Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA PHÁP GIA VÀ VẬN DỤNG TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.43 KB, 17 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI:
TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA PHÁP GIA VÀ VẬN
DỤNG TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. BÙI BÁ LINH
HỌC VIÊN THỰC HIỆN: LÊ MINH TÙNG
LỚP: CAO HỌC K19 - NGÀY 1
THÁNG 12/09
GVHD: TS. Bùi Bá Linh HVTH: Lê Minh Tùng
A TÍNH CẤP BÁCH CỦA ĐỀ TÀI:
Tư tưởng và quan điểm trị nước luôn là một vấn đề quan trọng trong đời sống
chính trị của nhân loại kể từ khi nhà nước và giai cấp xuất hiện đến nay. Trong lịch
sử xã hội cổ đại, đã có nhiều hệ thống quan điểm, tư tưởng chính trị về phương thức
trị nước, trong đó nổi bật là các nhà tư tưởng Hy Lạp và Trung Quốc cổ đại. Đặc biệt
là các nhà tư tưởng chính trị của Trung Quốc cổ đại, trong đó có thể kể đến tư tưởng
của Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia đã mang lại sự phong phú về phương thức
trị nước cho nhà cầm quyền.
Tuy nhiên, không phải cách trị nước nào cũng hoàn hảo và có thể được sử
dụng. Trong xã hội Trung Quốc cổ đại, mặc dù những tư tưởng về cách trị nước của
Khổng Tử, Lão Tử, Tuân Tử, Mạnh Tử, Mặc Tử đã có những giá trị nhất định
trong lịch sử, song sự thành công mà nó mang lại không được như ý muốn trong một
xã hội loạn lạc và luôn xảy ra chiến tranh như xã hội Trung Quốc cổ đại. Trong bối
cảnh đó, tư tưởng Pháp trị của Pháp gia, đặc biệt là tư tưởng của Hàn Phi đã được
Tần Thủy Hoàng sử dụng có hiệu quả trong việc thống nhất Trung Quốc và có vai
trò nhất định trong việc trị nước trong những năm sau đó.
Những giá trị của tư tưởng pháp trị có tác dụng thiết lập pháp luật nhằm ổn
định chính trị và xã hội. Chính vì vậy, trong sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng


Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, cùng với việc đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, nhằm xây dựng nước ta thành một nước “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta còn có một
nhiệm vụ hết sức quan trọng là phải xây dựng và phát triển nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam vững mạnh, làm nền tảng cho sự ổn định và phát triển đất nước. Vì
vậy, việc nghiên cứu tiếp thu có phê phán những tinh hoa tư tưởng về nhà nước và
pháp luật trong lịch sử tư tưởng nhân loại, trong đó có tư tưởng pháp trị của Pháp gia
ở Trung Quốc là rất cần thiết.
Trang 2
GVHD: TS. Bùi Bá Linh HVTH: Lê Minh Tùng
B NỘI DUNG:
I. Tư tưởng pháp trị của Pháp gia:
1. Lịch sử hình thành và phát triển của tư tưởng pháp gia:
Trong sự phát triển lịch sử Trung Quốc cổ đại, triết học Pháp gia giữ vai trò
quan trọng trong việc phát triển xã hội. Triết học pháp gia rất phong phú đa dạng. Đó
là hệ thống quan điểm duy vật thô sơ, biện chứng tự phát về tự nhiên, lịch sử, con
người. Đặt biệt phương pháp lý luận trị nước bằng luật pháp. Đây là học phái triết
học đại biểu cho lợi ích giai cấp địa chủ thời phong kiến, nghiên cứu triết học Pháp
gia chúng ta không thể không kể đến những đại biểu tiêu biểu như: Quản Trọng,
Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng, Hàn Phi Tử. Để hiểu một cách tương đối có
hệ thống về đường lối trị nước của phái Pháp gia ta cần phải tìm hiểu tư tưởng cơ
bản của các nhà pháp trị đã nêu trên cũng như những những luận chứng khá thuyết
phục về sự cần thiết của đường lối Pháp trị.
Tư tưởng trị nước bằng pháp luật đã xuất hiện rất sớm vào thời kỳ nhà Chu.
Người ta đưa ra hai tư tưởng: lễ và hình trị dân
Lễ: là lễ nghi lề lối phong tục qui tắc cư xử còn hiểu theo nghĩa rộng lễ là lề lối
chính trị là trật tự xã hội
Hình: là hình pháp xét xử nhằm trừ phạt hành vi con người và chỉ áp dụng cho
bậc thứ dân.
Như vậy đầu tiên vào thời kỳ nhà Chu đã xuất hiện tư tưởng về hình pháp với

