Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

hoạt động thanh tra, giám sát của ngân hàng nhà nước đối với các tổ chức tín dụng tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.51 KB, 93 trang )

MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA, GIÁM
SÁT ĐỐI VỚI CÁC TCTD CỦA NHNN VIỆT NAM 4
1.1. Khái niệm Thanh tra, giám sát của NHNN đối với các TCTD tại Việt Nam 4
1.1.1. Khái niệm hoạt động Thanh tra, giám sát đối với các TCTD 4
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TRA, GIÁM SÁT
CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 30
CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG THANH TRA, GIÁM SÁT
CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
TẠI VIỆT NAM 58
Nội dung nguyên tắc 83
I
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
HĐQT : Hội đồng quản trị
IMF : Quỹ tiền tệ quốc tế
IAS : Chuẩn mực kế toán quốc tế
NHLD : Ngân hàng liên doanh
NHNN : Ngân hàng nhà nước
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTMNN : Ngân hàng thương mại Nhà nước
TCTC : Tổ chức tài chính
TCTD : Tổ chức tín dụng
QTDND : Quỹ tín dụng nhân dân
ADB : Ngân hàng phát triển châu Á
WB : Ngân hàng thế giới
II
DANH MỤC PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Kết quả tự đánh giá hệ thống Thanh tra ngân hàng theo 25
nguyên tắc cơ bản của Uỷ ban Basel
83


Phụ lục 2: Thanh tra trên cơ sở rủi ro

87
Phụ lục 3: Mô hình Thanh tra, giám sát ngân hàng tại Malaysia

89
Phụ lục 4:Các tiêu chí giám sát theo CAMELS

89
III
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, ngành Ngân hàng Việt Nam đã có những cải cách
đáng kể theo xu hướng thị trường và mở cửa khu vực dịch vụ tài chính - ngân
hàng trước yêu cầu phát triển kinh tế và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Ngành
Ngân hàng, hệ thống các TCTD đã có bước phát triển rất nhanh về qui mô và
phạm vi hoạt động nhưng đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Việc các xu
hướng thâm nhập sâu rộng hơn vào hoạt động của thị trường phi ngân hàng
(chứng khoán và bảo hiểm) càng làm rủi ro đối với các TCTD trở nên đa dạng
hơn. Sự phát triển mạnh mẽ của các dịch vụ ngân hàng đồng hành cùng với các
loại tội phạm mới xuất hiện trong lĩnh vực ngân hàng, rủi ro về tác nghiệp và
công nghệ trong điều kiện hệ thống quản trị, điều hành kinh doanh của các TCTD
còn những yếu kém đang là nỗi lo lớn của các nhà quản lý ngân hàng. Trong bối
cảnh đó, Ngân hàng nhà nước Việt Nam với chức năng là cơ quan quản lý Nhà
nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng đang đứng trước yêu cầu phải đổi mới
mạnh mẽ. Quá trình đổi mới đặt trọng tâm vào việc hoàn thiện và nâng cao hiệu
quả hoạt động Thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với hệ thống các
TCTD. Thanh tra, giám sát ngân hàng thật sự là trụ cột để bảo đảm NHNN
thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và
hoạt động ngân hàng, thực hiện mục tiêu an toàn hệ thống các tổ chức tín
dụng. Từ đó, tạo môi trường thuận lợi cho ổn định vĩ mô và tăng trưởng

kinh tế. Sự an toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng góp phần
tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động thương mại, đầu tư, tài chính
phát triển và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh.
Hiện nay, trong khi đối tượng của hoạt động Thanh tra, giám sát là tổ chức
và hoạt động của các TCTD đang biến động từng ngày, thì hoạt động Thanh tra,
1
giám sát của Ngân hàng Nhà nước nếu không được đổi mới kịp thời và đúng
hướng, sẽ khó đạt được mục tiêu đảm bảo sự ổn định, an toàn của hệ thống TCTD
tại Việt Nam.
Với đề tài: "Hoạt động Thanh tra, giám sát của Ngân hàng nhà nước đối
với các Tổ chức tín dụng tại Việt Nam", nhóm nghiên cứu mong muốn sẽ tìm
ra được những giải pháp góp phần đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động Thanh
tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước cho phù hợp với sự phát triển ngày càng
mạnh mẽ của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam, đồng thời đáp ứng được yêu cầu
hội nhập quốc tế của nền kinh tế nói chung và hoạt động ngân hàng, tài chính nói
riêng cũng nhu phù hợp với những chuẩn mực về giám sát ngân hàng hiệu quả
theo thông lệ quốc tế.
Mục tiêu nghiên cứu
- Khái quát những vấn đề cơ bản về hoạt động Thanh tra, giám sát của
NHNN đối với các TCTD. Những bài học kinh nghiệm của các quốc gia về mô
hình cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng.
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động của các TCTD tại Việt Nam dưới sự điều
hành và kiểm soát của NHNN.
- Phân tích, đánh giá thực trạng và hiệu quả hoạt động Thanh tra, giám sát
của Ngân hàng nhà nước đối với các TCTD tại Việt Nam. Nghiên cứu những
định hướng phát triển hoạt động Thanh tra, giám sát của NHNN và đề ra những
kiến nghị đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động Thanh tra, giám sát của
Ngân hàng Nhà nước.
- Đề xuất những giải pháp góp phần đổi mới hoạt động Thanh tra, giám sát
của Ngân hàng Nhà nước cho phù hợp với thực tiễn phát triển không ngừng của

các TCTD tại Việt Nam.
2
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động Thanh tra, giám sát của NHNN và hoạt
động của các TCTD tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Nhóm nghiên cứu tập trung chủ yếu vào hoạt động
Thanh tra giám sát của NHNN đối với các tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt
Nam, đặc biệt là trong quá trình hội nhập mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam nói
chung và lĩnh vực Tài chính - Ngân hàng nói riêng với kinh tế Quốc tế, đồng thời
tập trung kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động Thanh tra,
giám sát của Ngân hàng nhà nước đối với các TCTD.
Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong nghiên cứu đề tài này là:
phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, suy luận logic kết hợp với các phương
pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp khảo nghiệm tổng kết thực tiễn, phân tích,
tổng hợp, so sánh để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu. Việc nghiên cứu theo
các phương pháp trên được gắn với thực tiễn hoạt động của cơ quan Thanh tra,
giám sát ngân hàng nhà nước Việt nam.
Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục các
bảng số liệu, biểu đồ, nội dung chính của đề tài được thể hiện trong 03 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về hoạt động Thanh tra giám sát các tổ chức tín
dụng của ngân hàng nhà nước Việt Nam
Chương 2: Thực trạng hoạt động Thanh tra, giám sát của Ngân hàng nhà
nước đối với các tổ chức tín dụng tại Việt Nam.
Chương 3: Hoàn thiện hoạt động Thanh tra, giám sát của Ngân hàng nhà
nước đối với các tổ chức tín dụng tại Việt Nam.
3
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA, GIÁM
SÁT ĐỐI VỚI CÁC TCTD CỦA NHNN VIỆT NAM

