Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Luận án tiến sỹ Điển hình hoá trong văn xuôi hiện thực phê phán Việt Nam (giai đoạn 19301945)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.72 KB, 18 trang )

Luận án Tiến sỹ: Điển hình hoá trong văn xuôi hiện thực
phê phán Việt Nam (giai đoạn 1930-1945)
Thứ tư, 13 Tháng 4 2011 01:35
Tác giả: Nguyễn Thị Thu Thuỷ
Năm thực hiện 2006
Tóm tắt luận án
MỞ ĐẦU
1. 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Điển hình hóa là thành tựu nghệ thuật nổi bật của chủ nghĩa hiện thực
phê phán, là đặc trưng cơ bản để phân biệt chủ nghĩa hiện thực phê phán với chủ
nghĩa lãng mạn. Nghiên cứu điển hình hóa trong văn xuôi hiện thực phê phán ở Việt
Nam giai đoạn 1930-1945 sẽ giúp ích cho những khám phá thêm vấn đề này ở
những góc nhìn thẩm mỹ mới trong sử dụng sức mạnh liên ngành : lý luận văn học
và mỹ học.
1.2. Đầu thế kỉ XX, lịch sử văn học Việt Nam phân hóa thành hai dòng chính:
văn học lãng mạn và văn học hiện thực. Hai dòng văn học này quả đã có những
đóng góp quan trọng cho tiến trình lịch sử văn học dân tộc. Luận án chọn chủ nghĩa
hiện thực phê phán để nghiên cứu, vì đây là một trong những nghệ thuật tiền cách
mạng, bám sát đời sống, có giá trị thức tỉnh nhân dân, trong cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc bằng những điển hình văn học bất hủ. Nó đã khơi dậy được lòng bất
bình, không chịu đựng được với xã hội cũ và bồi dưỡng ý thức cần bứt phá, vươn
lên đón chào một cuộc sống mới. Dòng văn học này ngay từ khi mới ra đời cũng đã
được giới nghiên cứu rất quan tâm và đề cao, đặc biệt là nhà phê bình mác-xít Hải
Triều.
1.3. Điển hình hóa trong văn xuôi hiện thực phê phán là phương thức nghệ
thuật tiêu biểu của dòng văn học này. Nó là một kiểu xây dựng nghệ thuật mới, góp
vào tiến trình hiện đại hóa nền văn học Việt Nam, đặc biệt ở phương diện khám phá
mâu thuẫn thời đại.
1.4. Hiện nay, thành tựu của văn học hiện thực phê phán đã được đưa vào
chương trình giảng dạy ở khoa Ngữ văn các trường Đại học sư phạm, Đại học khoa
học xã hội và nhân văn và các trường phổ thông trung học. Vấn đề nghiên cứu của


luận án có thể đóng góp vào công tác giảng dạy và nghiên cứu ở các cấp học nói
trên.
1. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
a) Trước năm 1945.
Giới nghiên cứu văn học lúc này mới chỉ tập trung vào bản chất hiện thực của văn
học. Đáng chú ý hơn cả là ý kiến của Vũ Ngọc Phan trong bộ
Nhà văn hiện đại
. Trên
những nét lớn, ông đã đề cập đến những khuôn mặt của các nhà văn hiện thực
đương thời; ý kiến của ông chủ yếu thiên về phương diện nghệ thuật và ý nghĩa
nhân bản của các hình tượng. Hải Triều biểu dương
Kép Tư Bền
và khẳng định vai
trò của khuynh hướng văn học tả thực. Vũ Trọng Phụng, Trần Minh Tước, Phú
Hương cũng nhiệt liệt ca ngợi
Tắt đèn.
b) Từ 1945 – 1986.
Vấn đề điển hình hóa trong văn xuôi hiện thực phê phán ngày càng được giới
nghiên cứu văn học quan tâm. Mở đầu là công trình nghiên cứu của nhóm Lê Quý
Đôn (
Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam
- 1957), chuyên luận của Hà Minh Đức
(
Nam Cao-nhà văn hiện thực xuất sắc,
1961), công trình của nhà nghiên cứu Hồng
Chương (
Phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật
, 1962), Nguyễn Đức Đàn
và Phan Cự Đệ (
Bước đường phát triển tư tưởng và nghệ thuật của Ngô Tất Tố

,
1962). Các công trình của Viện văn học (
Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930-
1945
, 1964), chuyên luận của Nguyễn Đức Đàn (
Mấy vấn đề văn học hiện thực phê
phán Việt Nam,
1968), và công trình của nhóm các tác giả Huỳnh Lý, Hoàng Dung,
Nguyễn Hoàng Khung, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Trác (
Lịch sử văn học Việt Nam
1930-1945
, 1973), đã thực sự lưu tâm đến những vấn đề lý luận chung về chủ
nghĩa hiện thực phê phán Việt Nam. Công trình nghiên cứu của Phan Cự Đệ với
cuốn
Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại
(1974);
Từ điển văn học
(1984) của Nguyễn
Hoành Khung là những công trình tiêu biểu.
Thời kỳ này giới nghiên cứu mác-xít đã có những đóng góp quan trọng trong việc
nghiên cứu thành tựu của chủ nghĩa hiện thực phê phán. Nhiều công trình có tính
khoa học cao, có sự phân tích đánh giá thỏa đáng. Tuy nhiên, việc vận dụng quan
điểm, phương pháp nghiên cứu mác-xít cũng có lúc rơi và kiểu vận dụng máy móc
công thức của Ph.Ăngghen về tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Bởi
vậy, có ý kiến đề cao giá trị của
Tắt đèn
nhưng lại hạ thấp giá trị của
Sống mòn

phê phán nặng nề tác phẩm của Vũ Trọng Phụng.

Ở Sài Gòn trước 1975, các nhà nghiên cứu chưa thực sự quan tâm đến dòng văn
học này với tư cách là một phương pháp sáng tác, một trào lưu.
c) Từ 1986 đến nay.
Trên tinh thần “đổi mới”, giới nghiên cứu văn học đã có cái nhìn toàn diện và “cởi
mở” đối với các hiện tượng văn học “tiền chiến”. Công trình
Nghĩ tiếp về Nam
Cao
(1992) do Phong Lê chủ biên; chuyên luận của Trần Đăng Suyền (
Chủ nghĩa
hiện thực của Nam Cao
, 2001) là những hướng nghiên cứu mới.
Điểm qua một số công trình nghiên cứu trên, bước đầu luận án nhận thấy chưa có
một công trình nào đứng ở liên ngành lý luận văn học và mỹ học khảo sát một cách
trực tiếp về thành tựu điển hình hóa trong văn xuôi hiện thực phê phán.
1. 3. MỤC ĐÍCH, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
a) Luận án dùng phương pháp liên ngành để nghiên cứu nghệ thuật điển hình
hóa của văn học hiện thực phê phán Việt Nam như hệ thống quan điểm thẩm mỹ,
hệ thống kiểu nhân vật, hệ thống điều khiển chất liệu của nghệ thuật. Đồng thời,
luận án còn phát hiện thêm tác động của các điển hình này tới sự hoàn thiện nhân
cách của con người.
b) Đối tượng của luận án là văn xuôi hiện thực phê phán. Luận án chỉ tập trung
vào những tác phẩm có thành tựu cao về nghệ thuật của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công
Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng.
1. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
-
Phương pháp chung :
Luận án dựa trên cơ sở phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử coi văn học là một hình thái ý thức thẩm mỹ đặc thù của xã
hội.
-