hai nội dung lễ và hình trị dân.
Quản Trọng (thế kỷ VI TCN): sau thời kỳ nhà Chu thì Quản Trọng là người
đưa ra tư tưởng luật pháp đầu tiên. Vốn xuất thân từ trường phái Nho gia khác với
nhà nho chủ trương trị nước bằng đức trị thì Quản Trọng chủ trương chuyển phương
pháp trị nước bằng đức trị bằng lễ nghĩa, bằng luân lý bằng đạo đức sang phương
pháp trị nước bằng pháp luật. Đóng góp của Quản Trọng về tư tưởng hình pháp có 3
điểm:
*Yêu cầu chung của phương pháp trị nước:
- Tôn quân: tôn quân không phải vì vua hiền, mà vì vua là người đặt ra pháp luật
vua có quyền bắt dân sống phải sống dân chết phải chết, nếu không tôn quân thì
nước sẽ không yên, cái thế nó phải thuộc như vậy.
Trang 3
GVHD: TS. Bùi Bá Linh HVTH: Lê Minh Tùng
- Yêu dân không phải là vì dân mà vì vua tại vì yêu dân, dân sẽ qui thuận đông,
nghe theo lời vua như vậy vua sẽ mạnh mà vua mạnh vua sẽ cai trị được thiên hạ.
*Trong phương pháp trị nước Quản Trọng đề cao “luật, lệnh, hình, chính”
- Luật: để phân phận sự cho dân, để cho dân không tranh giành nhau nữa
- Lệnh: để dân biết việc mà làm
- Hình: trừ trị những kẻ làm trái luật và lệnh
Quản Trọng đưa ra mấy cách trừ trị: một tội chết, hai tội bị đày có thời hạn, ba tội
giam, bốn tội đày không thời hạn, năm phạt tiền
- Chính: là để sửa cho dân theo đường ngay lẻ phải.
*Các nguyên tắc trong hành pháp và lập pháp: bên cạnh yêu cầu chung của
phương pháp trị nước bằng “luật lệnh, hình, chính” Quản Trọng còn đưa ra năm
nguyên tắc hành pháp và lập pháp như sau:
- Luật pháp phải rõ ràng, minh bạch tùy theo thiên thời địa lợi, nhân hòa;
- Phải dạy cho dân hiểu rõ pháp luật rồi mới thi hành;
- Thủ tín: pháp luật phải nghiêm minh đối với người trên kẻ dưới;
- Không được tư lợi, mọi người phải công bằng trước pháp luật
- Lệnh trong hình pháp quý hơn châu báo, xã tắc quý hơn người thân, vi trọng

quý hơn tước lộc không vì vua muốn mà thay đổi lệnh.
Tóm lại Quản Trọng là người đưa ra tư tưởng về luật pháp, cụ thể ông đưa ra các
yêu cầu về phương pháp trị nước. Đồng thời đưa ra các nguyên tắc hành pháp và lập
pháp. Đó là những tư tưởng đóng góp đầu tiên về tư tưởng hành pháp trong lịch sử
triết học Trung Quốc bên cạnh những tư tưởng nhà Chu.
Sau Quản Trọng phải kể đến Thân Bất Hại (401-337 TCN), là người nước
Trịnh chuyên học về hình danh, làm quan đến bậc tướng quốc. Thân Bất Hại đưa ra
chủ trương ly khai "Đạo đức" chống "Lễ" và đề cao "Thuật" trong phép trị nước.
Thân Bất Hại cho rằng "thuật" là cái "bí hiểm" của vua, theo đó nhà vua không được
lộ ra cho kẻ bề tôi biết là vua sáng suốt hay không, biết nhiều hay biết ít, yêu hay
ghét mình bởi điều đó sẽ khiến bề tôi không thể đề phòng, nói dối và lừa gạt nhà
vua.
Một đại biểu nữa của phái Pháp gia thời kỳ này là Thận Đáo (370-290 TCN),
ông là người nước Triệu và chịu ảnh hưởng một số tư tưởng triết học về đạo của Lão
Trang 4
GVHD: TS. Bùi Bá Linh HVTH: Lê Minh Tùng
Tử, nhưng về chính trị Thuận đáo là người chủ xướng về “thế” trong phép trị nước:
trong phép trị nước Thuận Đáo chủ trương trị nước phải có pháp luật, muốn làm cho
nước mạnh, dân yên theo ông luật pháp phải dựa trên 2 yếu tố như sau:
- Thế: địa vị quyền lực của giai cấp thống trị, địa vị quyền lực đó có sức mạnh
vô biên tùy điều kiện cụ thể có thể làm cho bậc hiền nhân khinh rẻ hay tôn trọng
- Lấy vật tư nhiên vô tri vô giác làm tiêu chuẩn luật pháp bỡi vì theo ông chỉ
có vật vô tri vô giác mới khách quan, chỉ có nó mới loại trừ được ý muốn riêng tư
dục vọng của con người.
Phải nói rằng đây là một tư tưởng khá tiến bộ mà sau này Hàn Phi đã tiếp thu
và hoàn thiện. Trong phép trị nước, đặc biệt Thận Đáo đề cao vai trò của "Thế". Ông
cho rằng: "Người hiền mà chịu khuất kẻ bất tiếu là vì quyền thế nhẹ, địa vị thấp: kẻ
bất tiếu mà phục được người hiền vì quyền trọng vị cao. Nghiêu hồi còn làm dân
thường thì không trị được ba người mà Kiệt khi làm thiên tử có thể làm loạn cả thiên
hạ, do đó biết rằng quyền thế và địa vị đủ để nhờ cậy được mà bậc hiền, trí không đủ