1.1. Khái niệm Thanh tra, giám sát của NHNN đối với các TCTD tại Việt
Nam
1.1.1. Khái niệm hoạt động Thanh tra, giám sát đối với các TCTD.
Theo từ điển tiếng Việt: “Thanh tra là kiểm soát, xem xét tại chỗ của địa
phương, cơ quan, xí nghiệp”. Với nghĩa này, Thanh tra là kiểm soát nhằm phát
hiện và ngăn chặn những gì trái với quy định. Thanh tra thường đi kèm với một
chủ thể nhất định như đoàn Thanh tra, người làm nhiệm vụ Thanh tra. Trong văn
bản pháp luật và thực tiễn hoạt động của nước ta, cụm từ “Thanh tra, kiểm tra”
được sử dụng để chỉ một hoạt động không thể thiếu của quản lý nhà nước nhằm
hướng đối tượng theo những mục tiêu nhất định. Thanh tra là một trong ba yếu tố
cấu thành của hoạt động quản lý nhà nước, đó là: (i) Ban hành các quyết định
quản lý, (ii) Tổ chức triển khai, thực hiện các quyết định đã ban hành và (iii)
Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quyết định quản lý. Mặc dù là khâu cuối
cùng của quá trình quản lý nhưng Thanh tra đóng vai trò rất quan trọng, và thiếu
nó không thể có quá trình quản lý hoàn chỉnh.
Thanh tra góp phần tăng cường pháp chế và kỷ cương xã hội. Thông qua
công tác Thanh tra, các cơ quan quản lý nhà nước kịp thời phát hiện và ngăn chặn
các hành vi vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân. Thanh tra cung cấp thông tin
phản hồi - nhu cầu không thể thiếu trong quá trình quản lý - để cấp có thẩm quyền
nắm bắt được quyết định quản lý đã ban hành đã được thực hiện ra sao, còn phù
hợp thực tiễn hay không và cần phải sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới như thế
nào…
Trên thế giới, Ngân hàng trung ương của mỗi quốc gia có thể được tổ chức
theo những mô hình khác nhau, nhưng mục tiêu tổng quát chung mà các Ngân
hàng trung ương đều hướng tới đó là việc ổn định giá trị đồng tiền cả về đối nội
4
cũng như đối ngoại; duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng, góp phần thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế.
Để đạt được các mục tiêu trên, Ngân hàng trung ương hoạt động theo các
chức năng chủ yếu như phát hành giấy bạc ngân hàng và điều tiết lượng tiền cung

ứng; ngân hàng của các ngân hàng trung gian; ngân hàng của Nhà nước. Trong
đó, với chức năng là ngân hàng của Nhà nước, Ngân hàng Trung ương thực hiện
Thanh tra, giám sát đối với các Tổ chức tín dụng, coi đây là một trong những
công cụ chủ yếu nhằm bảo đảm hệ thống ngân hàng hoạt động theo trật tự pháp
chế, ổn định, an toàn và hiệu quả.
1.1.1.1. Khái niệm Thanh tra đối với các tổ chức tín dụng
Theo Điều 1 Nghị định 91/1999/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Thanh
tra ngân hàng qui định: Thanh tra ngân hàng là Thanh tra nhà nước chuyên ngành
về ngân hàng. Thanh tra chuyên ngành là hoạt động Thanh tra của cơ quan quản
lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc
chấp hành pháp luật những qui định về chuyên môn – kỹ thuật, qui tắc quản lý
ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý.
Qua thực tiễn có thể khái quát hoạt động Thanh tra đối với TCTD là việc
NHNN định kỳ hoặc đột xuất cử các nhân viên là các giám sát viên hoặc Thanh
tra viên tới làm việc tại TCTD. Trên cơ sở xem xét trực tiếp các hoạt động thực tế
diễn ra tại các TCTD và các tài liệu do ngân hàng cung cấp, các giám sát viên
hoặc Thanh tra viên sẽ đưa ra những đánh giá, khuyến nghị về từng mặt hoặc toàn
bộ hoạt động của ngân hàng.
Hoạt động Thanh tra này còn được gọi là Thanh tra trực tiếp hay là Thanh
tra tại chỗ (tại đơn vị). Theo Luật Thanh tra, Thanh tra trực tiếp chỉ thực hiện theo
hai hình thức đó là Thanh tra theo chương trình kế hoạch và Thanh tra đột xuất.
5
Thanh tra theo chương trình, kế hoạch được tiến hành theo chương trình, kế
hoạch đã được phê duyệt. Thanh tra đột xuất được tiến hành khi phát hiện cơ
quan, tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật, theo yêu cầu giải quyết
khiếu nại, tố cáo hoặc do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
giao.
- Mục tiêu của hoạt động Thanh tra trực tiếp tại TCTD :
+ Đánh giá toàn bộ hoạt động và điều kiện tài chính của ngân hàng; đánh giá
môi trường hoạt động chung của ngân hàng, tập trung vào hệ thống quản lý, hệ

