[Type text] Page 1
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ TP.HCM
KHOA SƯ PHẠM DẠY NGHỀ
o0o
BÀI TẬP KẾT THÚC
MÔN: GIÁO DỤC HỌC NGHỀ NGHIỆP
Đề tài:Dựa trên bốn nội dung đã học các thầy/cô hãy cho biết
người giáo viên dạy nghề cần phải như thế nào để sinh viên khi ra
trường vừa có tay nghề cao, nhân cách đạo đức tốt.
HVTH: Hoàng Mạnh Hưng
Email:
Đơn vị công tác: Trung tâm dạy nghề và GTVL
vinhempich
Lớp: Nghiệp vụ sư phạm nghề
GVHD: Ths. Phan Vũ Nguyên Khương
TP.HCM, Ngày 08/01/2012
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ TP.HCM
KHOA SƯ PHẠM DẠY NGHỀ
o0o
BÀI TẬP KẾT THÚC
MÔN: GIÁO DỤC HỌC NGHỀ NGHIỆP
Đề tài:Dựa trên bốn nội dung đã học các thầy/cô hãy cho biết
người giáo viên dạy nghề cần phải như thế nào để sinh viên khi ra
trường vừa có tay nghề cao, nhân cách đạo đức tốt.
HVTH: Hoàng Mạnh Hưng
Email:
Đơn vị công tác: Trung tâm dạy nghề và GTVL
vinhempich
Lớp: Nghiệp vụ sư phạm nghề
GVHD: Ths. Phan Vũ Nguyên Khương
TP.HCM, Ngày 08/01/2012
Mục lục
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ TP.HCM
KHOA SƯ PHẠM DẠY NGHỀ
o0o
BÀI TẬP KẾT THÚC
MÔN: GIÁO DỤC HỌC NGHỀ NGHIỆP
Đề tài:Dựa trên bốn nội dung đã học các thầy/cô hãy cho biết
người giáo viên dạy nghề cần phải như thế nào để sinh viên khi ra
trường vừa có tay nghề cao, nhân cách đạo đức tốt.
HVTH: Hoàng Mạnh Hưng
Email:
Đơn vị công tác: Trung tâm dạy nghề và GTVL
vinhempich
Lớp: Nghiệp vụ sư phạm nghề
GVHD: Ths. Phan Vũ Nguyên Khương
TP.HCM, Ngày 08/01/2012
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ TP.HCM
KHOA SƯ PHẠM DẠY NGHỀ
o0o
BÀI TẬP KẾT THÚC
MÔN: GIÁO DỤC HỌC NGHỀ NGHIỆP
Đề tài:Dựa trên bốn nội dung đã học các thầy/cô hãy cho biết
người giáo viên dạy nghề cần phải như thế nào để sinh viên khi ra
trường vừa có tay nghề cao, nhân cách đạo đức tốt.
HVTH: Hoàng Mạnh Hưng
Email:
Đơn vị công tác: Trung tâm dạy nghề và GTVL
vinhempich
Lớp: Nghiệp vụ sư phạm nghề
GVHD: Ths. Phan Vũ Nguyên Khương
TP.HCM, Ngày 08/01/2012
Tiểu luận môn: giáo dục học nghề 21/01/2013
TP.HCM, Ngày 08/01/2012
Học sinh, sinh viên học nghề thường bao gồm những thanh niên đã tốt nghiệp phổ thông
trung học, một số ít sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở có tham gia lao động ở các lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội hoặc vừa hoàn thành nghĩa vụ quân sự để được vào
học các trường dạy nghề (độ tuổi khoảng từ 17 đến 20). Đó là những người ở độ tuổi
sung sức, có thể chất phát triển nhất trong cuộc đời.Trong gia đình, vị trí của thanh niên
hoàn toàn khác trước. Ở lứa tuổi này thanh niên được tham gia bàn bạc với cha mẹ, các
anh chị về nội dung của một số việc chủ yếu trong gia đình. Ở ngoài xã hội, ở lứa tuổi
này người thanh niên bắt đầu trở thành công dân một nước. Trách nhiệm và nghĩa vụ xã
hội của mỗi cá nhân đã được xác định. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra với thanh niên học
nghề cũng cao hơn và phong phú hơn trước đây.
