Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

nâng cao vai trò quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 95 trang )

ĐỀ TÀI:
NÂNG CAO VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY
Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
- Thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn trung và dài hạn
hiệu quả cho nền kinh tế nhằm tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh góp
phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển.
- Trong quá trình phát triển, thị trường chứng khoán chịu nhiều tác động
từ các nhân tố của nền kinh tế, do đó thị trường chứng khoán phản ánh một
cách nhạy bén những biến đổi “sức khỏe” của nền kinh tế, từ đó cho thấy
những chính sách quản lý vĩ mô trên thị trường có tầm ảnh hưởng rất lớn tới
sự bình ổn và phát triển của thị trường.
- Quản lý Nhà nước giúp thị trường chứng khoán phát triển ổn định tạo
uy tín cho thị trường, thúc đẩy thị trường đi đúng xu hướng và xu thế hội nhập
quốc tế, từng bước thực sự trở thành một kênh phân phối và huy động vốn
hiệu quả cho nền kinh tế nước nhà.
- Thị trường chứng khoán Việt Nam sau 10 năm hình thành và phát triển
đã đóng góp rất nhiều trong công cuộc cổ phần hóa các DNNN và huy động
vốn cho nền kinh tế, tuy nhiên trong quá trình phát triển thị trường chứng
khoán Việt Nam vẫn cồn bộc lộ rất nhiều hạn chế và là thị trường non trẻ so
với khu vực và thế giới. Đứng trước ngưỡng cửa hội nhập , thị trường chứng
khoán Việt Nam cần không ngừng được củng cố và hoàn thiện về quy mô, cơ
cấu và cơ chế vận hành, Do đó, để giải quyết từng bước các vấn đề trên việc
nâng cao quản lý Nhà nước đối với thị trường chứng khoán là công việc thiết
yếu.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về chứng khoán, TTCK và quản lý
Nhà nước đối với TTCK.
- Phân tích sự phát triển của thị trường chứng khoán trong những năm


gần đây từ đó chỉ ra những ảnh hưởng của thị trường chứng khoán đối với nền
kinh tế.
2
- Đánh giá thực trạng hoạt động quản lý Nhà nước đối với TTCK Việt
Nam trong thời gian qua, từ đó đưa ra những kết quả đạt được và những mặt
còn hạn chế.
- Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý thị trường chứng khoán của một số
nước trên thế giới và đưa ra một số giải pháp để nâng cao vai trò quản lý Nhà
nước đối với TTCK Việt Nam.
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của Nhà nước trong quản lý các hoạt
động của TTCK Việt Nam giai đoạn hiện nay. Vai trò này được biểu hiện cụ
thể qua các hoạt động quản lý Nhà nước trước sự phát triển không ngừng của
thị trường chứng khoán những năm gần đây.
- Phạm vi nghiên cứu: Quản lý Nhà nước đối với thị trường chứng khoán
trong giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, các phương pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình nghiên
cứu:
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích số liệu
- Phương pháp tổng hợp nắm bắt thông tin từ các phương tiện thông tin
đại chúng
5. Những đóng góp chính của luận văn:
- Hệ thống hóa được những vấn đề lý luận cơ bản về chứng khoán,
TTCK và quản lý Nhà nước đối với TTCK.
- Trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được và những mặt còn hạn chế
của thực trạng quản lý Nhà nước đối với TTCK hiện nay, từ đó đề xuất một
số giải pháp nâng cao vai trò quản lý Nhà nước trên các mặt còn hạn chế.

- Tìm hiểu cách quản lý Nhà nước đối với TTCK của một số nước trên
thế giới từ đó rút kinh nghiệm đưa ra một số bài học đối với Việt Nam.
3
6. Kết cấu luận văn:
Tên đề tài: “Nâng cao vai trò quản lý Nhà nước đối với thị trường chứng
khoán Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn được
trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về thị trường chứng khoán và quản
lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán
Chương 2: Thực trạng Quản lý nhà nước đối với thị trường chứng
khoán việt nam, sự cần thiết phải nâng cao vai trò quản lý Nhà nước đối
với TTCK
Chương 3: Giải pháp nâng cao vai trò quản lý Nhà nước đối với thị
trường chứng khoán Việt Nam
4
Chương i:
Những vấn đề chung về thị trường chứng khoán và quản lý nhà
nước đối với thị trường chứng khoán
1.1. Những vấn đề cơ bản của thị trường chứng khoán
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của TTCK
Những dấu hiệu của một thị trường chứng khoán sơ khai đã xuất hiện
ngay từ thời Trung cổ xa xưa. Vào thế kỷ XV, ở các thành phố lớn của các
nước phương Tây, trong các phiên chợ, các thương gia thường gặp gỡ tiếp
xúc với nhau tại các quán cafe để thương lượng mua bán, trao đổi hàng hóa.
Đặc điểm của hoạt động này là các thương gia chỉ trao đổi bằng lời nói với
nhau về các hợp đồng mua bán mà không có sự xuất hiện của bất cứ hàng
hóa, giấy tờ nào. Đến cuối thế kỷ XV, “khu chợ riêng” đã trở thành thị trường
hoạt động thường xuyên với những quy ước xác định cho các cuộc thương
lượng. Những quy ước này dần dần trở thành các quy tắc có tính chất bắt

buộc đối với các thành viên tham gia. Năm 1453, ở thành phố Bruges (Bỉ),
buổi họp đầu tiên đã diễn ra tại một lữ quán của gia đình Vanber. Trước lữ
quán có một bảng hiệu vẽ hình 3 tói da – tượng trưng cho 3 loại giao dịch:
giao dịch hàng hóa, giao dịch ngoại tệ, giao dịch chứng khoán động sản. Vào
năm 1457, thành phố ở Bruges (Bỉ) mất đi sự phồn thịnh do eo biển Even bị
lấp cát nên mậu dịch thị trường ở đây bị sụp đổ và được chuyển qua thị trấn
Auvers (Bỉ). Ở đây thị trường phát triển rất nhanh chóng. Các thị trường nh
vậy cũng được thành lập ở Anh, Pháp, Đức, Mỹ. Sau một thời gian hoạt động,
thị trường không chứng tỏ khả năng đáp ứng được yêu cầu của 3 loại giao
dịch khác nhau nên đã phân ra thành nhiều thị trường khác nhau: thị trường
hàng hóa, thị trường hối đoái, thị trường chứng khoán, với đặc tính riêng
của từng thị trường thuận lợi cho giao dịch của người tham gia trong đó.
5
Nh vậy, thị trường chứng khoán được hình thành cùng với thị trường
hàng hóa và thị trường hối đoái.
Quá trình phát triển thị trường chứng khoán đã trải qua nhiều bước thăng
trầm. Thời kỳ huy hoàng nhất là vào những năm 1875-1913, thị trường chứng
khoán phát triển mạnh cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Nhưng đến
ngày 29/10/1929, ngày được gọi là “ngày thứ năm đen tối”, đây là ngày mở
đầu cuộc khủng hoảng thị trường chứng khoán New York, và sau đó lan rộng
ra các thị trường chứng khoán Tây Âu, Bắc Âu, Nhật Bản. Sau thế chiến thứ
hai, các thị trường chứng khoán phục hồi, phát triển mạnh. Nhưng rồi “cuộc
khủng hoảng tài chính” năm 1987, một lần nữa đã làm cho các thị trường
chứng khoán thế giới suy sụp, kiệt quệ. Lần này, hậu quả của nó rất lớn và
nặng nề hơn cuộc khủng hoảng năm 1929, nhưng chỉ 2 năm sau, thị trường
chứng khoán thế giới lại đi vào ổn định, phát triển và trở thành một định chế
tài chính không thể thiếu được trong đời sống kinh tế của những quốc gia có
nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường.
1.1.2. Cấu trúc của thị trường chứng khoán
Cấu trúc của thị trường chứng khoán thông thường được xem xét trên 3