Phương pháp cụ thể :
1. Luận án dùng phương pháp liên ngành : lý luận văn học và mỹ học.
2. Phương pháp hệ thống : Đặt điển hình hóa trong văn xuôi hiện thực phê
phán trong hệ thống
điển hình hóa
của văn học nói chung để thấy được tính
phổ biến và đặc thù của điển hình hóa hiện thực chủ nghĩa.
3. Phương pháp so sánh văn học qua các thời kỳ để thấy được bước tiến của
điển hình hóa trong văn xuôi hiện thực phê phán.
4. 5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
a) Khi vận dụng phương pháp liên ngành, luận án đã cố gắng tìm ra quy luật vận
động của cả một hệ thống xã hội: từ sự thay đổi văn minh, thay đổi tư tưởng sáng
tạo thời đại, thay đổi tâm thế xã hội, thay đổi văn tự, tất yếu dẫn đến xuất hiện đối
tượng thẫm mỹ mới; trong đó xuất hiện những vùng văn học khác nhau, có vùng
chất liệu đặc sắc tạo nên dòng văn học hiện thực phê phán.
b) Luận án chú ý đến mối quan hệ giữa quan điểm thẩm mỹ với nghệ thuật điển
hình và nghệ thuật xây dựng các kiểu nhân vật điển hình của văn xuôi hiện thực phê
phán Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Luận án lần đầu tiên đã dựa vào tiêu chí
“Tha hóa” để phân loại nhân vật điển hình.
c) Luận án làm sáng tỏ hơn vấn đề “cái Tôi” của nhà văn và “cái tôi” của nhân
vật trong văn học hiện thực phê phán Việt Nam mà bấy lâu giới nghiên cứu chỉ dành
“cái tôi” cho văn học lãng mạn.
d) Luận án cũng đã cố gắng phát hiện thêm mặt sau của điển hình nghệ thuật,
nghĩa là phần tác động của các điển hình này tới xã hội, đối với nhân cách con
người theo quy luật thiết lập một sự thanh lọc bên trong tâm hồn con người.
1. 6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án được tổ chức thành ba chương; 10 mục.

Chương I
NHỮNG TIỀN ĐỀ XÃ HỘI VÀ VĂN HỌC

DẪN TỚI CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC PHÊ PHÁN 1930-1945
1.1. Cơ sở văn minh của văn hóa.
1.1.1. Văn minh được phát động theo hướng công nghiệp phương Tây.
Trong làn sóng Âu hóa (từ sau hiệp ước Patơnốt - 1884), ở Việt Nam đã hình thành
nên một số đô thị mới, tạo ra con người đô thị và lối sống đô thị. Vì vậy, văn học có
điều kiện để gần gũi với quần chúng và quần chúng cũng có nhiều điều kiện để tiếp
nhận thành tựu của văn hóa, văn học mới. Hơn thế, văn học hiện thực phê phán lại
hướng về số đông, hướng về tầng lớp bình dân, cho nên được quần chúng chú ý
hơn các nghệ thuật khác. Tầng lớp tri thức tiểu tư sản cũng bắt đầu phát triển. Họ
cũng là tầng lớp mấp mé dưới đáy xã hội. Chính vì thế, giải tần quần chúng hâm mộ
văn học hiện thực phê phán rộng hơn giải tần của văn học lãng mạn, siêu thực.
Ngay cả các tầng lớp trên khi bị văn học hiện thực phê phán chĩa mũi nhọn vào thì
họ không thể không chú ý. Văn học hiện thực phê phán không chỉ có khối bạn độc
“thuận” mà còn có cả khối quần chúng “nghịch”. Đời sống thẩm mỹ thay đổi, tất yếu
dẫn đến sự đổi thay của văn học.
1.1.2. Văn hóa chủ yếu là nền văn hóa nô dịch “trong hành lang của văn
hóa Pháp”.
Xâm chiếm nước ta, Pháp chủ trương dùng văn hóa để nô dịch dân Việt (mở một số
trường Cao đẳng và Đại học). Từ 1902 đến 1922, Pháp đã đào tạo được một lớp tri
thức cao cấp kiểu Tây ở Việt Nam. Một tầng lớp tri thức mới xuất hiện, cũng làm
xuất hiện một đội ngũ nhà văn mới. Lúc này đã hội đủ khách thể thẩm mỹ và chủ
thể sáng tạo, tạo ra hai dòng chính là hiện thực và lãng mạn. Trong đó
xu hướng
nghệ thuật “tả chân” càng ngày càng nhiều thành tựu, khi họ hướng về con người
trong cảnh lầm than để thức tỉnh vị thế của cá nhân và qua đó cả dân tộc.
1.1.3. Sự thay đổi kiểu tư duy thẩm mỹ.
Các nhà Nho yêu nước đầu thế kỷ đã nhận thức được sự thua kém của văn minh
Việt Nam so với văn minh phương Tây ở chỗ một bên có tính chất “luôn luôn tĩnh”
và một bên có tính chất “luôn luôn động”. Đây chính là nguyên nhân mà phương
Tây đã tiến nhanh hơn phương Đông và khi Pháp đưa văn minh phương Tây vào

Việt Nam đã nhanh chóng làm thay đổi cả kinh tế và đặc biệt là làm thay đổi cả cơ
cấu xã hội và kiến trúc thượng tầng trong đó có sự thay đổi kiểu tư duy từ tư duy
tĩnh (Sphèrique) sang tư duy phân tích, khám phá (Lingnère) – một yếu tố tạo nên
sự hình thành của chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam: phân tích mạch
ngầm của các quan hệ xã hội bằng hình tượng thẩm mỹ.
1.2. Ảnh hưởng của văn học và văn hóa phương Tây.
1.2.1. Những mầm mống của chủ nghĩa hiện thức trước 1930.
Văn học dân gian, văn học cổ điển về cơ bản là một nền văn học nhân đạo, mang
tính dân chủ. Những tiền đề này là cơ sở rất quan trọng để văn học hiện thực phê
phán Việt Nam phát triển. Đến cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa hiện thực phát triển thành
khuynh hướng văn học “lật xới” hiện thực qua tác phẩm của Nguyễn Khuyến, Tú
Xương. Nhưng phải đến sau 1920, người ta mới chứng kiến một sự chuyển mình
thực sự của văn học với tên tuổi của Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn
Bửu Mọc, Trần Quang Nghiệp,v.v…”Văn dĩ tải đạo” là quan niệm chính thống của
văn học phong kiến, nay được thay thế
bằng quan niệm văn học phản ánh hiện
thực
. Các cây bút miền Bắc như Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học cũng đã có thành
tựu. Nguyễn Công Hoan mới xứng đáng là “người đầu tiên có công khai phá con
đường đi đến chủ nghĩa hiện thực phê phán” (Phan Cự Đệ).
1.2.2. Văn học nửa đầu thế kỷ XX chịu ảnh hưởng của văn học phương
Tây, trong “hành lang của văn hóa Pháp”.
Hoạt động của lý luận văn học cũng có nhiều đổi thay theo hướng duy lý. Biểu hiện
là lý luận văn học đã tiến tới khám phá các mối quan hệ cơ bản của văn chương với
đời sống xã hội: văn học với hiện thực, nhưng là hiện thực thẩm mỹ; văn học có tác
dụng khai mở dân trí.
Các quan điểm lý luận trên đây cho thấy rõ ý thức cách tân
của văn học đầu thế kỷ XX. Văn học ngày càng
hướng tới những tư tưởng mới,
quan điểm cách mạng xã hội, văn học phải gắn với cuộc đời, vừa tiếp thu tinh hoa