Quá trình học tập ở các trường dạy nghề đòi hỏi các em phải tách khỏi cuộc sống gia
đình và gắn liền với tập thể trong mọi hoạt động từ học tập, sinh hoạt, ăn ở đến lao động,
hội họp. Vì vậy, trong mọi hoạt động, các em phải điều chỉnh các hành vi, cử chỉ của
mình cho thích hợp với cuộc sống tập thể. Thời gian học tập 2 năm đến 3 năm trong các
trường dạy nghề chính là thời kỳ thay đổi lớn lao về nhiều mặt trong đời sống tâm lý của
các em như: sự tự ý thức, nhu cầu, động cơ, hứng thú, lý tưởng, niềm tin, ước mơ kỹ
thuật và định hướng tương lai được thể hiện rõ ràng; đặc biệt, mặt nhận thức, mặt tình
cảm và các đặc điểm tính cách được phát triển cho phù hợp với yêu cầu của kỹ thuật -
nghề nghiệp trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Do sự hoàn thiện của hệ thần kinh mà khả năng nhận thức của thanh niên học nghề rất
phát triển. Sự tiếp thu tri thức nghề nghiệp và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp
được gắn liền với việc rèn luyện các phẩm chất đạo đức của thanh niên học nghề. Được
sống và học tập trong trường dạy nghề với điều kiện mới mà ở các em động cơ học tập
và khuynh hướng nghề nghiệp được ình thành, phát triển, biểu hiện một cách tích cực.
Trong thanh niên học sinh học nghề, còn có một loại tình cảm mới chớm nở nhưng
khác hẳn thanh niên học sinh phổ thông một lòng yêu nghề. Nhìn
Hoàng Mạnh Hưng Trang 3
Tiểu luận môn: giáo dục dạy nghề 21/01/2013
chung, lòng yêu nghề càng ngày càng được hình thành và phát triển đúng đắn trong quá
trình học tập tại các trường dạy nghề và sau này khi trực tiếp tham gia lao động sản xuất.
Khi nguyện vọng của học sinh phù hợp với sự phân công công việc của tổ chức và khi
thanh niên ý thức rõ ràng trách nhiệm của mình trước đòi hỏi của xã hội thì lòng yêu
nghề có cơ sở để phát triển. Nhờ có lòng yêu nghề mà học sinh yên tâm học tập, hăng say
học tập và lao động, công tác cũng như tu dưỡng. Lý tưởng của thanh niên học nghề cũng
được hình thành khá rõ rệt, nhất là sau khi họ đã xác định được con đường lao động và
học tập cho cả cuộc đời. Sống để làm gì, cho ai, đó là câu hỏi trả lời cho lý tưởng. Vì vậy
các giáo viên trong các trường dạy nghề cần giúp cho học sinh nhận thức rõ điều đó để
các em có thể tập trung vào học tập, tu dưỡng, giúp các em có cơ sở để xây dựng tình yêu
chân chính và tạo dựng cuộc sống hạnh phúc.
Lý tưởng của thanh niên học nghề cũng được hình thành khá rõ rệt, nhất là sau khi họ đã
xác định được con đường lao động và học tập cho cả cuộc đời. Sống để làm gì, cho ai,
đó là câu hỏi trả lời cho lý tưởng. Sự hình thành thế giới quan và lý tưởng có ảnh hưởng
trực tiếp đến việc tạo nên các niềm tin trong thanh niên học nghề. Nhờ có những hiểu
biết nhất định mà niềm tin của thanh niên học nghề đã có cơ sở. Niềm tin của thanh niên
học nghề dễ nhận thấy, không chỉ biểu hiện ở sự trao đổi, tranh luận mà còn biểu hiện cụ
thể ở sự hăng hái, nhiệt tình trong hành động của họ. Sở dĩ như vậy là vì niềm tin ở
thanh niên khá tuyệt đối và dứt khoát, ranh giới giữa cái tin và sự không tin biểu hiện
khá rõ ràng. Chính vì vậy, khi thanh niên học nghề đã tin vào cái gì, họ thường dốc hết
tâm trí và hành động để thực hiện niềm tin ấy.
Do đặc điểm của lứa tuổi, thanh niên học nghề thường có hứng thú riêng, trong đó nổi
bật lên là hứng thú nhận thức. Họ là những người ham hiểu biết, cho nên, hứng thú của
họ không chỉ bó hẹp trong việc tiếp thu các kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp mà còn vượt
ra xa khỏi phạm vi nghiên cứu. Điểm nổi bật trong hứng thú của họ là rất thích những
cái mới. Vì thế, sự tiếp thu những cái mới ở họ thường rất nhanh (nhưng lại thường ít có
sự chọn lọc). Do đặc điểm dễ nắm bắt những cái mới nên những giáo viên trong các
trường nghề phải làm cho các em thấy được những cái mới nào là có lợi, là phù hợp và
cái mới nào là có hại, là xa lạ với chúng ta. Có nhận thức đúng về cái mới thì ở các em
mới có hành động theo cái mới một cách đúng đắn. Mặt khác, khi những biểu hiện lệch
lạc trong việc tiếp thu và hành động theo cái mới đã nảy nở ở thanh niên học nghề, ta
cần tìm hiểu để nắm được nguyên nhân xảy ra, mức độ thể hiện và phạm vi có hại của
nó để tìm các biện pháp thích hợp uốn nắn họ.
