Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

ảnh hưởng của công tác chế biến gỗ đến giá thành sản phẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.68 MB, 68 trang )

PHẦN THỨ NHẤT
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế thị trường là việc tổ chức nền kinh tế xã hội dựa trên cơ sở một nền sản
xuất hàng hoá. Thị trường luôn mở ra các cơ hội kinh doanh mới cho các doanh
nghiệp, nhưng đồng thời cũng chứa đựng những mối nguy cơ đe doạ cho các doanh
nghiệp. Để các doanh nghiệp có thể đứng vững trước qui luật cạnh tranh khắc nghiệt
của cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải vận động, tìm tòi hướng đi
cho phù hợp
Đối với một doanh nghiệp sản xuất hàng hóa nói chung, công tác chế biến đóng
vai trò rất quan trọng đến kết quả kinh doanh của công ty. Công tác chế biến giúp
doanh nghiệp tạo ra sản phẩm với các cấp chất lượng khác nhau. Các doanh nghiệp
làm tốt khâu chế biến sẽ tạo được cho bản thân doanh nghiệp những lợi thế nhất định
so với các đối thủ cùng ngành trên thương trường.
Đối với một doanh nghiệp chế biến nghành hàng lâm sản thì công tác chế biến gỗ
cũng không ngoại lệ , công tác chế biến gỗ đóng vai trò hết sức quan trọng và nó quyết
định đến thành công của doanh nghiệp. Công tác chế biến gỗ sẽ quyết định phần lớn
đến giá thành sản phẩm ngoại trừ các yếu tố về giá cả đầu vào.
Trên thế giới hiện nay rất nhiều quốc gia có thế mạnh về nguồn nguyên liệu gỗ đã
và đang đầu tư rất lớn công nghệ cho công tác chế biến gỗ như Malaysia, philippines…
do đó chất lượng sản phẩm cũng như giá thành sản phẩm của họ giảm rất nhiều so với
các nước kém đầu tư hơn về công tác chế biến. Có sự đầu tư lớn về công nghệ do đó
họ có lợi thế cạnh tranh rất lớn trên thị trường quốc tế
Việt Nam cũng là một nước có nguồn nguyên liệu gỗ hết sức phong phú, đa dạng
về chủng loại cũng như chất lượng.Xong thực tế là các doanh nghiệp Việt Nam chưa
tận dụng được cơ hội về nguồn nguyên liệu này, các doanh nghiệp việt nam với qui mô
nhỏ và trang bị công nghệ lạc hậu hầu hết chỉ sản xuất các sản phẩm phôi gỗ thô để
xuất khẩu. Một phần do công tác quản lý còn kém hiệu quả, một phần do chưa được
đầu tư thích đáng về công nghệ dẫn đến công tác chế biến chưa thực sự hiệu quả làm
cho doanh nghiệp mất đi lợi thế cạnh tranh trên thị trường
1


Trong quá trình thực tập tại công ty cổ phần chế biến gỗ cao su daklak em đã
được nghiên cứu rất nhiều lĩnh vực của công ty. Công ty Cổ Phần Chế Biến Gỗ Cao Su
Daklak là công ty chuyên chế biến và sản xuất sản phẩm gỗ nguyên liệu thô và sản
phẩm tinh từ cây gỗ cao su. Công ty cũng không tránh khỏi được thực trạng chung đã
nêu trên, các sản phẩm của công ty chủ yếu là sản phẩm phôi sơ chế.Công tác chế biến
tại các phân xưởng của công ty đạt được nhũng thành công nhất định xong vẫn có
những hạn chế tác động xấu đến giá thành sản phẩm của công ty. Do vậy em đã chọn
đề tài Nghiên cứu trong lần thực tập tổng hợp này là Ảnh hưởng của công tác chế
biến gỗ đến giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần chế biến gỗ cao su Daklak để
biết được mức độ ảnh hưởng của công tác chế biến gỗ đến giá thành tại công ty cổ
phần chế biến gỗ cao su và tìm ra các mặt được cũng như các mặt chưa được để từ đó
tìm giải pháp khác phục nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và nâng cao khả năng
cạnh tranh cho công ty trên thị trường.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Góp phần hệ thống hóa kiến thức về giá thành sản phẩm nói chung, cũng như các
yếu tố ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm gỗ nói riêng và áp dụng các kiến thức đó cho
hoạt động Hạ giá thành sản phẩm của Công ty Cổ Phần Chế Biến Gỗ Cao Su DakLak.
- Nghiên cứu thực trạng quá trình chế biến gỗ tại các xưởng sơ chế và tinh chế của
công ty cổ phần chế biến gỗ cao daklak để thấy được ảnh hưởng của quá trình chế biến
gỗ đến giá thành sản phẩm như thế
- Tìm ra mối quan hệ giữa công tác chế biến gỗ và giá thành sản phẩm của công ty
cổ phần chế biến gỗ cao su daklak
- Tìm giải pháp để hoàn thiện hơn công tác chế biến gỗ tại Công ty Cổ Phần Chế
Biến Gỗ Cao Su DakLak
1.3 Đối tượng nghiên cứu
- Tất cả các công tác liên quan kỹ thuât sơ chế và chế biến gỗ tại công ty cổ phần
chế biến gỗ cao su daklak
- Giá thành các loại sản phẩm qua các năm của công ty cổ phần chế biến gỗ cao su
daklak
- Mối quan hệ giữa công tác chế biến gỗ đến công tác hạ giá thành của công ty cổ

phần chế biến gỗ cao su daklak
1.4 Phạm vi nghiên cứu
2
1.4.1 Phạm vi về không gian
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi Công ty cổ phần chế biến gỗ cao su DakLak
1.4.2 Phạm vi về thời gian
- Thời gian nghiên cứu : 06/10/2010 – 10/11/2010
- Thời gian của số liệu nghiên cứu : 2007- 2009
3
PHẦN THỨ HAI
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận về công tác chế biến gỗ
2.1.1 Khái niệm, phân loại, yêu cầu của sản phẩm mộc
2.1.1.1 Khái niệm chung về sản phẩm mộc
Hiện nay với sự phát triện của khoa học kỹ thuật đã xuất hiện nhiều loại vật liệu mới,
nhưng vật liệu gỗ - vật liệu truyền thống vẫn được người sử dụng ưa chuộng. Nhu cầu
về các đồ dùng về các đồ dùng bằng gỗ ngày càng cao, với xu hướng đồ gỗ vừa mang
phong cách hiện đại, vừa mang tính truyền thống, với nhiều mẫu mã, kiểu dáng sang
trọng, kết cấu mới lạ, đem lại sự ấm cúng gần gũi thân quen với người sử dụng, bởi nó
có sự giao lưu qua lại giữa: “đồ gỗ - môi trường – người sử dụng”.
Các sản phẩm làm từ gỗ gọi chung là sản phẩm mộc, sản phẩm mộc rất đa dạng và
phong phú về chủng loại, nguyên lý kết cấu, về chức năng công dụng… các sản phẩm
mộc trang trí nội thất như bàn, ghế, giường, tủ, ván sàn nhà, khung trang trí như khung
tranh… các sản phẩm trang trí ngoại thất như bàn ghế ngoài trời đặt ở khu vực nhà ở,
công viên, bãi biển, bệnh viện, trường học… Ngoài ra còn có các sản phẩm mộc mỹ
nghệ như các sản phẩm sơn mài, trạm trổ, tượng phật…
2.1.1.2 Phân loại sản phẩm mộc
a) Phân loại theo ngành sản xuất
- Ngành chuyên sản xuất đồ gỗ dân dụng (nội ngoại thất).
- Ngành chuyên sản xuất cánh cửa, khung cửa.