thống kiểm soát nội bộ, hệ thống quản lý rủi ro.
+ Đánh giá mức độ đáng tin cậy của những thông tin, dữ liệu mà ngân hàng
cung cấp cho NHNN và cho các yêu cầu công khai thông tin; phát hiện và xử lý
vi phạm; kịp thời đưa ra kiến nghị.
+ Tiếp xúc trực tiếp với ban lãnh đạo và nhân viên ngân hàng để có được cái
nhìn từ bên trong và sự hiểu biết tốt hơn, thực tế hơn về một ngân hàng cụ thể.
1.1.1.2. Khái niệm giám sát đối với các tổ chức tín dụng
Khái niệm giám sát từ xa đối với các TCTD xuất hiện và nghiên cứu tại Mỹ
vào những năm cuối thập kỷ 70, thời kỳ nhiều ngân hàng Mỹ rơi vào tình trạng
khủng hoảng, sau đó tình trạng tương tự xảy ra tại Tây Ba Nha. Qua nghiên cứu,
các nhà quản lý ngân hàng phát hiện những hiện tượng không bình thường và dẫn
đến tình trạng khủng hoảng nói trên phần lớn đều phát sinh trong thời gian “
khoảng trống” giữa hai kỳ Thanh tra tại chỗ. Tình trạng này cũng diễn ra khá phổ
biến ở các nước trên thế giới đối với ngành ngân hàng. Để khắc phục hiện tượng
này, các nhà quản lý đã đưa ra một phương pháp nhằm giám sát từ xa, được áp
dụng hầu hết phổ biến với hoạt động Thanh tra của Ngân hàng Trung ương các
nước và trở thành biện pháp nghiệp vụ không thể thiếu trong quá trình Thanh tra,
giám sát hoạt động của các TCTD
6
Ủy ban Basel cũng đã đưa ra 25 nguyên tắc về Thanh tra, giám sát ngân
hàng bao gồm khung giám sát từ khâu cấp phép thành lập, tổ chức và hoạt động,
quản trị điều hành đến giải thể, phá sản ngân hàng. Bản chất của giám sát (gồm
Thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa) hệ thống ngân hàng là thực hiện giám sát
những nguy cơ rủi ro đối với hệ thống ngân hàng và khả năng khống chế rủi ro.
Do đó, hoạt động giám sát ngân hàng phải tập trung giám sát và quản lý thận
trọng bằng cách cố gắng đánh giá hết được những rủi ro nảy sinh từ các hoạt
động ngân hàng.
Hoạt động giám sát từ xa được áp dụng vào Việt Nam khoảng năm 1991.
Lúc đầu được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp thủ công nên rất chậm, không
tiến hành theo định kỳ tháng và chất lượng thấp.

Tại Điều 1 Quyết định số 398/1999/QĐ-NHNN3 ngày /9/11/1999 quy định:
Giám sát từ xa là việc gián tiếp kiểm tra thông qua tổng hợp và phân tích các báo
cáo để đánh giá các nội dung sau đây của các TCTD: diễn biến về cơ cấu tài sản
Nợ và tài sản có; chất lượng tài sản có; vốn tự có; tình hình thu nhập, chi phí và
két quả kinh doanh; việc thực hiện qui định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong
hoạt động của TCTD và các qui định khác của pháp luật; các vấn đề liên quan
khác.
Hiện nay, để đáp ứng yêu cầu hoạt động quản lý của NHNN, hoạt động
giám sát có phạm vi rộng hơn đó là quá trình thu thập, phân tích, đánh giá, xử lý
thông tin một cách thường xuyên, liên tục về hoạt động của từng ngân hàng và hệ
thống ngân hàng, trên cơ sở các thông tin, dữ liệu do các ngân hàng báo cáo về
NHNN và thông qua việc gặp gỡ trực tiếp hoặc trao đổi với ban lãnh đạo, nhân
viên ngân hàng, cũng như thông qua các nguồn thông tin khác như phương tiện
thông tin đại chúng, báo cáo kiểm toán độc lập, báo cáo kiểm toán nội bộ của
TCTD…Hoạt động giám sát còn được gọi là giám sát từ xa, giám sát của cơ quan
quản lý thông qua thông tin thu được về các TCTD để phân tích.
7
- Mục tiêu của hoạt động giám sát từ xa đối với TCTD
+ Phát hiện, cảnh báo sớm những rủi ro tiềm ẩn đối với từng ngân hàng và
hệ thống ngân hàng.
+ Cung cấp những thông tin ban đầu cho việc xây dựng kế hoạch Thanh tra
tại chỗ, cũng như thiết kế một cuộc Thanh tra cụ thể.
+ Phát hiện những xu thế phát triển của hệ thống ngân hàng, làm cơ sở cho
việc ban hành chính sách.
Như vậy có thể thấy, so với hoạt động Thanh tra trực tiếp, hoạt động giám
sát từ xa có 3 điểm khác biệt cơ bản: Thứ nhất, là cách thức thu thập, tiếp cận
thông tin; thứ hai là mức độ và phạm vi giám sát, và thứ ba là nội dung và mục
tiêu giám sát cụ thể. Do những điểm khác biệt này, Thanh tra trực tiếp phù hợp
cho những đánh giá toàn diện và cụ thể mang tính định đối với từng từng ngân
hàng. Tuy nhiên, hình thức này lại không phù hợp cho việc đánh giá một cách