cách thức cơ bản: theo hàng hoá giao dịch trên thị trường, theo hình thức tổ
chức thị trường và theo quá trình luân chuyển vốn.
1.1.2.1. Theo hàng hoá giao dịch trên thị trường
Theo tiêu thức này ta phân chia thị trường chứng khoán thành thị trường
trái phiếu, thị trường cổ phiếu và thị trường của các công cụ chứng khoán
phái sinh.
Thị trường trái phiếu: thị trường diễn ra mua bán các công cụ tài chính là
trái phiếu.
Thị trường cổ phiếu: thị trường diễn ra mua bán các công cụ tài chính là
cổ phiếu.
Thị trường của các công cụ chứng khoán phái sinh: thị trường diễn ra
mua bán các công cụ tài chính là chứng khoán phái sinh.
6
1.1.2.2. Theo hình thức luân chuyển vốn
Theo hình thức này, thị trường chứng khoán được phân thành thị trường
sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp (thị trường cấp I) là thị trường mua bán các chứng
khoán mới phát hành. Mua bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp sẽ làm
tăng vốn cho nhà phát hành.
Thị trường thứ cấp (thị trường cấp II) là thị trường giao dịch mua bán,
trao đổi những chứng khoán đã được phát hành. Mua bán chứng khoán trên
thị trường làm tăng tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành trên
thị trường cấp I.
Mối quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp về bản chất đây
là mối quan hệ mật thiết, hỗ trợ lẫn nhau:
- Thị trường sơ cấp là cơ sở, tiền đề cho thị trường thứ cấp hoạt động và
phát triển vì đây là nơi cung cấp hàng hóa cho TTCK. Nếu không có thị
trường sơ cấp sẽ không có hàng hóa trên thị trường thứ cấp, không có nhiều
loại chứng khoán để thu hút các nhà kinh doanh bỏ vốn đầu tư. Ngược lại nếu
không có thị trường thứ cấp thì thị trường sơ cấp cũng không thể tồn tại và

phát triển được vì khi đó các chứng khoán đã phát hành sẽ không được tiếp
tục lưu chuyển.
- Thị trường thứ cấp tạo điều kiện dễ dàng để chuyển chứng khoán sang
tiền mặt hay làm tăng tính lỏng cho chứng khoán. Với ý nghĩa này các nhà
đầu tư có thể dễ dàng sàng lọc, lựa chọn danh mục đầu tư từ đó vừa giảm rủi
ro đầu tư vừa giảm chi phí cho nhà phát hành trong việc huy động và sử dụng
vốn. Tăng tính lỏng cho chứng khoán còn làm cho việc chuyển đổi thời hạn
của đồng vốn trở lên nhanh hơn và phân phối hiệu quả hơn.
1.1.2.3. Theo hình thức tổ chức của thị trường
Theo cách phân loại này, thị trường chứng khoán được tổ chức thành các
Sở giao dịch, thị trường chứng khoán phi tập trung và thị trường tự do:
7
Sở giao dịch chứng khoán: là thị trường giao dịch chứng khoán được
thực hiện tại một địa điểm tập trung. Các chứng khoán được niêm yết giao
dịch tại SGDCK thông thường là chứng khoán của các công ty lớn, có danh
tiếng và đáp ứng được yêu cầu, tiêu chuẩn niêm yết do SGDCK đặt ra.
Thị trường chứng khoán phi tập trung: là thị trường không có trung tâm
giao dịch tập trung, đó là một mạng lưới của các nhà môi giới, tự doanh cùng
những nhà đầu tư giao dịch mua bán với nhau và thường diễn ra tại quầy (sàn
giao dịch) của các ngân hàng và công ty chứng khoán. Thị trường chứng
khoán phi tập trung chịu sự quản lý của Sở giao dịch và Hiệp hội các nhà kinh
doanh chứng khoán.
Thị trường tự do: là thị trường giao dịch tất cả các loại cổ phiếu được
phát hành thông qua việc thương lượng, thỏa thuận trực tiếp giữa bên mua và
bên bán tại bất cứ nơi đâu, vào bất cứ lúc nào.
1.1.3. Vai trò tác dụng của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính tất yếu của nền kinh tế
thị trường phát triển. Thực tế nền kinh tế ở những quốc gia phát triển trên thế
giới đã khẳng định vai trò quan trọng của thị trường chứng khoán:
Thứ nhất, thị trường chứng khoán góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh

chóng của nền kinh tế. Chức năng cơ bản của TTCK là công cụ huy động vốn
đầu tư cho nền kinh tế và tăng tiết kiệm quốc gia thông qua việc phát hành và
luân chuyển chứng khoán có giá. Việc mua đi bán lại chứng khoán trên TTCK
đã tạo điều kiện di chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn, chuyển hướng
đầu tư từ ngành kém hiệu quả sang ngành khác có hiệu quả hơn từ đó góp
phần điều hòa vốn giữa các ngành kinh tế.
Thứ hai, thị trường chứng khoán góp phần thực hiện tái phân phối công
bằng hơn, thông qua việc buộc các công ty phát hành ra công chúng theo một
tỷ lệ nhất định. Điều này làm giải tỏa sự tập trung quyền lực kinh tế vào một
nhóm nhỏ, tạo sự cạnh tranh công bằng hơn từ đó nâng cao tính hiệu quả
8
trong đầu tư sản xuất. Bên cạnh đó còn làm tăng tầng lớp trung lưu trong xã
hội, tăng cường sự giám sát xã hội đối với hoạt động của công ty.
Thứ ba, thị trường chứng khoán tạo điều kiện thu hút và kiểm soát vốn
đầu tư nước ngoài. Với nguyên tắc công khai, thị trường chứng khoán là nơi
các nhà đầu tư có thể theo dõi và nhận định một cách dễ dàng hoạt động của
ngành, các doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra, thị trường chứng khoán còn
thu hút vốn thông qua mua bán chứng khoán, từ đó tạo môi trường đầu tư
thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho Chính phủ huy động
các nguồn tài chính mà không tạo áp lực về lạm phát từ đó giúp Chính phủ
thực hiện các chính sách tiền tệ. Thông qua thị trường chứng khoán Chính
phủ có thể vừa huy động được lượng vốn lớn với thời hạn dài để bù đắp thâm
hụt Ngân sách vừa có thể quản lý được lạm phát. Sở dĩ làm được vậy là vì thị
trường chứng khoán không những tạo tính thanh khoản mà còn tạo ra tính linh
hoạt trong việc chuyển hướng đầu tư từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác. Vì
vậy, thị trường chứng khoán được xem là công cụ đắc lực trong việc huy
động các nguồn vốn dài hạn.
Thứ năm, thị trường chứng khoán là công cụ đánh giá hoạt động kinh
doanh và là phong vũ biểu của nền kinh tế. Thị giá chứng khoán được thể

hiện thường xuyên trên thị trường phản ánh giá trị phần tài sản Có của doanh
nghiệp trên cơ sở đánh giá thực trạng của doanh nghiệp, mức độ đầu tư, trạng
thái kinh tế. Diễn biến chỉ số chứng khoán phản ánh thông tin đa dạng và
nhiều chiều cho nhà đầu tư trước diễn biến của các rủi ro. Vì vậy các nhà
hoạch định chính sách và quản lý thường thông qua thị trường chứng khoán
để phân tích, dự đoán, đề ra các chính sách điều tiết kinh tế và phương pháp
quản lý kinh tế thích hợp qua đó tác động tới các hoạt động của nền kinh tế
quốc dân.
Ngoài những tác động tích cực trên, thị trường chứng khoán cũng có
những tác động tiêu cực sau:
9
- Thị trường chứng khoán luôn chứa đựng yếu tố đầu cơ. Đầu cơ là yếu
tố có tính toán của những người đầu tư. Khi có nhiều người cùng cấu kết với
nhau để đồng thời mua hoặc bán ra một loại chứng khoán nào đó, dẫn tới sự
khan hiếm hay dư thừa chứng khoán một cách giả tạo, làm cho giá chứng
khoán tăng lên hay giảm xuống một cách đột biến gây tác động xấu tới thị
trường.
- Hoạt động giao dịch nội gián thường xảy ra trên TTCK. Việc nắm bắt
và sử dụng thông tin nội bộ của doanh nghiệp chưa công bố để giao dịch
chứng khoán nhằm thu lợi bất chính cho cá nhân mình gọi là giao dịch nội
gián. Các giao dịch nội gián được xem là phi đạo đức về mặt thương mại vì
người có tin sẽ có lợi thế hơn trong đầu tư. Điều này làm nản lòng các nhà
đầu tư, làm ảnh hưởng tiêu cực tới tích lũy và đầu tư.
- Thị trường chứng khoán hoạt động trên cơ sở thông tin hoàn hảo. Song
khi có tin đồn không chính xác hoặc thông tin lệch lạc về hoạt động doanh
nghiệp sẽ gây tác động đến tâm lý các nhà đầu tư, dẫn tới thay đổi xu hướng
đầu tư làm thị giá chứng khoán biến động, gây thiệt hại cho đại đa số người
đầu tư.
Nh vậy, vai trò của thị trường chứng khoán thể hiện trên nhiều khía cạnh
khác nhau. Song vai trò tích cực hay tiêu cực của thị trường chứng khoán thực

sự phát huy hay bị hạn chế phụ thuộc đáng kể vào các chủ thể tham gia thị
trường.
1.1.4. Các chủ thể tham gia trên thị trường
Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể được
chia thành 3 nhóm sau: chủ thể phát hành, chủ thể đầu tư và các tổ chức có
liên quan đến chứng khoán.
1.1.4.1. Chủ thể phát hành
Chủ thể phát hành là tổ chức phát hành chứng khoán trên thị trường
chứng khoán. Các tổ chức phát hành có thể là: Chính phủ, các doanh nghiệp
hoặc là một số tổ chức khác nh: Quỹ đầu tư, tổ chức tài chính trung gian
10
Chính phủ và chính quyền địa phương là chủ thể chủ yếu phát hành các
chứng khoán nợ nh: Trái phiếu Chính phủ; Trái phiếu địa phương; trái phiếu
công trình; tín phiếu kho bạc.
Công ty là chủ thể phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
Các tổ chức tài chính là chủ thể phát hành các công cụ tài chính nh các
trái phiếu, chứng chỉ quỹ phục vụ cho mục tiêu huy động vốn và phù hợp
với đặc thù hoạt động của họ theo luật định.
1.1.4.2. Nhà đầu tư
Trên thị trường chứng khoán, nhà đầu tư có thể được chia thành hai loại:
nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
- Các nhà đầu tư cá nhân
Nhà đầu tư cá nhân là các cá nhân và hộ gia đình, những người có vốn
nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán với mục
đích tìm kiếm lợi nhuận.
- Các nhà đầu tư có tổ chức
Nhà đầu tư có tổ chức là các định chế đầu tư, thường xuyên mua bán
chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Thông thường, nhà đầu tư tổ
chức là các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, công ty đầu tư, các
công ty bảo hiểm, quỹ tương hỗ, các quỹ lương hưu và các quỹ bảo hiểm xã

