Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

hoàn thiện chính sách tài chính thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.5 KB, 74 trang )


MỤC LỤC
- 1 -

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài.
Ngày nay, các nhà sản xuất lớn trên thế giới, các tập đoàn công ty đa quốc
gia chỉ nắm giữ các hoạt động như nghiên cứu và triển khai, xúc tiến thương
mại, phát triển sản phẩm, còn các công đoạn sản xuất, những phần công việc
trước đây vẫn nằm trong dây chuyền sản xuất hoàn chỉnh, hầu hết được giao cho
các doanh nghiệp bên ngoài. Như vậy, các sản phẩm công nghiệp không còn
được sản xuất tại một không gian, địa điểm mà được phân chia thành nhiều công
đoạn, ở các địa điểm, các quốc gia khác nhau. Thuật ngữ công nghiệp hỗ trợ
(CNHT) là cách tiếp cận sản xuất công nghiệp trong bối cảnh mới này.
Sau 20 năm đổi mới (1986-2006), công nghiệp Việt Nam đã có những
bước phát triển mạnh mẽ, chuyển sang cơ chế thị trường, bước đầu hội nhập vào
nền kinh tế khu vực và thế giới. Tuy vậy, tỷ lệ giá trị gia tăng trong giá trị sản
xuất công nghiệp đang có dấu hiệu đi xuống. Theo Bộ Công Thương, năm 1995,
VA/GO toàn ngành công nghiệp là 42.5%, năm 2000 chỉ còn 38.45%, năm 2005
còn 29.63%, năm 2007 đạt 26.3%, năm 2010 là 12.3%, năm 2011 chỉ còn
6.37%. Theo đó, tốc độ tăng giá trị gia tăng (GDP công nghiệp) cũng liên tục
giảm sút, từ hơn 15%/năm giai đoạn 1995-2000, sang giai đoạn 2001-2005 còn
11%, đến năm 2009 chỉ còn 3,9%, năm 2010, tốc độ tăng trưởng 14% ứng với
giá trị gia tăng là 7.7%, năm 2011,giá trị gia tăng công nghiệp là 13%. Có thể
nói, công nghiệp vẫn phát triển theo hướng gia công, lắp ráp là chủ yếu. Một
trong những lý do quan trọng của tình trạng suy giảm này là dự yếu kém của các
ngành CNHT. CNHT giữ vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế nói chung cũng
như ngành công nghiệp nói riêng của các nước phát triển trên thế giới, mỗi quốc
gia có những giải pháp khác nhau nhằm phát triển CNHT của họ. Chính sách
phát triển CNHT quốc gia cần phải phù hợp với xu hướng toàn cầu và hội nhập
có hiệu quả với đời sống kinh tế quốc tế. Cùng với việc nâng cao năng lực sản


xuất, nền CNHT phát triển sẽ là yếu tố mạnh nhất để thu hút và giữ chân các nhà
- 2 -

đầu tư nước ngoài một cách bền vững. Như vậy, phát triển CNHT không chỉ
nhằm mục tiêu gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, mà còn là công cụ quan
trọng để VN hội nhập kinh tế quốc tế nhanh chóng.
Mặc dù xác định công nghiệp hỗ trợ là một mắt xích quan trọng trong
phát triển kinh tế, gia tăng giá trị sản xuất và thúc đẩy công nghiệp Việt Nam
tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, nhưng các chính sách dành cho công nghiệp
hỗ trợ của nước ta hiện vừa thiếu lại vừa yếu. Do đó, Việt Nam cần phải xây
dựng một chính sách hợp lý để thúc đẩy phát triển, tạo tiền đề cho phát triển nền
kinh tế nói chung và ngành công nghiệp nước nhà nói riêng. Một trong những
chính sách quan trọng hỗ trợ thúc đẩy CNHT đó là các chính sách tài chính.
Trước tình hình trên, đề tài “Hoàn thiện chính sách tài chính thúc đẩy phát
triển CNHT ở Việt Nam” đã được chúng em lựa chọn nghiên cứu.
2.Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Đề tài tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau:
- Làm rõ khái niệm về công nghiệp hỗ trợ và vai trò của chính sách tài
chính thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ phát triển.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chính sách tài chính hỗ trợ công nghiệp hỗ
trợ ở Việt Nam.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính phát triển công nghiệp
hỗ trợ Việt Nam.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu là vấn đề lý luận và thực tiễn chính sách tài chính
áp dụng thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: thực trạng công nghiệp hỗ trợ và các chính sách tài
chính hỗ trợ thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam.
4.Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp thống kê, phương

pháp mô tả, phương pháp phân tích, dự báo,…
- 3 -

5.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Nghiên cứu của đề tài góp phần làm rõ lý luận về công nghiệp hỗ trợ và
các chính sách tài chính, cũng như tác động của các chính sách tài chính đó tới
sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ. Đồng thời đề tài cũng đưa ra một số gợi ý
cho việc hoàn thiện chính sách tài chính cho công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam.
6.Kết cấu của đề tài nghiên cứu:
Chương 1: Tổng quan về CNHT và tác động của chính sách tài chính đối với sự
phát triển của CNHT.
Chương 2: Thực trạng chính sách tài chính phát triển CNHT ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính thúc đẩy phát triển CNHT
ở Việt Nam.
- 4 -

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ VÀ TÁC
ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
1.1 TỔNG QUAN VỀ CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
1.1.1 Khái niệm công nghiệp hỗ trợ
Công nghiệp hỗ trợ (Supporting Industry) là một khái niệm mới xuất hiện
ở Đông Á, cùng với trào lưu đầu tư trực tiếp (chủ yếu là hoạt động lắp ráp-
assembly industry) của Nhật Bản vào các nước ASEAN (chủ yếu ở Thái Lan,
Malaysia, Indonexia) giữa thập kỷ 80 và được sử dụng rộng rãi ở Đông Á từ đầu
thập kỷ 90. Về mặt nội dung, thuật ngữ “supporting industry” - là một khái niệm
đối xứng với “assembly industry”. Một bên là “công nghiệp sản xuất phụ tùng,
linh kiện” và một bên là “công nghiệp lắp ráp”. Bản thân cụm từ “Supporting
Industry” được dịch trực tiếp từ thuật ngữ gốc trong tiếng Nhật là “Suso-no San-
gyou” (suso-no nghĩa là chân núi, san-gyou là công nghiệp). Nếu hình dung cấu