thường xuyên và đồng thời một số lớn ngân hàng hay hệ thống ngân hàng. Trong
khi đó, giám sát từ xa phù hợp cho việc đánh giá về mặt định lượng hoạt động của
từng ngân hàng cũng như một số lớn ngân hàng một cách liên tục, thường xuyên.
Chính những đặc điểm có thể bổ trợ cho nhau này mà giám sát từ xa và Thanh tra
tại chỗ được NHNN sử dụng một cách đồng thời để Thanh tra, giám sát hoạt động
của các TCTD.
Để Thanh tra, giám sát các TCTD, hầu hết các cơ quan giám sát ngân hàng
trên thế giới đều áp dụng giám sát từ xa và Thanh tra tại chỗ. Điều này được
khẳng định trong các yêu cầu giám sát ngân hàng hiệu quả của Uỷ ban Basel đó
là: một hệ thống giám sát ngân hàng hiệu quả cần bao gồm cả 2 hình thức Thanh
tra tại chỗ và giám sát từ xa. Tuy nhiên, hoạt động Thanh tra, giám sát đó là
Thanh tra giám sát tuân thủ hay là Thanh tra giám sát trên cơ sở rủi ro còn phụ
thuộc vào mỗi nước.
8
1.1.1.3. Khái niệm Thanh tra, giám sát tuân thủ.
Trên thế giới cũng có rất nhiều khái niệm khác nhau về hoạt động Thanh tra,
giám sát trên cơ sở tuân thủ. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, các cơ quan
giám sát ngân hàng các nước đều sử dụng 2 hình thức đó là giám sát từ xa và
Thanh tra tại chỗ để thực hiện Thanh tra, giám sát đối với TCTD. Hoạt động
Thanh tra, giám sát truyền thống (tức là áp dụng trước những năm 1990) đó là
Thanh tra, giám sát tuân thủ. Có thể hiểu Thanh tra, giám sát tuân thủ là việc tập
trung phát hiện, đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật có liên quan của đối tượng
được Thanh tra, giám sát; coi đây là mục tiêu hàng đầu và cũng là mục tiêu quan
trọng nhất khi Thanh tra, giám sát các đối tượng này.
Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động ngân hàng tài
chính hoạt động Thanh tra của các nước đã thay đổi căn bản và thay đổi liên tục.
Đối với các nước có thị trường tài chính, tiền tệ phát triển mạnh thì hoạt động
Thanh tra, giám sát giám sát trên cơ sở tuân thủ đã được thay đổi từ rất sớm bằng
hoạt động Thanh tra giám sát từ xa trên cơ sở rủi ro khi các nước này thực hiện
các chuẩn mực và nguyên tắc Thanh tra, giám sát ngân hàng hiệu quả của Uỷ ban

Basel.
1.1.2. Mục đích, nguyên tắc của hoạt động Thanh tra ngân hàng.
Tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngân hàng được căn cứ vào các quy
định cơ bản tại Luật Thanh tra, Luật NHNN Việt Nam, Luật các TCTD, Nghị
định số 91/1999/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thanh tra
ngân hàng và Thông tư số 04 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 91/1999/NĐ-CP.
Đối tượng của Thanh tra ngân hàng là tổ chức và hoạt động của TCTD; hoạt
động ngân hàng của các tổ chức không phải là TCTD được NHNN cho phép; việc
thực hiện các quy định của pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng của các cơ
quan, tổ chức và cá nhân.
9
1.1.2.1. Mục đích hoạt động của Thanh tra ngân hàng
Mục đích hoạt động của Thanh tra ngân hàng là nhằm góp phần bảo đảm an
toàn hệ thống các TCTD, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền,
phục vụ việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Thanh tra, giám sát ngân hàng nhằm góp phần bảo đảm sự phát triển an
toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng và hệ thống tài chính; bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và khách hàng của tổ chức tín dụng;
duy trì và nâng cao lòng tin của công chúng đối với hệ thống các tổ chức tín
dụng; bảo đảm việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; góp
phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và
ngân hàng.
Hoạt động Thanh tra của Thanh tra ngân hàng, trước hết cũng nhằm mục
đích của Thanh tra nói chung là phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp
luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục;
phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động
quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân. Mặt khác, vì là Thanh tra chuyên ngành về ngân hàng,
nên Thanh tra ngân hàng có mục đích cụ thể, đặc thù của mình. Hiện nay, mục

đích hoạt động phổ biến nhất của Thanh tra ngân hàng là: góp phần bảo đảm sự
phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng và hệ thống tài
chính; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và khách hàng của tổ
chức tín dụng; duy trì và nâng cao lòng tin của công chúng đối với hệ thống các
tổ chức tín dụng; bảo đảm việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và
ngân hàng; góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh
vực tiền tệ và ngân hàng. (Theo điều 50 Luật NHNN số 46/2010/QH12)
1.1.2.2. Nguyên tắc hoạt động của Thanh tra ngân hàng
10
Theo điều 51 luật NHNN số 46/2010/QH12, nguyên tắc hoạt động của
Thanh tra ngân hàng là:
- Thanh tra, giám sát ngân hàng phải tuân theo pháp luật; bảo đảm chính
xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời; không làm cản trở hoạt
động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng Thanh tra, giám sát
ngân hàng.
- Kết hợp Thanh tra, giám sát việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ
và ngân hàng với Thanh tra, giám sát rủi ro trong hoạt động của đối tượng Thanh
tra, giám sát ngân hàng.
- Thanh tra, giám sát ngân hàng được thực hiện theo nguyên tắc Thanh tra,
giám sát toàn bộ hoạt động của TCTD.
- Thanh tra, giám sát ngân hàng được thực hiện theo quy định của Luật
NHNN và các quy định khác của pháp luật có liên quan; trường hợp có sự khác
nhau giữa quy định về Thanh tra, giám sát ngân hàng của Luật NHNN với quy
định của luật khác thì thực hiện theo quy định của Luật NHNN.
- Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định trình tự, thủ tục Thanh tra, giám
sát ngân hàng.
1.1.3 Tổ chức, Bộ máy thực hiện chức năng Thanh tra tại Việt Nam.
1.1.3.1. Vai trò của Thanh tra Ngân hàng
Ổn định tài chính luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt, nhất là trong thời kỳ
khủng hoảng. Với sự hiện diện của những bất ổn không lường trước được trong