Hoàng Mạnh Hưng Trang -2-
Tiểu luận môn: giáo dục học nghề 21/01/2013
Do đặc điểm dễ nắm bắt những cái mới nên những giáo viên trong các trường nghề phải
làm cho các em thấy được những cái mới nào là có lợi, là phù hợp và cái mới nào là có
hại, là xa lạ với chúng ta. Có nhận thức đúng về cái mới thì ở các em mới có hành động
theo cái mới một cách đúng đắn. Mặt khác, khi những biểu hiện lệch lạc trong việc tiếp
thu và hành động theo cái mới đã nảy nở ở thanh niên học nghề, ta cần tìm hiểu để nắm
được nguyên nhân xảy ra, mức độ thể hiện và phạm vi có hại của nó để tìm các biện
pháp thích hợp uốn nắn họ.
Giáo dục nước nhà đang trong cơn chuyển mình để tìm ra con đường phát triển cho
chính mình và cho cả tương lai dân tộc. Trong cuộc chuyển mình đó, thầy cô giáo nói
chung và đội ngũ giảng viên nói riêng đóng vai trò là những người tiên phong vì chất
lượng giáo dục nước nhà. Trong bối cảnh như hiện nay, người giáo (giảng) viên có 3 vai
trò chính: Nhà giáo, Nhà khoa học, Nhà cung ứng dịch vụ cho xã hội.
Giảng viên - Nhà giáo: Đây là vai trò truyền thống, nhưng quan trọng và tiên quyết đối
với một giảng viên. Một giảng viên giỏi trước hết phải là một người Thầy giỏi. Thế nào
là một người thầy giỏi? Đó là một người uyên bác về kiến thức chuyên ngành mà mình
giảng dạy? –
Đúng nhưng chưa đủ, uyên bác về kiến thức chuyên môn mới chỉ là điều kiện cần, chứ
chưa phải điều kiện đủ cho một thầy giáo giỏi. Theo các nhà giáo dục thế giới thì một
giảng viên toàn diện là người có (được trang bị) 4 nhóm kiến thức, kỹ năng sau: kiến
thức chuyên ngành, kiến thức về chương trình đào tạo, kiến thức về kỹ năng dạy và học,
Kiến thức về môi trường giáo dục, hệ thống giáo dục, mục tiêu giáo dục, giá trị giáo
dục…
Giảng viên – nhà khoa học: Ở vai trị thứ hai này, giảng viên thực hiện vai trò nhà khoa
học với chức năng giải thích và dự báo các vấn đề của tự nhiên và xã hội mà loài người
và khoa học chưa có lời giải. Nghiên cứu khoa học, tìm cách ứng dụng các kết quả
nghiên cứu khoa học về thực tiễn đời sống và công bố các kết quả nghiên cứu cho cộng
đồng nói chung là ba chức năng chính của một nhà khoa học. Từ đây có hai xu hướng
Hoàng Mạnh Hưng Trang 3
Tiểu luận môn: giáo dục học nghề 21/01/2013
nghiên cứu chính: nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng . Khác với nghiên cứu cơ
bản mang tính giải thích và dự báo các vấn đề chưa khai phá của tự nhiên và xã hội,
nghiên cứu ứng dụng là loại nghiên cứu hướng đến việc ứng dụng các kết quả của
nghiên cứu cơ bản vào giải quyết các vấn đề cụ thể của xã hội. Thông thường nghiên
cứu cơ bản được coi là vai trò chính của các giảng viên. Còn nghiên cứu ứng dụng mang
tính công nghệ thường là kết quả của mối liên kết giữa các nhà khoa học và nhà ứng
dụng (các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội). Do vậy nghiên cứu ứng dụng thường có
màu sắc của các dự án tư vấn được đặt hàng bởi cộng đồng doanh nghiệp và do doanh
nghiệp tài trợ.
Trong bối cảnh hiện nay, khi chưa có nhiều điều kiện đầu tư cho nghiên cứu cơ bản,
chúng ta cần có chiến lược tận dụng kết quả nghiên cứu cơ bản của các quốc gia tiên
tiến. Do vậy, có thể trong giai đoạn hiện nay, chúng ta nên khuyến khích các giảng viên
thực hiện các nghiên cứu mang tính tổng kết lý thuyết ngành và tìm ra những hướng ứng
dụng của các lý thuyết này. Thực tế tổng kết lý thuyết là công việc đầu tiên và hết sức
quan trọng của mỗi nhà nghiên cứu, nó mang lại những kiến thức hết sức quan trọng về
thành tựu khoa học trong từng chuyên ngành và các định hướng nghiên cứu của từng
ngành. Đặc biệt, giảng viên phải hướng và dạy cho sinh viên có khả năng tự học, tự
nghiên cứu để tìm ra những cái mới và không bị lạc hậu đối với sự phát triển như vũ bão
của nền văn hóa nhân loại hiện nay và cho cả tương lai.