trúc toàn bộ qui trình sản xuất một sản phẩm như một quả núi, thì các ngành
công nghiệp hỗ trợ đóng vai trò chân núi, còn “công nghiệp lắp ráp” đóng vai trò
đỉnh núi. “Chân núi” là những ngành sử dụng tất cả các kỹ thuật gia công cơ bản
(đúc, dập, gò, hàn, cắt gọt, khoan đột, uốn kéo, cán ép, tạo hình, dệt lưới, in ấn
bao bì ) gia công các loại vật liệu từ các loại kim loại, tới cao su, nhựa, gốm, gỗ
và các loại vật liệu tổng hợp khác, nhằm chế tạo ra các linh kiện, phụ tùng phục
vụ lắp ráp. Supporting Industry ở đây được hiểu không bao hàm chế tạo vật liệu
cơ bản (như các loại sắt thép, nguyên vật liệu thô). Cùng một phần chân núi (sản
xuất phụ tùng linh kiện) muốn sản xuất sản phẩm gì, chỉ cần thay đổi phần đỉnh
(lắp ráp).
Có thể hình dung vị trí của công nghiệp hỗ trợ trong tổng thể ngành công
nghiệp theo mô hình sau:
- 5 -

Hình1.1: phạm vi của công nghiệp hỗ trợ
(nguồn: ohno 2004)
Hiện nay, ở Nhật Bản, công nghiệp hỗ trợ (CNHT) được hiểu là “một
nhóm các hoạt động công nghiệp cung ứng các đầu vào trung gian (không phải
nguyên vật liệu thô và các sản phẩm hoàn chỉnh) cho các ngành công nghiệp hạ
nguồn”. Nói cách khác, CNHT nằm ở phần giữa của quá trình sản xuất, từ
thượng nguồn xuống đến hạ nguồn. Đặc biệt là CNHT nên dựa vào một số công
đoạn sản xuất nhất định, phục vụ một số ngành công nghiệp nhất định tương đối
tương đồng nhau (hình 1.1). Việc tương đồng này làm cho chi phí sản xuất
giảm, tăng dung lượng thị trường, gia tăng nguồn khách hàng và giúp CNHT
phát triển nhanh hơn. Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan đều xác định CNHT theo
cách này, bằng cách dựa trên các công đoạn sản xuất như dập, đúc, rèn, hàn, gia
công cơ khí, khuôn mẫu…và bao gồm các sản phẩm chủ yếu liên quan đến 3
- 6 -

lĩnh vực chính: các linh kiện kim loại, các linh kiện nhựa và cao su, các linh kiện

điện- điện tử.
Bộ Năng lượng Mỹ định nghĩa CNHT bao gồm những ngành cung cấp
các quy trình cần thiết để sản xuất và hình thành sản phẩm trước khi chúng được
đưa đến các ngành công nghiệp cuối cùng. Chương trình phát triển ngành CNHT
hiện nay ở Mỹ bao gồm 07 ngành: các thiết bị làm nóng công nghiệp; xử lý
nhiệt; rèn; hàn; luyện kim bột và các vật liệu dạng hạt; sứ cao cấp; các sản phẩm
các-bon.
Các nước châu Âu không sử dụng cụm từ công nghiệp hỗ trợ mà thường
gọi lĩnh vực này là “các ngành cung ứng” (Supplier Industries), chỉ việc cung
cấp sản phẩm từ các doanh nghiệp bên ngoài.
Như vậy, có thể thấy rằng công nghiệp hỗ trợ là một khái niệm rộng, có
tính chất tương đối. Dù có rất nhiều cách định nghĩa, các khái niệm CNHT đều
có các điểm chung như sau:
Thứ nhất, CNHT cung ứng các linh phụ kiện cho mục đích sản xuất sản
phẩm cuối cùng.
Thứ hai, các ngành CNHT bao gồm các công đoạn chủ yếu để sản xuất
các linh kiện kim loại, nhựa và cao su, điện và điện tử, nhằm phục vụ một số
ngành công nghiệp chế tạo như xe máy, ô tô, điện tử, chế tạo máy móc.
Thứ ba, việc cung ứng này chủ yếu được đáp ứng bởi hệ thống doanh
nghiệp nhỏ và vừa có trình độ công nghệ cao, tạo ra những sản phẩm có độ
chính xác lớn, thực hiện các cam kết hợp đồng với khách hàng một cách chuẩn
mực.
Thứ tư, khách hàng cuối cùng của các ngành CNHT là nhà lắp ráp, do
vậy, thị trường của CNHT không rộng như sản xuất sản phẩm cho người tiêu
dùng cuối cùng. Thị trường hàng hoá của họ thu hẹp hơn, có những nhóm sản
phẩm nằm ở phần thị trường rất hẹp và chỉ dành cho một số khách hàng nhất
định. Đây chính là khó khăn lớn nhất của phát triển CNHT. Mặc dù vậy, sản
- 7 -

xuất CNHT lại trở nên hấp dẫn và tương đối ổn định nếu doanh nghiệp phụ trợ

đó tìm được khách hàng dài hạn, hoặc tìm được thị trường “ngách” cho mình.
Ở Việt Nam, cụm từ “công nghiệp phụ trợ” bắt đầu được nhắc tới một
cách tương đối rộng rãi từ năm 2003. Tuy nhiên, thuật ngữ “công nghiệp hỗ trợ”
đã được chính thức hoá để chỉ vấn đề này, lần đầu ở Việt Nam từ năm 2007,
trong “Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam
đến 2010, tầm nhìn đến 2020” Bộ Công Thương soạn thảo và Thủ tướng phê
duyệt. Trong đó, CNHT được định nghĩa:
“Hệ thống công nghiệp hỗ trợ là hệ thống các nhà sản xuất (sản phẩm)
và công nghệ sản xuất có khả năng tích hợp theo chiều ngang, cung cấp nguyên
vật liệu, linh kiện, phụ tùng… cho khâu lắp ráp cuối cùng”.
Trong bản quy hoạch này, CNHT được phân chia thành hai thành phần
chính, phần cứng liên quan đến sản xuất và phần mềm là hệ thống dịch vụ công
nghiệp và marketing. Năm nhóm ngành đã được Chính phủ chỉ định ưu tiên phát
triển CNHT và được hoạch định kế hoạch phát triển cụ thể, đó là: điện tử, cơ khí
chế tạo, ô tô, dệt may, da giày.
Hình 1.2: Khái niệm CNHT của Việt Nam( Nguồn: Bộ Công nghiệp 2007)
- 8 -