cho ta hâm mộ. Cây ná yếu mà bắn được mũi tên lên cao là nhờ sức gió đưa đi, kẻ
bất tiếu mà lệnh ban ra được thi hành là nhờ sức giúp đỡ của quần chúng, do đó mà
xét thì hiền và trí không đủ cho đám đông phục tùng, mà quyền thế và địa vị đủ
khuất phục được người hiền".
Cùng thời với Thận Đáo, có một người cũng nêu cao tư tưởng Pháp trị, đó là
Thương Ưởng. Ông đề cao pháp “luật hay quy tắc, luật lệ” là hình phạt nghiêm khắc
đối hình phạt đã ban ra chủ trương chỉ có phạt không có thưởng. Vì việc thực hiện
luật là bổ phận công dân. Ngoài cải cách về luật pháp ông còn đưa ra cải cách về
kinh tế. chính nhờ cải cách về luật pháp và kinh tế làm nước Tần từ nước yếu trở
thành nước mạnh thôn tính bảy nước còn lại thống nất đất nước Trung Quốc thiết lập
thành công nhà nước Trung ương tập quyền.
Về kinh tế ông đưa ra những cải cách như sau:
- Ông xóa bỏ chế độ công hữu vê ruộng đất công xã nông thôn, thừa nhận chế
độ tư hữu về ruông đất, cho tư do mua bán ruộng đất khuyến khích khai hoang phát
triển sản xuất nông nghiệp nhà nước trực tiếp thu thuế, tô của nông dân.
- Lập ra hộ tịch: lệnh cho bá tính cứ năm nhà lập thành một ngũ, hai ngũ lập
thành thập, để trong coi lẫn nhau nếu có kẻ gian thì tố cáo, giết kẻ loạn thì được
Trang 5
GVHD: TS. Bùi Bá Linh HVTH: Lê Minh Tùng
thưởng như nhau nếu giấu thì phạt như nhau, một nhà giấu chín nhà kia chịu vạ lây,
nhà có hai tráng đinh phải ở riêng để phát triển sức lao động nếu không ở riêng thì
đóng thuế gấp đôi.
- Khuyến khích nông dân cày cấy, nuôi tằm dệt vải kéo tơ, nhà nào sản xuất ra
nhiều được miễn lưu dịch, bỏ ruộng đất đi buôn làm gia đình nghèo khổ thì bị bắt
làm nô lệ.
- Xóa các đặc quyền, đặt lợi của giai cấp quý tộc đặc ra các tước quân, bất cứ
ai có quân công thì được ban tước vị, được cấp đất, công càng to thì chức vị càng
cao. Tùy theo chức vị cao thấp mà chiếm được nhiều ruộng đất và nô lệ.
- Hợp nhất nhiều làng thành phủ huyện, đặt ra tước huyện lệnh để cai trị, tổ
chức lại hệ thống hành chính, thống nhất các đơn vị đo lường.

Tư tưởng cải cách của Thương Ưởng bị giai cấp quý tộc phản đối nhưng được
nhà vua ủng hộ nên hiệu quả cải cách rất là cao. Nhờ đó nước Tần đang từ nghèo trở
thành giàu đang từ nước yếu trở thành nước mạnh thống nhất đất nước Trung Quốc.
Cuối cùng phải kể đến Hàn Phi (280-233 TCN) là công tử nước Hàn Phi cùng
với Lý Tư theo học Tuân Tử. Hấp thụ tính ác của người thầy Tuân Tử, Hàn Phi cho
rằng tính người là ác nhưng không giống người thầy là dùng đạo đức để đưa con
người về chính đạo, mà chủ trương dùng hình pháp, người có công tổng kết và hoàn
thiện tư tưởng trị nước của pháp gia. Trước hết Hàn Phi đề cao vai trò của pháp trị.
Theo ông, thời thế hoàn cảnh đã thay đổi thì phép trị nước không thể viện dẫn theo
"đạo đức" của Nho gia, "Kiêm ái" của Mặc gia, "Vô vi nhi trị" của Đạo gia như trước
nữa mà cần phải dùng Pháp trị. Hàn Phi đưa ra quan điểm tiến hóa về lịch sử, ông
cho rằng lịch sử xã hội luôn trong quá trình tiến hoá và trong mỗi thời kỳ lịch sử thì
mỗi xã hội có những đặc điểm dấu ấn riêng. Do vậy, không có một phương pháp cai
trị vĩnh viễn, cũng như không có một thứ pháp luật luôn luôn đúng trong hệ thống
chính trị tồn tại hàng ngàn năm. Từ đó, ông đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng pháp
gia thành một đường lối trị nước khá hoàn chỉnh và thích ứng với thời đại lúc bấy
giờ.
Trang 6
GVHD: TS. Bùi Bá Linh HVTH: Lê Minh Tùng
2. Nội dung cơ bản tư tưởng pháp trị của phái Pháp gia
Nếu như Thận Đáo đề cao "Thế", Thân Bất Hại đề cao "Thuật", Thương
Ưởng đề cao "Pháp" trong phép trị nước thì Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi trọng
cả ba yếu tố đó. Ông cho rằng "Pháp", "Thế", "Thuật" là ba yếu tố thống nhất không
thể tách rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong sự thống nhất đó, "Pháp"
là nội dung trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ; "Thế" là công cụ,
phương tiện tạo nên sức mạnh, còn "Thuật" là phương pháp cách thức để thực hiện
nội dung chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương.
Trước hết nói về "Pháp". Trong tư tưởng Trung Quốc cổ đại, "Pháp" được
hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng "Pháp" là thể chế quốc gia là chế độ chính trị xã hội
của đất nước; Nghĩa hẹp "Pháp" là những điều luật, luật lệ, những luật lệ mang tính

nguyên tắc và khuôn mẫu. Kế thừa và phát triển tư tưởng Pháp trị của pháp gia thời
trước, Hàn Phi Tử cho rằng: "Pháp là hiến lệnh công bố ở các công sở, thưởng hay
phạt đều được dân tin chắc là thi hành, thưởng người cẩn thận giữ pháp luật, phạt kẻ
phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo Pháp". Tính cách của pháp luật theo Hàn Phi, trên
cơ sở chủ trương của Pháp gia, là vua tượng trưng cho quốc gia, nên vua nắm hết uy
quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tuy vậy, khi lập pháp vua cũng phải dựa trên
những nguyên tắc chính như:
1- Pháp luật phải hợp thời;
2- Pháp luật phải soạn sao cho dân dễ hiểu, dễ thi hành;
3- Pháp luật phải công bằng;
4- Pháp luật có tính cách phổ biến.
Với Hàn Phi, "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định danh
phận, phải trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui về một
mối, đều lấy pháp làm chuẩn. Vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc của thiên hạ.
Cùng với "Pháp", "Thế", là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Pháp
gia cho rằng muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng
thi hành thì nhà vua phải có "Thế". Trọng Thế tức trọng sự cưỡng chế, cho nên chủ
trương:
1- Chủ quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tập trung cả vào một người là
vua;
Trang 7
GVHD: TS. Bùi Bá Linh HVTH: Lê Minh Tùng
2- Vua phải được tôn kính tuân theo triệt để: dân không được quyền làm cách
mạng, không được trái ý vua, vua bắt chết thì phải chết, không chết tức là bất trung.
Điều này gần với tư tưởng Trung quân của Nho gia, Hàn Phi chê việc vua Nghiêu
nhường ngôi cho vua Thuấn là trái đạo quân thần, ý này trái hẳn chủ trương của
Khổng;
3- Đưa sự thưởng phạt lên hàng quốc sách vì thưởng và phạt là phương tiện
hiệu nghiệm nhất để cưỡng chế. Muốn trị nước thì vua chỉ cần dùng thưởng phạt chứ
không cần dùng giáo hóa, lễ nhạc.

