45 đến 50 tỷ USD trên mạng Internet. Nghiên cứu qua 1.200 khách hàng
mua hàng trên mạng ở Mỹ, trung bình mỗi khách hàng đã thực hiện 13 đợt mua hàng trên
mạng năm 1999 với khoản chi 1.205 USD so với 280 USD năm 1998 và 4 đợt mua trong năm
1997 với mức chi 230 USD.
Theo đánh giá của các chuyên gia, mặc dù TMĐT năm 1999 của Châu Á - TBD chỉ đạt
có 2,8 tỷ USD, tức là chỉ bằng khoảng 7,8% so với con số của Mỹ nhưng đây vẫn là một khu
vực có tiềm năng trên lĩnh vực này. Trong tổng giá trị kim ngạch thương mại điện tử kể trên
thì có tới 93,5% là của 3 quốc gia mạnh nhất là Nhật Bản, Australia và Hàn Quốc, số còn lại
(khoảng 180 triệu USD) là của 10 nước khác. Đặc biệt, các chuyên gia của Boston Consulting
Group khẳng định, kim ngạch thương mại điện tử của khu vực Châu Á-TBD sẽ còn tiếp tục
tăng hơn nữa bởi trong thời gian tới đây các khách hàng của khu vực này có xu hướng sử
15
Website:


Email :

Tel : 0918.775.368
dụng mạng trực tuyến nhiều hơn. Hiện tại, tỷ lệ này mới chỉ khiêm tốn chiếm 0,1% so với
1,2% của Mỹ.
Tại Châu Á có khoảng 39 triệu người tham gia mạng Internet, đang tụt hậu trong cuộc
chạy đua với các nước phát triển. Công ty Dữ liệu quốc tế ước tính mua bán hàng trên mạng ở
Châu Á, không kể Nhật Bản, sẽ tăng gấp đôi từ 2,2 tỷ USD năm 1999 lên 5,5 tỷ USD vào cuối
năm nay. Các chuyên gia cho biết trong 5 năm tới, số người ở Châu Á truy cập mạng Internet
có thể sẽ tương đương hoặc vượt quá tổng số của Bắc Mỹ và châu Âu cộng lại. Dự kiến, Châu
á sẽ thu được 1/4 thu nhập thương mại Internet trên toàn cầu hay 1,4 nghìn tỷ USD vào năm
2003. Năm 2000 sẽ là năm các công ty thương mại điện tử toàn cầu đổ bộ vào Châu Á
Mạng Internet phát triển nhanh thực sự đang là không gian mới cho hoạt động kinh
doanh và nâng cao hơn nữa ý nghĩa của TMĐT. Việc dùng mạng Internet để giao dịch ngày
càng phổ biến, dự đoán năm 2000 sẽ có 250 triệu người trên thế giới sử dụng các dịch vụ của
Internet. Đó là do người tiêu dùng ngày càng quan tâm hơn tới các sản phẩm được bán hàng
qua mạng như sách, báo, tranh ảnh, các CD âm nhạc... ví dụ như chỉ tính riêng mùa giáng sinh
năm 1998, tổng lượng hàng hoá bán qua Internet đã đạt khoảng 3 tỷ USD, tăng gấp 3 lần so
với năm 1997. Người tiêu dùng bắt đầu quan tâm đến cả một số mặt hàng bị coi là khó bán
trên mạng, thậm chí còn có cả dịch vụ may đo quần áo qua mạng và dịch vụ này đang rất
được ưa chuộng. Và chính sự phát triển này đã kéo theo làn sóng TMĐT đang sục sôi dâng
trào ở khắp nơi với tốc độ chóng mặt. Theo báo cáo ngành mới nhất thì doanh thu TMĐT
toàn cầu sẽ đạt khoảng 95 tỷ USD trong năm nay và sẽ vượt lên 1,3 nghìn tỷ USD. Activ
Media báo cáo doanh thu tăng từ 72% lên 150%, dự đoán tỷ lệ này sẽ tăng lên 138% vào 2001
khi những người mua trực tuyến đưa vào Internet để mở rộng chủng loại mặt hàng dịch vụ.
Trong bối cảnh như vậy, không một quốc gia nào có thể tránh khỏi sức lôi cuốn của nó.
Cách mạng thông tin điện tử, đặc biệt là mạng Internet đã phủ khắp hầu hết các nước trên thế
giới và phần lớn trong số đó đã tận dụng ngay lợi thế này cho kinh doanh. Deutsche Bank,
ngân hàng lớn nhất nước Đức cho rằng, Internet sẽ ảnh hưởng đến khu vực tài chính nhiều
hơn các khu vực khác nên ngân hàng này đã có kế hoạch đầu tư 1tỷ USD để cải tổ các hoạt