Giảng viên – nhà cung ứng dịch vụ cho xã hội: Đây là một vai trò mà rất nhiều giảng
viên
Việt Nam đang thực hiện – nó cũng là một vai trò mà xã hội đánh giá cao và kỳ vọng ở
các giảng viên. Ở vai trò này, giảng viên cung ứng các dịch vụ của mình cho nhà trường,
cho sinh viên, cho các tổ chức xã hội đoàn thể, cho cộng đồng và cho xã hội nói chung.
Cụ thể đối với nhà trường và sinh viên, một giảng viên cần thực hiện các dịch vụ như
Hoàng Mạnh Hưng Trang 4
Tiểu luận môn: giáo dục học nghề 21/01/2013
tham gia công tác quản lý, công việc hành chính, cố vấn cho sinh viên, liên hệ thực tập,
tìm chỗ làm cho sinh viên… Đối với cộng đồng, giảng viên trong vai trò của một chuyên
gia cũng thực hiện các dịch vụ như tư vấn, cung cấp thông tin, viết báo. Trong chức
năng này, giảng viên đóng vai trò là cầu nối giữa khoa học và xã hội, để đưa nhanh các
kiến thức khoa học vào đời sống cộng đồng.
Mô hình ba chức năng là cái đích để phấn đấu và đầu tư. Hiện nay và trong tương lai gần
một yếu tố quan trọng nữa cũng cần phải được đưa vào mô hình một yếu tố Quốc tế hóa.
Nghĩa là vai trò của các giảng viên hay các trường sẽ không còn giới hạn trong phạm vi
quốc gia, mà tầm hoạt động phải hướng đến một không gian toàn cầu, phi biên giới.
Điều này là hiện thực gần khi hợp tác, chuyên môn hóa và giao lưu kinh tế – xã hội đang
diễn ra trên phạm vi toàn cầu và ngày càng mãnh liệt. Nhu cầu phát triển đòi hỏi lực đẩy
lớn từ hệ thống giáo dục. Xã hội hội nhập toàn cầu thì giáo dục không thể không hội
nhập nếu không muốn nói là giáo dục phải đi trước trong hội nhập.
Giáo viên dạy nghề là người làm công tác giảng dạy và giáo dục ở các cơ sở dạy nghề.
Đối tượng lao động sư phạm của người GVDN là nhân cách người học nghề. Đó là con
người đang trong thời kì chuẩn bị, đang ở buổi bình minh của cuộc đời mà xã hội tương
lai mạnh hay yếu, phát triển hay trì trệ đều tuỳ thuộc vào nội dung và chất lượng của thời
kì chuẩn bị này. Thực chất nội dung của thời kì chuẩn bị này là hình thành những phẩm
chất và năng lực của con người mới, đáp ứng được nhu cầu của xã hội đang phát triển.
Hoạt động chính của thầy giáo là tổ chức và điều khiển trẻ lĩnh hội, thông hiểu những
kinh nghiệm, những tinh hoa mà loài người tích luỹ được và biến chúng trở thành những
nét nhân cách của chính mình. Không ai trong xã hội, ngay cả cha mẹ là bậc vĩ nhân đi
nữa cũng không thể thay thế được chức năng của người thầy giáo.
Công cụ lao động của người GVDN:Nghề thầy giáo làm nhiệm vụ dạy học, giáo dục
mà công cụ chủ yếu của lao động sư phạm là nhân cách của chính mình. Trong khi thực
Hoàng Mạnh Hưng Trang 5
Tiểu luận môn: giáo dục học nghề 21/01/2013
hiện nhiệm vụ dạy học và giáo dục, thầy giáo dùng nhân cách của chính mình để tác
động vào nhân cách của học sinh. Đó là phẩm chất chính trị, sự giác ngộ về lí tưởng đào
tạo thế hệ trẻ, lòng yêu nghề, mến trẻ, trình độ học vấn, sự thành thạo về nghề nghiệp,
lối sống, cách xử sự và kĩ năng giao tiếp của thầy giáo. Đó là lí do mà K. D. Uxinkij đã
khẳng định rằng người giáo viên phải: “dùng nhân cách để giáo dục nhân cách”.
Hơn nữa nghề đào tạo con người lại là nghề mà lao động sư phạm diễn ra rất nghiêm túc,
không được phép tạo ra thứ phẩm chứ đừng nói gì là phế phẩm như ở một số nghề khác.
Vì công cụ chủ yếu của lao động sư phạm của người thầy giáo là bản thân nhân cách của
chính mình cho nên nghề thầy giáo đòi hỏi những yêu cầu về phẩm chất và năng lực rất
cao. Nhưng làm sao để có thể có được điều đó? Một giáo viên đã nêu ra câu hỏi rằng
“Thế nào là một giáo viên tốt?” - Theo tôi để trở thành một giáo viên tốt, trước hết cần
phải sống một cuộc sống chân chính, vẹn toàn nhưng đồng thời phải có ý thức và kỹ
năng tự hoàn thiện mình. Tâm hồn của nhà giáo phải được bồi bổ rất nhiều để sau này có
khả năng truyền lại gấp bội cho thế hệ trẻ. Người giáo viên, một mặt là cống hiến, mặt
khác họ như một thứ bọt biển phải thấm hút mình tất cả vào mọi tinh hoa của dân tộc và
thời đại, cuộc sống, khoa học rồi họ lại tiếp tục cống hiến những tinh hoa này cho trẻ.