Hàn Phi cho cách thưởng phạt là mầm trị hay loạn của quốc gia, trong đó dựa
theo nguyên tắc: Thưởng thì phải tín, phạt thì phải tất; Thưởng thì phải trọng hậu,
phạt thì phải nặng; Sự thưởng phạt phải theo đúng phép nước, chí công vô tư; Vua
phải nắm hết quyền thưởng phạt.
"Thế" có vị trí quan trọng đến mức có thể thay thế được hiền nhân: "Chỉ có
bậc hiền trí không đủ trị dân, mà địa vị quyền thế lại đủ đóng vai trò của bậc hiền
vậy Kiệt làm thiên tử chế ngự được thiên hạ không phải vì hiền mà vì có quyền thế.
Nghiêu thất phu không trị nổi ba nhà không phải vì hiền mà vì địa vị thấp". "Thế"
không chỉ là địa vị, quyền hành của vua mà còn là sức mạnh của dân, của đất nước,
của vận nước (xu thế lịch sử). Hàn Phi giải thích: "Cái ná yếu lại bắn được mũi tên
lên cao là nhờ có "gió kích động", và nếu không có sự trợ giúp của quần chúng thì
làm sao kẻ kém tài lại cai trị được thiên hạ”.
Sau "Pháp" và "Thế", pháp gia rất chú ý đến "Thuật" trong đường lối pháp trị.
"Thuật" trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn trong việc tuyển
người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ nó pháp luật được thực
hiện và nhà vua có thể "trị quốc bình thiên hạ". Theo Hàn Phi, “Thuật” có hai khía
cạnh: kỹ thuật, là phương án để tuyển, dùng, xét khả năng quan lại; tâm thuật tức
mưu mô để chế ngự quần thần, bắt họ để lộ thâm của họ ra.
Về Tâm thuật thì rất nhiều và thiên biến vạn hóa, thường không theo quy tắc nào
ngoài quy tắc gạt bỏ người sao cho có kết quả. Chẳng hạn như: làm bộ như ra lệnh và
ra lệnh giả; giấu điều mình biết rồi mà hỏi để biết thêm những điều khác; Nói ngược
lại điều mình muốn nói để dò xét gian tình của người; Ngầm hại những kẻ bề tôi
mình không cảm hóa được…
Trang 8
GVHD: TS. Bùi Bá Linh HVTH: Lê Minh Tùng
Cũng như tâm thuật, kỹ thuật được Hàn Phi rất coi trọng, đặc biệt là thuật trừ
gian và dùng người. Ông kể ra những hạng gian thần và có thể làm loạn là: kẻ thân
thích của vua và quần thần. Đó là hai hạng đều đánh vào tình cảm thị dục, nhược
điểm của vua để lung lạc, che giấu vua. Để ngăn cấm bọn đó, Pháp gia chủ trương,
vua phải: không để lộ sự yêu thích, giận ghét của mình; không cho họ biết mưu tính

của mình; nếu không phải việc riêng thì không để họ tự ý hành động, việc gì cũng
phải hỏi mình trước; bắt họ phải theo đúng luật mà chính vua cũng phải theo đúng
pháp luật trong việc thưởng phạt họ; xem hành động của họ có hợp với lời nói của họ
không… Tìm kẻ gian thì khi một việc xảy ra, hại cho nước hoặc cho người khác thì
xét xem ai là kẻ có lợi. Muốn kiềm chế hạng người có địa vị cao, trách nhiệm lớn thì:
1- Nếu là người hiền thì có thể bắt người thân yêu của họ làm con tin;
2- Nếu là kẻ tham lam thì cho họ tước lộc thật hậu để an định họ;
3- Nếu là kẻ gian thì phải làm cho họ khốn khổ bằng cách trừng phạt.
Nếu dùng những cách đó mà vẫn không cảm hóa được họ thì phải trừ họ,
bằng cách mượn tay kẻ thù của họ hoặc đầu độc để mình không bị thương tổn danh
tiếng. Nhưng cách tốt nhất là không nên dùng để khỏi phải đề phòng họ. Hàn Phi cho
biết một số hạng người không nên dùng: hạng người coi khinh tước lộc, dễ dàng bỏ
chức vụ mà đi nơi khác; hạng đặt lời giả dối trái pháp luật; hạng người lánh đời, ở
ẩn, chê bai vua; hạng vì tư lời mà làm thân các chư hầu; hạng vì người thân quen mà
làm việc riêng tư… Tuy nhiên Hàn Phi cũng cho rằng có kẻ rất tài giỏi lại là gian
thần, nếu vua có thuật để khống chế họ thì vẫn có thể dùng
"Thuật" còn thể hiện trong "thuật dùng người". Quy tắc cơ bản của thuật dùng
người theo Pháp gia là thuyết Hình danh. Thuyết này là Pháp gia kế thừa từ Khổng
Tử, và Phái Danh gia. Nhưng Hàn Phi có óc thực tế, không bàn về tri thức luận mà
đem học thuyết của Nho gia vào chính trị, ông chỉ thu hẹp vào việc dùng người, gạt
bỏ những vấn đề về đạo đức, luân lí. Ông không nói đến "Chính danh", mà chỉ nói
đến "Hình danh", hay là "Thực danh". Danh và hình hay thực phải hợp nhau. Ví như
một người hứa đến thăm ta, lời hứa đó là "Danh" và hành động tới thăm là "Hình"
hay "Thực" vậy. Nếu người đó đến thăm thực thì chứng tỏ danh và hình hợp nhau,
nếu không thì chỉ có danh mà không có hình hay không có thực. Nếu pháp luật là
danh thì sự việc là hình, sự việc hợp pháp luật thì danh và thực hợp nhau. Nếu quan
Trang 9
GVHD: TS. Bùi Bá Linh HVTH: Lê Minh Tùng
vị là danh thì chức vụ là hình, chức vụ không hợp với quan vị thì danh và hình không
hợp nhau. Hàn Phi cho quy tắc hình và danh hợp nhau là quan trọng nhất trong việc