Như vậy, có thể thấy khái niệm của Việt Nam có nét khác biệt so với các
khái niệm ở các quốc gia khác:
Thứ nhất, CNHT được xác định rộng hơn, từ khâu sản xuất nguyên vật
liệu đến cả các dịch vụ công nghiệp. Có thể thấy khái niệm này làm cho các
ngành CNHT mở rộng ra rất nhiều, không chỉ bao gồm một số lĩnh vực công
nghiệp,không chỉ tập trung các DNNVV mà cả các doanh nghiệp lớn, và điều
này đồng nghĩa với việc rất khó có thể tạo ra được trọng tâm trong CNHT;
Thứ hai, Các ngành CNHT không xác định trên đặc thù sản phẩm của
ngành sản xuất hỗ trợ (cơ khí chế tạo, nhựa, điện tử…)- phần tạo ra giá trị gia
tăng lớn mà xác định dựa trên cơ sở của các ngành lắp ráp- có giá trị gia tăng
không đáng kể.
1.1.2 Đặc điểm công nghiệp hỗ trợ

Thứ nhất, CNHT là ngành công nghiệp thâm dụng vốn.
Ngành công nghiệp hỗ trợ đòi hỏi trang bị những máy móc thiết bị hiện
đại, chi phí cao. Không giống như những ngành công nghiệp hình thành sản
phẩm cuối cùng, ngành CNHT đòi hỏi sự đầu tư tốn kém về nhân lực chất lượng
cao và trang thiết bị yêu cầu hiện đại, đổi mới.Ví dụ, một máy ép nhựa có giá tới
hàng trăm nghìn USD và đòi hỏi ít lao động với trình độ cao với chức năng điều
khiển thiết bị, kiểm tra kỹ thuật là chính.
Thứ hai, CNHT là ngành công nghiệp có độ phủ rộng, bao quát một
phạm vi rộng lớn các lĩnh vực sản xuất.
Sản phẩm của CNHT có mối liên hệ mật thiết với các ngành công nghiệp
khác như công nghiệp lắp ráp, chế tạo,… Một sản phẩm đầu ra cuối cùng bao
gồm các chi tiết, linh kiện khác nhau- là sản phẩm của nhiều bộ phận, lĩnh vực
của ngành công nghiệp hỗ trợ. Một doanh nghiệp sản xuất hỗ trợ có thể cung
cấp linh kiện cho nhiều loại sản phẩm khác nhau, ví dụ, doanh nghiệp chế biến
đồ nhựa có thể phục vụ cho công nghiệp sản xuất đồ điện, công nghiệp ô tô, xe
- 9 -

máy, đóng tàu,….Vì vậy, yêu cầu của CNHT là sự nghiêm ngặt về công nghệ và
tính chính xác trong tiêu chuẩn kỹ thuật.
Thứ ba, CNHT có tính hiệu quả tăng theo quy mô.
Chi phí đầu tư ban đầu tương đối lớn do đó quy mô sản xuất phải đủ lớn
để có thể trang trải các chi phí đó. Nếu sản xuất với quy mô nhỏ thì khả năng
cạnh tranh thấp và khó có thể tồn tại trong điều kiện môi trường kinh doanh
khắc nghiệt hiện nay.
1.1.3 Vai trò của CNHT trong nền kinh tế quốc dân.
Thứ nhất, CNHT là nền tảng cho nền kinh tế.
CNHT đảm bảo tính chủ động cho nền kinh tế, việc cung ứng nguyên vật
liệu, linh kiện, bán thành phẩm ngay trong nội địa làm cho nền công nghiệp chủ
động hơn, không bị lệ thuộc vào nước ngoài và sự biến động của kinh tế toàn
cầu. CNHT phát triển đồng nghĩa với việc hạn chế tỷ lệ nhập siêu. Phải nhập

khẩu nguyên liệu và linh kiện cho sản xuất lắp ráp khiến cho hầu hết các nước
đang phát triển lâm vào tình trạng nhập siêu. Phát triển CNHT giúp khai thác tối
đa các nguồn lực sẵn có trong nước, giảm nhập khẩu nguyên phụ liệu , giảm
xuất khẩu tài nguyên từ đó ổn định cán cân xuất nhập khẩu, đồng thời hạn chế
được sự biến động của tý giá hối đoái, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
mô.
Thứ hai, CNHT là động lực trực tiếp tạo ra giá trị gia tăng cho ngành
công nghiệp, góp phần nâng cao năng lực sản xuất, hiệu quả hoạt động, tăng
sức cạnh tranh và đầy nhanh quá trình công nghiệp hóa đất nước.
Mỗi sản phẩm có thể chia thành ba giai đoạn chính: thượng nguồn gồm
các công đoạn nghiên cứu - triển khai, thiết kế, sản xuất các bộ phận linh kiện
chính; trung nguồn là công đoạn lắp ráp, gia công; hạ nguồn là thương hiệu, tiếp
thị, xây dựng mạng lưới lưu thông, khai thác và tiếp cận thị trường. Các giai
- 10 -

đoạn thượng nguồn và các hạ nguồn là khu vực tạo ra giá trị gia tăng cao. Đây
chính là công đoạn của các ngành CNHT. Như vậy, một quốc gia có thể tạo ra
giá trị gia tăng của các sản phẩm công nghiệp khi khu vực thượng nguồn với
nguyên phụ liệu, linh kiện được cung ứng ngay trong nước. Chi phí của sản
phẩm giảm do cắt giảm được chi phí lưu kho, vận chuyển, bảo hiểm, tận dụng
nhân công ngay trong nước, thay vì nhập khẩu các yếu tố sản xuất làm nâng cao
năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Trong quá trình sản xuất, các doanh nghiệp trong ngành CNHT có xu
hướng chuyên môn hóa vào một công đoạn của quá trình sản xuất đồng thời
cũng thực hiện hợp tác với nhau nhằm hoàn thiện và tạo ra sản phẩm hoàn
chỉnh, sự chuyên sâu vào một lĩnh vực góp phần nâng cao năng suất sản xuất và
hiệu quả hoạt động. CNHT tăng trưởng nhanh thúc đẩy toàn bộ ngành công
nghiệp phát triến, tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp trong tổng thể nền kinh
tế, đầy nhanh quá trình công nghiệp hóa đất nước.
Thứ ba, CNHT phát triển có hiệu quả tạo điều kiện thu hút được đầu tư