hội khác.
1.1.4.3. Các tổ chức liên quan đến thị trường chứng khoán
- Cơ quan quản lý và giám sát hoạt động TTCK
Cơ quan quản lý Nhà nước về TTCK do chính phủ của các nước thành
lập với mục đích bảo vệ lợi Ých của người đầu tư và đảm bảo cho thị trường
chứng khoán hoạt động lành mạnh, an toàn và phát triển bền vững.
Cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán có thể có những
tên gọi khác nhau, tuỳ thuộc từng nước và nó được thành lập để thực hiện
chức năng quản lý Nhà nước đối với thị trường chứng khoán.
- Sở giao dịch chứng khoán
11
Sở giao dịch chứng khoán thực hiện vận hành thị trường chứng khoán
thông qua bộ máy tổ chức và hệ thống các quy định, văn bản pháp luật về
giao dịch chứng khoán trên cơ sở phù hợp với các quy định của luật pháp và
Uỷ ban chứng khoán.
- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức tự quản của các
công ty chứng khoán và một số thành viên khác hoạt động trong ngành chứng
khoán, được thành lập với mục đích bảo vệ lợi Ých cho các thành viên và các
nhà đầu tư trên thị trường.
- Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
Là tổ chức nhận lưu giữ, ký gửi các chứng khoán và tiến hành các nghiệp
vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán. Các ngân hàng thương
mại, công ty chứng khoán đáp ứng đủ điều kiện của Uỷ ban chứng khoán sẽ
thực hiện dịch vụ lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán.
- Các tổ chức hỗ trợ
Là các tổ chức được thành lập để hỗ trợ, mở rộng và tăng cường cho thị
trường chứng khoán thông qua các hoạt động nh: cho vay tiền để mua cổ
phiếu và cho vay chứng khoán để bán trong các giao dịch bảo chứng. Các tổ
chức hỗ trợ chứng khoán ở các nước khác nhau có đặc điểm khác nhau, có

một số nước không cho phép thành lập các tổ chức này.
- Các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm
Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm là công ty chuyên cung cấp dịch vụ
đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo
những điều khoản đã cam kết của công ty phát hành đối với một đợt phát
hành cụ thể. Hệ số tín nhiệm có thể biểu hiện bằng các chữ cái hay chữ số, tuỳ
theo quy định của từng công ty xếp hạng
12
1.2. Quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán
1.2.1 Khái niệm
Quản lý Nhà nước là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà
nước lên đối tượng quản lý nhằm dẫn dắt đối tượng đi đến mục tiêu với kết
quả và hiệu quả cao nhất trong điều kiện môi trường luôn biến động.
Nh vậy: “Quản lý Nhà nước đối với TTCK của một quốc gia là sự quản
lý vĩ mô của Nhà nước đối với các hoạt động xây dựng, vận hành và phát
triển của TTCK”.
Quá trình hình thành và mức độ phát triển phức tạp, đa dạng của TTCK
và điều kiện cụ thể của mỗi nước dẫn đến sự đa dạng trong cơ chế và mức độ
quản lý thị trường. Trong khi hầu hết các TTCK ở các nước phát triển được
hình thành từ khu vực tư nhân nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, do
các cá nhân đứng ra tổ chức, vận hành và tự quản thì ngược lại, ở các nước
đang phát triển TTCK thường do Chính phủ đứng ra thành lập với những mục
đích cụ thể như hỗ trợ huy động vốn, tư nhân hoá hay thực hiện các mục tiêu
kinh tế khác của Nhà nước. Do vậy, Chính phủ đóng vai trò chính trong việc
tổ chức và quản lý thị trường.
1.2.2 Mục tiêu quản lý Nhà nước đối với thị trường chứng khoán
1.2.2.1. Đảm bảo sự trung thực của thị trường
Tính trung thực của thị trường sẽ tạo tâm lý bình ổn cho các đối tượng
tham gia, từ đó ổn định được thị trường. Muốn vậy cần phải hạn chế và kiểm
soát được gian lận, phải ngăn chặn các hành vi lừa đảo, lũng đoạn thị trường,

thông tin sai sự thật, thông qua việc ban hành các quy định pháp lý mang
tính bắt buộc đối với mọi chủ thể tham gia thị trường.
1.2.2.2. Đảm bảo sự công bằng
Sự công bằng là một phương tiện để bảo vệ sự cạnh tranh và đảm bảo
tính trung thực, lành mạnh của thị trường. Muốn hoạt động quản lý có hiệu
quả cần phải có biện pháp đảm bảo tính công bằng của TTCK. Muốn vậy, cần
phải hạn chế độc quyền bằng việc ngăn chặn sự thống trị thị trường của các
13
thành viên lớn, phải tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nhỏ và kém tinh thông
nghiệp vụ đầu tư vào các loại tài sản chính hợp lý với họ và bảo vệ họ khỏi
các vi phạm của các thành viên khác có thế lực trên thị trường.
1.2.2.3. Đảm bảo hiệu quả
Hiệu quả hoạt động của TTCK được đánh giá thông qua khả năng huy
động vốn và phân bổ các nguồn lực tài chính. Trong nền kinh tế thị trường,
nhu cầu vốn của các chủ thể là rất lớn, đa dạng và liên tục thay đổi. Đáp ứng
được nhu cầu này thông qua việc huy động và chuyển hoá có hiệu quả các
nguồn tiết kiệm trong nền kinh tế là đảm bảo hiệu quả hoạt động của TTCK.
Muốn đảm bảo tính hiệu quả của thị trường, trước hết chúng ta phải tôn trọng
các quy luật vốn có của nó, sau đó mới sử dụng các công cụ quản lý để tác
động vào các quy luật tạo nên sự vận hành trơn tru cho thị trường. Hiệu quả
hoạt động nói cụ thể hơn chính là sù an toàn, ổn định và sự phát triển của thị
trường.
Không phải lúc nào các mục tiêu quản lý TTCK cũng dễ dàng thống nhất
với nhau. Khi chú trọng thực hiện mục tiêu công bằng và trung thực thì tính
hiệu quả sẽ bị vi phạm. Ngược lại, nếu chú trọng vào tính hiệu quả bằng cách
tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng cho các chủ thể tham gia thị trường thì tính
trung thực rất có thể bị bỏ qua. Việc chọn lựa và ưu tiên cho mục tiêu nào là
tuỳ thuộc vào chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia ở từng thời điểm cụ thể.
1.2.3. Chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước đối với TTCK
Quản lý là một hình thức đặc biệt của hoạt động điều hành, là sản phẩm