Sản phẩm chính của nghề dạy học là những con người được trang bị một cách toàn diện
để đi vào cuộc sống theo những chuẩn mực đã định. Đó là những con người có sự biến
đổi về chất so với thời điểm xuất phát của họ xét về mặt nhân cách. Với sản phẩm quý
báu này, theo quan điểm kinh tế, nó đứng hàng thứ hai sau hoạt động khoa học, nó là
một dạng lao động sản xuất đặc thù - lao động sản xuất phi vật chất.
Kết quả lao động sư phạm cũng có nhiều điểm đặc biệt. Hiệu quả lao động của người
thầy sống mãi trong nhân cách của người học, nên lao động sư phạm vừa mang tính tập
thể rất sâu, vừa mang dấu ấn cá nhân rất đậm. Vì vậy, nó đòi hỏi một tinh thần trách
nhiệm cao và sự am hiểu nghề nghiệp nhất định. Tính nghề nghiệp là một đòi hỏi, đồng
thời cũng tạo ra điều kiện để cho người giáo viên tự rèn luyện mình. Chính vì thế, việc
Hoàng Mạnh Hưng Trang 6
Tiểu luận môn: giáo dục học nghề 21/01/2013
xây dựng, nâng cao năng lực đội ngũ nhà giáo là một yêu cầu tất yếu khách quan của xã
hội như Mác nói: "Bản thân nhà giáo dục cũng phải được giáo dục". Vì vậy, để làm tròn
nhiệm vụ, một mặt đòi hỏi người thầy, nhất là người thầy trong lĩnh vực dạy nghề vừa
phải rèn luyện nhân cách, vừa phải nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề
để có đủ năng lực tham gia trực tiếp vào việc đào tạo nguồn nhân lực cho quốc gia.
Nghề sư phạm đòi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật và sáng tạo cao trong hoạt động của
người giáo viên. Ai có ở trong nghề thầy giáo, có làm việc với đầy đủ tinh thần trách
nhiệm, lương tâm nghề nghiệp cao thượng thì mới cảm thấy hết ý nghĩa của lao động sư
phạm qua một giờ giảng trong khuôn khổ nhà trường. Dạy học sinh biết giải một bài
toán, đặt một câu đúng ngữ pháp, tiến hành làm một thí nghiệm không phải khó nhưng
dạy sao cho các em biết con đường đi đến chân lí, nắm được phương pháp, phát triển trí
tuệ v.v mới là công việc đích thực của ông giáo. Dieterweg một nhà sư phạm học
người Đức đã nhấn mạnh rằng: “Người thầy giáo tồi là người mang đến chân lí có sẵn,
còn người thầy giáo giỏi là người biết dạy học sinh cách đi tìm chân lý”.
Tính khoa học: Tính khoa học được thể hiện trong phương pháp dạy học. Phương pháp
dạy học được coi là một hệ thống các cách thức, thủ thuật, con đường, biện pháp sư
phạm đặc biệt có tính khoa học, tính kỹ thuật và tính nghệ thuật. Giáo viên phải nắm
được những gì tinh túy nhất trong kho tàng văn hoá nhân loại, trong lĩnh vực mà mình
giảng dạy. Phải biết 10 dạy 1. Việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên có thể
tác động được vào tính tích cực học tập của học viên nhằm làm cho họ có khả năng nắm
vững tri thức, linh hoạt trong tư duy, trở thành người năng động, tự chủ và sáng tạo.
Người thầy phải không ngừng mở rộng và đào sâu vốn tri thức của mình. Trình độ học
vấn sâu rộng giúp cho người thầy giáo khả năng định hướng nhanh chóng và chính xác
những vấn đề phức tạp của các cơ sở khoa học mà mình phải dạy cho học viên.
Hoàng Mạnh Hưng Trang 7
Tiểu luận môn: giáo dục học nghề 21/01/2013
Tính nghệ thuật:Thể hiện trước hết ở khả năng diễn đạt, trình bày kiến thức, các tư
tưởng của giáo viên một cách nhẹ nhàng, thoải mái. Nghệ thuật không phải là tuỳ cơ ứng
biến tuỳ tiện. Không được lấy người học làm vật thí nghiệm. Tính nghệ thuật có liên
quan đến trình độ hiểu biết của thầy. Khoa học luôn luôn phát triển. Nếu giáo viên
không nâng cao tầm hiểu biết của mình, không nghiên cứu kỹ những vấn đề đang nảy
sinh mà chỉ bằng lòng với những tài liệu cũ, kiểu dạy cũ thì không thể có được hứng thú
nhận thức đối với môn học của mình, càng không thể truyền được hứng thú đó cho học
viên. Lao động sư phạm càng có tính nghệ thuật thì càng có tác dụng giáo dục sâu sắc.