của văn hóa truyền thống vừa hướng tới văn hóa nhân loại
. Bám sát đời sống, gắn
với tồn vong của dân tộc, định hướng này đã góp vào thúc đẩy nên văn học hiện
thực phê phán phát triển.
1.2.3. Nền văn học Việt Nam từ 1900 trở đi phát triển trong một điều
kiện hoàn thiện dần một văn tự mới : chữ Quốc ngữ.
Văn học hiện thực Việt Nam sinh ra trong thời đại mà văn học cổ điển đã được xếp
hạng và chấm dứt; cái hay ở đây là còn có sự chấm dứt của văn tự cũ để sang Quốc
ngữ, văn tự mới. Hơn nữa, xã hội Việt Nam lại phát triển rất đa dạng. Cho nên,
ngôn ngữ mới lại mang thêm nhiều màu sắc mới. Đấy chính là cơ sở cực kỳ thuận lợi
cho sự phát triển của chủ nghĩa hiện thực phê phán ở nước ta. Bởi vì, chủ nghĩa
hiện thực phê phán lấy chính đời sống với những mâu thuẫn đa dạng, bộn bề của
nó làm đối tượng miêu tả,
mà đời sống một nửa được biểu đạt bằng ngôn ngữ.
1.3. Tâm thế xã hội.
1.3.1. Xu hướng xác định vị thế cá nhân trong xã hội, vấn đề cái “Tôi”
được khẳng định.
Phát hiện ra cái Tôi và ý thức về một cái Tôi (Nam Cao và Nguyên Hồng) với khát
vọng đổi đời đã mang lại tính chiến đấu mạnh mẽ, tính tích cực của dòng văn học
hiện thực phê phán. Các nhà văn hiện thực phê phán khi khám phá điển hình đời
sống, điển hình xã hội bao giờ cũng đặt chúng vào cái Tôi trải nghiệm đầy ý thức
của mình trong xu hướng muốn vượt thoát khỏi vũng lầy cuộc sống đương thời để đi
tới một ngày mai tốt đẹp hơn. Đây chính là đặc điểm thẩm mỹ quan trọng nhất
khiến chủ nghĩa hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930-1945 khác hẳn “cái Tôi
nội cảm” của văn học lãng mạn.
1.3.2. Cuộc đấu tranh giữa hệ tư tưởng tư sản và vô sản nhằm khẳng
định hệ tư tưởng văn hóa dân chủ mới là chủ nghĩa Mác – Lênin.
Những năm 30 của thế kỉ XX, xã hội Việt Nam phát triển trong hoàn cảnh hội nhập
và tiếp biến với văn hóa phương Tây, đồng thời luôn ý thức đặt văn học vào cuộc
đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp hết sức gay gắt, nhằm đi tới phá bỏ chế độ

thực dân phong kiến, xây dựng một hệ thống chế độ mới. Hoàn cảnh đó đã dẫn đến
những cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, ý thức hệ, hình thành những quan
điểm, những tâm lý thẩm mỹ và khuynh hướng, trào lưu văn học khác nhau. Cuộc
tranh luận nghệ thuật 1935-1939 giữa hai phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” và “nghệ
thuật vị nhân sinh”, định hướng cho văn học hiện thực phê phán giữ được bản chất
của mình. Đồng thời với
Đề cương văn hóa Việt Nam
(1943), nhóm
Văn hóa cứu
quốc
đã nâng tầm cao cho những tác phẩm văn học hiện thực phê phán.
1.3.3. Một chủ nghĩa nhân văn mới được hình thành (với những ý
nguyện và khát vọng sống mới, tinh thần độc lập dân tộc).
Chủ nghĩa nhân văn ở nước ta đã thành tựu phần lớn trong văn học lãng mạn. Đặc
trưng mới mẻ của chủ nghĩa nhân văn trong văn hiện thực phê phán là hướng đến
những con người cùng khổ, hướng đến sự yêu thương những con người lao động,
những con người bé nhỏ trong xã hội với
khát vọng đổi thay, mong muốn có một
cuộc đời mới.

* * *
Văn minh công nghiệp tạo ra lối sống đô thị, đến lượt nó, đô thị làm thay đổi toàn
bộ lối sống cá nhân của văn minh lúa nước. Kéo theo đó, nó làm thay đổi cả tâm
trạng, tâm thế của con người thời đại; đặc biệt nó đã làm thay đổi nhịp sống của
con người, thay đổi trình độ dân trí. Đấy cũng là nguyên nhân làm thay đổi cả hệ tư
tưởng văn hóa, thay đổi cách sáng tạo văn học, nghệ thuật. Vì vậy, chủ nghĩa hiện
thực phải đợi đến giai đoạn 1930-1945 mới phát triển rực rỡ.

Chương 2
Ý THỨC THẨM MỸ CỦA NHÀ VĂN VÀ CÁC KIỂU NHÂN VẬT

ĐIỂN HÌNH CỦA VĂN XUÔI
HIỆN THỰC PHÊ PHÁN VIỆT NAM (1930-1945)
2.1. Ý thức thẩm mỹ của các nhà văn hiện thực phê phán Việt Nam giai
đoạn 1930-1945.

2.1.1. Nguồn gốc xã hội
Mẫu thuẫn dân tộc và mẫu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc đẩy người nông dân và
dân nghèo thành thị vào con đường bần cùng hóa. Sự phân hóa giai cấp trong xã
hội diễn ra dữ dội, tinh thần phản kháng ngày càng dâng cao. Chọn giải pháp nhìn
thằng vào các ung nhọt xã hội để phanh phui nó ra, dẫn tới cảm hứng phê phán,
một cảm hứng đặc biệt của văn học hiện thực.
2.1.2. Những quan điểm thẩm mỹ cụ thể của các nhà văn hiện thực phê
phán Việt Nam trong sáng tạo nhân vật điển hình.
1/ Văn học phải phản ánh sự thật, nhưng đó lại là sự thật trái chiều của đời sống;
cái sự thật ngang trái, bất công. Văn học phải hướng tới số phận của con người,
nhưng không phải con người nói chung mà là con người thuộc tầng lớp thứ ba.
2/ Văn học phải góp phần làm thay đổi xã hội trên hai phương diện: xóa nỗi bất
công và hướng đến tình thương, tạo một chỗ đứng mới thanh cao cho con người.
3/ Văn học với bản chất là sáng tạo.
2.2. Tiến trình dẫn văn học tới vấn đề nhận thức vai trò của nhân vật điển
hình.
Văn học cổ thường xây dựng các nhân vật có chức năng thực hiện quan điểm thẩm
mỹ truyền thống trên cơ sở “văn dĩ tải Đạo”. Đây là kiểu nhân vật
điển hình của một
phương diện, điển hình về loại
, chưa phải là điển hình về tính cách. Văn học lãng
mạn lại chú ý đến cái riêng, đến cá tính, tâm trạng bên trong của nhân vật. Nhân
vật của chủ nghĩa hiện thực lại là
con người bình thường, con người lịch sử cụ thể
.