của tiến trình phân công lao động và chuyên môn hoá việc quản lý. Ở hầu hết
các nước đang phát triển, các chủ thể quản lý thị trường chứng khoán có hai
chức năng chính: duy trì sự hoạt động ổn định của thị trường; tạo điều kiện để
phát triển thị trường, làm cho thị trường có thể cạnh tranh và thích ứng với
mọi thay đổi trong xã hội.
Với chức năng ổn định thị trường tức là phải tạo lập một thị trường có kỷ
luật, an toàn, trật tự, Ýt rủi ro thì các nhà quản lý phải xác định được nên cho
14
phép đối tượng nào tham gia thị trường, tiêu chuẩn tham gia gồm những yếu
tố gì, xác định phải quản lý cái gì và giám sát cái gì. Với chức năng phát triển
thì các nhà quản lý phải tạo động lực thúc đẩy thị trường. Các chức năng này
được sử dụng vào hoàn cảnh khác nhau, tuy nhiên trong hoạt động quản lý
Nhà nước thì các chức năng này thường được áp dụng một cách đồng bộ.
Hoạt động quản lý nhà nước đối với TTCK được cụ thể hoá ở một số
nhiệm vụ sau:
- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về TTCK; xây dựng chiến
lược, chính sách, kế hoạch hoạt động và phát triển TTCK với từng bước đi cụ
thế và thích hợp với điều kiện văn hoá, kinh tế, chính trị, xã hội, dân trí và các
điều kiện khác.
- Cấp, gia hạn, đìng chỉ, thu hồi các loại giấy phép liên quan đến việc
phát hành, niêm yết, kinh doanh và dịch cụ chứng khoán và thu lệ phí cấp
giấy phép theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức và quản lý TTGDCK có tổ chức và các tổ chức trung gian, tổ
chức phụ trợ hoạt động trên TTCK.
- Xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy của TTCK nh: cơ quan quản lý Nhà
nước, SGDCK, TTGDCK, TTLKCK, CtyCK, CtyQLQ…
- Xây dựng sự phối hợp giữa các tổ chức, các cá nhân là thành viên tham
gia TTCK để tạo được sự thống nhất trong mọi hoạt động của TTCK.
- Điều chỉnh, xử lý các hành vi sai phạm trên TTCK nh mua bán gian
lận, đầu cơ. Mặt khác, tạo các điều kiện thuận lợi, khuyến khích những hoạt

động tiêu cực trên thị trường.
- Thực hiện công tác kiểm tra định kỳ, bất thường nhằm phát hiện các
hành vi vi phạm pháp luật, thực hiện tổng kết thống kê nhằm tổng hợp hoạt
động của thị trường
15
1.2.4. Các nguyên tắc cơ bản trong quản lý TTCK
1.2.4.1. Nguyên tắc thống nhất quản lý về chính trị và kinh tế
Nguyên tắc này cũng được áp dụng trong QLNN đối với TTCK. Yếu tố
kinh tế của TTCK được thể hiện ở chỗ nó được coi nh là một thị trường của
các thị trường. Bên cạnh đó, TTCK không chỉ mang lại lợi Ých mang tính
kinh tế mà còn có cả các yếu tố chính trị trong đó. Chính vì thế, trong quản lý
TTCK, sự kết hợp giữa kinh tế và chính trị là một yêu cầu bắt buộc.
1.2.4.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Tập trung dân chủ là tập trung điều hành vào một cơ quan quyền lực cao
nhất. Đây là cơ quan vạch ra đường lối, điều lệ, quy chế, phương hướng, mục
tiêu tổng quát và đề ra các biện pháp cơ bản, chủ yếu để thực hiện. Tính dân
chủ trong quản lý thể hiện ở chỗ mọi người có thể tham gia bàn bạc, đóng
góp ý kiến để tìm ra các biện pháp khả thi nhất cho quá trình thực hiện.
Nếu sự tập trung quyền hạn bị lạm dụng trong quản lý TTCK thì sẽ làm
hỏng các chức năng lành mạnh của TTCK. Do đó, người làm công tác quản lý
cần có sự điều chỉnh mức độ dân chủ tuỳ theo sự phát triển của thị trường với
sự tập trung quyền lực quản lý nhất định.
1.2.4.3. Nguyên tắc kết hợp giữa các lợi Ých kinh tế
Trên thực tế luôn có lơi Ých khác nhau giữa chủ thể và khách thể quản
lý, có sự mâu thuẫn giữa lợi Ých cá nhân, lợi Ých tập thể và lợi Ých toàn xã
hội. Vai trò của công tác quản lý lúc này là phải tìm cách kết hợp, thoả mãn
các lợi Ých theo đúng nhu cầu, đảm bảo cho các lợi Ých không đối lập nhau,
hỗ trợ thúc đẩy nhau phát triển. Vấn đề này đòi hỏi công tác quản lý phải chú
trọng tới từng loại lợi Ých trong từng mặt hoạt động nh đầu tư, huy động vốn,
phân chia lợi nhuận, ban hành các quy định về thuế.

1.2.4.4. Nguyên tắc hiệu quả
Tiết kiệm là hạn chế chi phí đến mức tối thiểu mà vẫn đem lại hiệu quả
tối đa. Tiết kiệm là nhằm để giảm thiểu chi phí nhưng chỉ có ý nghĩa khi thực
hiện nó mang tính hiệu quả. Hiệu quả là kết quả cuối cùng của hoạt động
16
được đo bằng giá trị, vật phẩm, thời gian tác động, tiết kiệm và hiệu quả luôn
đi với nhau và nó là thước đo để đánh giá kết quả cuối cùng của quản lý.
TTCK là mô hình tiêu biểu nhất về tính hiệu quả vì bản thân TTCK đã
mang trong nó tính tiết kiệm chi phí và nhằm tới hiệu quả kinh tế cao nhất vì
đây là môi trường thuận lợi nhất cho các nguồn vốn từ các nhà đầu tư được
trực tiếp đưa đến nơi cần vốn. Quá trình đầu tư thông qua TTCK được thực
hiện với chi phí thấp nhưng mang lại hiệu quả cao. Vì vậy, đảm bảo nguyên
tắc này trong TTCK tức là đảm bảo cho TTCK được hoạt động tự nhiên và
phát huy những chức năng vốn có của nó. Nguyên tắc này được coi là tiêu chí
áp dụng cho bất kì chính sách nào bởi mỗi chính sách đem lại lợi Ých cũng
kèm theo đó là chi phí. Nếu chi phí lớn hơn lợi Ých đem lại thì việc áp dụng
các chính sách đó là không có tác dụng
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý Nhà nước đối với thị
trường chứng khoán
Hoạt động QLNN đối với TTCK chịu tác động của nhiều yếu tố khác
nhau, bao gồm:
Các nhân tố kinh tế: quá trình QLNN đối với TTCK chịu ảnh hưởng chi
phối của các yếu tố kinh tế như: quy mô kinh tế, trình độ phát triển nền kinh
tế,…Sự đa dạng về hình thức tồn tại và tính phức tạp trong hoạt động của các
thành phần kinh tế tham gia TTCK sẽ đặt ra yêu cầu đối với công tác QLNN
là phải có các chính sách, biện pháp phù hợp để dung hoà lợi Ých của các
thành phần này khi khai thác tối đa thế mạnh của họ.
Các nhân tố về chính trị và thể chế Nhà nước: thể chế chính trị và đường
lối lãnh đạo của Đảng cầm quyền của một nước chi phối đến mục tiêu,
phương hướng xây dựng và phát triển TTCK nước đó. Bên cạnh đó, sự ổn