tương lai thì tăng cường quản trị rủi ro và đề xuất các biện pháp quản trị rủi ro
hơn bao giờ hết cần phải được đẩy mạnh thường xuyên nhằm thích ứng với môi
trường mới. Vì vậy, vai trò của các cơ quan Thanh tra, giám sát với vị trí là nhân
11
tố cốt lõi của quá trình này trở nên cực kỳ quan trọng. Trong thời gian qua hoạt
động Thanh tra của Thanh tra ngân hàng đã có vai trò và hiệu quả lớn trong việc
nâng cao hiệu lực quản lý của Ngân hàng nhà nước:
- Hoạt động Thanh tra của Thanh tra ngân hàng đã góp phần giữ vững an
toàn hệ thống, phục hồi và phát triển hoạt động của các TCTD. Hoạt động Thanh
tra cũng đã cung cấp những bài học kinh nghiệm cho phát hiện các ngân hàng có
vấn đề; việc áp dụng các biện pháp xử lý tình huống để duy trì và đảm bảo hoạt
động của các TCTD trong tầm kiểm soát của NHNN.
- Hoạt động Thanh tra cũng đã góp phần đảm bảo quá trình xử lý các ngân
hàng có vấn đề được diễn ra bình thường, không gây ra những cơn sốc trong công
chúng. Nhờ đó, giữ vững ổn định kinh tế, chính trị của đất nước. Đồng thời, đảm
bảo chi phí cho quá trình xử lý ngân hàng ở mức thấp nhất, hạn chế tổn thất vật
chất cho ngân sách nhà nước.
- Với hoạt động Thanh tra trực tiếp và hệ thống các biện pháp xử lý sau
Thanh tra, cùng với hoạt động giám sát từ xa đã góp phần nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật của các TCTD; hạn chế và giảm thiểu những sai phạm nghiêm
trọng trong hoạt động quản trị điều hành và hoạt động tác nghiệp tại các TCTD
- Hoạt động Thanh tra, giám sát đã định hướng cho quá trình hoàn thiện
chính sách của NHNN, bao gồm các quy chế, chính sách điều chỉnh hoạt động
của các NHTM và các chính sách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Thanh
tra ngân hàng.
- Hoạt động giám sát từ xa đã xây dựng được một nền móng cơ bản ban đầu
từ những kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận và xử lý thông tin; quy trình lập
bảng biểu và thực tế lập báo cáo phục vụ công tác chỉ đạo và hoạt động Thanh tra
tại chỗ.
12

Đáng chú ý là hệ thống chỉ tiêu giám sát của chương trình giám sát từ xa,
bao gồm các chỉ tiêu trong và ngoài cân đối, đã được nghiên cứu, bổ sung, đổi
mới một phần, phù hợp hơn với tính chất phức tạp cũng như sự phát triển đa dạng
các loại hình dịch vụ ngân hàng. Trên cơ sở hệ thống chỉ tiêu thu thập được, hoạt
động giám sát cũng đã cung cấp được nhiều loại báo cáo hơn theo yêu cầu của
các cấp quản lý.
Ngoài ra, hoạt động giám sát đã chỉ điểm cho công tác Thanh tra tại chỗ;
cung cấp những thông tin ban đầu cho việc xây dựng kế hoạch Thanh tra như lựa
chọn đối tượng, nội dung Thanh tra.
1.1.3.2 Cơ cấu tổ chức, bộ máy và nhân sự của Thanh tra Ngân hàng.
Ngày 30/7/2009, NHNN đã tổ chức công bố thành lập Cơ quan Thanh tra,
giám sát ngân hàng theo Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg ngày 27/5/2009. Cơ
quan Thanh tra giám sát ngân hàng được thành lập dựa trên cơ sở tổ chức lại 4
đơn vị trực thuộc nhà nước bao gồm: Thanh tra, Vụ các ngân hàng, Vụ các TCTD
hợp tác và Trung tâm phòng chống rửa tiền. Thành lập Cơ quan Thanh tra, giám
sát ngân hàng được coi là một công cuộc cải tổ đáng kể của NHNN nhằm tăng
cường khả năng Thanh tra, giám sát của hệ thống tài chính ngân hàng. Theo quyết
định này, cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng gồm 6 vụ chuyên ngành, Văn
phòng và Cục phòng, chống rửa tiền, các Vụ chuyên ngành bao gồm:
(1) Vụ Thanh tra các tổ chức tín dụng trong nước (gọi tắt là Vụ I)
(2) Vụ Thanh tra các tổ chức tín dụng nước ngoài (gọi tắt là Vụ II)
(3) Vụ Thanh tra hành chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống
tham nhũng (gọi tắt là Vụ III)
(4) Vụ Giám sát ngân hàng (gọi tắt là Vụ IV)
(5) Vụ Chính sách an toàn hoạt động ngân hàng (gọi tắt là Vụ V).
(6) Vụ Quản lý cấp phép các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng (gọi
tắt là Vụ VI).
13
Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thực hiện đầy đủ 4 chức năng theo
khuyến cáo của Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng, đó là: cấp, thu hồi giấy

phép ngân hàng; xây dựng các quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng;
Thanh tra, giám sát; áp dụng chế tài xử lý vi phạm. Theo phân cấp hiện tại, cơ
quan Thanh tra, giám sát thực hiện giám sát tập trung toàn hệ thống TCTD,
Thanh tra, giám sát sở giao dịch các TCTD Nhà nước, các TCTD nước ngoài và
liên doanh, các công ty tài chính và cho thuê tài chính và Quỹ tín dụng nhân dân
Trung ương; tại NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố thành lập đơn vị Thanh tra,
giám sát trực thuộc giám đốc chi nhánh để thực hiện quản lý và Thanh tra, giám
sát các TCTD trên địa bàn gồm: các TCTD cổ phần, các quỹ tín dụng nhân dân
cơ sở và tất cả các chi nhánh của TCTD trong nước đóng trên địa bàn tỉnh, thành
phố.
Với mô hình tổ chức phân tán như trên (Thanh tra, giám sát chi nhánh thuộc
quyền quản lý trực tiếp của giám đốc chi nhánh), hoạt động Thanh tra, giám sát
cắt khúc (NHNN Trung ương Thanh tra sở giao dịch TCTD, địa phương Thanh
tra chi nhánh của TCTD) không đáp ứng được yêu cầu Thanh tra, giám sát toàn
bộ theo Luật NHNN vì Thanh tra, giám sát toàn bộ phải được tiến hành tập trung,
thống nhất đối với ngân hàng mẹ (gồm hội sở chính, các đơn vị trực thuộc hội sở
chính, các công ty con có hoạt động ngân hàng thuộc ngân hàng mẹ).
Về mô hình tổ chức theo Luật Thanh tra năm 2010, mỗi bộ chỉ có một tổ
chức Thanh tra bộ để thực hiện Thanh tra hành chính và Thanh tra chuyên ngành,
còn các đơn vị làm chức năng quản lý thuộc bộ “không thành lập cơ quan Thanh
tra chuyên ngành độc lập” (Điều 30) mà thực hiện trách nhiệm là cơ quan được
giao thực hiện chức năng Thanh tra chuyên ngành (theo mục 6). Việc NHNN với
tính đặc thù cao thực hiện quy định nêu trên của Luật Thanh tra cần được xem xét
một cách thỏa đáng khi NHNN triển khai thực hiện cơ cấu tổ chức theo Điều 7
Luật NHNN.
14
Chỉ đạo điều hành hoạt động của hệ thống Thanh tra ngân hàng
thực hiện theo cơ chế song trùng lãnh đạo:
+ Thống đốc NHNN chịu trách nhiệm chỉ đạo, điều hành việc thực hiện
nhiệm vụ Thanh tra ngân hàng trên phạm vi cả nước.