trị quan lại, nếu không theo thì sao có thể phân biệt được kẻ hay người dở, người giỏi
kẻ gian, khó thưởng phạt đúng được, như vậy nước khó mà trị được. Muốn dùng quy
tắc hình danh hợp nhau để thu phục bề tôi thì vua phải tự mình kiểm xét xem có
chính đáng không, vì nếu chỉ nghe lời giới thiệu thì có thể người giới thiệu hoặc vì tư
lợi hoặc vì tình riêng hoặc vì bè phái mà đề cử kẻ bất tài hay gian thần. Để không bị
lừa gạt thì phải thận trọng, tham bác ý kiến nhiều người, rồi đích thân xét tài đức, sau
đến mới giao việc. Hàn Phi không chỉ đưa ra cách xét người, mà còn chỉ ra phương
pháp “Thỉnh ngôn”, “Tham nghiệm”, và “Thí chi giao chức”. Thính ngôn tức
phương pháp nghe, là: khi bề tôi nói thì vua phải trầm mặc, lầm lì không khen không
chê, không để lộ ý nghĩ và tình cảm của mình; phải bắt bề tôi nói, không được làm
thinh, mà nói thì phải có đầu có đuôi có bằng cớ; lời nói của bề tôi không được trước
mâu thuẫn với sau; bề tôi phải đưa ra ý kiến rõ rệt, không được mập mờ, ba phải để
trốn tránh trách nhiệm; quan trọng nhất lời nói phải thiết thực, có công dụng, không
phải là hư ngôn. tham nghiệm là khảo sát nhiều mặt để biết lòng bề tôi và để xem lời
nói của họ có giá trị không. Hàn phi cho rằng muốn biết lời nói của họ có thành thực
không thì phải kiểm tra việc đã qua để biết lời nói có đúng không; để bề tôi ở gần
mình để biết nội tình của họ; dùng những điều mình biết rồi để tra hỏi những điều
chưa biết; nói những điều trái ngược để biết ý tứ kẻ dưới… Giao chức tức cho họ
làm việc rồi mới biết thực hay hay dở. Khi giao chức phải nhớ quy tắc: mới đầu giao
một việc nhỏ rồi tăng dần; không cho kiêm nhiệm; đã giao trách nhiệm cho một
người thì đừng dùng kẻ khác để nhòm ngó kẻ đó.
Ngoài các nội dung "Pháp", "Thế", "Thuật" đã nêu ở trên, tư tưởng Pháp gia
còn hết sức coi trọng việc xây dựng quân đội hùng mạnh đủ sức đè bẹp và thôn tính
các nước khác. Pháp gia cũng rất chú trọng phát triển nông nghiệp, tích trữ lương
thực và của cải làm cho đời sống của xã hội no đủ.
Như vậy, tư tưởng pháp trị đã hình thành khá sớm trong lịch sử tư tưởng
Trung Quốc cổ đại với Quản Trọng là người khởi xướng. Sự nghiệp thống nhất và
phát triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi hỏi tư tưởng pháp trị phải phát
triển lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về "Thế", "Thuật", "Pháp" vừa được
Trang 10