động kinh doanh và hợp tác với các đối tác nhằm khai thác triệt để các cơ hội mới; Ba công ty
dầu mỏ và bốn ngân hàng đầu tư hàng đầu thế giới đang hợp tác để phát triển giao dịch sản
phẩm kim loại và năng lượng trên Internet bắt đầu vào cuối năm 2000. Các công ty máy tính
16
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
lớn trên thế giới đã không bỏ qua cơ hội cung cấp hàng loạt phương án toàn diện về ứng dụng
TMĐT. Xu thế này sẽ kéo theo một số ngành nghề phát triển mạnh như: vận tải, giao thông,
phát thanh truyền hình, mua bán cổ phiếu, phần mềm và máy tính cá nhân... đặc biệt là hình
thức mua hàng trên mạng sẽ phát triển rất nhanh.
Sự phát triển của TMĐT trên thế giới không chỉ thể hiện ở tốc độ gia tăng nhanh, mà
còn ở các định chế chính sách, pháp luật và các hoạt động trên phạm vi quốc tế và khu vực.
Nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của TMĐT đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, các
quốc gia, các khối kinh tế và cộng đồng thế giới đang nhanh chóng xây dựng cho mình chính
sách về TMĐT nhằm tạo sự ổn định về mặt pháp lý, giảm đến tối đa các các rủi ro trong hoạt
động TMĐT, ngăn chặn những hành vi bất hợp pháp gây thiệt hại cho người tiêu dùng, doanh
nghiệp và quốc gia.
Uỷ ban Liên Hợp Quốc về Luật Thương mại Quốc tế (ULCITRAL) đã soạn thảo Đạo
luật mẫu về TMĐT. Tháng 12/1996 Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc đã ra nghị quyết khuyến
nghị các chính phủ, các tổ chức quốc tế cần phổ biến rộng rãi và áp dụng Đạo Luật Mẫu này.
Chương trình Trade Point của UNCTAD( chương trình nhằm giúp các công ty xuất
nhập khẩu nhỏ và vừa ở các nước đang phát triển tham gia nhiều hơn vào lĩnh vực buôn bán
quốc tế) cũng hỗ trợ cho các công ty dần dần gia nhập vào mạng điện tử toàn cầu.
Mỹ cũng đã ấn định các nguyên tắc cơ bản cho TMĐT của mình và kiến nghị một số
điểm cho TMĐT toàn cầu. Mới đây, Tổng Thống Mỹ Bill Clinton đã công bố “nước Mỹ chính
thức sử dụng chữ ký điện tử trong giao dịch”, hoàn thiện thêm khung pháp lý cho TMĐT.
Liên Minh Châu Âu(EU) đã xác định các nguyên tắc TMĐT cho tổ chức này, công ước

Brussels năm 1968 về hoạt động thương mại trong khu vực đang được đề nghị sửa đổi để áp
dụng cho cả TMĐT. Tháng 12/1997, EU ra tuyên bố cấp bộ trưởng tại Bonn ủng hộ TMĐT.
Năm 1997, APEC thành lập “nhóm công tác chuyên trách về TMĐT” và năm 1998
thông qua “ chương trình hành độngvề TMĐT của APEC”. Hiện nay, APEC đang xây dựng
“chương trình hành động chung” nhằm thực hiện TMĐT vào năm 2005 đối với các nước phát
triển và vào năm 2010 đối với các nước đang phát triển.
Bộ trưởng kinh tế các nước trong khối ASEAN đã chính thức đề nghị các chính phủ chỉ
đạo cho bộ trưởng tài chính và thống đốc ngân hàng triển khai TMĐT. Tiểu ban điều phối về
TMĐT được thành lập và đến đầu năm 2000 được sáp nhập với nhóm công tác về hạ tầng cơ
17
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
sở thông tin để thành lập nhóm công tác về E - ASEAN. Theo dự kiến, các nước ASEAN sẽ
tiến hành ký kết hiệp định E - ASEAN và văn bản về giao dịch điện tử trong tháng 11/2000,
hy vọng tới năm 2003 sẽ có văn bản chính thức về thực hiện TMĐT cho tất cả các nước thành
viên trong khối.
Tất cả các nước trên thế giới đã đang rất khẩn trương, tích cực và có nhiều hoạt động
thiết thực để triển khai và phát triển TMĐT. Tại các nước phát triển TMĐT đã chiếm một
phần quan trọng trong hoạt động thương mại nói chung.
Trong tương lai, TMĐT được coi là một trong những yếu tố quyết định sự thành công
của các quốc gia, các khối kinh tế trong cuộc cạnh tranh quyết liệt mang tính khu vực hoá và
toàn cầu hoá ngày càng sâu sắc. TMĐT chính là chìa khoá để nhân loại bước vào thế kỷ 21 -
thế kỷ của xã hội tri thức. Và đó không phải là một hiện tượng nhất thời mà là xu thế tất yếu
không thể đảo ngược.
II. Thái độ của một số nước và khu vực trên thế giới đối với TMĐT
1. Đánh giá vai trò của TMĐT đối với nền kinh tế thế giới
TMĐT ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế toàn cầu thế kỷ 21.