Giai đoạn 1930-1945 là giai đoạn sự phát triển nhảy vọt của cá nhân, của ý thức
“cái Tôi”. Văn học phản ánh nhân vật như một tính cách điển hình trong hoàn cảnh
điển hình tạo nên nghệ thuật đặc sắc của văn học hiện thực phê phán.
2.3. Thành tựu xây dựng tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình
của văn xuôi hiện thực phê phán 1930-1945.

2.3.1. Về khái niệm “điển hình” và “điển hình hóa”.
“Phạm trù điển hình là phạm trù quan trọng nhất của mỹ học hiện
thực”
(X.M.Pêtơrốp). Trần Đình Sử xác định : “Điển hình là một sự khái quát cao của
sáng tạo nghệ thuật”. “Về bản chất, cái điển hình không phải là cái cá biệt nhưng
điển hình nghệ thuật thì phải đồng thời là cái cá biệt”. Muốn xây dựng được một
điển hình văn học, nhà văn phải tuân theo nguyên tắc điển hình hóa. Điển hình hóa
theo nghĩa rộng là “con đường đưa sáng tạo nghệ thuật tới chất lượng cao”. Bản
chất của điển hình hóa là một phương thức để tạo ra hình tượng nghệ thuật, để cây
dựng nhân vật điển hình. Trong nghĩa hẹp, điển hình hóa là “hình thức khái quát
hóa đặc trưng của phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa, hình thành trên cơ sở
quan sát tính lắp đi lắp lại tương đối ổn định của các hiện tượng tính cách và quá
trình cuộc sống cùng loại trong thực tế”. Hai cách hiểu trên đều được sử dụng trong
luận án.
2.3.2. Những phương diện cơ bản quy định việc xây dựng tính cách điển
hình trong hoàn cảnh điển hình của chủ nghĩa hiện thực phê phán.
-
Phương pháp lấy chất liệu văn học:
Chủ nghĩa hiện thực phê phán rất chú trọng yếu tố khách quan- đối tượng
phản ánh của tác phẩm văn học. Các nhà văn hiện thực phê phán đều lấy
những
điển hình đời sống, điển hình xã hội cộng
với
cái Tôi có tinh khuynh

hướng
để xây dựng nên những điển hình văn học. Họ đặc biệt chú ý đến nguyên
mẫu.
- Thế giới quan của nhà văn:
Trong một điều kiện lịch sử mới, các nhà văn hiện thực phê phán Việt Nam đã nhìn
thấy mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam lúc đó là mâu thuẫn giữa nông dân và
địa chỉ.
Tắt đèn, Bước đường cùng, Chí Phèo
…đã chĩa mũi nhọn đả kích vào giai
cấp thống trị phong kiến và bước đầu thấy được
sự chuyển biến theo hướng tích
cực của một số nhân vật chính.
- Ý thức về phương pháp sáng tác:
Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan đều dùng phương pháp phân tích lịch sử, cụ thể
qua các chi tiết chân thực để xây dựng những tính cách điển hình trong hoàn cảnh
điển hình…Các nhà văn trẻ như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao và Nguyên Hồng đều
phát biểu quan điểm sáng tác rõ rệt của mình khi bắt đầu cầm bút.
- Những tư tưởng sáng tạo văn học với những nét thống nhất cái nhìn về số phận
con người (lấy chủ nghĩa nhân đạo làm cơ sở).
“Chủ nghĩa nhân đạo là cơ sở lý tưởng thẩm mỹ của nghệ thuật hiện thực”(X.M
Pêtơrốp). Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên Hồng đều xuất phát từ
chủ nghĩa nhân đạo cao cả để xẻ chia, thông cảm và phản ánh. Trong văn xuôi hiện
thực phê phán, ta thấy “thấm nhuần một tinh thần nhân đạo cao quý”.
- Ngoài ra còn phải kể đến một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến thành tựu của
văn học hiện thực phê phán Việt Nam, đó là đã
thừa kế thành tựu của văn học Pháp
và văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Nga.
2.3.3. Diễn tiến về xây dựng nhân vật điển hình trong văn xuôi hiện thực
phê phán 1930-1945.


Diễn tiến về điển hình hóa có thể chia làm ba giai đoạn : 1930-1935; 1936-
1939; 1940-1945.
Đầu thế kỷ XX, khuynh hướng hiện thực trong văn học Việt Nam đã biểu
hiện trong các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, Trọng Khiêm, Đặng Trần Phất, Nguyễn
Chánh Sắt. Tuy vậy, nhân vật của văn học giai đoạn này vẫn chưa đạt đến điển hình
văn học theo đúng nghĩa của nó. Năm 1930-1935, văn học hiện thực phê phán hình
thành, phát triển trở thành một trào lưu sáng tác hoàn chỉnh. Nguyễn Công Hoan là
tác giả tiêu biểu, nhưng điển hình hóa vẫn chưa trở thành bút pháp nghệ thuật đặc
sắc. Giai đoạn 1936-1939 là thời kỳ nở rộ của văn học hiện thực phê phán: phong
phú về số lượng, đa dạng về phong cách và có nhiều tác phẩm đạt đến đỉnh cao về
chất lượng
(Giông tố, Số đỏ, Tắt đèn)
. Văn học thời kỳ này đạt đến độ chín trong tư
duy hiện thực: xây dựng được “tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình”.
Nhiều hình tượng nhân vật đã trở thành những điển hình bất hủ. Giai đoạn 1940-
1945, khuynh hướng hiện thực phê phán đứng trước những thử thách mới. Tính
chất phê phán đi xuống rõ rệt. Họ đành chuyển hướng mà không “tàn lụi”. Sức sống
của một số cây bút trẻ xuất hiện nhờ vào hướng tiếp cận hiện thực mới (Mạnh Phú
Tư, Đỗ Đức Thu, Nam Cao, Tô Hoài, Nguyên Hồng). Một số tác phẩm đạt đến đỉnh
cao của chủ nghĩa hiện thực kiểu mới:
Sống mòn, Chí Phèo
của Nam Cao. Điển hình
hóa đã đi từ xung đột dân tộc, xung đột giai cấp
(Tắt đèn, Bước đường cùng, Giông
Tố, Chí Phèo)
, đến xung đột gia đình, xung đột đời tư cá nhân
(Sống mòn, Đứa con,
Làm lẽ…).
2.3.4. Các kiểu nhân vật điển hình trong văn xuôi hiện thực phê phán.
Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại các kiểu nhân vật, luận án dựa vào thực

tiễn văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX và chọn một tiêu chí được coi như một đóng
góp nhỏ của mình là dựa vào hiện tượng tha hóa của con người
( thuật ngữ
tha hóa
là thuật ngữ triết học do Hêghen và Mác sử dụng rất nhiều)
đem ứng dụng vào trong nghiên cứu điển hình văn học ta sẽ thấy các kiểu nhân vật
sau :
1) Kiểu nhân vật lao động bị áp bức, bị dồn vào con đường tha hóa, nhưng cố
vượt lên với tinh thần phản kháng.
Tắt đèn