- Ngành chuyên sản xuất học cụ.
- Ngành chuyên sản xuất nhạc cụ.
- Ngành chuyên sản xuất dụng cụ thể thao.
- Ngành chuyên sản xuất đồ mộc mỹ nghệ.
b) Phân loại theo mục đích sử dụng
- Sản phẩm mộc sử dụng trong gia đình
- Sản phẩm mộc sử dụng trong các công trình công cộng
- Sản phẩm mộc sử dụng trong các công trình xây dựng
c) Phân loại theo mục đích sử dụng
- Chức năng cất đựng
4
- Chức năng để ngồi
- Chức năng để nằm
- Chức năng để trưng bày
- Chức năng kết hợp
d) Phân loại theo cấu tạo của sản phẩm
- Dạng tấm phẳng
- Dạng khung
- Dạng giá đỡ
e) Phân loại theo liên kết
- Liên kết cố định
- Liên kết tháo lắp được
2.1.1.3 yêu cầu chung đối với một sản phẩm mộc
a) Yêu cầu về thẩm mỹ
Sản phẩm mộc vừa mang tính chất sử dụng vừa mang tính chất trưng bày nên mang
tính yêu cầu thẩm mỹ cao cần đạt các yêu cầu thẩm mỹ sau đây :
- Hình dáng hài hòa ,các kích thước trong từng chi tiết bộ phận sản phẩm phải cân
xứng và theo tỷ lệ nhất định
- Đường nét phải sắc sảo, vuông thành sắc cạnh , uấn lượn mềm mại
- Màu sắc đẹp phù hợp vơi mục đích sử dụng và thị hiếu người tiêu dung

- Vân thớ đẹp: vân thớ tự nhiên và nhân thớ nhân tạo
- Sản phẩm mộc có sự thích ứng môi trường như vị trí ,diện tích xung quanh
- Phù hợp với thời đại, mang tính chất cổ truyền dân tộc, yêu cầu sử dụng tốt, thuận
tiện và tiên nghi trong quá trình sử dụng, chú ý đến điều kiện sử dụng, tâm sinh lý
người sử dụng, và chú ý đến tính chất của nguyên liệu
b) Yêu cầu sử dụng
- Công dụng trực tiếp : thực sự phù hợp với người về tâm lý, lưa tuồi sử dụng ,sử
dụng đúng chức năng , đúng môi trường sử dụng
- Độ bền: Đảm bào điều kiện chịu đựng trong quá trình sử dụng đảm bảo các mối
liên kết bền vững, làm việc an toàn
- Tuổi thọ : Độ bền của sản phẩm kéo dài yêu cầu nguyên vật liệu phải có tuổi thọ
cao, các mối liên kết bền vững
5
- Sản phẩm giữ nguyên hình dáng : các chị tiết bộ phận giữ nguyên hình dáng ban
đầu, không có hiện tượng co rút, biến đổi hình dáng trong quá trình sử dụng
- Tiện nghi, tiện lợi, thoái mái, thuận tiện trong quá trình sử dụng di chuyển sắp xếp
dễ dàng
c) Yêu cầu kinh tế
Sản phẩm đảm bảo yêu cầu thẩm mỹ, yêu cầu sử dụng nhưng chưa đảm bảo yêu
cầu kinh tế thì chưa đảm bảo yêu cầu chung của một sản mộc. Sản phẩm đẹp, sử dụng
tốt nhưng giá thành cao thì vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về thị hiếu của người tiêu
dùng, chưa có sức cạnh tranh.
2.1.2 Quy trình sản xuất, gia công đồ mộc
2.1.2.1 Khái niệm:
Công nghệ: Bằng những ứng dụng kỹ thuật thay đổi hình dạng, kích thước, bản
chất của nguyên liệu thì gọi là công nghệ
Công nghệ gồm 2 yếu tố: yếu tố thụ động là nguyên liệu, yếu tố chủ động là con
người và trang bị máy móc, công cụ.
- Khâu công nghệ: trong quá trình công nghệ gồm có nhiều khâu, các khâu đó được
gọi là khâu công nghệ. Các khâu công nghệ được thực hiện ở các vị trí khác nhau.

- Tập hợp khâu công nghệ từ đầu đến cưới theo thứ tự gọi là quá trình công nghệ
- Trong quá trình công nghệ người ta phân thành các công đoạn công nghệ.
Ví dụ như:
+ Công đoạn pha phôi: cắt ngắn, xẻ dọc, lượn cong
+ Công đoạn gia công sơ chế: thẩm, cuốn
+ Công đoạn gia công tinh: phay mộng, đục, khoan lỗ, tề đầu, bo cạnh, đánh
nhẵn…
+ Công đoạn lắp ghép và trang sức bề mặt, đóng gói, nhập kho.
- Dây chuyền công nghệ: khi thiết kế người ta biểu diễn quá trình công nghệ gồm
các khâu ở dạng dây chuyền, thể hiện mối liên hệ móc xích giữa các khâu gọi là dây
chuyền công nghệ
- Quy trình công nghệ: phương pháp công nghệ hợp lý nhất quy định bắt buộc phải
thực hiện gọi là quy trình công nghệ
- Quy trình sản xuất: Trong thực tế sản xuất muốn sản xuất bất kỳ một sản phẩm
nào thì ta thực hiện một loạt các quá trình từ khi chuẩn bị nguyên liệu, vật tư, kỹ thuật,
6
kế hoạch sản xuất, nghiệm thu sản phẩm, nhập kho. Tập hợp những quá trình này gọi
là quá trình sản xuất.
- Quá trình sản xuất của xí nghiệp bao gồm toàn bộ những quá trình có liên quan
phục vụ trực tiếp hay gián tiếp để chế biến nguyên liệu thành sản phẩm đó gọi là quá
trình sản xuất.
- Quy trình sản xuất công nghệ sản xuất đồ mộc: là một phần của quá trình sản xuất
trực tiếp tác động đến nguyên liệu làm thay đổi hình dạng, kích thước, bản chất để
nguyên liệu biến thành sản phẩm.
Trong quá trình công nghệ sản xuất đồ mộc không đơn giản chỉ là gia công cơ giới
mà còn cả một quá trình vật lý, hóa học nữa như: hấp, sấy, trang sức, dán, uốn, ép…
Ví dụ : Quá trình công nghệ sản xuất đồ mộc
Nguyên liệu -> Tẩm , sấy -> Pha phôi -> Gia công sơ chế
- Chu kỳ sản xuất và nhịp độ sản xuất:
+ Chu kỳ sản xuất là thời gian từ khi đưa nguyên liệu vào đến khi ra sản phẩm

(không kể thời gian dự trữ). Chu kỳ sản xuất ngắn, vòng quay nhanh thì vốn lưu động
cần cho kinh doanh ít.
+ Nhịp độ sản xuất là khoảng thời gian giữa hai sản phẩm kế tiếp nhau đi ra khỏi
khâu công nghệ nào đó.
- Khái niệm về loại hình sản xuất
Căn cứ vào quy mô sản xuất và kế hoạch sản xuất chia ra làm 3 loại hình khác nhau:
+ Sản xuất đơn chiếc
+ Sản xuất hàng loạt khối lượng vừa
+ Sản xuất khối lượng lớn
 Một số khái niệm về hoạt động sản xuất khác:
- Thao tác: là những động tác cụ thể của công nhân tác động lên máy móc hoặc
nguyên liệu để biến nó thành sản phẩm.
- Phương thức gia công: Dựa vào các loại máy chia làm 2 phương thức gia công:
+ Phương thức gia công cố định: bàn máy, nguyên liệu cố định, mấy chuyển động
như: máy cưa vòng nằm, khoan đục lỗ…
+ Phương thức gia công di động: ngược lại, nguyên liệu, bàn máy di động như: cưa
đĩa, bào thẩm, bào cuốn, cưa vòng đứng…
7
- Định vị gia công: xác định vị trí của chi tiết, bàn máy để phù hợp vị trí yêu cầu
khi thi công. Một chi tiết cần 1 lần định vị hay 2,3 lần do yêu cầu.
- Nơi làm việc: chính là diện tích để đặt máy và diện tích để cho người công nhân
thao tác, nó chính là một phần thuộc mặt bằng công nghệ.
- Quy trình sản xuất: Từ quy trình công nghệ bố trí trên mặt bằng sản xuất tạo thành
quy trình sản xuất.
Bố trí dây chuyền sản xuất làm sao cho chu kỳ sản xuất ngắn nhất. Khi bố trí quy
trình sản xuất phải chọn các phương án sao cho khâu vận chuyển ngắn nhất.
Ví dụ: Xẻ dọc  Cắt ngắn  Thẩm  Cuốn…
- Lưu trình công nghệ: là gồm các bước gia công chi tiết, nói một cách tổng quát là
không cụ thể từng thiết bị.
Ví dụ: Nguyên liệu  Pha cắt phôi  Gia công sơ chế  Gia công tinh chế  lắp