Giá trị của kinh tế mạng không phải chỉ ở chỗ nó có thể lập tức tạo ra lợi nhuận và sự giàu có
hữu hình cho xã hội, mà còn tạo ra một mô hình xã hội mới đề cao sức sáng tạo kinh tế của
mỗi thành viên xã hội. Nó đã làm thay đổi mạnh mẽ cuộc sống, công việc và cách nghĩ của
con người, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Nhiều nhà dự báo chiến lược cho rằng, TMĐT sẽ đẩy nhanh hơn tiến độ toàn cầu hoá
nền kinh tế thế giới. Vì vậy, TMĐT sẽ giúp các nước đang phát triển có cơ hội rút ngắn
khoảng cách với các nước trên thế giới một cách nhanh chóng hơn. Việc tận dụng được cơ hội
mới mà TMĐT mang lại sẽ khẳng định vị trí kinh tế của quốc gia trong xã hội thông tin.
Xét trên giác độ kinh doanh, TMĐT được coi là không thể thay thế trong chiến lược
kinh doanh của các nước phát triển và khâủ hiệu của họ là: “hoặc là TMĐT, hoặc không tồn
tại”. Vì thế nó đã trở thành thứ vũ khí sắc nhọn mà các công ty sử dụng trong nền kinh tế cạnh
tranh. Nhưng xét trên giác độ thuế, tiềm năng phát triển của hình thức thương mại này sẽ là
nguyên nhân làm đau đầu các cơ quan quản lý thu thuế của mọi quốc gia do tính chất toàn cầu
của nó.
18
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Ngoài ra, TMĐT còn mở ra cơ hội mới cho các ngân hàng với tư cách là nhà cung cấp
cơ sở hạ tầng, các nhà cung cấp thanh toán điện tử, bảo hiểm thanh toán, hoạt động giao dịch
và các nhà tài chính hỗ trợ. Và như vậy, khi TMĐT phát tiển sẽ càng làm tăng sức cạnh tranh
trong hoạt động ngân hàng.
2. Phát triển TMĐT ở Mỹ và một số nước, khu vực trên thế giới
Nhận thức được xu hướng tất yếu của TMĐT, hầu như tất cả các nước trên thế giới, cả
các nước phát triển và đang phát triển đều có sự chuẩn bị để tham gia vào môi trường này. Đi
đầu trong cuộc chơi này vẫn là những nước công nghiệp phát triển, nhất là Mỹ, nhờ có một hạ
tầng thông tin tiên tiến, mức xuất khẩu các sản phẩm tin học lớn nhất thế giới cùng các dịch
vụ tin học khác của Mỹ có mức xuất khẩu hơn 40 tỷ USD, mà việc giao dịch mua bán, sử