nước ngoài FDI và tạo tăng trưởng bền vững.
Những vấn đề được các công ty đa quốc gia (MNCs) cân nhắc trước khi
quyết định đầu tư vào một quốc gia nào đó là sự ổn định về chính trị, nhân công
sẵn có với giá rẻ và sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ. Vai trò của nhân công
giá rẻ ngày càng giảm đi bởi trong tổng chi phí tạo ra một sản phẩm thì chi phí
lao động là rất nhỏ so với chi phí về linh kiện phụ tùng. Ví dụ như trong sản
xuất sản phẩm điện gia dụng thì chi phí lao động chỉ chiếm 10% trong đó chi phí
về linh kiện, phụ tùng chiếm tới 70%. Nếu như chi tiết linh kiện nhập khẩu từ
nước ngoài sẽ phải gánh thêm các khoản chi phí vận chuyển, bảo quản và rủi ro
do chậm trễ từ đó làm hạn chế tốc độ tăng trưởng của MNCs đó. Muốn thu hút
đầu tưu nước ngoài, CNHT phải đi trước một bước, tạo cơ sở hạ tâng để cung
cấp sản phẩm đầu vào cần thiết cho công nghiệp lắp ráp, bởi lẽ các tập đoàn, các
công ty lớn về lắp ráp cũng chỉ giữ lại trong quy trình của mình các khâu nghiên
- 11 -

cứu, phát triển sản phẩm và lắp ráp thay vì tất cả gói gọn trong một công ty hay
một nhà máy. Điều này đặc biệt đúng trong các ngành sản xuất các loại máy
móc, là những ngành đang phát triển mạnh ở Đông Á. Các mặt hàng này thường
có hàng trăm hàng ngàn các bộ phận, linh kiện ở nhiều tầng lớp từ giản đơn đến
những loại công nghệ cao. Đối với các công ty nước ngoài đầu tư vào ngành sản
xuất này thì tỷ lệ nội địa hóa càng cao càng có lợi. Trên thực tế, phí tổn về linh
kiện, bộ phận và các sản phẩm trung gian trong những sản phẩm thuộc ngành
này chiếm trên 70% tổng giá thành do đó khả năng nội địa hóa quyết định đến
thành quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nói cách khác, tỷ lệ của chi phí công
nghiệp hỗ trợ càng cao thì môi trường đầu tư cang hấp dẫn. Chừng nào CNHT
còn chưa phát triển thì công ty đầu tư nước ngoài còn dè chừng trong việc quyết
định đầu tư , thì tiềm năng phát triển của FDI còn hạn chế.
Thứ tư, CNHT là cơ sở thực hiện hội nhập toàn cầu.
Các tập đoàn công nghiệp đa quốc gia ngày càng có vai trò chi phối và có
ảnh hưởng sâu rộng tới toàn bộ hệ thống kinh tế thế giới, các quốc gia đang và

kém phát triển cũng không nằm ngoài sự chi phối đó. Trong bối cảnh hội nhập
toàn cầu, khi các quan hệ hợp tác được thiết lập, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ sẽ
là một bộ phận hiện hữu trong các sản phẩm của các MNCs. Phát triển các sản
phẩm công nghiệp hỗ trợ là cách tốt nhất để các nước đang phát triển nâng cao
sức mạnh của mình và tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế vì giá trị sản xuất
của CNHT sẽ được nằm trong chuỗi giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực
cũng như toàn cầu.
Hội nhập kinh tế quan trọng hơn cả là ở giai đoạn thượng nguồn, đó chính
là giai đoạn nghiên cứu - triển khai, thiết kế, sản xuất các bộ phận linh kiện
chính. CNHT là mắt xích quan trọng trong chuỗi sản xuất toàn cầu. Nếu như
CNHT không phát triển sẽ làm cho các công ty thực hiện khâu lắp ráp và hoàn
thiện thành phẩm sẽ bị ngừng trệ, không có sản phẩm đầu ra đồng nghĩa với việc
không có doanh thu, lợi nhuận, không đạt được mục tiêu cuối cùng.
- 12 -

Thứ năm, CNHT phát triển khuyến khích ứng dụng và sử dụng công nghệ
cao, góp phần bảo vệ môi trường.
Lao động trong CNHT sẽ khuyến khích, phát huy tinh thần đổi mới, sáng
tạo, trong khi công nghiệp lắp ráp là những công việc đơn thuần không đòi hỏi
tay nghề cao và công nhân không có cơ hội tiếp cận đổi mới khoa học kỹ thuật.
CNHT đòi hỏi công nghệ cao bởi là ngành công nghiệp sản xuất ra từng chi tiết,
linh kiện nên các yêu cầu về thông số kỹ thuật rất khắt khe. Khi áp dụng tiến bộ
khoa học công nghệ trong sản xuất cùng với áp dụng các trang thiết bị cần thiết
xử lý rác thải công nghiệp, bảo vệ môi trường.
Cuối cùng, phát triển CNHT là điều kiện đủ đề phát triển các cụm liên kết
ngành, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, đổi mới công nghệ và phát triển
kinh tế vùng thông qua việc xây dựng mạng lưới các nhà cung ứng sản phẩm
đầu vào cho các doanh nghiệp khác.
1.1.4 Nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của CNHT
Sự phát triển của CNHT phụ thuộc vào các nhân tố theo sơ đồ:

- 13 -

Sơ đồ 1.1.4: Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của CNHT
1.1.4.1 Nhóm nhân tố về tài nguyên.
Thứ nhất, nguồn nhân lực có tay nghề cao, trình độ chuyên môn, tính chủ
động sáng tạo là những yếu tố cần thiết quyết định tới sự phát triển của CNHT.
CNHT là ngành công nghiệp sử dụng công nghệ cao trong việc sản xuất
các phụ tùng linh kiện bởi tính chính xác cao của nó, vì thế yếu tố về con người
rất quan trọng, đây là nhân tố tạo ra những thành tựu trong khoa học công nghệ
và là nhân tố thực hiện, điều khiển mọi quy trình hoạt động trong CNHT.
Thứ hai, sự dồi dào về tài nguyên thiên nhiên là nhân tố tích cực thúc đầy
sự phát triển của CNHT.
- 14 -
Chính sách
Cơ sở hạ tầng
Tài nguyên
Ưu đãi và
chính sách của
chính phủ
Cơ sở hạ tầng
xã hội
Cơ sở hạ tầng
kỹ thuật
Tài nguyên
thiên nhiên
Vị trí địa lý
Nhân tố ảnh hưởng
tới sự phát triển của
CNHT
Nhân lực