Bước đường cùng
thể hiện sức mạnh quật khởi vốn tiềm tàng trong
nhân dân lao động. Đó là những tác phẩm có hệ thống nhân vật thể hiện cái nhìn
con người “trên tinh thần giai cấp”. Chị Dậu bị dồn vào thế phải bán con, bán nhân
phẩm nhưng vẫn giữ được bản chất tốt đẹp của mình. Ngô Tất Tố đã phát hiện ra
bản chất tốt đẹp tiềm ẩn của người nông dân. Nguyễn Công Hoan lại là nhà văn có
ý thức đưa vào tác phẩm hình ảnh của người nông dân sớm giác ngộ tinh thần đoàn
kết, lòng hữu ái giai cấp. Những người nông dân giàu tinh thần phản kháng này là
hình tượng đẹp của tác phẩm.
2) Kiểu nhân vật phản diện thuộc tầng lớp thống trị tự lao vào tha hóa đến mất
hết tính người.
Sự phân biệt nhân vật phản diện, chính diện gắn với sự ra đời của giai cấp trong
xã hội. Với những hình tượng nghị Quế, nghị Lại, nghị Hách, Bá Kiến, các nhà văn
hiện thực có điều kiện lách sâu vào ung nhọt xã hội. Ngòi bút của các nhà văn trở
thành vũ khí chiến đấu, giáng vào đầu bọn quan tham lại nhũng, địa chủ phong
kiến, tư sản mại bản những đòn hiểm. Những hình tượng điển hình về nhân vật
phản diện thuộc tầng lớp thống trị trong văn học hiện thực phê phán Việt Nam đã
“miêu tả đúng đắng những quan hệ thực tế, nó phá vỡ được những ảo tưởng có
tính chất quy ước và đang thống trị nó về bản chất của các quan hệ này, làm lung

lay được cái tinh thần lạc quan của thế giới tư sản gieo rắc hoài nghi về tính chất
bất biến của những cơ sở của trật tự hiện tồn” (
Mác – Ăng ghen – Lênin bàn về văn
học và nghệ thuật
).
3) Kiểu nhân vật “hãnh tiến” – tha hóa ngược ( Đỗ Văn Khang )
Xuân tóc đỏ là một nhân vật tính cách, một nhân vật điển hình của chủ nghĩa hiện
thực, có tính cách phong phú và đa dạng, tiêu biểu cho loại người hạ lưu, vô học,
nhờ hoàn cảnh “xã hội bát nháo” đã tạo điểu kiện cho hắn tiến thân trở thành một
kẻ “nổi tiếng”. Nó là một nhân vật “tiến lên trong xã hội tư sản hoàn toàn bằng con
đường gian trá, bịp bợm” (Phan Cự Đệ). Hoàn cảnh đã tạo điều kiện rất thuận lợi để
Xuân bước tới vinh hoa, phú quý, rồi chính nó “từ chỗ bị động, nó tiến lên chủ động,
khai thác triệt để vận đỏ của nó” (Nguyễn Đăng Mạnh).
4) Kiểu nhân vật bị tha hóa nhưng quyết không chịu tha hóa đến cùng.
Nhân vật Tám Bính của Nguyên Hồng và nhân vật Chí Phèo của Nam Cao tiêu biểu
cho kiểu loại nhân vật này. Trong tác phẩm của Nam Cao, kiểu con người tha hóa
được khai thác một cách toàn diện và triệt để. Tha hóa và chống lại tha hóa, các
nhân vật đã phải trả một cái giá rất đắt cho chính mình. Nguyên Hồng và Nam Cao
đã cố gắng đi tìm những nét đẹp còn ẩn sâu trong tâm hồn của những con người bị
tha hóa- một quan niệm rất tiến bộ của các nhà văn hiện thực phê phán Việt Nam.
5) Kiểu nhân vật tiểu tư sản trí thức bị tha hóa nhân cách với những bị kịch vỡ
mộng.
Văn học hiện thực phê phán với đối tượng thẩm mỹ mới của mình đã sáng tạo
được một kiểu nhân vật mới – những người trí thức. Từng ôm ấp những hoài bão
lớn, từng mơ ước và mơ ước đó là chính đáng, nhưng những nhân vật đó đều phải
gò mình trong hoàn cảnh, bị hoàn cảnh níu kéo. Bi kịch của họ là cuộc giằng xé dai
dẳng, giữa một bên là khát vọng cao cả và một bên là cuộc sống tầm thường. Thứ,
Điền, Hộ là những người trí thức đầy ước mơ, hoài bão, vật lộn trong những lo toan
của đời thường, họ đều rơi và bi kịch vỡ mộng. Chính điều này đã tạo ra phương
diện tinh tế của văn học. Nam Cao đã nói về họ với sự cảm thông sâu sắc và hiểu

biết thực sự.

Chương 3
NGHỆ THUẬT ĐIỂN HÌNH HÓA
TRONG VĂN XUÔI HIỆN THỰC PHÊ PHÁN VIỆT NAM

3.1. Nghệ thuật xây dựng các loại hình nhân vật điển hình của văn học
hiện thực phê phán Việt Nam.
3.1.1. Điển hình hóa nhân vật chính diện.

Chị Dậu là hình ảnh của một nhân vật chính diện tiêu biểu của văn xuôi hiện
thực phê phán. Đây là kiểu nhân vật gần với truyền thống, được xây dựng theo khát
vọng của nhân dân : nhân vật chính diện bao giờ cũng đẹp và được thể hiện với bút
pháp lý tưởng. Vì vậy, nhân vật trung tâm ở đây là dạng nhân vật điển hình mà
phần khái quát hóa thành công hơn phần cá thể hóa. Nhà văn thường chú trọng
miêu tả ngoại hình hơn là nội tâm. Ngô Tất Tố là trường hợp tiêu biểu.
3.1.2. Điển hình hóa nhân vật phản diện.

Chọn nhân vật phản diện làm nhân vật trung tâm, văn học hiện thực phê
phán thành công trong cách phản ánh các tưởng phản quái gở của thời đại. Nguyễn
Công Hoan rất có sở trường về điển hình hóa nhân vật phản diện. Ông thường tô
đậm một số nét điển hình của loại nhân vật này và phóng đại lên để người đọc dễ
nhận diện. Điển hình hóa nhân vật nghị Hách, Vũ Trọng Phụng đã tạo nên một
nhân
vật phản diện với nhiều đức tính xấu, thậm chí cực xấu
. Như vậy, tính cách điển
hình của hắn hiện nguyên hình là một kẻ thống trị gian hùng và khả ố.
Hình tượng
nghị Hách là hình tượng trung tâm và nổi bật của tác phẩm lấn át nhân vật chính
diện

. Điển hình hóa nhân vật Bá Kiến,
Nam Cao tập trung miêu tả tính cách nham
hiểm hơn là chú trọng miêu tả hình thức
. Với các nhân vật phản diện này, văn xuôi
hiện thực phê phán đã làm được một sứ mệnh rất cao cả đó là
nhìn thấy

vạch

chân tướng cũng như
bản chất
của giai cấp thống trị và dự báo dự sụp đổ không
tránh khỏi của chúng.
3.1.3. Điển hình hóa nhân vật dị dạng.