dụng các sản phẩm này đều có thể thông qua mạng máy tính.
Mỹ là nước tích cực nhất trong việc đưa ra những đề hướng, chính sách, các hướng giải
quyết trong TMĐT. Năm 1996, Bộ tài chính Mỹ cho ra mắt cuốn “Chính sách thuế đối với
thương mại toàn cầu”, với mục đích ủng hộ tính trung hoà về thuế thu nhập, giữa điện tử và
phi điện tử. Cuốn sách cho rằng việc bảo đảm tính thống nhất trong TMĐT phải trở thành
nhận thức chung trên toàn cầu, cần làm rõ quyền đánh thuế đối với TMĐT - tránh thuế trùng
nhau. Đến tháng 7/1997, Mỹ lại công bố “khung kết cấu TMĐT toàn cầu” do chính tổng
thống Mỹ AlGor chỉ đạo nghiên cứu. Khung kết cấu này kêu gọi chính phủ các nước bằng
mọi khả năng giúp đỡ các xí nghiệp, công ty ứng dụng thương mại qua Internet và kiến nghị
Internet sẽ là khu vực miễn thuế toàn cầu. “khung kết cấu TMĐT toàn cầu” gồm 5 nguyên tắc
cơ bản: Xí nghiệp tư nhân cần giữ vai trò chủ đạo; Hạn chế những yêu cầu không cần thiết
của chính phủ đối với TMĐT; Chính phủ tham gia TMĐT chỉ là để cung cấp một môi trường
luật pháp thương mại hợp lý và ngắn gọn; Chính phủ phải thừa nhận tính độc đáo riêng của
Internet; Thúc đẩy TMĐT trên cơ sở toàn cầu. Ngoài ra, khung kết cấu còn bàn đến vấn đề
thuế thương mại trong lĩnh vực TMĐT, hệ thống trả tiền điện tử, kỹ thuật thông tin, kết cấu
cơ sở điện tín..., đưa ra những cơ sở thống nhất về pháp lý thương mại, bảo vệ quyền sở hữu
tài sản trí tuệ, bả vệ quyền bí mật riêng tư của cá nhân trên mạng, sự an ninh của mạng...
Trước tiềm lực to lớn của TMĐT, mọi người đều thừa nhận rằng việc hình thành một khung
kết cấu mang tính toàn cầu như trên nhằm đảm bảo sự phát triển không ngừng của TMĐT là
điều hết sức cần thiết.
19
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Ngày14/5/1998, Uỷ ban thương mại Thượng nghị viện Mỹ đã thông qua các dự luật
miễn thuế cho Internet tạo điều kiện phát triển tự do hoá cho các xí nghiệp, công ty trên toàn
nước Mỹ. Ngày 20/5, Mỹ lại hối thúc các Bộ trưởng 132 nước thành viên trong Tổ chức buôn
bán thế giới, nhất trí thông qua hiệp định miễn thuế ít nhất 1năm đối với các công ty, tổ chức

có giao dịch quốc tế thông qua Internet, điều này giúp cho mọi cơ sở kinh doanh sản xuất đều
có thể vượt “không gian không có biên giới địa lý” để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài.
Tuy nhiên, Mỹ vẫn phải nghiên cứu và giải quyết những vấn đề có liên quan đến TMĐT
do các nhân tố không xác định của TMĐT như pháp luật không kiện toàn, sự kiểm soát về
thuế quá mức của chính phủ, tính an toàn của Internet...đều sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến
phát triển của hoạt động TMĐT trên mạng.
Bên cạnh Mỹ là Canada cũng đang bừng bừng tham vọng trở thành nước lãnh đạo về
TMĐT với dự tính sẽ đạt mức giao dịch TMĐT trong nước trên 13 tỷ USD vào trước 2002.
Chính sách TMĐT của Canada có bốn trọng điểm lớn:
 Hình thành một nhận thức mới trong toàn dân, rằng nhất thiết phải dựa vào nền
kinh tế số để phát triển;
 Định ra những quy tắc thị trường rõ ràng và đúng đắn;
 Nâng cao khả năng thu nạp giao dịch trên mạng của xa lộ thông tin cao tốc;
 Khuyến khích và trợ giúp các tầng lớp xã hội nắm bắt và thực hiện mọi cơ hội
buôn bán trên mạng.
Đối với liên minh Châu Âu EU, nhờ có hệ thống cơ sở kỹ thuật vững vàng, hệ thống
viễn thông hiện đại nên đã đạt được khá nhiều thành tựu trong việc phát triển của TMĐT.
Hiện nay ngoài mạng Internet, các nước EU đã ứng dụng TMĐT trong toàn bộ hệ thống ngân
hàng. Để TMĐT tiếp tục phát triển, EU cũng rất chú trọng đưa ra những hướng chiến lược cụ
thể. Trước hết là đưa ra những cơ sở pháp lý cho hình thức kinh doanh mới mẻ mà hiệu quả
này. Tuy còn những bất đồng giữa các nước thành viên nhưng từ năm 1996, cơ quan điều
hành EU đã thông qua những biện pháp, những công nhận chung về luật pháp giữa các nước
này, đồng thời đưa ra cơ chế pháp lý toàn Châu Âu về điều tiết TMĐT. Nỗ lực chung của các
nước Châu Âu trong lĩnh vực TMĐT còn thể hiện ở việc tự do hoá thị trường viễn thông từ
1/1/98, các thị trườngviễn thông Châu Âu đã hoàn toàn mở cửa cho cạnh tranh và trong giai
đoạn đầu của cuộc cạnh tranh này các nhà hoạt động viễn thông cả cũ và mới này đều được
20
Website:

Email :


Tel : 0918.775.368
giảm thuế cho các hoạt động trong lĩnh vực viễn thông. Dự kiến trong giai đoạn 1998 - 2000,
EU sẽ chi phí khoảng 4000 triệu ECU cho việc hình thành một cộng đồng thông tin mà hạt
nhân là TMĐT.
Để góp phần tham gia vào việc thúc đẩy quá trình phát triển và giải quyết những vấn đề
của TMĐT, những năm gần đây, tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD đã tổ chức một
loạt các hội nghị có liên qua đến TMĐT nhằm thảo luận về các vấn đề trong xã hội thông tin,
mạng Internet, chế độ bảo vệ thông tin và quyền sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn kỹ thuật của
TMĐT... Tại hội nghị TMĐT cấp bộ trưởng mang chủ đề “một thế giới không biên giới quốc
gia cho TMĐT toàn cầu” (5/1997), Bộ trưởng của 26 nước thành viên OECD cùng các đại
diện của tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp đều thống nhất quan điểm : cần đưa ra những tiêu
chuẩn kỹ thuật và những chính sách hợp lý để nâng cao hơn nữa lòng tin của giới thương mại
xã hội đối với TMĐT, định ra những tiêu chuẩn giao dịch chung trên phạm vi toàn cầu để bảo
vệ lợi ích cho người tiêu dùng. Từ ngày 7 đến 9/10/1998, đã diễn ra Hội nghị “thị trường điện
tử toàn cầu” tại Canada. Hội nghị này là một mốc đánh dấu những cố gắng to lớn mà các nước
thành viên OECD đã thực hiện để phát huy hiệu quả, lợi ích kinh tế xã hội của TMĐT. Bên
cạnh đó, OECD còn đưa ra hàng loạt các khuyến nghị chính sách liên quan đến chính sách
thuế như nâng cao hiệu quả và đơn giản hoá hệ thống thu thuế giao dịch điện tử, xác lập
những giới hạn cụ thể về quyền hạn và nghĩa vụ thuế đối với hoạt động TMĐT qua Internet.
Ngoài những nước, tổ chức và khu vực kể trên, TMĐT đã bắt đầu hình thành và phát
triển ở một số nước và khu vực như Nhật Bản, Trung Quốc, tổ chức APEC, ASEAN và các
nước thành viên, Austraylia ...
Sự phát triển của nền kinh tế Internet ở châu Á còn gặp nhiều thách thức. Trước hết là
có những khoảng cách lớn trong quá trình phát triển ngành công nghiệp thông tin, ngành quan
trọng đối với nền kinh tế Internet. Tại Singapore và Hàn Quốc, 40% dân số đã hòa mạng máy
tính tư nhân, nhưng tại ấn Độ và Indonesia, tỷ lệ này dưới 2%. Có những hàng rào khác đang
cản trở sự phát triển của nền kinh tế Internet ở Châu Á. Rất ít người Châu Á có thẻ tín dụng
và họ có thói quen thích mua hàng trực tiếp. Các ngân hàng của châu Á cũng không tin tưởng
vào các cuộc giao dịch trên mạng.