định hay bất ổn về mặt chính trị sẽ có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến
quá trình phát triển của TTCK, từ đó có tác động đến nội dung và biện pháp
QLNN đối với TTCK
17
Môi trường pháp lý: công tác QLNN đối với TTCK bị chi phối và phụ
thuộc vào năng lực hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Bên cạnh đó, vấn đề này còn phụ thuộc cả vào tính chặt chẽ, đầy đủ,
nhất quán của các quy định pháp luật cũng như ý thức chấp hành pháp luật
của các chủ thể tham gia vào nền kinh tế.
- Thực trạng phát triển TTCK: trong mỗi hệ thống quản lý, chủ thể quản
lý sử dụng các công cụ và phương thức quản lý tác động nên đối tượng quản
lý theo mục tiêu đề ra. Ngược lại, đối tượng và khách thể của quản lý cũng
phản ứng trở lại đối với chủ thể quản lý. TTCK là đối tượng QLNN cho nên
thực trạng phát triển của TTCK có tác động đến việc ban hành và triển khai
các chính sách quản lý phát triển thị trường này. Thực trạng TTCK vừa là cơ
sở để Nhà nước ban hành các chính sách, biện pháp khắc phục những tồn tại
của TTCK, vừa là căn cứ để Nhà nước đề ra các biện pháp thúc đẩy thị trường
phát triển theo định hướng và mục tiêu đề ra.
- Xu thế hội nhập quốc tế: hiện nay thì hội nhập quốc tế đang diễn ra khá
mạnh mẽ trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, trong đó có TTCK.
Việc mở cửa TTCK hội nhập quốc tế sẽ đem lại những lợi Ých thiết thực cho
một quốc gia, song cũng nảy sinh những rủi ro và thách thức không nhỏ. Điều
này tác động đến các chính sách quản lý và phát triển TTCK của các nước.
Chính sách QLNN không chỉ phải giải quyết các vấn đề nảy sinh do có sự
xuất hiện của các yếu tố quốc tế trên TTCK, mà còn phải tìm ra hướng hội
nhập sao cho vừa đảm bảo an toàn, vừa khai thác tốt nhất các lợi Ých mà hội
nhập mang lại
- Các nhân tố khác: hoạt động QLNN đối với TTCK còn chịu tác động
bởi các nhân tố khác như: trình độ ứng dụng tin học trong quản lý, truyền
thống bản sắc văn hoá dân tộc, trình độ và kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ

quản lý trong ngành chứng khoán và các ngành có liên quan, lịch sử phát triển
kinh tế và TTCK. Trong đó yếu tố lịch sử thường đặt ra các vấn đề về cải
cách và hoàn thiện mô hình và tổ chức quản lý
18
1.3. Các biện pháp nâng cao quản lý Nhà nước đối với TTCK
1.3.1 Biện pháp tuyên truyền, giáo dục
Hầu hết mọi người chưa có nhận thức và hiểu biết về TTCK do đó họ
còn dè dặt trong việc đầu tư vào thị trường này. Bởi vậy, việc trang bị cho họ
những kiến thức cơ bản về chứng khoán và TTCK để họ có thể hiểu về những
lợi Ých của hình thức đầu tư mới mẻ này đem lại, đồng thời trang bị cho họ
những kĩ năng để họ có thể đầu tư một cách hiệu quả nhất, tự chịu trách
nhiệm về các quyết định đầu tư của mình, tự phòng chống được các rủi ro khi
tham gia trên thị trường. Vì thế yếu tố giáo dục, xây dựng tâm lý cho người
tham gia thị trường là cực kì quan trọng. Việc giáo dục bao gồm công tác
vạch đường lối chính sách phát triển kinh tế cho phù hợp, đào tạo phổ biến
kiến thức về thị trường, về chuyên môn nghiệp vụ; xây dựng và thiết lập
những chuẩn mực kinh doanh, kế toán, kiểm toán, xếp hạng cho hoạt động
phát hành và bảo lãnh chứng khoán
1.3.2 Biện pháp nâng cao chất lượng văn bản luật pháp
Biện pháp này có tác động trực tiếp và có vai trò lớn nhất trong các biện
pháp quản lý của Chính phủ ở các TTCK mới nổi bởi tại những thị trường này
mọi hoạt động đang đều ở giai đoạn mới hình thành, hơn nữa nhiều khi lại ra
đời không theo con đường tự nhiên như ở các nước phát triển. Nhà nước đóng
vai trò chính trong việc điều hành và hướng dẫn thị trường. Ngoài ra, cho dù
ở bất kỳ TTCK nào thì hình thức quản lý cơ bản nhất vẫn là luật pháp. Do thị
trường đầy tính phức tạp nên luật pháp rõ ràng gần nh là một điều kiện tiên
quyết để có một thị trường hoạt động trung thực lành mạnh, ổn định và trong
khuôn khổ . Luật pháp về chứng khoán phải được hiểu là cả một hệ thống
gồm Luật Chứng khoán và các luật khác nh Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư.
Vì vậy, việc xây dựng một hệ thống luật pháp không chỉ đơn thuần là việc cho

ra đời Luật Chứng khoán mà còn bao gồm cả việc điều chỉnh và hoàn thiện
dần các luật liên quan để tạo môi trường pháp lý đầy đủ cho sự hình thành và
phát triển của thị trường.
19
Trên thực tế, rõ ràng không thể có được một hệ thống luật pháp hoàn
thiện lý tưởng ngay từ khi TTCK mới hình thành. Do dó, biện pháp quản lý
hành chính là điều cần thiết để điều chỉnh và xử lý những hành vi có nguy cơ
hoặc đã gây thiệt hại cho thị trường, đặc biệt đang ở trong giai đoạn đầu mới
hình thành thị trường và đang còn thiếu những chuyên gia giỏi về kiểm toán,
kế toán, hệ thống hành pháp thiếu những người có hiểu biết về TTCK
1.3.3 Biện pháp nâng cao năng lực tổ chức quản lý điều hành
Tổ chức là định hình các cơ cấu bộ phận tạo thành, xác lập chức năng,
quyền hạn, nhiệm vụ và phạm vi hoạt động của từng bộ phận, đặt các bộ phận
trong quan hệ đối tác phù hợp, trong một tổng thể hoàn chỉnh. Thể chế hoá tổ
chức là quá trình Nhà nước quy định cơ cấu tổ chức, vạch ranh giới cho từng
cấp quản lý bằng các văn bản pháp luật, các văn bản quy định chức năng,
nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, là những cơ quan
QLNN theo lĩnh vực chuyên môn; quy định cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của DNNN hoặc cơ cấu tổ chức của các tập đoàn kinh tế xuyên
quốc gia, điều lệ doanh nghiệp, điều lệ công ty.
Trong quản lý, sự tác động của tổ chức có ý nghĩa hiệu quả và thiết thực.
Nó chỉ cho mọi người, mọi cấp biết trước phải hoạt động theo trật tự quy định
trước, nhằm đạt được những chỉ tiêu định trước. Mặt khác, tổ chức có thể gây
cản trở nếu quy định quá chi tiết, cứng nhắc khiến người thừa hành không
phát huy được sáng kiến, mất tính linh hoạt, sáng tạo. Do đó, bên cạnh công
tác tổ chức phải có sự điều khiển trực tiếp. Điều khiển là sự đôn đốc, chỉ đạo
cụ thể nhằm điều chỉnh kịp thời những sai lệch so với mục tiêu đề ra. Đó là
hình thức tác động tích cực và linh hoạt nhất của biện pháp quản lý. Tổ chức
và điều khiển cần được thực hiện phối hợp lẫn nhau trong quá trình quản lý
1.3.4 Biện pháp thanh tra giám sát, cưỡng chế thực thi