Tính sáng tạo: Ở đây đề cập tới những sáng tạo trong nội dung giảng dạy và phương
pháp giảng dạy như: Xây dựng nội dung, chương trình học theo cách tiếp cận mới về
chương trình nghề học gắn với hành, sử dụng các phương pháp dạy học tích cực, Tăng
cường ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng phương tiện kỹ thuật hiện đại trong dạy
học…để đạt được kết quả cuối cùng cao nhất.
Tuy Nhiên, để trở thành một nhà giáo thì theo quy định tại khoản 2 Điều 70 LUẬT
GIÁO DỤC 2005, nhà giáo phải đạt được những tiêu chuẩn sau đây:
Phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt;
Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ;
Đủ sức khoẻ theo yêu cầu nghề nghiệp;
Lý lịch bản thân rõ ràng.
Ngoài những tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật, để tham gia LAO ĐỘNG SƯ
PHẠM, người giáo viên cần phạt đạt được một số yêu cầu sau:
Y êu cầu về phẩm chất của người giáo viên:
Thế giới quan khoa học trong nhân cách người giáo viên: Thế giới quan khoa học
giúp cho người thầy nhìn nhận, đánh giá đúng thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy trong
mối liên hệ biện chứng và là cơ sở hình thành niềm tin và các giá trị nhân văn khác.
Hoàng Mạnh Hưng Trang 8
Tiểu luận môn: giáo dục học nghề 21/01/2013
Lý tưởng:Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ là hạt nhân trong cấu trúc nhân cách người thầy
giáo. Lý tưởng được coi như là “ngôi sao dẫn đường” giúp cho thầy giáo luôn đi lên phía
trước, thấy hết được giá trị lao động của mình đối với thế hệ trẻ. Lý tưởng đào tạo thế hệ
trẻ của người thầy giáo biểu hiện ra ngoài bằng niềm say mê nghề nghiệp, lòng yêu trẻ,
lương tâm nghề nghiệp, sự tận tụy hy sinh với công việc, tác phong làm việc cần cù,
trách nhiệm, lối sống giản dị và chân tình v.v… Những cái đó sẽ tạo nên sức mạnh giúp
thầy vượt qua mọi khó khăn về tinh thần và vật chất, hoàn thành nhiệm vụ đào tạo thế hệ
trẻ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Những cái đó cũng sẽ để lại
những dấu ấn đậm nét trong tâm trí học sinh, nó có tác dụng hướng dẫn, điều khiển quá
trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
Lòng yêu người: Lòng yêu người, mến trẻ là một trong những phẩm chất đạo đức của
con người, một phẩm chất đặc trưng trong nhân cách người thầy giáo vì lòng thương
người đó là đạo lý của cuộc sống. Ở người giáo viên, lòng thương người, yêu trẻ càng
sâu sắc bao nhiêu thì họ càng làm được nhiều việc bấy nhiêu.Lòng yêu trẻ của thầy giáo
được thể hiện một cách sâu sắc ở thái độ, ánh mắt, hành vi và thái độ trong hoạt động sư
phạm.Tuy nhiên, lòng yêu trẻ của người thầy giáo không thể pha trộn với những nét uỷ
mị, mềm yếu, thiếu đề ra yêu cầu cao và nghiêm khắc đối với trẻ mà ngược lại.Tóm lại,
có thể nói rằng bí quyết thành công của người thầy giáo xuất sắc là bắt nguồn từ một thứ
tình cảm vô cùng sâu sắc - đó là tình yêu trẻ. Khẩu hiệu các trường học hiện nay ở nước
ta “Tất cả vì học sinh thân yêu” cũng là xuất phát từ tình cảm đó.
Lòng yêu nghề:Lòng yêu trẻ và yêu nghề luôn gắn bó chặt chẽ và đan xen vào nhau.
Càng yêu người bao nhiêu càng yêu nghề bấy nhiêu, có yêu người giáo viên mới có cơ
sở để yêu nghề.Có thể nói rằng, chỉ có người giáo viên nào mà họ hiến cả cuộc đời mình
cho sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ, lấy việc hy sinh, phấn đấu để hoàn thành nhiệm vụ đào
tạo con người mới làm hạnh phúc cao cả của cuộc đời mình thì mới có thể thực hiện
được chức năng “người kỹ sư tâm hồn” một cách xứng đáng.