ghép  trang sức  nhập kho.
Lưu trình công nghệ cho ta biết cho ta biết các chi tiết phải qua các khâu công nghệ
nào và đồng thời dựa vào đó xác định được nhiệm vụ của từng khâu công nghệ để thực
hiện một nhiệm vụ sản xuất chung cả dây chuyền.
2.1.3 Bố trí sản xuất trong doanh nghiệp
2.1.3.1 khái niệm và ý nghĩa của bố trí sản xuất
Thực chất bố trí sản xuất trong doanh nghiệp là tổ chức sắp xếp định dạng về mặt
không gian và phương tiện vật chất được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm hoặc cung
cấp dịch vụ đáp ứng nhu cầu thị trường.
Kết quả của quá trình này hình thành các nơi làm việc, phân xưởng, các bộ phận
phục vụ sản xuất hoặc nguyên vật liệu, bán thành phẩm và lao động trong hệ thống sản
xuất, dịch vụ của doanh nghiệp.Là một trong những xuất phát điểm cơ bản, đồng thời
cũng là căn cứ phân loại bố trí sản xuất. Đây là một trong những nội dung quan trọng
trong thiết kế hệ thống sản xuất, dịch vụ của doanh nghiệp. Nó vừa ảnh hưởng trực tiếp
đến hiệu quả hoạt động hàng ngày, lại có tác dụng lâu dài trong quá trình phát triển sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
Mục tiêu của bố trí sản xuất là tìm kiếm, xác định một phương án bố trí hợp lý,
đảm bảo cho hệ thống sản xuất hoạt động có hiệu quả cao, chi phí thấp, thích ứng
nhanh với thị trường. Bố trí sản xuất có quan hệ chặt chẽ với quá trình sản xuất, chiến
lược kinh doanh, phương tiện, thiết bị, nhà xưởng sẵn có của mỗi doanh nghiệp.
8
Bố trí sản xuất trong doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng. Nó được xây dựng
trên cơ sở những lý do chủ yếu sau :
- Bố trí đúng sẽ tạo ra năng suất, chất lượng cao hơn, nhịp độ sản xuất nhanh hơn ,
tận dụng và huy động tối đa các nguồn lực vật chất vào sản xuất nhằm thực hiện những
mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp
- Bố trí sản xuất ảnh hưởng trực tiếp, mạnh mẽ đến chi phí và hiệu quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
- Trong nhiều trường hợp sự thay đổi trong bố trí sản xuất sẽ dẫn đến những vấn đề
tâm lý không tốt, gây ảnh hưởng xấu đến năng suất lao động.

- Hoạt động bố trí sản xuất đòi hỏi có sự nỗ lực và đầu tư rất lớn về sức lực và tài
chính.
- Đây là một vấn đề dài hạn mà sai lầm sẽ khó khắc phục hoặc rất tốn kém
2.1.3.2 Các yêu cầu trong bố trí sản xuất
Do ý nghĩa quan trọng và tính chất phức tạp của bố trí sản xuất cùng với những trở
ngại về công nghệ, tổ chức trong quá trình bố trí sản xuất, để thiết kế phương án bố trí
sản xuất thích hợp với lĩnh vực kinh doanh và điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp,
cần phải đảm bảo những yêu cầu mang tính nguyên tắc sau :
- Tính hiệu quả của hoạt động sản xuất;
- An toàn cho người lao động;
- Thích hợp với đặc điểm với thiết kế của sản phẩm và dịch vụ;
- Phù hợp với khối lượng sản phẩm sản xuất;
- Đáp ứng những đòi hỏi của công nghệ và phương pháp chế biến;
- Thích ứng với môi trường sản xuất bao gồm cả môi trường bên trong và bên ngoài
của doanh nghiệp
2.1.4 Giá thành sản phẩm
2.1.4.1 Khái niệm
Để đánh giá đúng chất lượng hoạt động của doanh nghiệp và phân tích đúng giá
thành sản phẩm , thì chúng ta phải phân biệt được ảnh hưởng của biến đổi giá thành
trong quá trình sản xuất
Để sản xuất ra một sản phẩm thì chúng ta phải cần nhiều yếu tố góp phần tạo ra kết
cấu sản phẩm, ở đây chúng ta đưa ra một số khái niệm cơ bản về giá thành như sau :
9
Giá thành là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp,được biểu hiện bằng tiền, bằng toàn bộ
những hao phí tư liệu sản xuất như trả lương, phụ cấp ngoài lương và chi phí khác
nhằm sản xuất và tiêu thụ một khối lượng sản phẩm nhất định
Hay ta có thể nói đơn giản hơn giá thành là tổng hợp các chi phí đầu vào luôn nhỏ
hơn giá bán sản phẩm, mà giá sản phẩm bán ta bắt buộc phải có lợi nhuận, hơn nữa giá
thành là cơ sở căn cứ quan trọng để công ty quyết định ra giá bán sản phẩm sao cho
phù hợp. Giá thành sản phẩm càng hạ thì lợi nhuận càng cao và ngược lại. Cho nên

trong quản lý kinh tế muấn hạch toán hay phân tích hoạt động kinh tế đúng thì chúng ta
phải hiểu cặn kẽ giá thành sản phẩm la gì ? bao gồm những yếu tố gì ?...
Tùy theo thời gian lập giá thành mà ta có các loại giá thành sau
- Giá thành tính trước gồm có :
+ Giá thành kế hoạch : loại giá này chỉ có giá trị trong kỳ kế hoạch, do người ta
định mức trung bình tiên tiến để làm giá tính toán
+ Giá thành định mức : được tính theo thời gian ngắn 15 ngày, 1 tháng, hay một
chu kỳ sản xuất
+ Giá thành dự đoán : Loại giá này chỉ lập cho các sản phẩm mới đưa vào sản xuất
hoặc dự kiến đưa vào sản xuất trong thời gian tới.
- Giá thành tính sau : Loại giá thành này được hình thành qua công tác kế hoạch,
thống kê và kế toán. Căn cứ vào tính chất phản ánh các chi phí trong giá thành sản
phẩm mà có các loại
+ Giá thành thực tế : Được tính trên cơ sở các chi phí thực tế phát sinh trong kỳ,
đây là giá thành làm cơ sở để ta phân tích các hoạt động kinh tế
+ Giá thành hạch toán : Được lập cho các xí nghiệp thực hiện chế độ hạch toán nội
bộ bao gồm giá thành cho từng bước công việc, công đoạn từng phân xưởng…
- Trong công tác xây dựng giá bán buôn : Căn cứ vào lượng chi phí xã hội cần thiết,
giá thành sản phẩm được chia làm hai loại
+ Giá thành cá biệt : Bao gồm các loại chi phí để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của
từng doanh nghiệp. Giá thành cá biệt biểu hiện trình độ tổ chức quản lý và một số đặc
điểm của doanh nghiệp
+ Giá thành Toàn ngành : Là giá thành bình quân cho toàn ngành phản ánh những
chi phí xã hội cần thiết hoặc sấp xỉ những chi phí xã hội cần thiết
10
- Nếu căn cứ vào trình độ xây dựng kế hoạch giá thành thì ta có các loại giá thành
sau :
+ Giá thành phân xưởng : Bao gồm tổng chi phí phát sinh tại phân xưởng .
+ Giá thành công xưởng : Bao gồm giá thành phân xưởng cộng thêm chi phí quản
lý.