+ Tổng Thanh tra chịu trách nhiệm chỉ đạo và hướng dẫn về tổ chức và
nghiệp vụ Thanh tra.
+ Thanh tra chi nhánh NHNN chịu sự điều hành trực tiếp của Giám đốc
NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố nhưng chịu chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ
Thanh tra của Chánh Thanh tra.
1.1.3.3. Mối quan hệ giữa Thanh tra NHNN và Thanh tra chi nhánh NHNN
tỉnh, thành phố trong hoạt động Thanh tra, giám sát
Việc phân công trách nhiệm giữa Thanh tra NHNN và Thanh tra chi nhánh
NHNN trong việc giám sát và Thanh tra các TCTD tại Việt Nam thực hiện theo
quy định tại Thông tư số 04/2000/TT-NHNN3:
- Thanh tra NHNN thực hiện giám sát và Thanh tra: Hội sở chính, sở giao
dịch, các công ty trực thuộc hạch toán độc lập của các TCTD nhà nước; Quỹ tín
dụng nhân dân (QTDND) trung ương; ngân hàng liên doanh; chi nhánh ngân
hàng nước ngoài tại Việt Nam; hoạt động ngân hàng của các tổ chức không phải
là TCTD do NHNN cấp giấy phép; các đơn vị thuộc trách nhiệm giám sát và
Thanh tra của Thanh tra chi nhánh NHNN khi xét thấy cần thiết.
- Thanh tra chi nhánh NHNN chịu trách nhiệm giám sát và Thanh tra trên
địa bàn gồm: các chi nhánh, công ty trực thuộc của TCTD nhà nước; TCTD cổ
phần; QTDND cơ sở; hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác không phải là
TCTD được các cấp có thẩm quyền cấp giấy phép (theo uỷ quyền).
15
Thanh tra chi nhánh chịu sự hướng dẫn về mặt nghiệp vụ của Thanh tra
NHNN: như được định hướng về nội dung Thanh tra hàng năm; được đào tạo
nghiệp vụ Thanh tra; tập huấn quy chế, chính sách Tuy nhiên, vì thuộc cơ cấu tổ
chức của NHNN chi nhánh, nên về mặt tổ chức, nhân sự và các hoạt động Thanh
tra, giám sát cụ thể, Thanh tra chi nhánh thực hiện theo sự chỉ đạo trực tiếp của
Thanh tra NHNN.
1.1.3.4. Sự phối hợp giữa Thanh tra ngân hàng và một số Vụ, Cục khác của
NHNN trong hoạt động giám sát chung đối với các NHTM
Hiện nay, ngoài Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng một số đơn vị thuộc

ngân hàng nhà nước cũng thực hiện một số hoạt động giám sát đối với các TCTD,
như: Vụ phát hành kho quỹ giám sát về hoạt động an toàn kho quỹ của các
TCTD; Vụ quản lý ngoại hối giám sát về những hoạt động liên quan tới ngoại hối
và kinh doanh vàng; Vụ các TCTD hợp tác giám sát quản lý, cấp phép đối với hệ
thống QTDND; Vụ các ngân hàng giám sát việc cấp phép, chuẩn y tăng vốn,
chuẩn y các chức danh Ban điều hành, Hội đồng quản trị, ban kiểm soát…của
TCTD; Vụ Chính sách tiền tệ thực hiện giám sát các TCTD làm dịch vụ Thanh
toán trong việc thực hiện các chế độ về Thanh toán, quản lý giám sát việc phát
hành và sử dụng các công cụ Thanh toán không dùng tiền mặt.
1.1.4. Tình hình nhân sự của Thanh tra ngân hàng
Hiện nay, toàn hệ thống ngân hàng có khoảng 1200 cán bộ làm công tác
Thanh tra, trong đó:
Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng ở Trung Ương là 320 cán
bộ. (Có 8 vụ, cục trong đó có 2 Vụ Thanh tra tại chỗ với gần 100 cán bộ)
Thanh tra chi nhánh: 880 cán bộ
Nguồn: Ngân hàng nhà nước
16
Thực tế hiện nay cán bộ Thanh tra còn hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ
trước yêu cầu hiện nay. Đó là do phương pháp Thanh tra trên cơ sở rủi ro đòi hỏi
mỗi cán bộ Thanh tra thực sự là một giám đốc quản trị rủi ro đối với các TCTD;
có khả năng đánh giá các loại rủi ro, đánh giá hệ thống quản lý rủi ro, hệ thống
kiểm toán, kiểm soát nội bộ, đánh giá các chính sách, chiến lược Vì vậy, cán bộ
Thanh tra trước hết cần phải hiểu sâu sắc bản chất, nội dung, đặc biệt là những rủi
ro tiềm ẩn trong từng sản phẩm dịch vụ ngân hàng và các nghiệp vụ ngân hàng thì
mới có khả năng thực hiện phương pháp Thanh tra trên cơ sở rủi ro trong hoạt
động Thanh tra, giám sát đối với các TCTD.
1.2. Nội dung của hoạt động Thanh tra, giám sát đối với các tổ chức tín
dụng
Theo qui định của Nghị định số 91/1999/NĐ-CP ngày 04/9/1999 về tổ chức
và hoạt động của Thanh tra ngân hàng qui định: Thanh tra ngân hàng thực hiện