Sự phát triển của các công ty đa quốc gia, các tổ chức kinh tế, tài chính
làm đầy mạnh hoạt động đầu tư nước ngoài nhằm tận dụng những lợi thế so
sánh của nước nhận đầu tư về nhân công giá rẻ, tài nguyên thiên nhiên phong
phú từ đó mà giảm được những chi phí cần thiết, tối đa hóa lợi nhuận. Hoạt
động đầu tư nước ngoài phát triển đồng nghĩa với việc các MNCs đó hay chính
các doanh nghiệp trong nước sẽ có cơ hội mở rộng hoạt động cung ứng các yếu
tố đầu vào như nguyên vật liệu, chi tiết, linh kiện, bán thành phẩm thay vì nhập
khẩu các yếu tố đó từ nước đầu tư làm gia tăng giá trị cho ngành công nghiệp hỗ
trợ.
Thứ ba, vị trí địa lý cũng là yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của
CNHT.
Vị trí địa lý giúp hình thành các cụm công nghiệp hỗ trợ, liên kết chặt chẽ
giữa các khu công nghiệp hỗ trợ mà từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của
CNHT trong nước. Ngoài ra với vị trí địa lý thuận lợi tạo điều kiện dễ dàng cho
việc thiết lập các mối quan hệ, các đơn đặt hàng với đối tác, giảm thiểu các chi
phí vận chuyển, đi lại.
1.1.4.2 Nhóm nhân tố về cơ sở hạ tầng.
Thứ nhất là nhân tố về cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
Hệ thống cơ sỏ hạ tâng kỹ thuật bao gồm đường sá, cầu cống, kho tàng,
bến bãi, hệ thống dịch vụ ngân hàng, tư vấn, thiết kế và sự phát triển của khoa
học kỹ thuật là yếu tố cần thiết cho tổng thể ngành công nghiệp nói chung và
CNHT nói riêng. Các yếu tố trong hệ thống cơ sở hạ tầng giúp các hoạt động
của CNHT diễn ra đều đặn, thường xuyên từ đó góp phần làm tăng tỷ trọng của
CNHT trong nền kinh tế.
Thứ hai là nhân tố về cơ sở hạ tầng xã hội.
Sự ổn định về kinh tế chính trị và các dịch vụ đảm bảo như chăm sóc sức
khỏe, giáo dục y tế cũng có ảnh hưởng tới sự phát triển của CNHT
1.1.4.3 Nhóm nhân tố về chính sách.
- 15 -


Các chính sách ưu đãi và hỗ trợ của chính phủ là yếu tố rất quan trọng cho
sự phát triển của bất cứ ngành nghề nào, bao gồm các chính sách quản lý và điều
hành, chính sách tài chính như các chính sách về thuế, về tín dụng, chính sách
kích cầu, chính sách về hoạt động hỗ trợ kinh phí, hoạt động bảo lãnh, xây dựng
các quỹ phát triển ý tưởng đồi mới công nghệ,chính sách khuyến khích sử dụng
lao động, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, chính sách phát triển ngành
vùng… Các chính sách tích cực từ phía chính phủ giúp doanh nghiệp có được
nhiều cơ hội hơn để phát triển, mở rộng quy mô, thị trường, nâng cao năng lực
cạnh tranh.
1.2 CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH TÁC ĐỘNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA CNHT
1.2.1 Chính sách ưu đãi về thuế.
Thứ nhất, chính sách thuế thúc đầy đầu tư phát triển CNHT. Ngoài việc
thu hút các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào công nghiệp hỗ trợ, chính sách
ưu đãi thuế còn tập trung thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp trong nước đầu tư
sản xuất vào CNHT thông qua ưu đãi thuế suất nhập khẩu nguyên vật liệu, giảm
thuế thu nhập doanh nghiệp. Ví dụ ở nước có nền CNHT tương đối phát triển
như Thái Lan, nhà nước thực hiện hỗ trợ bằng cách đưa ra các mức thuế suất
nhập khẩu thấp đối với thiết bị điện tử và những bộ phận dùng để sản xuất hàng
xuất khẩu hay như ở Malaysia, các chính sách ưu đãi thuế của Malaysia đối với
các doanh nghiệp trong nước được chia là 3 loại: loại 1 là miễn thuế thu nhập
doanh nghiệp trong khoảng từ 70% đến 100% thu nhập hợp pháp trong vòng từ
5 tới 10 năm; loại 2 là trợ cấp thuế đầu tư 60% đến 100% chi phí vốn hợp lệ
trong vòng 5 đến 10 năm có thể được bù bằng 70% đến 100% thu nhập hợp
pháp; loại 3 là trợ cấp tái đầu tư: 60% chi phí vốn hợp lệ có thể được bù bằng
70% đến 100% thu nhập hợp pháp. Nhà đầu tư lần đầu tiên có thể lựa chọn hoặc
loại 1 hoặc loại 2.
Thứ hai, những chính sách ưu đãi về thuế trong thu hút FDI. Thực tế cho
thấy, hầu hết các quốc gia muốn phát triển CNHT đều bằng cách thực hiện các

- 16 -

chính sách thu hút FDI. Các chính sách thuế ưu đãi như giảm thuế xuất nhập
khẩu, tạo lập các khu thương mại tự do từ đó mà việc chuyển dịch vốn và công
nghệ dễ dàng hơn. Ví dụ, ở Singapore, thu hút FDI vào những ngành công
nghiệp hỗ trợ bằng cách áp dụng miện thuế trong vòng 5 năm và sau đó đưa ra
mức thuế suất ưu đãi 10% trong 5 năm tiếp theo, hay ở Malaysia cũng khuyến
khích thu hút FDI bằng cách đưa ra những chính sách ưu đãi về mặt bằng và
thuế như miễn thuế trong 5 năm đầu hoạt động và sau đó giảm tiếp 30% thuế thu
nhập doanh nghiệp nếu công ty đặt trụ sở tại Hành lang Đông bán đảo Malaysia
và 15% đối với khu vực khác.
1.2.2 Chính sách hỗ trợ tín dụng.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn là tiền đề cho hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, chi phối rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh mà nguồn vố tín
dụng vẫn là nguồn vốn cơ bản. Do đó, những chính sách tín dụng của chính phủ
có tác dộng tích cực đối với các doanh nghiệp CNHT trong việc huy động vốn
đề thực hiện hoạt dộng sản xuất kinh doanh, thông qua các hình thức bảo lãnh
tín dụng, hợp đồng thuê mua tài chính, Nhà nước đứng ra bảo lãnh cho quá
trình vay vốn của các doanh nghiệp CNHT được diễn ra thuận lợi hơn, đưa ra
các chính sách hỗ trợ về lãi suất, cam kết với ngân hàng Nhà nước trong việc
cho các doanh nghiệp này vay vốn, hay cho phép gia hạn các khoản tín dụng
một các hợp lý nhằm khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
1.2.3 Chính sách tài chính hỗ trợ đầu tư khoa học công nghệ.
Chính phủ nhiều nước đã áp dụng các biện pháp để thúc đầy các doanh
nghiệp nhanh chóng đổi mới thiết bị và công nghệ. Ngoài các biện pháp giúp đỡ
như tư vấn, cung cấp thông tin kỹ thuật và công nghệ, chính phủ còn hỗ trợ về
thuế, tín dụng, trợ cấp cụ thể để đầu tư trang thiết bị, máy móc, cơ sở hạ tầng
khuyến khích phát triển CNHT. Việc hỗ trợ đầu tư khoa học công nghệ có ý
nghĩa to lớn trong việc giúp quốc gia đó tiếp cận với tiến bộ kỹ thuật mà từ đó
rút ngắn khoảng cách lạc hậu, tăng cường nâng cao chất lượng sản phẩm ngành,