+ Giá thành toàn bộ : Bao gồm giá thành công xưởng cộng chi phí lưu thông (tiêu
thụ)
Như vậy ta có rất nhiều loại giá thành khác nhau theo từng thời gian công đoạn cho
ta các con số khác nhau về giá thành. Nhưng mỗi loại giá thành mang một đặc thù
riêng giúp cho dễ so sánh, phân tích các nhân tố ảnh hưởng để làm chỉ tiêu hạ giá thành
sản phẩm
2.1.4.2 Ý nghĩa của việc Hạ giá thành
Hạ giá thành là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của doanh nghiệp, ý nghĩa
quan trọng của hạ giá thành được thể hiện qua các mặt sau:
- Hạ giá thành trong phạm vi từng doanh nghiệp làm cho lợi nhuận của doanh
nghiệp tăng lên, các quỹ của doanh nghiệp ngày càng được mở rộng, đời sống vật chất
và tinh thần của công nhân viên chức ngày càng được nâng cao, điều kiện lao động
ngày càng được cải thiện.
- Hạ thấp giá thành trong phạm vi cả nước là một nguồn vốn quan trọng để mở rộng
tái sản xuất xã hội. Vì giá thành là một bộ phận của giá trị, biểu hiện tiền tệ của giá trị
gọi là giá cả, chênh lệch giữa giá cả và giá thành là tích lũy tiền tệ doanh nghiệp. Muấn
tiến hành công nghiệp hóa xã hội với tốc độ cao đòi hỏi phải có vốn lớn. Nguồn vốn
chủ yếu để thỏa mãn nhu cầu đó phải dựa vào tích lũy nội bộ tức là dựa vào tích lũy
tiền tệ tại các doanh nghiệp. Trong điều kiện giá cả được ổn định, giá thành càng giảm
thì tích lũy tiền tệ càng tăng làm cho nguồn vốn để tái sản xuất xã hội càng nhiều.
- Hạ giá thành còn có ý nghĩa tạo điều kiện quan trọng cho việc hạ thấp giá cả, nâng
cao đời sống vật chất của nhân dân lao động. Khi định giá cả, nhà nước dựa vào giá
thành bình quân toàn ngành của sản phẩm. Vì vậy phần lớn hoặc tất cả các doanh
nghiệp sản xuất cùng loại sản phẩm nào đó đều hạ thấp giá thành thì nhà nước sẽ có
điều kiện xét đến việc hạ thấp giá cả. Tuy nhiên việc hạ giá thành sản phẩm không có ý
nghĩa là hạ thấp chất lượng sản phẩm, mà chất lượng sản phẩm luôn phải được quan
tâm đúng mức để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dung
11
2.1.4.3 Các biện pháp chủ yếu để hạ giá thành sản phẩm
Trong đơn vị sản xuất kinh doanh ngoài việc xác định kế hoạch giá thành đơn vị

sản phẩm còn phải thực hiện kế hoạch hạ thấp giá thành của sản phẩm. Muấn hạ giá
thành ta phải phân tích kỹ việc thực hiện kế hoạch hạ thấp giá thành của doanh nghiệp
- Mức hạ giá thành : Là chỉ tiêu biểu hiện số tuyệt đối về mức giảm giá thành so với
năm trước, nó phản ánh khả năng tăng lợi nhuận của doanh nghiệp
- Tỷ lệ hạ giá thành : Là chỉ tiêu biểu hiện tỷ lệ phần trăm giảm giá thành so với
năm trước nó phản ánh chất lượng và biểu hiện sự tiến bộ trong công tác quản lý giá
thành sản phẩm
a) Nhóm biện pháp giảm tiêu hao nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu trong giá thành chiếm tỷ lệ rất lớn , thường từ 60%-70% trên giá
thành của sản phẩm, do đó việc giảm định mức tiêu hao nguyên vật liệu là một việc
làm cơ bản nhất trong các biện pháp hạ giá thành sản phẩm liên quan mật thiết đến các
biện pháp khác.
Thời đại khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì các biện pháp thường mang
tính đồng bộ hỗ trợ cho nhau để làm giảm giá thành sản phẩm
Nhóm biện pháp này bao gồm các vấn đề quan trọng sau:
 Thay thế nguyên vật liệu
Đây là việc không mới, đã được các nước có nền khoa học tiên tiến áp dụng. Nhất
là trong tình hình nguồn tài nguyên khoáng sản ngày càng khan hiếm và cạn kiệt, thì
việc dùng nguyên vật liệu thay thế là cần thiết và có tính chiến lược lâu dài trong nền
kinh tế quốc dân. Nhưng điểm quan trọng phải đạt được đó là nguyên vật liệu thay thế
phải đảm bảo được các yếu tố kỹ thuật, không làm ảnh hưởng đến tính năng tác dụng
của sản phẩm
 Giảm định mức tiêu hao nguyên vật liệu
Muấn giảm tối đa định mức tiêu hao nguyên vật liệu trên một đơn vị sản phẩm thì
nó có liên quan đến nhiều vấn đề
- Định mức vật tư
- Phương pháp gia công
- Chất lượng nguyên vật liệu
- Các tỷ lệ thất thoát khác
12

Hàng loạt vấn đề giúp ta xem xét để có biện pháp tối ưu, giảm tiêu hao nguyên vật
liệu. Ngoài ra ta phải tăng cường công tác quản lý nguyên vật liệu bằng các biện pháp,
các chế độ chỉ định để nâng cao tinh thần trách nhiệm của công nhân trong sản xuất.
Đông thời động viên khuyến khích các cán bộ kỹ thuật, công nhân viên không ngừng
cải tiến sáng kiến để có biện pháp hữu hiệu giảm chi phí nguyên vật liệu trên một đơn
vị sản phẩm
 Cải tiến kết cấu sản phẩm
Yêu cầu đặt ra là sản phẩm phải gọn nhẹ trong quá trình sử dụng, sản phẩm phải
không ngừng cải tiến để phù hợp với yêu cầu kỹ thuật ngày càng cao và đáp ứng thị
hiếu của người tiêu dùng.
Sản phẩm có kết cấu gọn nhẹ đi đôi với việc giảm tỷ trọng nguyên nhiên liệu, chi
phí sẽ thấp hơn, ngày càng phù hợp với yêu cầu của thị trường. Với quy trình công
nghệ tiên tiến chắc chắn sản phẩm làm ra sẽ đảm bảo hơn về yêu cầu kỹ thuật với sản
phẩm cùng loại mà chưa được cải tiến. Trong tương lai không xa, với trình độ khoa
học kỹ thuật ngày càng tiến tiến các sản phẩm có chiều hướng đi vào gọn nhẹ và tinh
vi hơn.
 Giảm chi phí vận chuyện, chi phí bốc dỡ và giảm tỷ lệ phế phẩm
Muấn giảm được các chi phí trong vận chuyển bốc dỡ, ta phải có những phương án
hết sức cụ thể như lượng vật tư tồn kho phải phù hợp với yêu cầu sản xuất, kho vật tư
phải gắn với sản xuất, thuận tiện cho việc cấp phát vật tư hàng ngày, đồng thời cần
tránh nhiều khâu trung gian trong cấp phát vật tư.
Giảm tối đa tỷ lệ phế phẩm , sản phẩm hỏng trong sản xuất, ta luôn phải phấn đấu
để hạ thấp nhất có thể tỷ lệ phế phấm. Nhưng trong thực tế tỷ lệ này là không thể
lường trước được
Tỷ lệ phế phẩm hỏng phụ thuộc vào các yếu tố
- Quy cách của vật tư
- Tình trạng thiết bị
- Trình độ công nhân cao hay thấp
- Điều kiện làm việc và nơi làm việc
Muấn tỷ lệ phế phẩm hạ ở mức thấp nhất thì các yếu tố trên phải đươc đảm bảo