Điển hình hóa nhân vật dị dạng
trở thành một đóng góp đáng kể của văn
xuôi hiện thực phê phán, mà tiêu biểu hơn cả là sáng tác của Nam Cao. Ông hay ví
von so sánh con người ứng với loài vật, đồ vật. Những nhân vật này bị hoàn cảnh
làm méo mó đến mất cả nhân hình : xấu xí, dị dạng. Trong khi và đồng thời với việc
đặt các
nhân vật dị dạng thành nhân vật trung tâm
của tác phẩm, nhà văn đã để
cho các
nhân vật bình thường khác xuống hàng thứ yếu
, hoặc trong mối quan hệ
khăng khít với nhân vật dị dạng để tô đậm thêm cuộc đời của kiểu nhân vật này.
Nam Cao
chú trọng miêu tả sự băng hoại về mặt hình thức để nói lên sự tha hóa về
mặt tâm hồn

. Bằng bút pháp
cường điệu, lố bịch
hóa nhân vật, tác giả tô đậm thêm
tính bi kịch có tính quy luật của một lớp người là nạn nhân của hoàn cảnh.
3.1.4. Nhân vật được xây dựng từ nguyên mẫu, hoặc tự phân thân.
Lần đầu tiên trong lịch sử, nên văn học này đã coi chính đời sống cùng các
quan hệ của nó trong dòng chảy lịch sử làm chất liệu của nghệ thuật. Vũ Trọng
Phụng và Nam Cao là hai nhà văn thường sử dụng nguyên mẫu cho sáng tác. Hầu
hết các nhân vật trong
Số đỏ
đều có nguyên mẫu trong cuộc đời. Về nhân vật Bá
Kiến, Nam Cao từng mượn nguyên mẫu là nghị Bính. Thứ
(Sống mòn),
Điền
(Giăng
Sáng),
Hộ
(Đời thừa)
đều là những phân thân của Nam Cao. Huyên trong
Hai dòng
sữa
, Sinh trong
Hơi thở tàn
, An trong
Ngọn lửa
đều là những nhân vật mang dáng
dấp của Nguyên Hồng.
3.2. Nghệ thuật sử dụng thời gian và không gian, các yếu tố trào lộng góp
phần khắc họa tính cách nhân vật điển hình.
3.2.1. Nghệ thuật sử dụng thời gian.


Thời gian nghệ thuật của văn xuôi hiện thực phê phán là
thời gian hiện thực
hàng ngày (không có thời gian tương lai), đôi khi tương lai cũng lóe lên nhưng rồi
tắt ngấm
. Để khắc họa tính cách của những nhân vật điển hình rơi vào hoàn cảnh
bế tắc thì thời gian thường là
thời gian dồn nén (tận cùng, cuối tuần, cuối ngày, cuối
năm, cuối vụ thuế
), làm tăng thêm tình trạng gay gắt của hoàn cảnh, tạo điều kiện
để nhân vật bộc lộ tính cách (thời gian trong
Tắt đèn, Bước đường cùng, Giông
tố
).
Thời gian
trong
Giông tố
là thời gian
bất thường, không ổn của các nhân vật
.
Ngay sau thời điểm đó, cuộc đời của các nhân vật chuyển sang một hướng khác mà
thường là theo hướng tiêu cực.
Số đỏ, Giông tố, Vỡ đê, Trúng số độc đắc
lại tiêu
biểu cho thời gian gấp gáp như sự đảo lộn của cuộc đời.
Thời gian nghệ thuật đa
tuyến
là một cách tân của văn xuôi hiện thực phê phán
(Giông tố, Trúng số độc đắc,
Sống mòn, Bỉ vỏ).

3.2.2. Nghệ thuật sử dụng không gian.

Trong văn học hiện thực phê phán nổi bật lên là
không gian tù túng, quẩn
quanh dồn ép con người, không gian của những người bần cùng, của những người
dưới đáy vô vọng
. Không gian
riêng tư cá nhân – không gian điểm
còn được miêu tả
rất đậm nét trong nhiều tác phẩm. Trong nhiều tác phẩm của dòng văn học này nổi
bật lên
sự đối lập một cách gay gắt giữa không gian với con người
, tạo nên một kiểu
khong gian
cô đặc lại, bủa vây con người
: hình ảnh của mặt trời, bầu trời. Văn học
hiện thực phê phán còn có xu hướng viết về
không gian mở (Vỡ đê, Người tù được
tha)
. Đặc điểm nổi bật ở văn xuôi hiện thực phê phán là khi nhân vật điển hình ở
trong hoàn cảnh hẹp thì tính cách thường sinh động, nếu tách nhân vật ra khỏi hoàn
cảnh hẹp, nhân vật không sinh động nữa. Sự biến đổi của không gian làm cho nhân
vật của văn học hiện thực phê phán bị hẫng hụt, biến đổi, dễ trôi theo dòng nước
cuốn (Chí Phèo, Tám Bính, Thị Mịch).
3.2.3. Nghệ thuật sử dụng yếu tố trào lộng.
a) Tình huống mang tính kịch cao.

Nguyễn Công Hoan lưu ý tới độ
chênh giữa hoàn cảnh và tính cách
. Tiếng

cười của Vũ Trọng Phụng là
phát hiện ra các bảng giá trị, các chuẩn mực của xã hội
bị đảo lộn để
tạo ra một thế giới nghệ thuật đảo lộn, ngớ ngẩn lố bịch, nhố nhăng
rởm đời. Với ý nghĩa đó, “cười là tinh thần của lòng căm thù” (Banzắc).
b) Nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật.

Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng thường sử dụng
chi tiết
tạo hình mang tính trực tiếp bề ngoài
nhưng lại là sự thể hiện
trực tiếp tính cách
bên trong. Bằng nghệ thuật phóng đại lột mặt nạ, các nhà văn hiện thực phê phán
bóc trần bản chất trống rỗng, thói huênh hoang vô nghĩa, lạm dụng thời thế
của các
nhân vật cần phải lên án, đả phá.
c) Nghệ thuật xây dựng giọng điệu các nhân vật.

Nghệ thuật trào lộng đạt đến mức độ cao còn nhờ vào việc nhà văn
cá tính
hóa nhân vật bằng ngôn ngữ
. Ngô Tất Tố đặc tả giọng điệu của nghị Quế : giọng
điệu lạnh tanh, kẻ cả, của lối “văn minh làng quê”. Mỗi nhân vật của Vũ Trọng
Phụng có một thứ ngôn ngữ riêng, không thể lẫn vào đâu được ( giọng điệu của
nghị Hách, giọng điệu của Xuân tóc đỏ). Vũ Trọng Phụng còn dùng tiếng nhại để đối
tượng phải tỏ mặt thật. Giọng điệu nhại trở thành thủ pháp chủ đạo của tác phẩm
hài hước. Nghệ thuật trào lộng trong tác phẩm Nam Cao thường dùng hình thức đa
giọng điệu (song thanh) để châm biếm hay tự giễu nhân vật (
Chí Phèo, Sống mòn
).