Giám sát thị trường là việc tiến hành theo dõi, kiểm tra hoạt động của các
chủ thể tham gia thị trường và các hoạt động giao dịch diễn ra trên thị trường
nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm, đồng thời khuyến khích
20
và phát huy những hành vi lành mạnh đảm bảo giữ vững mục tiêu hoạt động
của thị trường. Thanh tra là sự xem xét, đánh giá và xử lý việc thực hiện pháp
luật của tổ chức, cá nhân nhằm phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước, bảo
vệ lợi Ých của các bên liên quan. KÕt quả của giám sát sẽ là cơ sở quan trọng
để thanh tra thực hiện việc cưỡng chế các sai phạm nhằm đảm bảo quyền và
lợi Ých của các bên.
Nh vậy, đây là biện pháp có ý nghĩa răn đe, giáo dục rất lớn đối với các
tổ chức, cá nhân tham gia thị trường. Từ đó tạo ý thức chấp hành pháp luật
của các nhà đầu tư khi tham gia, đảm bảo tính trung thực, công bằng và hiệu
quả cho thị trường chứng khoán.
1.4. Kinh nghiệm một số nước trên thế giới và bài học đối với Việt Nam
1.4.1 Kinh nghiệm một số nước trên thế giới
1.4.1.1. Thị trường chứng khoán Mỹ:
Thị trường chứng khoán Mỹ đánh dấu thời điểm ra đời ngày 17/5/1792
khi 24 “đầu nậu” tại bến cảng ngồi lại với nhau để ký kết một bản thỏa ước
đầu tiên làm nền tảng cho New York Stock Exchange (NYSE) sau này. Đến
năm 1800, nhóm NYSE này dọn vào địa chỉ số 40 Wall Street đánh dấu sự ra
đời của Sở giao dịch chứng khoán, năm 1963 thì dọn về địa điểm số 11 Wall
Street hiện nay. Tiếp sau đó là hàng loạt các SGDCK được hình thành trên
khắp nước Mỹ. Thị trường chứng khoán Mỹ hiện nay là một thị trường quan
trọng bậc nhất trên thế giới nếu xét trên tổng thể khối lượng tư bản giao dịch
và sự ảnh hưởng to lớn của nó đối với các thị trường chứng khoán khác. Điều
đáng chú ý là 2/3 nghiệp vụ giao dịch chứng khoán ở Mỹ được thực hiện trên
thị trường phi tập trung, đặc biệt là đối với các hàng hóa là trái phiếu chính
phủ.
Thị trường tập trung:

Tại Mỹ có nhiều Sở chứng khoán được hình thành tại nhiều bang như
Chicago, San Francisco, Tuy nhiên khi nói về mức độ ảnh hưởng và tính
21
quy mô của các Sở thì 2 Sở giao dịch sau được coi là thị trường tập trung điển
hình tại Mỹ:
- Sở giao dịch chứng khoán New York (NYSE) là Sở giao dịch lớn nhất
và lâu đời nhất nước Mỹ. Thị trường chứng khoán này của Mỹ còn được gọi
là thị trường phố Wall -nơi phôi thai những giao dịch đầu tiên của nước Mỹ
và hiện là trung tâm giao dịch chứng khoán lớn nhất thể giới, quản lý tới hơn
80% các giao dịch chứng khoán của Mỹ và kể từ năm 1962 đã trở thành thị
trường chứng khoán quốc gia.
- Sở giao dịch chứng khoán Mỹ (American Stock Exchang- AMEX) là
thị trường chứng khoán tập trung lớn thứ 2 ở Mỹ và hiện nay có khoảng 1/5
số chứng khoán của Mỹ được mua bán trên thị trường này. Cũng tương tự
như Sở giao dịch chứng khoán New York, AMEX hoạt động theo hệ thống
đấu giá mở và các chuyên gia trên thị trường đóng vai trò quan trọng.
Thị trường chứng khoán phi tập trung:
Bên cạnh sự phát triển của thị trường chứng khoán tập trung thì tại Mỹ
còn có thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC) rất phát triển đó là
NASDAQ- National Association of Securities Dealers Automated Quotation
System. Thị trường OTC qua mạng máy tính Nasdaq được thành lập từ năm
1971, là bộ phận lớn nhất của thị trường thứ cấp Mỹ xét về số lượng chứng
khoán giao dịch trên thị trường với trên chục nghìn loại chứng khoán, lớn hơn
rất nhiều so với số lượng chứng khoán giao dịch trên thị trường chứng khoán
tập trung NYSE. Chứng khoán giao dịch trên thị trường này chiếm đa số là
của các công ty thuộc ngành công nghệ thông tin nh Microsoft, Intel, Dell,
v.v Điều đáng nói đây là các công ty sinh sau đẻ muộn mà lại có tốc độ phát
triển vượt bậc qua mặt luôn cả các công ty tiền bối như Disney, Coca cola,
Ford, nhưng họ vẫn trung thành với Nasdaq và không cần vào các sàn giao
dịch chính thức dù dư điều kiện để gia nhập.