một cách tốt nhất.
13
b) Nhóm biện pháp tăng năng suất lao động, giảm chi phí tiền lương trên một đơn vị
sản phẩm
 Biện pháp này gồm có hai nhóm giải pháp
- Tăng thời gian có ích
- Tăng công nhân sản xuất trong tổng số công nhân
Nâng cao năng suất lao động thể hiện khối lượng sản phẩm làm ra trong một đơn vị
thời gian nhiều hơn so với định mức đề ra.
Bằng biện pháp này doanh nghiệp doanh nghiệp giảm được các khoản chi phí như
khấu hao tài sản cố định, chi phí tiền lương, chi phí quản lý phân xưởng, quản lý doanh
nghiệp. Do sản lượng tăng với điều kiện khác không thay đổi, mức chi phí đó tính vào
giá thành sẽ giảm đi.
c) Nhóm giải pháp tăng sản lượng, giảm chi phí cố định cho một đơn vị sản phẩm
- Tăng năng suất lao động có nghĩa là tăng sản lượng
- Tinh giản bộ máy quản lý (hạ tỷ lệ trung gian gián tiếp)
- Giảm chi phí quản lý
Ngoài hàng loạt các biện pháp trên để làm cho giá thành sản phẩm ngày càng hạ
thấp ta phải áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ mới tiên tiến vào
sản phẩm nhằm rút ngắn chu kỳ sản xuất nâng cao khối lượng và chất lượng sản phẩm.
2.1.5 Tính toán công nghệ và giá thành sản phẩm
a) Chi phí mua nguyên vật liệu
- Nguyên vật liệu chính (G
NL
)
- Nguyên vật liệu phụ (G
VLP
)
- Phế liệu thu hồi (G
PL

)
- Vật liệu liên kết (G
VLLK
)
b) Các chi phí liên quan khác
- Chi phí động lực sản xuất (G
DL
)
Là chi phí điện năng cung cấp cho các thiết bị máy móc hoạt động và chi phí
điện năng cung cấp cho thắp sang trong quá trình sản xuất
- Chi phí tiền lương công nhân (G
L
)
- Chi phí khấu hao máy móc (G
M
)
- Chi phí quản lý nhà máy (G
QL
)
c) Giá thành sản phẩm xuất xưởng
14
G
SP
= G
NL +
G
VLP
+ G
VLLK
+ G

DL
+ G
L
+ G
M
+ G
QL
- G
PL
d) Một số biện pháp giúp hạ giá thành sản phẩm
Một sản phẩm mộc dù có tính thẩm mỹ cao, phù hợp với chức năng sử dụng nhưng
giá thành cao thì chưa đủ để đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dung. Do
vậy giá thành của sản phẩm cũng là yếu tố quan trọng mà người thiết kế phải quan
tâm vì vậy chúng ta cần có một số giải pháp để hạ giá thành sản phẩm
- Sử dụng nguyên liệu hợp lý, lựa chọn kích thước phù hợp
- Chọn lượng dư gia công hợp lý
- Chọn vật liệu phụ phù hợp
- Đảm bảo tính chính xác khi lắp ráp các chi tiết và các bộ phận với nhau
- Giảm tối đa tỉ lệ phế phẩm của các chi tiết
- Sử dụng tối đa công suất máy, sử dụng đúng tay nghề công nhân
- Trong quá trình gia công nên sử dụng các loại máy móc có cấp chính xác cao để
giảm thiểu sai số
- Giảm tối đa chi phí ngoài sản xuất, sử dụng thời gian gia công hợp lý
2.1.6 Đặc điểm của doanh nghiệp lâm nghiệp trong sản xuất kinh doanh
Doanh nghiêp lâm nghiệp (DNLN) là một loại doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực lâm nghiệp với đặc trưng cơ bản nhất là lấy rừng và tài nguyên rừng làm tư liệu
sản xuất chủ yếu
2.1.6.1 Đặc điểm về chu kỳ sản xuất
Chu kỳ sản xuất là khoảng thời gian tính theo lịch kể từ khi bắt đầu đưa đối tượng
lao động vào gia công , chế biến cho đến khi hoàn thành công đoạn sản xuất cuối cùng.

Sản phẩm được nhập kho thành phẩm, sẵn sàng cung cấp cho thị trường.
Chu kỳ sản xuất dài làm cho vốn đầu tư trong các doanh nghiệp lâm nghiệp phải
nằm rất lâu trong quá trình sản xuất dưới dạng sản phẩm dở dang, vì thế quay vòng vốn
rất chậm, rất lâu được thu hồi, dẫn đến hiệu quả kinh tế trong kinh doanh lâm nghiệp
thường thấp , độ rủi ro cao.
2.1.6.2 Đặc điểm về địa bàn hoạt động của doanh nghiệp lâm nghiệp
15
Gắn liền với tư liệu sản xuất chủ yếu là rừng và tài nguyên rừng, các doanh nghiệp
lâm nghiệp thường được phân bổ hoặc có vùng nguyên liệu ở các nơi xa xôi hẻo lánh,
địa hình phức tạp, cở sở hạ tầng kém phát triển
Đặc điểm này đặt các doanh nghiệp lâm nghiệp trước những khó khăn trong tổ
chức sản xuất, cũng như khâu vận chuyển nguyên liệu và thành phẩm.
Đặc điểm này đòi hỏi các doanh nghiệp cần có phương án chủ động xây dựng cơ sở
hạ tầng và tổ chức các dịch vụ hỗ trợ cho công tác chế biến trong doanh nghiệp
2.1.6.3 Tính mùa vụ trong sản xuất
Trong sản xuất lâm nghiệp có nhiều hoạt động mang tính thời vụ ở các mức độ
khác nhau, làm nẩy sinh các yêu cầu nhất định trong quá trình tổ chức sản xuất của các
doanh nghiệp
Tính mùa vụ được quyết định bởi đối tượng lao động chủ yếu là cây rừng, là những
thực thể sinh học. Hơn nữa sản xuất lâm nghiệp thường diễn ra ở điều kiện ngoài trời
nên chịu ảnh hưởng rất mạnh của yếu tố thời tiết.
Tính mùa vụ của sản xuất đòi hỏi doanh nghiệp phải xây dựng được phương án tổ
chức sản xuất, tổ chức lao động hết sức linh hoạt và khoa học để vừa tận dụng được
những điều kiện thuận lợi, tránh được những ảnh hưởng bất lợi của thời tiết trong tổ
chức sản xuất, đồng thời phải chủ động áp dụng các biện pháp tổ chức-kỹ thuật thích
hợp để hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng của tính mùa vụ đối với sản xuất
kinh doanh.
2.1.7 Đặc điểm của mặt hàng lâm sản ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm
2.1.7.1 Đặc điểm về sản phẩm
- Là một công ty chuyên khai thác và chế biến mặt hàng lâm sản, trước hết sản

phẩm của công ty sẽ có đặc điểm là đồ gỗ, sản phẩm của công ty sản xuất ra sẽ cung
cấp cho các các thị trường trong nước cũng như nước ngoài. Tuỳ theo tính chất và đặc
điểm của từng loại sản phẩm mà khách hàng yêu cầu công ty sẽ có những kế hoạch
phân công tới từng bộ phận thực hiện.
- Để thực hiện hoàn chỉnh một loại sản phẩm nói chung cần một quy trình công
nghệ như sau
Bảng 2.1 : Các loại máy móc và các khâu liên quan đến sản phẩm phôi sơ chế
16
Sản phẩm Các khâu liên quan và máy móc sử dụng
Sản phẩm Phôi sơ chế
1. Khai thác gỗ tròn
2. Nguyên liệu nhập xưởng
3. Máy CD xẻ phách
4. Máy cưa đĩa xẻ bản rộng
5. Máy cắt quy cách chiều dài
6. Phân loại theo quy cách
7. Lò ngâm tẩm áp Lực
8. Lo hơi sấy gỗ
9. Phôi ra lò và phân loại đai kiện
Bảng 2.2 : Các loại máy móc và các khâu liên quan đến sản phẩm tinh chế
Sản phẩm Các khâu liên quan và máy móc sử dụng
Sản phẩm tinh chế
1. Nhập nguyên liệu từ kho
2. Chọn cắt quy cách theo phôi
3. Máy bào 2 mặt
4. Máy Lipsaw 2 cạnh
5. Lựa phôi , chọn phôi
6. Máy Finger đánh mộng
7. Chọn màu sắc gỗ
8. Bôi keo