Hoàng Mạnh Hưng Trang 9
Tiểu luận môn: giáo dục học nghề 21/01/2013
Một số phẩm chất đạo đức khác:Khác với các hoạt động khác, hoạt động sư phạm của
người thầy giáo được thực hiện nhằm làm thay đổi nhân cách con người học sinh, do vậy
mối quan hệ thầy trò được nổi lên như một vấn đề quan trọng nhất. Nội dung, tính chất
và cách xử lý mối quan hệ này có ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề dạy học.Nếu người
thầy giáo xây dựng được mối quan hệ tốt với học sinh sao cho qua đó, khơi dậy ở họ tính
tích cực hoạt động thì chắc chắn chất lượng dạy - học sẽ được nâng cao.Để làm được
điều đó, thầy giáo phải biết lấy những quy luật khách quan làm chuẩn mực cho mọi tác
động sư phạm của mình đồng thời phải có những phẩm chất đạo đức và ý chí cần
thiết.Trong những phẩm chất đó, ta có thể nêu lên rằng những phẩm chất đạo đức và ý
thức không thể thiếu ở người giáo viên. Đó là tinh thần nghĩa vụ, “mình vì mọi người,
mọi người vì mình”, thái độ nhân đạo, lòng tôn trọng, tính công bằng, lòng chính trực,
tính ngay thẳng, sự giản dị và khiêm tốn, tính mục đích, tính nguyên tắc, tính kiên nhẫn,
tính tự kiềm chế, kỹ năng biết tự chiến thắng với những thói hư tật xấu, kỹ năng điều
khiển tình cảm, tâm trạng cho thích hợp với các tình huống sư phạm v.v Những phẩm
chất ý chí là sức mạnh để làm cho những phẩm chất, năng lực của người thầy giáo được
trở thành hiện thực và tác động sâu sắc đến học sinh.
Yêu cầu về năng lực sư phạm nghề:Năng lực sư phạm nghề là sự tổ hợp các đặc điểm
tâm lý nhằm đáp ứng yêu cầu hoạt động sư phạm nghề để đào tạo người học nghề với
chất lượng cao".Sau đây ta sẽ xét những yếu tố hợp thành của các nhóm của năng lực sư
phạm nghề của người giáo viên dạy nghề.
Năng lực chuyên môn nghề:Bất cứ làm nghề gì đều đòi hỏi người lao động phải có
năng lực chuyên môn của nghề đó. Nội dung của năng lực chuyên môn ở từng nghề có
sự khác nhau, nhưng cấu trúc của năng lực chuyên môn ở mọi nghề đều giống nhau.
Năng lực chuyên môn nghề là năng lực quan trọng nhất của người dạy nghề, muốn trở
thành GVDN nhất thiết phải có năng lực này. Đó chính là sự am hiểu sâu sắc, tường tận
và vững vàng hệ thống tri thức lý thuyết của nghề, là năng lực cập nhật và làm chủ được
Hoàng Mạnh Hưng Trang 10
Tiểu luận môn: giáo dục học nghề 21/01/2013
những kiến thức, phát minh mới trong khoa học, công nghệ.v.v Đó cũng là tiêu chuẩn
đầu tiên để tuyển chọn giáo viên dạy nghề, đồng thời cũng là yếu tố để phân biệt giáo
viên dạy nghề với giáo viên phổ thông.
Năng lực thực hành nghề:Nhiệm vụ chính của người GVDN không chỉ hướng dẫn,
điều khiển quá trình lĩnh hội kiến thức chuyên mon nghề mà còn tham gia vào quá trình
hướng dẫn, tổ chức cho học sinh học nghề luyện tập, rèn luyện để các em có được những
kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp.Năng lực thực hành nghề, bao gồm: thực hiện thành thạo
các kỹ năng của nghề được phân công giảng dạy; Thực hiện đúng kỹ thuật an toàn, vệ
sinh lao động của nghề.
Năng lực tổ chức, quản lý sản xuất:Ngoài hai yếu tố cơ bản đã phân tích ở trên, giáo
viên cần phải có năng lực tổ chức sản xuất như: lập kế hoạch sản xuất, tính toán nguyên
vật liệu, thiết bị sản xuất, chi phí sản xuất. GVDN cũng phải có khả năng tiếp cận với
thực tế, công nghệ sản xuất mới và hiện đại để đưa vào bài giảng.
Năng lực dạy học:Là năng lực cốt lõi của GVDN. Để tổ chức tốt quá trình dạy học,
người GVDN cần có những năng lực: năng lực hiểu học sinh, năng lực chế biến tài liệu,
năng lực tổ chức thực hiện bài dạy.
Năng lực giao tiếp sư phạm, năng lực giáo dục và năng lực tổ chức quản lý:
Năng lực giao tiếp sư phạm:Năng lực giao tiếp sư phạm của giáo viên được hợp thành
bởi các phẩm chất tâm lý như biết định hướng - định vị cũng như thực thi và kiểm tra
quá trình tiếp xúc với các đối tượng theo mục tiêu sư phạm. Để chuẩn bị được các tiền
đề tâm lý cần thiết cho giao tiếp, chủ thể phải hiểu rõ ràng xem mình đang tiếp xúc với
ai? Họ như thế nào? Tiếp xúc để làm gì? Từ đó, tiến hành xây dựng kế hoạch, chiến
lược, tâm thế và phương tiện - điều kiện cho việc tiếp xúc.Trong các quá trình sư phạm,
việc thực hiện tốt các thao tác giao tiếp sư phạm thực sự là vấn đề khó khăn nhất đối với
mọi giáo viên. Nó đòi hỏi ở mọi giáo viên phải có kỹ năng giao tiếp sư phạm.