Đến văn học hiện thực phê phán, ngôn ngữ nhân vật, giọng điệu nhân vật được sử
dụng một cách uyển chuyển, linh hoạt nhiều bình diện, đa sắc màu, phong phú như
cuộc đời, góp phần khắc họa tính cách nhân vật điển hình.
3.3. Đặc trưng thẩm mỹ của những tính cách điển hình trong văn học hiện
thực phê phán.
3.3.1. Sự thống nhất biện chứng giữa cái chung và cái riêng, giữa khái
quát hóa và cá thể hóa.

Các nhân vật nghị Hách, Chí Phèo, Xuân tóc đỏ, Tám Bính, chị Dậu … đều là
những nhân vật có cá tính hóa rõ nét, nó là “con người này” như ông già Hêghen đã
nói. Nghị Hách là một thành công xuất sắc của điển hình hóa hiện thực chủ nghĩa.
Xây dựng nhân vật này, Vũ Trọng Phụng thể hiện độ chín trong tư duy hiện thực
của ông. Về mặt cá tính, hình tượng chị Dậu không gây được ấn tượng sâu sắc như
hình tượng Chí Phèo. Nhưng những chi tiết mà Ngô Tất Tố đã có ý thức để miêu tả
hình tượng này từ ngoại hình đến nội tâm là của riêng chị Dậu. Chí Phép là nhân vật
có cá tính rõ nét. Nhân vật Thứ là nhân vật có tính cách đa chiều. Tuy không độc
đáo như nhân vật của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, nhưng nhân vật Thứ đã đạt
đến mức độ điển hình hóa sâu sắc.
3.3.2. Tính đa dạng về màu sắc thẩm mỹ.
Trong tác phẩm hiện thực phê phán, các màu sắc thẩm mỹ pha trộn đan
chéo nhau, chuyển hóa lẫn nhau. Có khi trong một yếu tố tự sự có pha lẫn cái cao
cả, cái thấp hèn, cái đẹp và cái xấu, chất thơ và chất “văn xuôi”. Tính đa dạng về
màu sắc thẩm mỹ được thể hiện trong từng nhân vật, từng sự kiện, từng chi tiết.
Các nhà văn hiện thực chủ nghĩa là người nắm bắt và miêu tả sự chuyển hóa các
sắc thái thẩm mỹ này một cách chắc tay. Nghị Hách, Xuân tóc đỏ, Chí Phèo, Thứ là
những hình tượng điển hình cho sự chuyển hóa này.
3.3.3. Có sự phát triển hợp lô gíc nội tại của tính cách.
Trong tác phẩm hiện thực phê phán có sự phát triển của tính cách một cách
logíc. Chị Dậu là một người phụ nữ hiền dịu, đảm đang, một người phụ nữ rất
truyền thống nhưng bị hoàn cảnh dồn ép mãi, chị đành đứng lên đánh trả người nhà

lý tưởng. Sự phát triển tính cách của Tám Bính cũng là hợp lý. Mịch và Long
trong
Giông tố
cũng là những nhân vật bị tha hóa theo một quá trình. Miêu tả sự
chuyển biến tính cách của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã đạt đến một nghệ thuật
chắc tay. Sự chuyển đổi nội tại tính cách của Chí Phèo là những trang viết hay nhất
của truyện ngắn cùng tên.
3.3.4. Sự thống nhất biện chứng giữa tính lưu chuyển và tính bất biến.
Nhân vật của văn xuôi hiện thực phê phán vừa có tính ổn định như bản
chất vốn có, đồng thời tính cách đó lại phát triển trong quá trình đấu tranh với hoàn
cảnh. Tính bất biến của chị Dậu là một người phụ nữ bé nhỏ, yêu chồng, thương
con, sống một cuộc sống bình dị ở thôn quê và bằng lòng với cuộc sống đó. Tính lưu
chuyển của chị Dậu là vùng lên phản kháng. Điều này hợp với sự phát triển tính
cách của chị. Nó cũng phù hợp với cái nhìn tốt đẹp của Ngô Tất Tố về người phụ nữ
nông dân Việt Nam. Chí Phèo cũng là một nhân vật thể hiện rất rõ hai yếu tố
này.
Tính bất biến làm nền tảng cho tính lưu chuyển, chúng là hệ quả của nhau để
tạo nên một tính cách hoàn chỉnh, sống động.
Xuân tóc đỏ, Tám Bính là những
nhân vật có sự hòa quyện những nét tính cách này.
3.3.5. Xây dựng được tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình.
Điển hình hó của chủ nghĩa hiện thực phê phán là phải chọn những chi tiết
chân thực, chọn sự va chạm giữa tính cách và hoàn cảnh tiêu biểu của đời sống
làm
đối tượng khai thác thẩm mỹ. Do đó, tính cách của chủ nghĩa hiện thực là tính cách
điển hình trong hoàn cảnh điển hình, giữa hai yếu tố này có mối quan hệ biện
chứng với nhau.
Hoàn cảnh điển hình của chủ nghĩa hiện thực phê phán chủ yếu là
hoàn cảnh xấu
, hoàn cảnh bóp chết hạnh phúc của con người, làm biến dạng con

người. Tính cách của các nhân vật trong chủ nghĩa hiện thực phê phán là
tính cách
chống đối lại hoàn cảnh đó
, hoặc
vùng vẫy chống lại
hoàn cảnh nhưng đều bị hoàn
cảnh làm cho thất bại, chưa ai có thể thành công trong việc cải tạo hoàn cảnh mà
thường bị hoàn cảnh chi phối, lấn át. Các tác phẩm
Tắt đèn, Bước đường cùng, Bỉ
vỏ, Giông tố, Số đỏ, Chí Phèo, Sống mòn
đã tạo ra được các hoàn cảnh điển hình
nổi bật, tạo điều kiện cho các tính cách phát triển.
3.4. Tác động của điển hình hóa đối với xã hội và con người.
Vấn đề tác động của điển hình hóa đối với xã hội là vấn đề trường tồn của
điển hình văn học. Chức năng nhận thức và giáo dục của văn học thể hiện rõ nét
qua những hình tượng điển hình. Những điển hình này là một đi không trở lại,
nhưng nó là dấu ấn về một xã hội đã qua; giúp người đọc nhận thức bản chất của
chế độ ấy và thêm tin yêu vào sự tốt đẹp của xã hội ta ngày mai.
Hình tượng nghệ thuật chỉ có giá trị khi nghệ sĩ dùng nó để miêu tả và bảo
vệ cái đẹp, lên án cái xấu, tác động đến cảm xúc của công chúng. Văn học là một
phương tiện quan trọng dùng ảnh hưởng của nó hướng con người đến
Chân, Thiện,
Mỹ
. Song, để ảnh hưởng đến mức cao nhất, văn học không thể tác động một cách
chung chung, trừu tượng mà cần tạo nên những kinh nghiệm, những tấm gương về
tư cách người, những điển hình văn học bất hủ. Văn học hiện thực phê phán
còn
thức tỉnh ý thức con người, thúc đẩy họ có thái độ rõ rệt đối với số phận của
mỗi người
. Dòng văn học này đã tạo thành ở bạn đọc thái độ phủ định đối với hiện

thực xã hội không xứng đáng. Đến đây, chúng ta có thể khẳng định rằng,
sức mạnh
của chủ nghĩa hiện thực là ở chỗ nhà văn đúng giữa thực tại, tìm cách khám phá
những tương phản quái gở của thời đại để mọi người xa lánh cái xấu, qua đó tự tìm
lấy cái đẹp.