9. Ghép dọc
10. Cắt quy cách thô
11. Máy bào 4 mặt
12.Chọn quy cách , chọn màu
13. Trải keo
14. Ghép ngang
15. Máy rong quy cách
16. Máy cắt tinh quy cách
17. Máy chà nhám phá
18.Máy chà nhám tinh
Tuy nhiên, các loại sản phẩm đó được phân chia theo từng cấp tuỳ theo yêu cầu của
khách hàng (sản phẩm chất lượng cao hay thấp).
- Trong nền kinh tế ngày nay, do sự tác động của nền kinh tế thị trường cùng với sự
hội nhập kinh tế đang diễn ra từng ngày, từng giờ, các sản phẩm nhập ngoại có chất
lượng cao, mẫu mã đẹp đi đôi với chất lượng của sản phẩm cạnh tranh rất mạnh với
các loại sản phẩm trong nước, làm cho nhu cầu về hình thức mẫu mã sản phẩm, chất
lượng sản phẩm của doanh nghiệp cũng được đẩy lên rất cao, đòi hỏi doanh nghiệp sản
xuất mặt hàng lâm sản như công ty Cổ phần chế biến gỗ cao su DakLak thường xuyên
17
phải tiếp cận những công nghệ, máy móc mới cũng như thiết kế những kiểu dáng mẫu
mã của các sản phẩm đi đôi với chất lượng của sản phẩm để đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của khách hàng. Việc doanh thu của loại hình sản xuất này mang lại lợi nhuận
rất cao nên nó ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Ngoài ra khi sản xuất loại sản phẩm này đều không gây mất nhiều chi phí bảo
quản dẫn đến giảm chi phí sản xuất kinh doanh và tăng hiệu quả kinh doanh cho doanh
nghiệp.
- Một đặc điểm nữa về sản phẩm là được sản xuất theo nhu cầu thị trường và đơn
đặt hàng của khách hàng, đặc điểm này có thuận lợi là không có nhiều hàng tồn kho ứ
đọng hay thất thoát vốn, nhưng cũng chính đặc điểm này làm cho doanh nghiệp không
chủ động được nhiều trong việc sản xuất kinh doanh để nâng cao hiệu quả cũng như tiết

kiệm được nguyên vật liệu.
2.2 Cở sở thực tiễn công tác chế biến gỗ
2.2.1 Công nghiệp chế biến gỗ trên thế giới
Tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu đã làm giảm nhu cầu tiêu thụ sản phẩm gỗ.
Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm gỗ của người
dân Mỹ và các nước EU trong năm 2008 đã giảm tới 30%, do đó đã kéo theo sự giảm
sút về sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam.. Thống kê của
Bộ Công thương cho thấy, riêng 2 tháng đầu năm 2009, kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ
của Việt Nam đã giảm hơn 26% và là một trong những ngành có mức độ giảm sút cao
nhất. Theo dự báo năm 2009 và tiếp theo, thị trường xuất khẩu sản phẩm gỗ sẽ tiếp tục
bị thu hẹp. Riêng đồ gỗ nội thất và bàn ghế ngoài trời vào thị trường Mỹ và EU có thể
giảm tới 30 - 35%, có nhiều hợp đồng đã ký sẽ bị hoãn hoặc dừng hẳn. Nhiều đối tác
nước ngoài nhập khẩu đồ gỗ của Việt Nam dè dặt với các hợp đồng ký mới năm 2009.
Phần lớn các doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam hiện không có khả năng xuất khẩu
trực tiếp tới thị trường tiêu dùng cuối cùng, mà phải xuất khẩu qua các trung gian, như
những mắt xích của chuỗi giá trị toàn cầu nên đối tác chưa sẵn sàng ký hợp đồng mới
bao tiêu sản phẩm.
- Chủ trương sử dụng hàng nội địa và sự xuất hiện ngày càng nhiều các hành vi bảo
hộ thương mại tinh vi tại các thị trường lớn cũng sẽ tác động rất lớn đến các nước xuất
khẩu sản phẩm gỗ, chẳng hạn: các nước EU đang áp dụng Hiệp định đối tác tự nguyện
- FLEGT “tăng cường thực thi luật lâm nghiệp, quản trị rừng và buôn bán gỗ” và Mỹ
18
đã bắt đầu áp dụng đạo luật Lacey (có hiệu lực từ 15/12/2008), cấm buôn bán các loài
cây và sản sản phẩm liên quan có nguồn gốc bất hợp pháp. Cả hai đều buộc các nhà
xuất khẩu lâm sản phải nhận dạng nguồn gốc gỗ bất hợp pháp và ứng dụng hệ thống
bảo đảm tính hợp pháp của gỗ.
- Sự gia tăng sức ép của người tiêu dùng ở các nước phát triển, các nhà nhập khẩu
đồ gỗ yêu cầu nhà xuất khẩu phải chế biến sản phẩm từ nguồn gỗ “sạch”, không ảnh
hưởng đến môi trường sinh thái, có các chứng nhận của Hội đồng quản trị rừng thế
giới FSC (Forest Stewardship Council), điều mà không dễ thực hiện đối với thực trạng

quản lý rừng tại Việt Nam và các doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam đang phụ thuộc
chủ yếu vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu với tỷ trọng không nhỏ thường không có
nguồn gốc rõ ràng. Theo như số liệu công bố trên website của FSC, đến cuối tháng
3/2008 Việt Nam mới có 151/2.500 cơ sở chế biến gỗ được cấp giấy chứng nhận quản
lý rừng bền vững FSC-CoC và FSC.
- Trở thành thành viên của WTO, bên cạnh những cơ hội ngành công nghiệp chế
biến gỗ Việt Nam ngày càng phải đối mặt nhiều hơn với các mặt hàng gỗ của các nước
cả ở thị trường trong và ngoài nước. Các lợi thế tương đối của ngành công nghiệp chế
biến gỗ Việt Nam như lao động dồi đào, khéo léo, giá nhân công rẻ, chi phí thấp … sẽ
bị hạn chế bởi các sản phẩm tương tự của các nước có điều kiện tương đồng, đặc biệt
áp lực cạnh tranh từ Trung Quốc, Đài Loan và các nước trong khu vực như Thái Lan,
Indonesia, Malaysia … Chỉ tính riêng Trung Quốc đã có trên 50.000 cơ sở sản xuất với
hơn 50 triệu nhân công và sản xuất với doanh số gần 20 tỷ USD/năm.
- Sản xuất đồ gỗ trên thế giới hiện là ngành hàng tăng trưởng với tốc độ rất nhanh
2.2.2 Công nghiệp chế biến gỗ ở việt nam
Trong những năm qua, ngành công nghiệp chế biến gỗ đã có bước phát triển vượt
bậc, kim ngạch xuất khẩu hàng năm tăng 30 - 40%, đã đưa Việt Nam trở thành một
trong những quốc gia xuất khẩu đồ gỗ hàng đầu trong khu vực và thế giới. Hiện cả
nước có 2.562 doanh nghiệp chế biến gỗ và 27.000 cơ sở chế biến gỗ nhỏ lẻ, trong đó
có 421 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài . Đã hình thành các cụm công nghiệp
chế biến gỗ có quy mô lớn, gồm: cụm các tỉnh miền Đông Nam Bộ, gồm TP.HCM,
Đồng Nai và Bình Dương; cụm các tỉnh Tây Nguyên và Nam Trung Bộ; cụm Hà Nội
và các tỉnh lân cận. Trong đó, cụm các tỉnh miền Đông Nam Bộ trở thành một khu liên
hợp chế biến đồ gỗ cao cấp, lớn nhất nước.
19
Bảng