- 17 -

tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, hoàn thiện
chính sách vĩ mô của chính phủ.
1.2.4 Chính sách tài chính hỗ trợ về mặt bằng sản xuất.
Chính sách hỗ trợ về hạ tầng cơ sở có tác động khá lớn tới sự phát triển
của CNHT. CNHT là ngành còn non trẻ vì thế nên điều kiện tiếp cận vị trí địa lý
thích hợp cho việc phát triển đồng bộ về khoa học, lao động, vận chuyển là rất
cần thiết. Những ưu tiên về dành quỹ đất để phát triển các khu công nghiệp phụ
trợ, xây dựng các trung tâm nguyên vật liệu đầu vào là những ưu tiên đúng đắn
của chính phủ đối với CNHT. Các dự án đầu tư khu, cụm công nghiệp sẽ thực sự
có hiệu quả nếu được hưởng các ưu đãi như tiền sử dụng đất, tiền thuê mặt bằng,
các ưu tiên trong việc thực hiện phê duyệt, thẩm định dự án.
1.2.5 Chính sách tài chính hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao.
Việc đầu tư vào đào tạo nguồn nhân lực cho CNHT là vô cùng cần thiết.
Nhà nước cần có những chính sách khuyến khích phát triển nguồn nhân lực ở
mọi địa phương, xem xét khả năng hỗ trợ doanh nghiệp kinh phí trong việc thuê
chuyên gia kỹ thuật nước ngoài trong một số năm đầu; xây dựng mô hình liên
kết chặt chẽ giữa các khu công nghiệp hỗ trợ với các viện nghiên cứu nhằm đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, thực hiện phân luồng, định hướng nghề
nghiệp cho đối tượng lao động từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
1.3 Kinh nghiệm quốc tế về chính sách tài chính hỗ trợ phát triển
CNHT.
1.3.1 kinh nghiệm về phát triển CNHT.
Thứ nhất, miễn thuế, giảm thuế thúc đầy đầu tư.
Thực hiện hỗ trợ các doanh nghiệp hỗ trợ, Thái Lan đưa ra mức thuế suất
nhập khẩu thấp đối với các thiết bị điện tử và những bộ phận dùng để sản xuất
hàng xuất khẩu. Chính phủ Thái Lan đưa ra các ưu đãi như miễn thuế đất 8 năm
bất kể vị trí, giảm 50% thuế nhập khẩu đối với máy móc nhập khẩu đối với các

- 18 -

dự án nằm ở khu vực bên trong và gần Bangkok, khu vực nông thôn và loại bỏ
hạn chế vốn đầu tư nước ngoài năm 1996. Đây là yếu tố quan trọng giúp cho nền
công nghiệp Thái Lan có thể cạnh tranh với thị trường quốc tế.
Ở Nhật Bản, phát triển công nghiệp hỗ trợ là một trong bốn lĩnh vực ưu tiên
của chính phủ. Từ năm tài khóa 1999, biện pháp khuyến khích thuế cải tiến theo
chương trình “ giảm thuế cho các chi phí gia tăng đối với nghiên cứu và thử
nghiệm” đã bắt đầu có hiệu lực Việc cải tiến đó nhằm khuyến khích để các hãng
tư nhân đầu tư vào công nghiệp hỗ trợ, theo đó chi phí CNHT trong năm tài
khóa được áp dụng nhiều hơn so với chi phí CNHT trung bình của 3 năm có chi
phí CNHT cao nhất trong 5 năm gần nhất thì được miễn thuế 15% cho chi phí
của năm đó.
Thứ hai, thực hiện hoãn thuế thông qua việc cho phép khấu hao nhanh tài
sản cố định.
Để giúp các doanh nghiệp tăng khả năng tài chính và tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp đổi mới nhanh tài sản cố định, nhiều nước đã cho phép các
doanh nghiệp thực hiện khấu hao nhanh tài sản cố định. Ở Mỹ, theo cải cách
thuế năm 1986, các hãng được phép khấu hao nhanh so với khấu hao trực tiếp.
các nước là thành viên của EU đều được các chính phủ cho phép khấu hao
nhanh khi tính thuế. Ở Hàn Quốc, chính phủ sử dụng các chương trình khấu hao
ưu tiên đối với các loại đầu tư và các loại doanh nghiệp khác nhau như doanh
nghiệp sử dụng công nghệ mới, đầu tư cho nghiên cứu và triển khai trong đó có
doanh nghiệp sản xuất phầm mềm.
Thứ ba, Tăng cường chính sách hỗ trợ tín dụngnhằm giúp doanh nghiệp
giải quyết khó khăn về vốn.
Ngoài các biện pháp ưu đãi về thuế và tài trợ trực tiếp của chính phủ, hầu
hết các nước đều có biện pháp cung ứng tín dụng. Ở Mêhicô nhiều chương trình
do Hội đồng KH&CN Quốc gia (CONACYT) quản lý như hỗ trợ hiện đại hóa
công nghệ, liên kết và phát triển công nghệ bao gồm cho vay với lãi suất ưu đãi.