việc giám sát thường xuyên và tiến hành các cuộc Thanh tra trực tiếp về tổ chức
và hoạt động của tổ chức tín dụng, về hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác,
về hoạt động ngoại hối và kinh doanh vàng thuộc chức năng quản lý Nhà nước
của Ngân hàng nhà nước, nhằm phát hiện và ngăn chặn các vi phạm; kiến nghị
biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
1.2.1. Nội dung của hoạt động Thanh tra, giám sát
Nội dung Thanh tra, giám sát bao gồm những nội dung về mặt định lượng và
nội dung về mặt định tính:
1.2.1.1. Nội dung về mặt định tính
a. Đánh giá năng lực quản trị, điều hành, dựa trên các tiêu chí:
- Sự phân định trách nhiệm, quyền hạn trong Ban lãnh đạo ngân hàng rõ
ràng, đảm bảo bao quát được toàn bộ hoạt động của TCTD.
17
- Hệ thống và cơ chế điều hành thông tin cho phép Ban lãnh đạo ngân hang
cập nhật chính xác, kịp thời toàn bộ hoạt động của tổ chức.
- Sự chủ động của Ban lãnh đạo trong việc thiết lập các giới hạn rủi ro, (đặc
biệt là các rủi ro trọng yếu) phù hợp với quy định của pháp luật; phù hợp với
chiến lược kinh doanh và khả năng chống chịu rủi ro trong từng thời kỳ của ngân
hàng.
- Năng lực của Ban lãnh đạo trong việc xây dựng, hoạch định mục tiêu,
chiến lược kinh doanh; nắm bắt, điều chỉnh và xử lý kịp thời các yếu kém của tổ
chức do kiểm soát nội bộ, kiểm toán độc lập và cơ quan giám sát đưa ra.
- Trách nhiệm của lãnh đạo các cấp trong việc ban hành hệ thống các chính
sách, thủ tục, quy trình, nghiệp vụ và việc định kỳ xem xét lại hệ thống này phù
hợp với pháp luật hiện hành và điều kiện cụ thể của ngân hàng; đồng thời xây
dựng cơ chế đảm bảo đội ngũ nhân viên được phổ biến kịp thời và ý thức đầy đủ
về các quy trình, thủ tục nội bộ có liên quan.
- Thái độ, ý thức chấp hành pháp luật của ban lãnh đạo TCTD.
b. Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của TCTD, dựa trên 5 yếu tố:
- Môi trường kiểm soát : phản ánh thái độ sự quan tâm cũng như tác động

của Ban lãnh đạo, nhân viên đối với những vẫn đề liên quan tới hoạt động kiểm
soát nội bộ.
- Quy trình đánh giá rủi ro : quy trình nhận dạng, đo lường, kiểm soát toàn
bộ rủi ro mà tổ chức của hộ phải đương đầu, phù hợp với khả năng chống chịu và
chiến lược kinh doanh của ngân hàng
- Các hoạt động kiểm soát: bao gồm các chính sách và thủ tục nhằm loại bỏ,
giảm thiểu rủi ro đã được xác định (chính sách, thủ tục phân tán rủi ro, phòng
ngừa rủi ro; chính sách, thủ tục trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro )
- Thông tin liên lạc: quy trình nắm bắt và trao đổi thông tin để quản lý và
kiểm soát các hoạt động.
18
- Giám sát: đánh giá chất lượng hiệu quả của hoạt động kiểm soát nội bộ
theo thời gian, để đảm bảo các hoạt động này được tiến hành như dự kiến và có
những thay đổi khi cần thiết .
c. Đánh giá sự phù hợp của hệ thống kế toán:
Các nguyên tắc và phương pháp hạch toán kế toán của ngân hàng đảm bảo
đúng pháp luật và phản ảnh chính xác toàn bộ các nghiệp vụ, giao dịch kinh tế
phát sinh
d. Chất lượng nguồn nhân lực:
Đánh giá sự phù hợp của nguồn nhân lực về quy mô, chất lượng trong việc
đáp ứng phạm vi, quy mô, nội dung hoạt động của ngân hàng .
1.2.1.2. Nội dung về mặt định lượng
a. Việc tuân thủ các yêu cầu về vốn
Tại mỗi nước, cơ quan Thanh tra, giám sát có thể đưa ra những yêu cầu về
vốn cụ thể khác nhau, nhưng nhìn chung những yêu cầu này đều dựa trên yêu cầu
về vốn tối thiểu được đưa ra trong Hiệp ước Basel I và II.
Các yêu cầu về vốn bao gồm vốn tự có; cơ cấu vốn phù hợp với mức độ rủi
ro đã được lượng hoá của ngân hàng. Đối với từng ngân hàng, yêu cầu về vốn có
thể bằng hoặc cao hơn mức yêu cầu tối thiểu theo luật định. Các yêu cầu về vốn
nhằm đảm bảo ngân hàng có thể bù đắp được rủi ro ở mức độ hợp lý, bảo vệ sự

ổn định và bền vững tài chính của ngân hàng. Vì vậy, yêu cầu về vốn phải được
các ngân hàng tuân thủ thường xuyên, nghiêm ngặt.
b. Đo lường rủi ro
Đây là việc lượng hoá các rủi ro đã được nhận biết thông qua việc tính toán
các chỉ tiêu và sử dụng các mô hình toán.
c. Việc tuân thủ các hạn mức, giới hạn trong hoạt động
Đánh giá việc tuân thủ các hạn mức, giới hạn trong hoạt động như giới hạn
cho vay, bảo lãnh đối với một khách hàng, một nhóm khách hàng hoặc cho vay
19
liên kết; giới hạn hùn vốn mua cổ phần; mức vốn tự có so với tài sản có rủi ro;
khả năng chi trả; trạng thái ngoại hối
d. Tính bền vững của các khoản thu nhập
Đánh giá dựa trên việc xem xét một số tiêu thức như: mức thu nhập, bao
gồm cả xu hướng tăng trưởng và mức độ ổn định; khả năng đảm bảo tốc độ tăng
trưởng vốn từ nguồn lợi nhuận để lại; khả năng bù đắp tổn thất. Những đánh giá
này cũng bao gồm việc tính toán các chỉ tiêu: thu nhập trước thuế so với tài sản
có bình quân và so với vốn chủ sở hữu; thu nhập tài chính trên tài sản có bình
quân; chi phí huy động vốn so với tài sản có bình quân; chi phí hoạt động so với
tài sản có bình quân
Trên cơ sở kết quả Thanh tra, giám sát theo các nội dung định tính và định
lượng như trên, cơ quan Thanh tra, giám sát tiến hành xếp loại hàng năm từng
ngân hàng dựa trên việc đánh giá 6 yếu tố: tính đầy đủ của vốn - C, chất lượng
tài sản có -A, quản lý - M, thu nhập -E, Thanh khoản -L, độ nhảy cảm với rủi ro
thị trường- S, việc xếp loại này thường được biết dưới cái tên “ Phương pháp xếp
loại CAMELS “. Việc xếp hạng cho từng yếu tố mặc dù được tiến hành độc lập,
nhưng vẫn được xem xét trong mối liên quan với các yếu tố khác. Điều này có
nghĩa là nếu một yếu tố được xếp hạng quá cao hoặc quá thấp có thể dẫn đến việc
điều chỉnh mức xếp hạng của các yếu tố khác. Việc tổng hợp xếp hạng sẽ là kết
quả tổng hợp của việc xếp hạng 6 yếu tố. Một ngân hàng có thể được xếp vào 1
trong 5 loại, tương ứng với các mức độ yêu cầu giám sát khác nhau: giám sát bình