Hoàng Mạnh Hưng Trang 11
Tiểu luận môn: giáo dục học nghề 21/01/2013
Năng lực giáo dục:Năng lực giáo dục được cấu thành bởi các phẩm chất tâm lý của các
năng lực bộ phận như: 1) Năng lực cảm hóa, thuyết phục và sai khiến học sinh suy nghĩ,
hành động, quan hệ theo ý tưởng sư phạm; 2) Năng lực khai thác tiềm năng giáo dục
trong các bài giảng và khả năng dùng đạo đức, các phương tiện, điều kiện cần thiết cho
giáo dục toàn diện nhân cách học sinh trong khi thực hiện các nhiệm vụ dạy học.Năng
lực giáo dục được cấu thành bởi các phẩm chất tâm lý của các năng lực bộ phận như: 1)
Năng lực cảm hóa, thuyết phục và sai khiến học sinh suy nghĩ, hành động, quan hệ theo
ý tưởng sư phạm; 2) Năng lực khai thác tiềm năng giáo dục trong các bài giảng và khả
năng dùng đạo đức, các phương tiện, điều kiện cần thiết cho giáo dục toàn diện nhân
cách học sinh trong khi thực hiện các nhiệm vụ dạy học.
Năng lực tổ chức, quản lý quá trình đào tạo:Những phẩm chất của năng lực quản lý này
phải được hiện thực hóa ra trong trong toàn bộ tiến trình hoạt động của người giáo viên
từ thông tin đến kế hoạch hóa, tổ chức lãnh đạo - chỉ đạo thực hiện và kiểm tra - đánh
giá - hiệu chỉnh theo mục tiêu giáo dục.Những phẩm chất của năng lực quản lý này phải
được hiện thực hóa ra trong trong toàn bộ tiến trình hoạt động của người giáo viên từ
thông tin đến kế hoạch hóa, tổ chức lãnh đạo - chỉ đạo thực hiện và kiểm tra - đánh giá -
hiệu chỉnh theo mục tiêu giáo dục.
Như vậy, sau khi đã thỏa được các tiêu chuẩn và yêu cầu được trở thành người GDVDN
thì lúc này người GVDN sẽ bắt đầu thực hiện chức năng“ kỹ sư tam hồn” của mình,
song song đó thì người GVDN cũng phải thực hiện những nhiệm vụ như:
Nhiệm vụ chung:những nhiệm vụ này bao gồm.
Thực hiện đúng các quy định, điều lệ của nhà trường.
Giảng dạy theo đúng mục tiêu, thực hiện đầy đủ và có chất lượng chương trình dạy học.
Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của người giáo viên, tôn trọng nhân cách của học
viên, bảo vệ các quyền lợi chính đáng của học viên.
Hoàng Mạnh Hưng Trang 12
Tiểu luận môn: giáo dục học nghề 21/01/2013
Thường xuyên học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy.
Nhiệm vụ cụ thể:
Giảng dạy để học viên nắm vững kiến thức và hình thành các kỹ năng, kỹ xảo.
Biết được đặc điểm nhân cách của học viên, rèn luyện kỷ luật, tác phong học tập của học
viên.
Liên hệ với thực tế để làm cho nội dung bài giảng thêm phong phú.
Chuẩn bị giáo án, đề cương, tài liệu, các thiết bị, phương tiện dạy học cần thiết.
Lập kế hoạch giảng dạy phù hợp với chương trình.
Áp dụng các phương pháp dạy học hiệu quả, phù hợp với từng đối tượng học viên.
Tổ chức kiểm tra việc học và đánh giá kết quả học tập của học viên.
Phát hiện và hỗ trợ học viên khắc phục các sai sót trong học tập.
Rèn luyện cho học viên có thói quen và tác phong công nghiệp, chủ động và sáng tạo
trong công việc được giao.
Đảm bảo được an toàn lao động cho học viên trong khi thực tập.
Như vậy, Qua những gì đã phân tích ta thấy để sinh viên khi ra trường vừa có tay nghề
cao vừa nhân cách đạo đức tốt thì đòi hỏi ở người GVDN rất nhiều kỹ năng và người
GVDN cũng phải thỏa mãn được rất nhiều các yêu cầu rất khắc khe. Cho nên để có thể
làm tốt trách nhiệm của mình thì người GVDN phải luôn luôn không ngừng rèn luyện
nâng cao và cải thện bản thân mình về mọi mặt. Lòng “tâm huyết, yêu nghề” chhính là
chất xúc tác tuyệt nhiên không thể thiếu để giúp họ vượt quá trình rèn luyện này.
Hoàng Mạnh Hưng Trang 13