- 19 -

Ở Ba Lan, Luật ban hành ngày 8/5/1997 về bảo lãnh tín dụng kho bạc Nhà nước,
các doanh nghiệp có thể được bảo lãnh tín dụng với điều kiện số tín dụng được
bảo lãnh dùng để đầu tư vào các giải pháp công nghệ hoặc kỹ thuật mới. Người
bảo lãnh sẽ được thanh toán 60% số tín dụng và 60% lãi suất của số tín dụng.
Ở Trung Quốc, các tổ chức tài chính đẩy mạnh các dịch vụ tín dụng cho
các doanh nghiệp CNHT, mở rộng các loại hình tín dụng, các phương pháp thế
chấp cho tín dụng CNHT. Đối với các dự án của doanh nghiệp công nghệ đem
lại nhiều lợi ích kinh tế và thay thế nhập khẩu thì được tăng các khoản vay, Nhà
nước giúp đỡ bằng cách giảm lãi suất cho các khoản vay đó.
Ở Hàn Quốc, Chính phủ cho vay dài hạn lãi suất thấp cho CNHT ở khu
vực phát triển sản phẩm mới và quy trình công nghệ mới Cho vay với lãi suất
thấp hơn lãi suất thị trường (trừ trường hợp vốn được tài trợ từ quỹ mạo hiểm)
các khoản vay phát triển dài hạn. Ở Đài Loan, Chính phủ cho các doanh nghiệp
vay tín dụng với lãi suất thấp (trong 49% tổng tiền vay) cho các dự án có độ rủi
ro cao.
Thứ tư, hỗ trợ tài chính đẩy mạnh xuất khẩu, chuyển giao công nghệ.
Ở Nga để hỗ trợ cho các tổ chức tham gia vào các dự án CNHT quốc tế và
xuất khẩu công nghệ, Bộ Công nghiệp, Khoa học và công nghệ phân bổ các
nguồn lực trong đó có nguồn tài chính hàng năm để có thể tổ chức các hội nghị,
hội thảo về chuyển giao công nghệ. Ở Ba Lan hợp đồng xuất khẩu kết quả
CNHT được bảo lãnh bởi Kho bạc Nhà nước với điều kiện tỷ lệ phần trăm tối
thiểu của các thành phần nội địa hóa có trong hàng hóa và dịch vụ là đối tượng
xuất khẩu phải bằng 50% giá trị chuyển giao thành phẩm xuất khẩu.
Ở Malaysia, Chính phủ áp dụng biện pháp tài chính để thúc đẩy xuất khẩu
như tính gấp đôi các chi phí có liên quan đến việc tìm cơ hội xuất khẩu khi xác
định thuế thu nhập doanh nghiệp (các chi phí quảng cáo chào hàng, chi phí tham
gia triển lãm…, thực hiện giảm thuế xuất khẩu, thực hiện chương trình tài trợ
- 20 -


đối với sản phẩm công nghệ cao để tạo điều kiện cạnh tranh trên thị trường quốc
tế.
Thứ năm, Nhà nước đầu tư tài trợ trực tiếp cho doanh nghiệp hoạt động
NCPT, đặc biệt DNVVN và doanh nghiệp mới thành lập.
Ở Canada thành lập Quỹ đối tác Công nghệ Canada (TPC) để phát triển
cơ sở công nghệ và năng lực công nghệ, phát triển cạnh tranh về ứng dụng công
nghệ, đặc biệt DNVVN, với ngân sách ban đầu 150 triệu USD/năm 1996, năm
2001 đã có 300 triệu USD.
Ở Thụy Điển, Cơ quan phát triển doanh nghiệp Thụy Điển (NUTEK)
cũng tài trợ chương trình CNTT cho các DNVVN. Bắt đầu tháng 4/2001 tăng
cường khả năng và sử dụng Chiến lược công nghệ trong các DNVVN với tổng
kinh phí là 3,2 triệu EUR trong 2 năm. Ở Bỉ, Chính phủ tài trợ cho DNVVN ở
những hoạt động nghiên cứu kinh tế kỹ thuật, chuyển giao công nghệ v.v trong
đó tài trợ 80% chi phí nghiên cứu khả thi để phát triển phần mềm mới. Ở Hà
Lan năm 2001, khoản ngân sách dành cho khuyến khích hoạt động NCPT của
doanh nghiệp gần 505 triệu EUR, trong đó dành cho DNVVN chiếm tới 65%.
Ở Ấn Độ, để hỗ trợ các doanh nghiệp CNHT phần mềm, Chính phủ
không hỗ trợ toàn phần mà chỉ cung cấp 3/5 quỹ nghiên cứu cho các doanh
nghiệp. Bộ CNTT bắt buộc một số công ty lớn phải bỏ ra ít nhất 2% doanh thu
để đầu tư cho CNTT, nếu không sẽ bị rút giấy phép. Năm 1985, Chính phủ quy
định các công ty nước ngoài đầu tư sản xuất máy tính phải có cam kết đóng góp
2-5% doanh thu vào quỹ R&D cho CNTT. Bên cạnh đó Chính phủ mở rộng đối
tượng tài trợ kinh phí R&D, không chỉ doanh nghiệp nhà nước mà bất kỳ doanh
nghiệp nào có dự án khả thi và phù hợp với chiến lược CNTT sẽ được tài trợ
một phần.
- 21 -

1.3.2 Kết luận tham khảo cho Việt Nam
1.3.2.1 Từ phía chính phủ

Trong phát triển CNHT, Chính phủ đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Rút
kinh nghiệm của Thái Lan và Ma-lay-xi-a và các quốc gia trên thế giới, Việt
Nam cần có một chương trình toàn diện, bình đẳng, cụ thể tới tận các doanh
nghiệp và thực hiện quyết liệt thì mới thật sự đạt hiệu quả. Tất cả các quốc gia
kể trên, ngay trong giai đoạn đầu tiên phát triển CNHT đã hình thành nhanh
chóng cơ quan đầu mối, để hoạch định, thực hiện và quản lý phát triển CNHT.
Việt Nam hiện đang thiếu một tổ chức đầu mối về quản lý nhà nước liên quan
đến CNHT. Do đó các thông tin về năng lực các ngành CNHT không được cập
nhật, các hoạt động hỗ trợ phát triển CNHT không tập trung và thống nhất, chưa
huy động được sức mạnh tổng thể của đất nước cho lĩnh vực này. Kinh nghiệm
của quốc tế cho thấy Việt Nam cần phải đổi mới hơn nữa trong các chính sách
phát triển CNHT.
Một là, xác định rõ các ưu tiên về ngành CNHT, sản phẩm CNHT.
Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc đã rất thành công khi tập trung ưu tiên
phát triển một số ngành CNHT. Việt Nam cũng cần có các ưu tiên rõ rệt để có
thể tập trung nguồn lực cũng như định hướng để hấp dẫn doanh nghiệp đầu tư.
Các biện pháp khuyến khích mua nguyên liệu đầu vào tại nội địa là hết sức hữu
hiệu. Theo kinh nghiệm của quốc tế, trong bối cảnh hiện nay có thể khuyến
khích như: giảm thuế cho các doanh nghiệp lắp ráp có tỉ lệ mua hàng trong nước
cao, hỗ trợ ưu đãi các doanh nghiệp FDI sản xuất những phần linh, phụ kiện mà
Việt Nam chưa tự thực hiện được, ưu đãi các công ty đa quốc gia về đất đai, hạ
tầng, thuế trong việc kêu gọi các doanh nghiệp vệ tinh của họ vào sản xuất tại
Việt Nam
- 22 -