GVHD: TS. Bùi Bá Linh HVTH: Lê Minh Tùng
phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau trong một học thuyết duy nhất. Hàn
Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đó. Tư tưởng chủ đạo của pháp gia là
muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội
có phức tạp bao nhiêu, nước có đông dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ"
được. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được vương quốc Tần ra sức vận dụng và
kết cục đã đưa nước Tần đến thành công trong việc kết thúc cục diện phân tán cát cứ,
thống nhất được đất nước Trung Hoa sau những năm dài chiến tranh khốc liệt.
II. Vận dụng tư tưởng pháp trị của Pháp gia vào việc quản lý Nhà nước ở
Việt Nam hiện nay.
1. Hoạt động quản lý nhà nước phải phù hợp với pháp luật
Đây cũng chính là những yêu cầu của nhà nước pháp quyền. Trong việc xây
dựng nhà nước Việt nam hiện nay, những tư tưởng đó rất có ý nghĩa. Trong nhà nước
pháp quyền, mọi hoạt động của nhà nước phải dựa trên các quy định của pháp luật.
Pháp luật do nhà nước đặt ra nhưng chính nhà nước cũng phải quản lý xã hội theo
pháp luật. Nhà nước pháp quyền đòi hỏi việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước
phải dựa trên nền tảng pháp lý. Pháp luật là cơ sở của mọi hình thức tổ chức quyền
lực công khai, mọi chủ thể trong xã hội trong đó có cả những cơ quan nhà nước bất
kê cương vị nào đều phải tuân theo pháp luật. Mọi đường lối, chính sách và quyết
định của nhà nước đều phải dựa trên cơ sở của pháp luật. Đó chính là yêu cầu về tính
hợp pháp trong hoạt động của chính quyền trong nhà nước pháp quyền.
Nội dung quan trọng của Nhà nước pháp quyền là khẳng định cội nguồn
quyền lực nhà nước là ở nhân dân. Để bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân, trong đó nhà nước là của nhân dân chứ không phải nhân dân là của nhà nước,
Nhà nước pháp quyền đề cao tính hợp hiến, hợp pháp trong tổ chức và hoạt động của
nhà nước, nhà nước chỉ được làm những điều pháp luật cho phép, còn nhân dân được
làm tất cả những điều pháp luật không cấm, pháp luật bảo đảm cho sự phát triển tự
do tối đa của nhân dân. Vai trò của pháp luật trong việc xây dựng và duy trì một xã
hội trật tự ổn định, trong đó không chỉ mỗi công dân, mỗi cá nhân, mà bản thân nhà
nước và những người đứng đầu chính quyền cũng phải tôn trọng pháp luật đã được

khẳng định.
Trang 11
GVHD: TS. Bùi Bá Linh HVTH: Lê Minh Tùng
2. Pháp luật phải được thực thi một cách nghiêm minh, chí công vô tư;
đảm bảo tính khách quan, thống nhất, cố định, minh bạch, công bằng
Tư tưởng pháp trị đề cao vai trò pháp luật trong quản lý nhà nước, “Thế” phải
được thực thi trên cơ sở của pháp, tức là nhà nước phải hoạt động dựa trên cơ sở
pháp luật. Việc thưởng phạt phải theo pháp luật, nghiêm minh, chí công, vô tư. Pháp
luật phải phù hợp với thực tiễn, phải có tính thống nhất, cố định, minh bạch, công
bằng.
Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật đòi hỏi phải thực thi một cách nghiêm
minh, chí công vô tư. Điều này liên quan trực tiếp đến vai trò của các cơ quan tư
pháp, mà trước hết là toàn án. Các quan tòa – thẩm phán với tư cách là người duy trì
công lý phải xét xử một cách nghiêm minh, chí công vô tư. Để đảm bảo điều đó, tòa
án phải xét xử độc lập. Một nhà nước pháp quyền không thể thiếu sự độc lập trong
xét xử của tòa án. Tòa án xét xử độc lập thì sẽ làm cho pháp luật được thực hiện một
cách nghiêm minh, chí công vô tư.
Nguyên tắc về sự độc lập xét xử của tòa án được thể hiện trong Hiến pháp và
các đạo luật tố tụng. Tuy nhiên, hiên nay, tòa án Việt nam chưa thực sự xét xử độc
lập, còn phụ thuộc nhiều yếu tố làm cho pháp luật chưa thực sự được thực hiện một
cách nghiêm minh, chí công vô tư. Chẳng hạn việc tổ chức tòa án theo đơn vị hành
chính lãnh thổ làm cho tòa án phụ thuộc vào chính quyền địa phương. Tòa án còn có
xu hướng xét xử lệ thuộc vào kết quả điều tra của cơ quan điều tra, mà chưa thực sự
độc lập trong việc đưa ra phán quyết của mình. Có những thẩm phán đã không thể
chí công vô tư được những cám dỗ vật chất hoặc các áp lực xã hội khác…
Để đảm bảo cho tòa án độc lập trong xét xử để pháp luật được thực thi một
cách nghiêm minh, chí công vô tư, việc cải cách hệ thống tòa án Việt nam hiên nay
cần tính đến các giải pháp như tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử, chuyển thủ tục
xét hỏi sang thủ tục tranh tụng tại phiên tòa, kéo dài nhiệm kỳ cho thẩm phán, nâng
mức lương cho thẩm phán…

Pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải phù hợp với thực tiễn. Đây chính là
yêu cầu về tính khách quan của pháp luật. Mỗi một xã hội có một hệ thống pháp luật
tương ứng. Pháp luật là sự ghi nhận những quan hệ xã hội đã ổn định. Do vậy pháp
luật phải thực sự phù hợp với hiện thực khách quan.
Trang 12
GVHD: TS. Bùi Bá Linh HVTH: Lê Minh Tùng
Một thực tiễn đối với pháp luật Việt Nam hiện nay là có nhiều văn bản pháp
luật ban hành không phù hợp với thực tiễn nên thiếu khả năng đi vào cuộc sống; một
văn bản pháp luật vừa ban hành đã có những điều khoản phải sửa đổi. Cho nên vấn
đề đặt ra là việc ban hành mới hay sửa đổi các văn bản pháp luật phải phù hợp với
nhu cầu thực tiễn. Điều này đòi hỏi việc ban hành các quy định pháp luật phải có sự
hiểu biết đầy đủ về thực tiễn khách quan. Các kế hoạch ban hành văn bản pháp luật
phải dựa vào những thông số về thực tiễn của vấn đề cần điều chỉnh bằng pháp luật.
Pháp luật được ban hành phù hợp với nhu cầu thực tiễn khách quan mới có thể đảm
bảo cho khả năng thực thi cao và sức sống lâu dài của các văn bản pháp luật, sự an
toàn pháp lý của xã hội. Đối với những văn bản pháp luật vấp phải những khúc mắc
khi thực hiện trong thực tiễn thì nên sửa đổi.
Pháp luật phải thống nhất. Pháp luật phải được hiểu và áp dụng thống nhất
trên toàn lãnh thổ, không thể mỗi nơi áp dụng một kiểu. Sự thống nhất của pháp luật
không chỉ là trong sự áp dụng pháp luật mà trong cấu trúc nội tại của pháp luật.
Tính thống nhất của pháp luật của Việt nam hiên nay chưa thực sự đảm bảo.
Việc ban hành mới, sửa đổi, bổ sung qua các văn bản pháp luật của các cấp chính
quyền nhiều khi dẫn đến mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu thống nhất trong pháp luật.
Văn bản của ngành này lại phủ nhận văn bản của ngành kia.
Trong pháp luật kinh doanh Việt Nam hiện nay tính không nhất quán có thể
nhận thấy rất rõ : mỗi loại hình doanh nghiệp có một loại luật, mỗi loại hợp đồng có
một loại luật, mỗi cách giải quyết tranh chấp kinh doanh có một loại luật và giữa
chúng không có quan hệ gì. Khi một người kinh doanh giao dịch trên thị trường, họ
cần nhiều pháp luật về hợp đồng khác nhau và bối rối không biết dùng hợp đồng nào
cho đúng ( kinh tế, dân sự, thương mại…). Sự thiếu nhất quán làm cho văn bản pháp