thường; giám sát ở mức độ cao hơn; giám sát rất chặt chẽ; giám sát chặt chẽ, đồng
thời có các hành động khắc phục yếu kém tức thì.
Việc công bố công khai kết quả xếp loại theo phương pháp CAMELS tuỳ
thuộc quy định của mỗi nước. Tại một số nước, việc công bố công khai kết quả
xếp loại có thể xem là 1 biện pháp mạnh để bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, nhà
đầu tư; đồng thời buộc ngân hàng phải luôn nỗ lực tự điều chỉnh nếu muốn khẳng
định vị thế của mình.
20
1.2.1.3. Kết hợp giữa Thanh tra tại chỗ với giám sát từ xa
Dù đó là giám sát từ xa hay Thanh tra tại chỗ, mục đích chung đều giống
nhau, đó là giám sát các TCTD và phòng ngừa các rủi ro thông qua việc phát hiện
kịp thời các rủi ro không được quản lý tốt. Sự kết hợp giữa chúng chính là để bổ
trợ cho nhau giúp hoạt động Thanh tra của Thanh tra ngân hàng đối với các
TCTD đạt kết quả tốt hơn. Khi Thanh tra ngân hàng thực hiện phương pháp
Thanh tra trên cơ sở rủi ro, sự kết hợp giữa giám sát từ xa và Thanh tra thể hiện
rõ nét trong việc lập báo cáo giám sát CAMELS (giám sát từ xa đảm nhiệm các
nội dung định lượng; Thanh tra tại chỗ đảm nhiệm nội dung đánh giá định tính).
Tại nguyên tắc số 16 của Uỷ ban Basel về Thanh tra, giám sát ngân hàng hiệu quả
cũng nêu rõ: Hệ thống Thanh tra, giám sát ngân hàng hiệu quả phải kết hợp giữa
Thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa.
1.2.2. Quy trình Thanh tra, giám sát tuân thủ đối với các TCTD
Quy trình thực hiện phương pháp Thanh tra, giám sát tuân thủ gồm những
bước cơ bản sau:
Bước 1: Xác định những quy định bắt buộc TCTD phải thực hiện.
Ở bước này cần xác định chính xác các quy định mà TCTD phải thực hiện,
trong đó lưu ý: (i) TCTD được làm, không được làm gì, (ii) Thời hiệu thi hành
của từng quy định. Đây là xuất phát điểm quan trọng mà giám sát từ xa, Thanh tra
tại chỗ phải tuân thủ.
Bước 2: Thực hiện đánh giá mức độ tuân thủ các quy định đó của TCTD.
Hành vi của TCTD trong thực hiện quy định của pháp luật phải được đánh

giá cụ thể là đúng theo quy định hay không đúng theo quy định. Nếu không đúng
(vi phạm) quy định của pháp luật thì ở mức độ nào, xác định nguyên nhân và đó
là hành vi phạm lỗi hay hành vi có dấu hiệu phạm tội của cá nhân, tập thể TCTD
để có hướng xử lý phù hợp.
21
Bước 3: Đưa ra biện pháp xử lý đối với các vi phạm của TCTD (nếu có).
Căn cứ vào kết quả của bước 2 nêu trên, Thanh tra ngân hàng sẽ có biện pháp xử
lý theo quy định của pháp luật. Tùy theo mức độ của hành vi phạm lỗi, cá nhân,
TCTD có thể bị yêu cầu xử lý nội bộ hoặc xử lý vi phạm hành chính. Biện pháp
xử lý hành chính bao gồm; cảnh cáo, phạt tiền, hạn chế hoạt động nghiệp vụ, thu
hồi giấy phép Tuỳ thuộc quy định pháp luật của từng nước mà Thanh tra ngân
hàng có thẩm quyền xử lý hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý
hành chính. Nếu hành vi của cá nhân, TCTD được xác định là có dấu hiệu phạm
tội thì chuyển cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật về tố
tụng hình sự.
Bước 4: Đồng thời với việc đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật của TCTD,
Thanh tra ngân hàng phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách,
pháp luật để kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền các biện pháp khắc phục như
sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các quy định cho phù hợp, để góp phần nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Các bước của quy trình nêu trên được lặp đi, lặp lại trong suốt quá trình thực
hiện giám sát từ xa, Thanh tra tại chỗ của Thanh tra ngân hàng đối với các TCTD.
1.3. Khung pháp lý của hoạt động Thanh tra trên cơ sở rủi ro.
Xuất phát từ tầm quan trọng của hoạt Thanh tra, giám sát đối với việc bảo
đảm an toàn của hệ thống ngân hàng Việt Nam nên chính phủ và NHNN đã ban
hành nhiều cơ chế chính sách điều chỉnh hoạt động này. Đó là hệ thống các văn
bản pháp luật gồm Luật, Nghị định, Thông tư, Chỉ thị, Quyết định, Quy chế
Sự ra đời của 2 Pháp lệnh về Ngân hàng (năm 1990) đánh dấu bước ngoặt
trong tiến trình đổi mới hoạt động ngân hàng, tách bạch rõ ràng giữa chức năng

quản lý nhà nước của NHNN và chức năng kinh doanh của các tổ chức tín dụng
22

×