Nhận thấy sự cấp bách phải tham gia Internet, các nước Châu Á đang cố gắng đuổi kịp
trong cuộc chạy đua này. Nền kinh tế Hàn Quốc sẽ trải quả những thay đổi mạnh mẽ trong
21
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
năm nay để thích nghi với Internet và công nghệ thông tin. Tổng thống Hàn Quốc Kim Dea
Jung cho biết năm 2000 sẽ trở thành một năm quan trọng đối với sự phát triển của một xã hội
kiến thức và thông tin. Ông nói năm nay Chính phủ Hàn Quốc sẽ dành 1.000 tỷ Won (879,2
triệu USD) để giúp tạo ra 5.000 công ty liên doanh trên máy tính, tạo thêm được hơn 100.000
việc làm. Trong 5 năm tới, việc trao đổi thông tin qua máy tính sẽ tăng với tốc độ nhanh hơn
100 lần so với hiện nay.
Các nhà lãnh đạo ASEAN họp ở Manlila, Philippines tháng 11/1999 đã thỏa thuận
khuyến khích việc hợp tác về kỹ thuật công nghệ thông tin và thương mại điện tử. Các nhà
lãnh đạo ASEAN đã thảo luận với các đại diện của khu vực công nghệ thông tin về sự phát
triển cơ sở hạ tầng của ngành thông tin trong khu vực. Để khuyến khích hoạt động kinh doanh
điện tử, chính phủ Philippines đang xem xét khả năng thành lập một khu vực đặc biệt cho các
công ty chuyên về kinh doanh điện tử để cho phép họ sử dụng điện thoại quốc tế cạnh tranh.
III. Những thành công và những thất bại ban đầu trong việc ứng dụng TMĐT
1. Những lợi ích mà TMĐT đem lại cho nền kinh tế Mỹ
Mỹ là nước có vị trí hàng đầu và đã thu được hiệu quả rất lớn nhờ cuộc cách mạng tin
học mà nổi bật là nền kinh tế mạng. Các xí nghiệp, công ty sử dụng hệ thống máy tính tổng
hợp để sản xuất và thực hiện chế độ quản lý theo “hệ thống tham dự và liên hệ với nhau”. Nền
kinh tế Mỹ phát triển chủ yếu không biểu hiện ở việc tăng số lượng mà phần lớn phản ánh sự
nâng cao nhanh chóng chất lượng và hiệu quả. Từ đầu năm1980 đến nay, việc nâng cao chất
lượng hàng hoá và dịch vụ của Mỹ tương đương với 50% tốc độ tăng trưởng GDP, một thành
tựu trước đây không ai dám mơ ước. Từ 1990 đến nay, năng suất lao động ở Mỹ tăng trung
bình 2,5% hàng năm. Tỷ lệ lạm phát giảm từ hai con số đầu thập kỷ 80 xuống còn chưa đầy

3% những năm đầu thập kỷ 90.
Kỹ thuật tin học, đặc biệt là Internet đã dần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về thời
gian và không gian trong và ngoài nước tạo điều kiện thuận lợi cho sự lưu thông các nhân tố
kinh tế như hàng hoá, dịch vụ, nguồn vốn và nguồn tri thức trong phạm vi toàn cầu, khiến
ngày càng nhiều công ty, xí nghiệp Mỹ tham gia vào kinh doanh toàn cầu. 10 năm trước đây,
số xí nghiệp Mỹ kinh doanh trên phạm vi toàn cầu chỉ chiếm 20% trong số các xí nghiệp của
Mỹ, nhưng hiện nay con số này đã vượt quá 60%. Năm 1999 số người Mỹ mua hàng trên
mạng là 39 triệu người, tăng gấp đôi so với 17 triệu người năm 1998. Đã có 34% số hộ gia
22
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
đình người Mỹ nối mạng Internet và 17% số hộ đã mua bán hàng qua mạng. Theo Công ty
dịch vụ thông tin toàn cầu Yankee Group, hiện nay ở Mỹ có 23% số công ty "thị trường trung
gian" có trang Web kinh doanh điện tử trên mạng Internet, có 38% công ty lớn có trang Web
kinh doanh điện tử trên mạng. Những công ty xếp loại công ty" thị trường trung gian" là
những công ty có hơn 500 nhân viên,thu nhập từ 100 triệu đến 1 tỷ USD. Ước tính ở Mỹ hiện
có khoảng 12.000 công ty "thị trường trung gian".
Từ 1992, Mỹ đã lần lượt giành lại được địa vị là nước xuất khẩu lớn nhất thế giới và có
sức cạnh tranh mạnh nhất thế giới từ tay Đức và Nhật Bản. Kim ngạch xuất khẩu của Mỹ năm
1990 tăng gấp đôi so với năm 1980 và dự kiến năm 2000 sẽ tăng gấp 4 lần năm 1990. Thời kỳ
phồn vinh của nền kinh tế Mỹ ngày càng kéo dài. Từ 1954 đến 1982, Mỹ có 36 chu kỳ ngắn,
bình quân mỗi chu kỳ kéo dài 48 tháng trong đó thời kỳ phồn vinh kéo dài 29 tháng. Nhưng từ
đầu 1980, Mỹ có hai chu kỳ bình quân kéo dài 100 tháng trong đó thời gian phồn vinh kéo dài
92 tháng. Và hiện nay, thời kỳ phồn vinh của nền kinh tế Mỹ đã vượt xa mọi kỷ lục: hơn 110
tháng mà chưa có dấu hiệu suy thoái.
Năm 1991, máy tính cá nhân mới bắt đầu thâm nhập các gia đình Mỹ, nhưng đến cuối
thập kỷ, máy tính đã phổ cập hầu hết các gia đình, biến các công ty phần mềm như Microsoft