Theo kinh nghiệm của Nhật Bản, Việt Nam nên sớm thể chế hoá các quy
định liên quan đến liên kết giữa các doanh nghiệp cung ứng với các nhà thầu
chính, liên quan đến tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm linh kiện, tạo điều kiện tiền
đề để hệ thống doanh nghiệp dễ dàng hợp tác liên kết sản xuất.
Hai là, xoá bỏ khoảng cách giữa chính sách và thực thi chính sách.

Từ bài học của các quốc gia như In-đô-nê-xi-a hay Thái Lan, cần có các
hành động và các chế tài nghiêm khắc về việc thực thi sai chính sách. Cũng cần
có các khoá đào tạo nhận thức cho cán bộ công chức về sứ mệnh của hệ thống
doanh nghiệp đối với kinh tế xã hội quốc gia và vai trò trách nhiệm của Chính
phủ, cụ thể là cán bộ công chức trong việc hỗ trợ, tư vấn cho doanh nghiệp phát
triển.
1.3.3.2 Từ phía doanh nghiệp
Như tất cả các quốc gia khác trong khu vực, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài chuyên sản xuất linh kiện sẽ là lực lượng sản xuất CNHT chính
trong thời gian trước mắt ở Việt Nam. Trong khoảng 10 năm tới, bên cạnh mục
tiêu cung ứng cho các tập đoàn lớn, doanh nghiệp nội địa Việt Nam nên xác
định tập trung cung ứng cho hệ thống doanh nghiệp sản xuất linh kiện FDI này,
để bắt đầu tham gia vào việc lắp ráp các cụm linh kiện chi tiết có giá trị và dần
dần học hỏi để chuyển giao công nghệ kỹ thuật.
- 23 -

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1:
Chương 1 đã giới thiệu một cách tổng quan về công nghiệp hỗ trợ đi từ
khái niệm, đặc điểm, vai trò của CNHT đối với sự phát triển của nền kinh tế
quốc gia. Đồng thời cũng nêu lên các nhân tố có ảnh hưởng tới sự tăng trưởng
của CNHT, một trong các nhân tố có ảnh hưởng sâu rộng đó là nhân tố về các
chính sách của chính phủ, mà quan trọng hơn cả đó là các chính sách tài chính.
Chương 1 cũng nêu lên những bài học về ưu đãi phát triển CNHT của các quốc
gia trên thế giới, nhận diện tầm quan trọng của CNHT trong tổng thể ngành
công nghiệp giúp các quốc gia đó khẳng định được vị thế của mình trên thế giới.
Từ đó bài viết đưa ra những nhận định chung cần quán triệt từ phía Chính phủ
tới các doanh nghiệp trong nước về tầm quan trọng của CNHT.
Cùng với sự hội nhập của Việt Nam trên trường quốc tế như việc gia
nhậpWTO, AFTA, sự ưu đãi của chính phủ trước hết phải đảm bảo các nguyên
tắc khi tham gia vào các sân chơi quốc tế đồng thời cũng quan tâm ưu đãi cho

các doanh nghiệp CNHT phát triển cho ngang tầm các nước trong khu vực. Để
hiểu rõ hơn về các chính sách tài chính áp dụng trong CNHT và thực trang về
các chính sách tài chính ở Việt Nam, Chương 2: “Thực trạng chính sách tài
chính thúc đẩy CNHT phát triển ở Việt Nam” sẽ làm rõ vấn đề này.
- 24 -

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở VIỆT NAM
2.1. TỔNG QUAN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
Ở VIỆT NAM.
Một trong những mục tiêu phát triển kinh tế quan trọng nhất của nước ta là
trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Vì vậy, trong những năm gần đây,
Việt Nam đã đầu tư không nhỏ để tập trung phát triển một số ngành công nghiệp
mũi nhọn như: công nghiệp dệt may, công nghiệp sản xuất ô tô, công nghiệp
điện tử. Trong những năm qua, công nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành
quả nhất định, như duy trì tốc độ tăng trưởng hai con số liên tục trong suốt 10
năm gần đây, cũng như đã tạo ra được một số ngành công nghiệp có giá trị kim
ngạch xuất khẩu cao như công nghiệp dệt may. Tuy nhiên, ngành công nghiệp
Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề như công nghệ quá lạc hậu, quy mô nhỏ
bé, sức cạnh tranh thấp… Một trong những nguyên nhân chính của tình hình này
là do nước ta chưa phát triển một cách đồng bộ và tương xứng các ngành công
nghiệp hỗ trợ sản xuất linh phụ kiện với các ngành công nghiệp chính.
2.1.1. Khái quát thực trạng nền công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam.
Trái ngược với sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp nói
chung, ở Việt Nam các ngành công nghiệp hỗ trợ gần như mới trong giai đoạn
hình thành và còn rất non kém. Việt Nam hiện có khoảng 24 ngành, phân ngành
kinh tế- kĩ thuật đều cần đến công nghiệp hỗ trợ, trong đó, có nhiều ngành sản
xuất hàng xuất khẩu. Cho tới nay, do việc đầu tư vào ngành công nghiệp hỗ trợ
đòi hòi đầu tư lớn và rủi ro cao nên gần như không có nhà đầu tư nào trong nước
cũng như chỉ có rất ít các nhà đầu tư nước ngoài có dự định đầu tư vào lĩnh vực

sản xuất linh, phụ kiện. Hầu hết các nhà đầu tư trong và ngoài nước tập trung
đầu tư ở những lĩnh vực như lắp ráp, hoàn thiện sản phẩm. Điều này khiến cho,
- 25 -

×