KẾT LUẬN
Dùng phương pháp liên ngành để nghiên cứu
Điển hình hóa trong văn xuôi
hiện thực phê phán 1930-1945
, luận án đã giải quyết một số vấn đề sau :
1. Về mặt khách quan, văn học hiện thực phê phán chỉ ra đời khi cuộc sống hội
đủ các yếu tố sau :
- Văn minh công nghiệp và kinh tế hàng hóa được phát động ở nước ta và
bắt đầu bám rễ vào xã hội, có hiệu lực tạo nên cuộc sống mới và chi phối cuộc sống
từng giờ, từng phút.
- Tầng lớp thị dân phát triển nhanh thành một lực lượng phải tính đến trong
xã hội. Tầng lớp này có một năng lực mới về thị hiếu thẩm mỹ: bắt nhạy cái đẹp
mới và khát vọng khẳng định cái Tôi. Tầng lớp này có học, tự nó trở thành một
“thực khách” của nền nghệ thuật sử dụng ngôn từ.
- Tầng lớp thứ ba xuất hiện làm xuất hiện đối tượng thẩm mỹ mới và nhân
vật mới của văn học, đặc biệt là của văn học hiện thực phê phán.
- Văn học đã xuất hiện một hệ thống quan niệm mới về xã hội, con người,
về hiện tại và tương lai. Triết học Khai sáng và chủ nghĩa nhân văn là cơ sở của nền
văn học mới.
- Kiểu tư duy “tuyến tính” đầy chất duy lý mang tính phân tích cao là cơ sở
của tư duy nghệ thuật hiện thực phê phán.
- Cảm hứng sáng tạo quan trọng nhất của thời này là cảm hứng phủ định
những cái xấu xa, thấp hèn, để đi tìm cái đẹp mới.
- Văn tự mới xuất hiện đã dần hoàn thiện, đủ năng lực diễn đạt mọi ngóc

ngách của đời sống và tâm lý con người.
1. Như vậy, ngay đầu thế kỷ XX cho tới đầu 1930, hoàn cảnh cuộc sống đã hội
đủ điều kiện khách quan, chỉ còn thiếu một nhân tố chủ quan đó là ngọn lửa
sáng tạo của nhà văn. Nhưng, nhà văn của thời đại mới, chỉ có thể là những
tài năng xuất thân từ đội ngũ tri thức Tây học. Các nhà văn trí thức Tây học
là nghịch tử của chính sách mở trường Cao đẳng và Đại học từ những năm
1906 của Pháp nhằm kéo thanh niên ta ra khỏi phong trào Đông du và đào
tạo tay sai phục vụ chính sách thuộc địa của chúng. Các nhà văn thời này là
sản phẩm của thời đại, đồng thời cũng là những tài năng vượt lên trên thời
đại, dùng văn học để biểu hiện trí lớn của mình hướng về những người cần
lao.
Tư tưởng cơ bản của các nhà văn thời này là tư tưởng khai sáng và đượm chất
nhân văn. Với các nhà văn hiện thực phê phán thì nghệ thuật cơ bản của họ là nghệ
thuật phủ định mặt nghịch chiều của đời sống, đó là nghệ thuật đầy tính hài kịch
nhằm phát hiện những xung đột gay gắt giữa tính cách và hoàn cảnh của con người
đương thời. Mục đích nghệ thuật chủ yếu của các nhà văn hiện thực phê phán là xây
dựng các điển hình văn học với đặc điểm là chi tiết chân thực, tính cách điển hình
trong hoàn cảnh điển hình.
1. Điển hình hóa trong văn học bao giờ cũng kết lại ở nhân vật điển hình. Các
kiểu nhân vật điển hình là sự cụ thể hóa ý đồ sáng tác của nhà văn và là sự
thể hiện dấu ấn cá nhân, sở trường sáng tác văn chương của nghệ sỹ. Luận
án đã dùng tiêu chí “Tha hóa” để phân loại thành năm kiểu nhân vật điển
hình chủ yếu của văn học hiện thực phê phán. Đóng góp lớn nhất của dòng
văn học này chính là sự phát hiện
tầng lớp thứ ba
(bình dân, nông dân, trí
thức) mà trước đây chưa có một dòng văn học nào đạt tới sự phản ánh toàn
diện, sâu sắc như vậy.
2. Luận án đi sâu nghiên cứu thành tựu nghệ thuật của văn học hiện thực phê
phán trên cấp độ một chỉnh thể nghệ thuật. Luận án cũng đã phân chia nghệ

thuật lựa chọn loại hình nhân vật, nghệ thuật sử dụng thời gian, không gian,
nghệ thuật trào lộng và nghiên cứu sâu đặc trung thẩm mỹ của những tính
cách điển hình trong văn học hiện thực phê phán với tính cách là một nghệ
thuật chịu ảnh hưởng lớn của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trên thực tế, nghệ
thuật này thống nhất trong một hình tượng. Cùng với ý thức thẩm mỹ, tư
tưởng sáng tạo chân chính của mình, các nhà văn hiện thực phê phán Việt
Nam đã nâng bước cho thành tựu văn chương của mình và góp phần làm cho
hình tượng được thăng hoa lên gấp bội. Nhờ đó, văn học hiện thực phê phán
là dòng văn học có tác dụng góp vào uống dòng lịch sử và nhen lên ngọn lửa
đấu tranh chống giai cấp thống trị đương thời. Luận án còn cố gắng làm rõ
thêm ảnh hưởng của điển hình văn học tới con người thời đại.
Chọn phương pháp sáng tác “lật xới” những mặt trái của đời sống để đi tìm cái Đẹp
mới cho con người, chủ nghĩa hiện thực phê phán Việt Nam đã phản ánh đúng đặc
trưng của thời đại. Thời đại mà con người lao động, quần chúng nhân dân đã được
thức tỉnh, chuẩn bị làm một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân vĩ đại dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương. Nói cách khác, chủ nghĩa hiện thực
phê phán Việt Nam giai đoạn 1930-1945 đã có công đẩy sức mạnh của sự phê bình
đến đỉnh cao, để toàn dân ta thay thế sự phê bình trên văn học thành sự phê bình
bằng vũ khí.



















DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CỐNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Thu Thủy (2003), Quá trình cá nhân hóa cá thể và xã
hội hóa nhân cách qua văn học hiện thực phê phán 1930 –
1945, Văn hóa nghệ thuật (số 2), tr 66 – 70.
2. Nguyễn Thị Thu Thủy (2004), Nghệ thuật góp phần hoàn thiện
nhân cách, Văn hóa nghệ thuật (số 9), tr 78 – 82.
3. Nguyễn Thị Thu Thủy (2005), Tiến trình nhận thức vai trò nhân
vật điển hình của văn học, Văn hóa nghệ thuật (số 8), tr 91 – 94.
4. Nguyễn Thị Thu Thủy (2005), Những tiền đề dẫn tới chủ nghĩa
hiện thực phê phán 1930 – 1945, Văn hóa nghệ thuật (số 10), tr
81 – 85.
5. Nguyễn Thị Thu Thủy (2006), Cái tôi trong văn học hiện thực phê
phán, Văn hóa nghệ thuật (số 10), tr 74 – 76.






×