22
Thị trường được vận hành bởi một hệ thống các nhà tạo lập thị trường và
các nhà môi giới, có hàng nghìn nhà tạo lập thị trường hoạt động tích cực trên
Nasdaq và trung bình mỗi nhà tạo lập thị trường đảm nhận 8 loại cổ phiếu.
Quản lý thị trường:
Tổ chức quản lý thị trường được thành lập sau cuộc khủng hoảng thị
trường chứng khoán năm 1929. Năm 1933, Quốc hội Mỹ thông qua đạo luật
Securities Act thành lập bộ phận Securities & Exchange Commission (SEC)
nhằm quản lý hoạt động của các thị trường chứng khoán. Năm 1934, ra đời
Luật về Sở giao dịch c hứng khoán và tổ chức National Association of
Securities Dealers (NASD)- Hiệp hội các nhà giao dịch chứng khoán quốc gia
Mỹ thành lập nhằm tự quản chế hoạt động của OTC Market ngày một lớn
mạnh hơn.
Như vậy, tại Mỹ quản lý thị trường chứng khoán theo mô hình giao trách
nhiệm cho các cơ quan chuyên môn thực hiện theo Luật định. Cụ thể, thị
trường chứng khoán tập trung chịu sự quản lý của ủy ban chứng khoán Nhà
nước SEC, còn thị trường phi tập trung chịu sự quản lý 2 cấp ủy ban chứng
khoán Mỹ (SEC) và Hiệp hội các nhà giao dịch chứng khoán quốc gia Mỹ
(NASD) quản lý trực tiếp.
SEC được thành lập để điều chỉnh Luật chứng khoán liên bang, SEC là
cơ quan độc lập, đứng đầu là Chủ tịch và 4 ủy viên Hội đồng do Tổng thống
bổ nhiệm có sự tham khảo và đồng ý của Thượng nghị viện. SEC chịu sự
giám sát của Quốc hội, các quy định và quyết định của SEC phải chịu trách
nhiệm trước Tòa. Ngân sách hoạt động hàng năm của SEC do Văn phòng
Quản lý ngân sách và Quốc hội thông qua. SEC chỉ giám sát các thị trường
chứng khoán bao gồm cả thị trường hợp đồng lựa chọn. ủy ban giao dịch hàng
hóa tương lai (CFTC) là cơ quan quản lý riêng, giám sát các hợp đồng tương
lai. Đây là đặc điểm của Mỹ về mặt lịch sử để lại. SEC không quản lý trực
tiếp hoạt động chứng khoán của Ngân hàng thương mại do sự tách biệt Ngân
hàng và thị trường chứng khoán ở Mỹ. Tất cả các tổ chức hoạt động trong

23
ngành chứng khoán đều phải báo cáo, đăng ký và chịu sự kiểm tra giám sát
của SEC.
1.4.1.2. Thị trường chứng khoán Nhật Bản
Nước Nhật được coi là quốc gia có Thị trường chứng khoán ra đời sớm
nhất so với các nước ở Châu á khác. Năm 1874, TTCK Nhật hình thành lấy
nguyên mẫu của thị trường chứng khoán London, còng vao thời điểm này văn
bản pháp lý đầu tiên của Nhật điều chỉnh về chứng khoán là Pháp lệnh về giao
dịch cổ phiếu 1874 ( The Stock Transaction Ordinance of 1874) ra đời mô
phỏng theo các quy định thị trường giao dịch chứng khoán London. Từ cơ sở
pháp lý này, Sở giao dịch chứng khoán đầu tiên ở Nhật được mở tại Tokyo và
Osaka vào năm 1878
Thị trường tập trung:
Hiện nay, Nhật Bản có 8 Sở giao dịch chứng khoán theo thứ tự từ Bắc
xuống Nam là Sapporo, Nigata, Tokyo, Nagoya, Kyoto, Osaka, Hiroshima và
Fkuoka. Trong đó, ba Sở giao dịch chứng khoán Tokyo, Nagoya, Osaka là Sở
giao dịch chứng khoán mang tính “Quốc gia” giao dịch chiếm tới 98% tổng
giá trị giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán Nhật Bản.
Sở giao dịch chứng khoán Tokyo (TSE) là định chế tài chính quan trọng
trong hệ thống kinh tế của Nhật Bản. TSE được coi là Sở giao dịch lớn thứ
hai trên thế giới về doanh số bán, chỉ sau NYSE. Trên TSE việc giao dịch
mua bán chứng khoán được quy định trên các nguyên tắc cơ bản quan trọng
sau: nguyên tắc công khai, nguyên tắc trung gian mua bán, nguyên tắc tập
trung, nguyên tắc đấu giá. Hiện nay, cổ phiếu trên TSE vẫn được giao dịch
theo hai phương thức khác nhau: giao dịch tại sàn và thông qua hệ thống máy
tính.
Thị trường phi tập trung:
Tại Nhật có hai thị trường OTC tiêu biểu cùng hoạt động đồng thời đó là
thị trường Jasdaq và thị trường J-net.
24

Thị trường Jasdaq hoạt động từ năm 1991 trên cơ sở phát triển thị trường
OTC truyền thống hoạt động từ tháng 2/1963 do Hiệp hội các nhà kinh doanh
chứng khoán Nhật Bản (JSDA) quản lý. Luật sửa đổi năm 1983 đã đưa thị
trường OTC này vào quỹ đạo quản lý của Nhà nước, cơ chế thương lượng giá
tay đôi giữa các công ty chứng khoán và giữa công ty chứng khoán với khách
hàng được đổi sang cơ chế đấu giá tập trung qua hệ thống các nhà tạo lập thị
trường. Thị trường J-net mới được đưa và hoạt động từ tháng 5/2000, chịu sự
quản lý trực tiếp của Sở giao dịch chứng khoán Osaka (OSE), được tổ chức
dành cho các chứng khoán không được niêm yết trên Sở giao dịch nhằm đáp
ứng yêu cầu thời gian và chi phí cho các đối tượng tham gia thị trường, hoạt
động theo phương thức thương lượng giá. Thành viên của OSE, người đầu tư
và trung tâm quản lý được trực tiếp nối mạng với nhau thông qua một mạng
điện tử đa tầng, tạo điều kiện cho các đối tượng này có thể chia sẻ thông tin
thị trường.
Quản lý thị trường:
Vào năm 1947 Luật chứng khoán và Sở giao dịch chứng khoán
( Securities and Exchange Law) được thông qua, Luật này nhanh chóng thay
thế cho các quy định khác trước đó. Luật được xây dựng nguyên mẫu của
Luật chứng khoán Mỹ 1933 và Luật về Sở giao dịch chứng khoán năm 1934.
UBCK Nhật ( Securities and Exchange Commission) được thành lập theo quy
định của pháp luật Nhật cũng tương tự nh cơ quan SEC của Mỹ. Sở giao dịch
chứng khoán theo quy định mới được tổ chức lại và đi vào hoạt động năm
1949.
Thời kỳ những năm 1998- 1999, Luật chứng khoán thứ hai tại Nhật ra
đời với hàng loạt những điểm sửa đổi, bổ sung. Nhật bãi bỏ UBCK và giao
quyền giám sát giao dịch chứng khoán cho Bộ tài chính ( Ministry of
Finance). Phòng quản lý chứng khoán được thành lập trực thuộc Bộ tài chính.
Tới năm 1952, Hội đồng chứng khoán được thành lập chịu trách nhiệm chính
là giám sát hoạt động thị trường chứng khoán và thị trường tương lai, giám sát
25

×