và Intel trở thành những người khổng lồ trong nền kinh tế mới. Mạng Internet và TMĐT đã
trở nên thông dụng đối với các công ty Mỹ, đem lại cho các nhà cung cấp dịch vụ Internet như
AOL và Amazon những hợp đông kinh doanh bạc tỷ. Một nghiên cứu của Công ty Cisco
Systems và trường Đại học Texas công bố tháng 6/1999 cho biết, mạng Internet đã đem lại
cho nước Mỹ 300 tỷ USD thu nhập và 1,2 triệu việc làm. Trong bốn năm tính đến năm 1999,
thu nhập về Internet đã tăng 174,5%. Dịch vụ thương mại trên mạng phát triển nhanh hơn mọi
dự đoán và có thu nhập vượt ngưỡng 102 tỷ USD trong năm 1998, gần bằng GDP của Thụy
Sĩ.
2. Những thành tựu mà nền kinh tế thế giới đạt được trong ứng dụng TMĐT
Theo thông tin từ công ty Dữ liệu Quốc Tế IDC, tính đến nay hoạt động kinh doanh trên
mạng Internet đã tạo việc làm cho hơn 2,5 triệu lao động trên toàn thế giới, doanh thu từ
Internet trong năm 1999 tăng 74% so với năm 1998. Ước tính, hiện có hơn 50000 công ty có
nguồn thu chủ yếu là từ các hoạt động liên quan đến Internet. Dự báo tới năm 2001, doanh thu
từ các dịch vụ trực tuyến toàn cầu sẽ đạt trên 1000 tỷ USD.
23
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Với sự tài trợ của tập đoàn Systems Cisco , các nhà nghiên cứu đã làm việc với hơn
3000 công ty thương mại hàng hoá và dịch vụ trực tuyến để tìm kiếm những thành tựu kinh
doanh mà các công ty này gặt hái được trong năm 1998. Chỉ riêng thương mại “truyền thống”
trên mạng Internet đã mang lại hơn 1 tỷ USD, chẳng hạn như số hàng bán về sách, đĩa CD và
đồ chơi của các nhà hàng bán lẻ như Amazon.com, Bamsandnobles.com và E.Toy. Những đại
lý môi giới trung gian như các đại lý du lịch và các đại lý chứng khoán trực tuyến cũng đã
kiếm được khoảng 58 tỷ USD.
Tuy nhiên, gần một nửa tổng thu nhập của mạng Internet có được là nhờ số hàng bán
phần cứng và phần mềm cần thiết đối với việc buôn bán điện tử và xây dựng hạ tầng cơ sở
Internet mang lại.