2.3

Phân


bố

doanh

nghiệp

chế

biến



phân

bố

rừng

sản

xuấ
t
Đơn vị tính: ha
Vùng
Diện

tích

rừng


sản

xuấ
t
Diện


ch

(ha) Cơ

cấu

(%)
Cả

nước 4.787.711 100 2526
Miền

Bắc 2.045.252 42,71 497
Tây

Bắc 105.018 2,20 216
Đông

bắc 1.110.777 23,18 135
ĐB

Sông


Hồng 14.559 0,23 216
Bắc

Trung

bộ 841.898 17,56 127
Miền

Nam 2.415.495 50,29 2029
DH

Nam

Trung

bộ 378.520 7,90 185
Tây

nguyên 1.639.975 34,23 185
Đông

Nam

bộ 214.875 4,47 1493
ĐB

Sông

Cửu


Long 182.089 3,69 166
Nguồn: Trên internet

Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, năng lực sản xuất của ngành công nghiệp
chế biến gỗ ước đạt trên 7 triệu m3 gỗ tròn/năm; trong đó, của các nhà máy băm dăm
mảnh khoảng 4 triệu m3, sản xuất gỗ xẻ khoảng 3 triệu m3 và tổng công suất thiết kế
sản phẩm gỗ khoảng 2 - 2,5 triệu m3 sản phẩm. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ đã
tăng từ 219 triệu USD năm 2000 lên 2,4 tỷ USD năm 2007 và năm 2008 là 2,8 tỷ USD.
Sản phẩm gỗ của Việt Nam đã có mặt trên thị trường của 120 quốc gia. Một số thị
trường lớn tiêu thụ sản phẩm gỗ của Việt Nam như Mỹ chiếm 41%, EU 28% và Nhật
12,8% tổng giá trị sản phẩm gỗ xuất khẩu của VN.
Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam
được chia thành 4 nhóm chính:
- Nhóm thứ nhất: Nhóm sản phẩm đồ gỗ ngoài trời, bao gồm các loại bàn ghế sân
vườn, ghế băng, che nắng, ghế xích đu … làm hoàn toàn từ gỗ hoặc kết hợp với các vật
liệu khác như sắt, nhôm, nhựa. Đây là nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
hiện nay, chiếm đến 90% kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ.
- Nhóm thứ hai: Nhóm sản phẩm đồ gỗ trong nhà, bao gồm các loại bàn ghế,
giường tủ, giá kê sách, đồ chơi, ván sàn … làm hoàn toàn từ gỗ hoặc gỗ kết hợp với
20
các vật liệu khác như da, vải, kim loại, song mây. Nhóm hàng này đang có sự tăng
trưởng nhanh trong những năm gần đây, chủ yếu xuất sang thị trường Mỹ.
- Nhóm thứ ba: Nhóm đồ mỹ nghệ, chủ yếu từ gỗ rừng tự nhiên bao gồm bàn, ghế,
tủ và các vật dụng nội thất khác, sử dụng các công nghệ chạm, khắc, khảm. Kim ngạch
xuất khẩu hàng năm đạt khoảng 30 triệu USD.
- Nhóm thứ tư: Sản phẩm dăm gỗ, sản xuất từ gỗ rừng trồng mọc nhanh như các
loại gỗ keo tai tượng, keo lai, keo lá tràm, gỗ bạch đàn … Chiếm 21 - 23% tổng kim
ngạch xuất khẩu của ngành công nghiệp chế biến gỗ. Thị trường xuất khẩu chủ yếu,
gồm: Nhật 55,7%, Hàn Quốc 5,6%, Đài Loan 3,7% và Trung Quốc 35%.

 Những hạn chế và tồn tại của ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam
- Quy hoạch, phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ chưa bền vững. Trong số
2.526 doanh nghiệp chế biến gỗ thì miền Bắc chỉ chiếm 14%, vùng Bắc Trung Bộ
chiếm 6%, còn lại 80% tập trung ở Vùng duyên hải Trung Bộ và miền Nam. Trong khi
đó, phần lớn các dự án trồng rừng nguyên liệu được tập trung ở khu vực các tỉnh phía
Bắc. Ngành công nghiệp phù trợ (sản xuất đồ cơ khí, sơn, keo, các loại giấy ...) hiện
đang rất yếu.
Bảng 2.4 Biểu đồ phấn bố các doanh nghiệp chế biến gỗ ở Việt Nam

21
- Hiệu quả kinh doanh thấp. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2005, 1
đồng vốn đầu tư tạo ra 9,67 đồng giá trị sản xuất Theo số liệu điều tra điển hình 60
doanh nghiệp chế biến đồ gỗ xuất khẩu của tỉnh Bình Định cho thấy chỉ tiêu này còn
thấp hơn: năm 2006 là 3,18 đồng, năm 2007 là 3,7 đồng và năm 2008 là 4,0 đồng.
Theo tính toán của các chuyên gia ngành gỗ, tỷ suất lợi nhuận/vốn bình quân toàn
ngành đạt 2,5%; trong đó, các doanh nghiệp phía Nam đạt 5,48% và các doanh nghiệp
phía Bắc chỉ đạt 0,04% Đại bộ phận các doanh nghiệp trong tình trạng thua lỗ, lớn nhất
là các doanh nghiệp vùng Tây Bắc đến - 6,8%. Doanh nghiệp vùng Duyên Hải Nam
Trung Bộ có tỷ suất lợi nhuận cao nhất 9,24%, tiếp đến là vùng Đông Nam Bộ 3,28%
và các doanh nghiệp vùng Tây Nguyên cũng trong tình trạng lỗ, với tỷ suất lợi nhuận
bình quân - 0,35%
- Khó khăn về tài chính. Đa số các doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam thuộc dạng
doanh nghiệp nhỏ, gặp khó khăn về vốn. Các doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu rất thấp
chỉ vào khoảng trên dưới 20%, trong khi đó nợ phải trả chiếm đến 70%. Phần lớn tài
sản dưới dạng vốn lưu động là nguyên vật liệu dự trữ, thành phẩm và công nợ trong
thanh toán.
- Năng lực cạnh tranh các sản phẩm gỗ Việt Nam yếu hơn các sản phẩm của Trung
Quốc, Đài Loan, Malaysia và Thái Lan. Chất lượng mặt hàng gỗ Việt Nam nhìn chung
chưa cao, mẫu mã còn đơn điệu, chưa thật sự phong phú, đa dạng và còn lệ thuộc vào
mẫu mã của nước ngoài nên kém sức cạnh tranh. Các doanh nghiệp chưa thực sự chú