riêng trở nên manh mún, chồng chéo, triệt tiêu lẫn nhau. Đã đến lúc cần xây dựng lại
nền tảng dân luật, để từ đó xây dựng các luật riêng.
Pháp luật phải có tính cố định. Nói cách khác hơn, pháp luật phải có tính ổn
định lâu dài. Điều này có ý nghĩa đảm bảo sự ổn định của các quan hệ pháp luật.
Pháp luật không nên thay đổi quá nhiều.
Tình trạng “phi mã” của các văn bản dưới luật, các giấy phép con của các bộ,
các ngành, các địa phương, tình trạng thay đổi qua nhanh và thiếu tính khả thi của
Trang 13
GVHD: TS. Bùi Bá Linh HVTH: Lê Minh Tùng
các quy định pháp luật đã phần nào làm giảm lòng tin vào giá trị công bằng và khả
năng điều chỉnh của pháp luật hiện nay.
Việc thay đổi pháp luật quá nhanh chóng như vậy làm nhân dân khó có thể
ứng xử kịp thời đối với những thay đổi. Tình trạng thay đổi liên tục đã không đảm
bảo được tính an toàn pháp lý của đời sống công dân. Như vậy, vấn đề đặt ra là việc
ban hành các văn bản pháp luật phải đảm bảo tính cố định, hay ổn định của pháp luật
để tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân trong việc tìm hiểu và hành xử theo pháp
luật. Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật phải có tính ổn định, phải có đời sống
lâu dài để đảm bảo tính an toàn pháp lý cho sinh hoạt của nhân dân.
Pháp luật phải có tính minh bạch, pháp luật phải rõ ràng mạch lạc để người
dân dễ hiểu mà thực hiện. Điều này đòi hỏi trong khâu ban hành, cách dùng câu, chữ
phải đơn giản, phổ quát, những gì mà đầu ốc tinh tế mới hiểu được thì không nên
dùng trong văn phong và ngôn ngữ lập pháp. Đối với việc sửa đổi các văn bản pháp
luật, nên giữ lại cấu trúc cũ của văn bản pháp luật để tiện lợi cho dân khi tìm hiểu và
sử dụng pháp luật cũng như việc áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước. Việc
thay đổi cấu trúc của văn bản pháp luật sau mỗi lần sửa đổi, bổ sung nhiều khi gây
khó khăn cho cả người áp dụng luật pháp lẫn người sử dụng pháp luật trong việc tra
cứu pháp luật. Việc sửa đổi pháp luật nên theo cách thức “ thủng chổ nào vá chổ đó”
và giữ nguyên cơ cấu văn bản pháp luật.
Tính minh bạch của pháp luật cũng đòi hỏi nhà nước phải có những phương
thức để pháp luật dễ đến với người dân. Pháp luật phải được công bố rộng rãi trên

các phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh, truyền hình báo chí đặt biệt
là tình hình phát triển của công nghệ thông tin hiện nay, pháp luật phải được công bố
rộng rãi trên internet để đảm bảo cho dân tiện lợi trong việc sử dụng pháp luật.
Pháp luật phải đảm bảo tính công bằng. Pháp luật phải là đại lượng của công
lý. Không có những yêu cầu riêng cho pháp luật công lý mà công lý chính là bản
thân vốn có của pháp luật. Một khi pháp luật là công cụ của thiểu số bọn thống trị, áp
bức nhân dân, tham nhũng, vơ vét của cải nhân dân, của nước thì đó không phải pháp
luật đúng với bản chất của nó, đó không là pháp luật chân chính. Pháp luật phải là
công cụ của mọi chủ thể trong xã hội chứ không chỉ đơn thuần là công cụ của nhà
nước. Pháp luật là công cụ tốt nhất được mọi chủ thể trong xã hội tin tưởng, trở
Trang 14
GVHD: TS. Bùi Bá Linh HVTH: Lê Minh Tùng
thành lá chắn quan trọng có tác dụng bảo vệ mọi chủ thể. Một khi nhà nước của
chúng ta là nhà nước của dân do dân, vì dân thì pháp luật của chúng ta cũng phải là
pháp luật của dân do dân vì dân.
Tính công bằng pháp luật rất cần thiết cho các doanh nghiệp. Trong giai đoạn
hiện nay, pháp luật về kinh doanh của chúng ta nhiều khi chưa thực sự công bằng với
các thành phần kinh tế. Do đó các doanh nghiệp thiếu một môi trường bình đẳng cho
hoạt động của mình. Họ rất cần đến pháp luật để tạo ra một sân chơi bình đẳng. Pháp
luật phải tạo ra một hành lang pháp lý công bằng cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp.
Trong hoạt động xét xử của tòa án phải đảm bảo nguyên tắc hiến định “mọi
công dân đều phải bình đẳng trước pháp luật”. Thực hiện sự bình đẳng của pháp luật,
phải xử những quan chức nhà nước phạm tội. Mọi vi phạm đều phải được xử lý theo
đúng pháp luật, không phân biệt đối tượng là quan hay dân. Bất cứ ai vi phạm đều
đưa ra xét xử, không được giữ lại để xử nội bộ. Để đảm bảo được điều này, Tòa án
phải xét xử một cách thực sự độc lập, không thiên vị, không chịu áp lực xã hội.
3. Người quản lý nhà nước phải có sự học hỏi và áp dụng những nghệ
thuật dùng người trong quản lý nhà nước
Hàn Phi đã đề cao vai trò của việc sử dụng các nghệ thuật trong việc tuyển