Sự tăng trưởng với tốc độ cao về tiềm năng kinh tế của mạng Internet đã làm cho các
nhà nghiên cứu hết sức lúng túng trong ba năm qua, cứ sau mỗi năm một, thu nhập tạo ra trên
mạng Internet lại được tăng gấp đôi và hiện chưa thấy có dấu hiệu chững lại.
Khi mạng Internet mang lại cho mỗi công ty sử dụng mạng khả năng tiềm tàng biến
mạng này thành thành cơ sở công bố riêng của mình, thì cũng chính là lúc nó giúp cho các nhà
kinh doanh giảm được nhiều chi phí trong việc xây dựng các cửa hàng và tạo ra được một cơ
sở khách hàng ở cấp độ toàn cầu.
3. Những thất bại ban đầu trong việc ứng dụng TMĐT
Đối với nhiều công ty TMĐT, vinh quang và sự giàu có đã không đến với họ. Thay vào
đó, họ phải đối mặt với sự khan hiếm tiền mặt và hụt giá cổ phiếu và điều quan trọng là không
hề kiếm được lợi nhuận.
Vài tháng trước đây, được làm việc cho một công ty “ dot.com”, hay công ty qua mạng
là rất tuyệt. Rất nhiều nhà đầu tư đã đổ tiền vào các công ty dot-com. Nhưng giờ đây “cơn sốt
vàng” đã qua đi. Sẽ chỉ còn những công ty nào thật vững mới tồn tại được.
Ở Châu âu, công ty tư vấn Internet Framtidsfabriken AB (một thời là ví dụ cho sự
thành công của Thụy Điển), sẽ phải cắt giảm 340 người lao động để tiết kiệm tiền. Tại Anh,
nhà cung cấp dịch vụ Internet hàng đầu - công ty Freeserve - đang trong quá trình thảo luận
để thay đổi chủ. Công ty bán lẻ quần áo trên mạng của Anh Boo.com cũng đã sụp đổ trong 5
tháng vừa qua vì các khoản chi phí khổng lồ vượt quá khoản thu từ khách hàng. Tại Đức, công
ty dịch vụ Internet Gigabell là công ty đầu tiên trong chuỗi công ty Neuer Markt đã lâm vào
24
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
tình trạng không trả được nợ hồi tháng 9 vừa qua, sau 3 năm hoạt động. Các nhà phân tích cho
rằng Neurer Markt sẽ thành công trong tương lai, song với quy mô nhỏ hơn trước, làm cho
8000 công nhân bị thất nghiệp (kể từ tháng 1/2000).
Cũng trong tình cảnh như vậy, hàng loạt công ty dot-com của Mỹ đang chết dần. Theo

nghiên cứu vừa công bố của Webmerger.com (một công ty nghiên cứu và cung cấp dịch vụ
Internet ở San Francisco) thì ít nhất 130 công ty dot-com đã đóng cửa kể từ tháng 1/2000 và
nhịp độ này đang tăng lên. Chỉ riêng trong hai tuần đầu tháng 11, 21 công ty dot-com đã phải
đóng cửa, so với 22 công ty đóng cửa trong cả tháng 10 và là con số lớn nhất nói lên sự thất
bại của các công ty dot-com cho tới nay. Các trang Web TMĐT như Furniture.com và
Joysmart.com chiếm tới 60% tổng số các công ty Internet phải đóng cửa. Các công ty B2B
chiếm khoảng 20%, trong nhóm này các công ty cung cấp nội dung trang Web như APB
news.com chiếm 1/4. Số các công ty dot-com làm ăn thua lỗ đã tăng lên nhanh chóng từ tháng
4/2000, khi nhu cầu thị trường liên quan đến Internet bắt đầu suy giảm. Trước thời điểm này,
các công ty Internet đạt đến thời cực thịnh về vốn đầu tư và các kỷ lục bán hàng. Giá cổ phiếu
của nhiều công ty dot-com tăng lên đến gần 100USD trước khi thị trường tụt dốc. Hiện nay,
nhiều cổ phiếu tụt giá chỉ còn ở mức một con số.
Hơn 60 công ty đã phải giảm bớt nhân viên. Các công ty thông tin nội dung Web và các
nhà bán lẻ trực tuyến như Oxygen Media, Amazon.com và AllAdvantage.com chiếm một
phần lớn trong lĩnh vực này, đẩy số nhân viên bị sa thải lên mức kỷ lục 5677 người vào tháng
10/2000. Các nhà phân tích cho rằng số công ty Internet phá sản trong thực tế còn cao hơn
nhiều so với con số đã thống kê vì trong số này có nhiều công ty Internet nhỏ ít người quan
tâm. Theo số liệu thống kê của Webmerger.com, California là nơi có nhiều công ty dot-com
đóng cửa nhất, chiếm 35%, tiếp theo là New York tới 11%. Các công ty Châu Âu chiếm 8%
trong tổng số công ty Internet bị phá sản.
Về nguyên nhân người ta cho rằng, cái gọi là “nền kinh tế mới” đang phải chịu quy
định của những luật đầu tư kiểu cũ đang trong quá trình đổi mới, các công ty kinh doanh điện
tử đơn giản là gặt hái những gì mà họ đã gieo qua việc chen lấn trên thị trường và ra mắt công
chúng quá sớm trước khi họ chứng tỏ được mô hình kinh doanh của mình, các nhà đầu tư
chạy đua để đổi lấy lợi nhuận tiềm năng sẽ phải chấp nhận rủi ro cao cho đến khi nào thị
trường có thể đánh giá được các tiêu chuẩn giá trị. Trong quá trình đó, những công ty yếu
25

×