trọng đến đầu tư công nghệ, đào tạo lao động và thiếu các nhà thiết kế sản phẩm có tính
chuyên nghiệp để tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, mang bản sắc riêng và đáp
ứng được yêu cầu của thị trường.
- Hầu hết các doanh nghiệp đều thiếu cán bộ quản lý, kỹ sư giỏi và công nhân lành
nghề, dẫn đến năng suất lao động thấp, hiệu quả sản xuất không cao. Hiện năng suất
của ngành công nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu Việt Nam chỉ xấp xỉ bằng 25% của Châu
Âu và chưa đến 50% của Trung Quốc. Tỷ lệ lao động có trình độ đại học chỉ chiếm
3%, công nhân kỹ thuật gần 30%, số còn lại gần 70% hầu hết là lao động phổ thông.
Giá trị xuất khẩu của ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam hiện chỉ đạt dưới
10.000 USD/công nhân/năm, trong khi tại Trung Quốc là 16.000 USD, Malaysia là
17.000 USD
22
- Thách thức từ thiếu nguyên liệu. Với 80% nguyên liệu gỗ lệ thuộc vào bên ngoài,
ước mỗi năm Việt Nam phải nhập khẩu khoảng 5 - 6 triệu m3 với giá cao hơn rất nhiều
so với giá nguyên liệu cùng loại trong nước. Theo kết quả điều tra của dự án GTZ được
thực hiện tại Bình Định và khu vực Tây Nguyên công suất của các nhà máy chế biến
gỗ chỉ đạt khoảng 50%, nguyên nhân chủ yếu là do thiếu nguyên liệu. Việc phụ thuộc
vào nguyên liệu gỗ nhập khẩu khiến các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với nhiều khó
khăn và cũng chính là yếu điểm lớn nhất của ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam
hiện nay.
- Năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam còn yếu. Phần
lớn các doanh nghiệp chưa sẵn sàng cho quá trình hội nhập, thiếu chiến lược và các
chính sách thích ứng để thâm nhập vào thị trường thế giới. Mức độ phổ cập thông tin
liên quan đến WTO và các quy định quốc tế về quản lý lâm nghiệp bền vững tới các
doanh nghiệp còn thiếu và chưa đồng bộ.
2.2.3 Công tác chế biến gỗ tại Daklak
- Hoạt động chế biến lâm sản ở DakLak thiếu bền vững bởi công nghiệp chế biến
thô sơ, chưa được đầu tư chiều sâu. Từ năm 2001 đến nay, giá trị sản xuất ngành chế
biến lâm sản của tỉnh DakLak chiếm 25-30% giá trị sản xuất công nghiệp chế biến và
50-60% giá trị chế biến nông, lâm sản; kim ngạch xuất khẩu đạt 6-7,5 triệu USD. Tuy

nhiên, tốc độ tăng trưởng của ngành này đang chững lại.
- Một thực trạng buồn là DakLak hiện có 506 cơ sở chế biến gỗ và sản xuất đồ
mộc, tạo việc làm cho gần 18.000 lao động, tổng doanh thu 250 tỷ đồng/năm. Tuy
nhiên, năng lực chế biến yếu kém, sản xuất manh mún, quy trình công nghệ lạc hậu,
mức độ cơ giới hóa chưa cao, sản phẩm tinh chế thấp... là thực trạng buồn của ngành
hiện nay. Không những thế, qua kiểm tra hầu hết các đơn vị này đều không chấp hành
và đảm bảo đầy đủ các điều kiện sản xuất, kinh doanh. Trong số trên 500 cơ sở thì chỉ
có 83 cơ sở là của doanh nghiệp và cũng chỉ có 15 doanh nghiệp đầu tư máy móc thiết
bị tương đối hoàn chỉnh, sản xuất các sản phẩm đồ mộc tinh chế, ván nhân tạo. Số còn
lại đa phần máy móc thiết bị đã lạc hậu, chủ yếu chỉ là sơ chế sản phẩm.
- Bên cạnh đó, không ít cơ sở chế biến có hành vi tiêu thụ gỗ lậu, tiếp tay cho lâm
tặc, khiến tình trạng khai thác gỗ, phá rừng trái phép ngày càng nóng bỏng. Mặc dù
UBND tỉnh DakLak đã chỉ đạo các ngành chức năng tăng cường công tác kiểm tra,
chấn chỉnh, xử lý và tổ chức di dời các cơ sở này ra khỏi rừng nhằm lập lại trật tự trong
23
hoạt động sản xuất nhưng vẫn chưa đạt quả kết như mong muốn. Ngoài ra, nhiều cơ sở
không thực hiện quy định về treo biển hiệu nên rất khó khăn trong kiểm tra, kiểm soát
nguồn gỗ nhập xuất xưởng, đặc biệt là các cơ sở mộc sản xuất ngay trong nhà ở của
các hộ kinh doanh cá thể.
- Hiện có trên 120 cơ sở sản xuất mộc nằm trong khu dân cư, hoạt động sản xuất
vừa thiếu ổn định, vừa không tuân thủ, chấp hành đầy đủ các điều kiện theo đúng quy
định về nhà xưởng, gây ô nhiễm môi trường.
- Thực trạng chế biến gỗ của tỉnh DakLak cho thấy, do các doanh nghiệp thiếu đầu
tư chiều sâu cho công nghệ, máy móc nên vừa ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế, vừa
lãng phí tài nguyên. Trong khi nguồn gỗ tự nhiên ngày càng hạn hẹp, theo quy hoạch
chỉ còn khả năng cung cấp 15.000 m3/năm (giai đoạn 2016-2020) thì việc tiết kiệm gỗ,
chống thất thoát lãng phí trong chế biến là yêu cầu cấp thiết.
- Hiện đại máy móc, ưu tiên đầu tư tăng quy mô, công suất cho các cơ sở có đủ
năng lực về cơ sở vật chất, nguồn nhân lực, chủ động nguồn nguyên liệu cũng là giải
pháp được chú trọng nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp này phát triển. Theo Đề án

Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản đến năm 2015, ngành chế biến gỗ
DakLak sẽ có sự sắp xếp, củng cố lại theo các tiêu chí: không gần rừng, không gây ô
nhiễm môi trường, không gần khu dân cư; phân bố hợp lý trên địa bàn các huyện, thị
xã, thành phố; ưu tiên phát triển đối với những cơ sở có vùng nguyên liệu ổn định,
khuyến khích doanh nghiệp đầu tư dây chuyền công nghệ hiện đại, nâng cao giá trị
xuất khẩu bằng các sản phẩm tinh chế.
24
PHẦN THỨ BA:
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Tổng quan về công ty cổ phần chế biến gỗ cao su Daklak
3.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của công ty cổ phần chế biến gỗ cao su
Daklak
Tiền thân của Công ty cổ phần chế biến gỗ cao su Daklak là Công ty trách nhiệm
hữu hạn Cao Lâm giấy phép số : 001418 DP/TLDN-02 do Uỷ ban Nhân dân Tỉnh
Đaklak cấp ngày 22/02/1995. Giấy phép kinh doanh số 04442 do Sở kế hoạch và Đầu
tư Tỉnh Daklak cấp ngày 15/3/1995 . Năm 2002 giải thể Công ty Cao Lâm.
Xí nghiệp chế biến gỗ cao su trực thuộc Công ty cao su Daklak được thành lập
theo quyết định số : 128/QĐ-CT ngày 26 tháng 6 năm 2002 của Công ty cao su
Daklak.
Công ty cổ phần chế biến gỗ cao su Daklak được thành lập theo quyết định số
1515/QĐ-UBND ngày 06 tháng tháng 7 năm 2007 của Uỷ ban Nhân dân Tỉnh Daklak
“V/v phê duyệt phương án và chuyển Xí nghiệp chế biến gỗ thuộc Công ty cao su
Daklak thành Công ty cổ phần chế biến gỗ cao su Daklak. Giấy chứng nhận kinh doanh
số: 40.03.000167 do Sở kế hoạch và đầu tư Tỉnh Daklak cấp ngày 31 tháng 12 năm
2007.
- Tên doanh nghiệp: Công ty cổ phần chế biến gỗ cao su Daklak
- Tên giao dịch quốc tế: Daklak Rubber Wood Processing Joint-stock Company.
- Tên viết tắt: Dakruwood
- Địa chỉ: Km 19, Quốc lộ 14, Xã ÊaDrơng, Huyện CưM’gar, Tỉnh Daklak.
- Điện thoại: (0500) 3536135 – 3536034

- Fax: (0500) 3536171
Qua một quá trình hình thành và phát triển từ năm 1995 đến nay Công ty đã
có sự phát triển về mặt quy mô cũng như chức năng nhiệm vụ.
3.1.2 Chức năng, nhiệm vụ của Công ty
 Chức năng của công ty cổ phần chế biến gỗ cao su Daklak là:
- Khai thác chế biến gỗ cao su xuất khẩu và tiêu thụ nội địa.
- Khai thác chế biến gỗ rừng trồng và các loại lâm sản khác.
25

×