chọn và sử dụng quan lại. Trong việc quản lý nhà nước hiện nay, các nhà quản lý
cũng cần phải có những nghệ thuật dùng người. Việc bố trí người vào cơ quan nhà
nước phải căn cứ vào tài năng và đức hạnh của họ, phải công bằng, không phụ thuộc
vào gia thế, không thiên vị. Người quản lý nhà nước cũng cần phải chú trọng đến
việc sử dụng và đãi ngộ người tài – đức, kịp thời động viên họ, làm cho họ phấn khởi
đem hết tài năng ra phụng sự Tổ quốc.
Trong đời sống xã hội tất yếu nẩy sinh những nghệ thuật ứng xử. Trong đời
sống nhà nước những nghệ thuật dùng người là đặt biệt cần thiết cho những nhà quản
lý có thể thực hiện một cách hiệu quả và nhanh chóng các công việc chính mình.
Một nền hành chính phát triển là một nền hành chính chủ động, năng động
nhạy bén, thích nghi cao nhằm đáp ứng các yêu cầu quản lý xã hội và đáp ứng một
cách tốt nhất các dịch vụ công trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển và
phù hợp với xu hướng quốc tế hóa trong bối cảnh quan hệ quốc tế phụ thuộc lẫn
Trang 15
GVHD: TS. Bùi Bá Linh HVTH: Lê Minh Tùng
nhau. Trong nền hành chính như vậy đòi hỏi đòi hỏi sự nhạy bén, năng động của
người quản lý. Điều này đòi hỏi người quản lý phải có sự học hỏi về nghệ thuật,
quyền mưu dùng người và vận dụng một cách sáng tạo, đúng mục đích trong công
việc quản lý nhà nước của mình.
III. Kết luận
Vấn đề quản lý nhà nước là một trong những chủ đề chính của phái Pháp Gia.
Điều này phát xuất từ những cơ sở nhất định của đất nước Trung Quốc vào thời kỳ
cổ đại: địa lý, tư nhiên, kinh tế chính trị xã hội. Thời Xuân Thu – Chiến quốc là thời
kỳ bách gia tranh minh, nổi lên nhiều nguồn tư tưởng khác nhau với nhiều nhà triết
học xuất sắc. Mỗi một học phái đều đưa ra những giải pháp của mình cho vấn đề
quản lý nhà nước: nhân trị của Nho gia, kiêm ái của Mặc gia, vô vi của Đạo gia…
Trong bối cảnh đó, tư tưởng Pháp trị của Pháp gia, đặc biệt là tư tưởng của Hàn Phi
đã được Tần Thủy Hoàng sử dụng có hiệu quả trong việc thống nhất Trung Quốc và
có vai trò nhất định trong việc trị nước trong những năm sau đó.
Tư tưởng pháp trị của Pháp gia tuy có những hạn chế, nhưng nếu bỏ qua hạn

chế đó bởi điều kiện lịch sử và sự chi phối của lợi ích giai cấp, nó vẫn có những ý
nghĩa và bài học lịch sử bổ ích để vận dụng vào quản lý nhà nước Việt Nam hiện
nay. Ý nghĩa và bài học lịch sử đó là tinh thần thượng tôn pháp luật, đó là tư tưởng
“biến pháp”, đó là tính nghiêm minh trong thi hành pháp luật, đó còn là chính sách
đào tạo sử dụng con người (dụng nhân) trong bộ máy nhà nước.
Những giá trị của tư tưởng pháp trị có tác dụng thiết lập pháp luật nhằm ổn
định chính trị và xã hội. Chính vì vậy, trong điều kiện lịch sử hiện nay, việc nghiên
cứu, tham khảo và sử dụng tư tưởng pháp trị một cách phù hợp là điều rất cần thiết
trong quá trình xây dựng và đổi mới đất nước ta trong giai đoạn hiện nay nhằm tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam và quản
lý xã hội bằng pháp luật.
Trang 16
GVHD: TS. Bùi Bá Linh HVTH: Lê Minh Tùng
TÀI LIỆU KHAM KHẢO

1. Bài giảng “ Triết học cổ đại Trung Quốc”, TS. Bùi Bá Linh
2. Đại cương lịch sử triết học, TS. Nguyễn Ngọc Thu – TS. Bùi Văn Mưa
(đồng chủ biên), Nhà xuất bản Tổng hợp TPHCM
3. Vấn đề quản lý nhà nước trong triết học Trung Quốc cổ đại, Nguyên Anh
Tuấn ( chủ biên ), Nhà xuất bản Đại học quốc gia TPHCM 2002
Trang 17

×