Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Báo cáo KH "XÂY DỰNG MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH VÀ KHUYỀN NGHỊ CHO VIỆT NAM"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ
Đ
ÀO

TẠO
TRƯỜNG
Đ
ẠI
HỌC KINH TẾ
TP.HCM
==
==
==
==
0==
0==
=
=
=
=
CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
“NHÀ KINH TẾ TRẺ – NĂM 2009”
TÊN CÔNG TRÌNH:
XÂY DỰNG MÔ HÌNH CẢNH
BÁO
KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH
VÀ KHUYỀN NGHỊ CHO VIỆT
NAM
THUỘC NHÓM NGÀNH: KHOA HỌC KINH TẾ


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1. NGHIÊN CỨU KINH
Đ
I

N VỀ KHỦNG HOẢNG VÀ CÁC MÔ
HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH ...…………. ........
1
1.1 Nghiên cứu kinh điển về khủng hoảng tài chính ...............................................................
1
1.1.1 Khủng hoảng tiền tệ (Currency Crisis) .......................................................................
1
Khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ nhất…………………………………………….. ..........
1
Khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ hai……………………………………………… ..........
2
Khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ ba………………………………………............. ..........
2
1.1.2. Khủng hoảng ngân hàng (Banking Crisis) ……………………………...... ............
2
Sự lựa chọn đối nghịch…………………………………………………………............
.3
Rủi ro về đạo đức………………………………………………………………. ...........
.3
Tâm lý bầy đàn………………………………………………………………… ...........
..3
1.1.3 Khủng hoảng nợ ( Debt Crisis)………………………..…………………….............
.4
1.1.4 Khủng hoảng kép (Twin crisis)………………………………………………............
5

Khủng hoảng kép thế hệ thứ nhất....................................................................................
.5
Khủng hoảng kép thế hệ thứ hai.....................................................................................
..8
1.1.5 Nguyên nhân của khủng hoảng tài chính…………………........................ ...........
.10
1.2.Các mô hình cảnh báo khủng hoảng ................................................................................
12
1.3.1.Mô hình Probit ...........................................................................................................
12
1.3.2.Mô hình Neuro Nuzzy ...............................................................................................
13
Mờ hóa .............................................................................................................. ..........
13
Suy luận ............................................................................................................ ...........
15
Khở mờ ............................................................................................................. ...........
15
1.3.3.Mô hình Signal Approach..........................................................................................
16
Giải thích Stj ................................................................................................................
17
Giải thích ωj …………………………………………………………......…… ..........
18
CHƯƠNG 2. XÂY DỰNG MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG
T
ÀI
CHÍNH CHO VIỆT NAM ........................................................... ......... 20
2.1 Lựa chọn mô hình cảnh báo khủng hoảng tài chính phù hợp cho
Việt

Nam
…………………………………………………………....................…………...... 20
2.2 Ứng dụng mô hình Signal Approach vào cảnh báo khủng hoảng tài chính cho
Việt
Nam
…………………………………………..………………………………….................. 21
2.2.1 Cơ sở dữ liệu ..............................................................................................................
21
2..2.2 Xây dựng chuỗi chỉ số cảnh báo khủng hoảng .......................................................
22
Lựa chọn biến số cho mô hình........................................................................................
23
Giải thích sự tác động của từng biến. ............
…………………………………………26
2.2.3 Chuỗi chỉ số cảnh báo khủng hoảng thực
nghiệm
...........
………………………..27
Lưu ý của chuổi chỉ số 13 biến ……………………………………..…………...................
28
Chuỗi chỉ báo khủng hoảng 10 biến………………………………………..…....................
29
2.2.4 Qua kết quả nhìn nhận xác suất Việt Nam rơi vào khủng hoảng
tài
chính ……………………………………………………………………….. .........
33
Phương pháp luận………………………………………………………............. ..................
33
Thực nghiệm……………………………………………………………............. ..........
34

CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT VÀ CÁC KHUYỀN NGHỊ THÊM VỀ MÔ
HÌNH ………………………………............................................ ......
37
3.1 Nhận xét kết quả dự báo của mô hình ………………………………………….... ..... ....
37
3.1.1
Đ
ánh
giá rủi ro quốc gia Việt Nam của EIU………... ………………............... ....
.37
Rủi ro chủ quyền …………………………………………………………..…… .........
38
Rủi ro riền tệ ……… .........
…………………………………………………................38
Rủi ro ngân
hàng…………
.........
……………………………………………………...38
3.1.2 IMF và đánh giá tính dễ tổn thương của hệ thồng tài chính Việt
Nam
......
...…….38
Khả năng dễ bị tổn thương của hệ thống ngân hàng .........
…………………...…..…..38
Thị trường chứng khoán sụt giảm và những rủi ro trên thị trường
chứng
khoán ………………………… ...........
………………………………………...............39
3.1.3 Nét tương đồng giữa các báo cáo và mô hình Signal Approach .......
……..............40

3.2 Khắc Phục những nhược điểm của mô hình………........ …………………...…........ ....
41
3.3 Khuyến nghị cho Việt
Nam………………………………………………………….…41
3.3.1 Khuyến nghị về mặt mô
hình………………………………………..………….......41
Biến VNINDEX..………………………………………............ ……………………....
41
Chỉ số bất động sản ……………………..………… ..........
…………………………...41
3.3.2 Khuyến nghị về mặt chính sách ……………............
…………………………..…..42
Khuyến nghị chính sách vĩ mô .…………………............
……………………………..42
Tích cực điều chỉnh và tăng cường giám sát hệ thổng tài chính để đảm bảo sự
thận
trọng của các ngân hàng trong việc quản lý rủi ro ....................
...................................45
Xây dựng một cấu trúc khuyền khích có lợi cho phối hợp tài chính mạnh mẽ để tránh
tỉ
lệ nợ trên giá trị cổ phần và tăng độ đáng tin cậy trong các khoản vay
nước
ngoài ………………………………………… ...........
………………………………...45
Kiểm soát và theo dõi chặt chẽ các khoản vốn đầu tư của các tập đoàn nhà nước
từ
việc tiến hành vay nợ nước ngoài nhắm tránh rủi ro mất vốn
nhà
nước………………………………………… ...........
………………………….………46

Xây dựng mô hình cảnh báo khủng hoảng cho toàn bộ nền kinh tế
Việt
Nam………………………………………… ...........
………………………………….47
DANH MỤC TỪ VIẾT
TẮT
VN
Việt
Nam
NHTW
Ngân hàng trung
ương
NH
Ngân
hàng
TTCK
Thị trường Chứng
khoán
B
Đ
S
Bất động
sản
WTO
Tổ chức thương mại thế
giới
IMF
Quỹ tiền tệ thế
giới
E

IU Cơ quan tình báo kinh tế Anh
FDI
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài
GDP
Tổng sản phẩm Quốc
Nội
DANH MỤC BẢNG
BIỂU
Bảng 1.1 : Khủng hoảng kép thế hệ thứ
hai
Bảng 1.2 : Ngưỡng liên hệ của các chỉ số dự
báo
Bảng 2.1: Giải thích cách chọn biến đầu vào và nguồn số liệu sử
dụng
Bảng 2.2:
Đ

nhiễu của biến dự
báo
Bảng 2.3: Ngưỡng khả thi cho các biến dự
báo
Bảng 2.4: Chuỗi chỉ số khủng hoảng thực
nghiệm.
Bảng 2.5: Chuỗi chỉ số khủng hoảng 10 biến và 13
biến.
Bảng 2.6: Chuỗi chỉ số khủng hoảng cho 10 biến và 13 biến (năm gốc 1998 giá trị là
100)
Bảng 2.7: Giá trị S
t

và xác suất xảy ra khủng hoảng có điều
kiện.
Bảng 2.8: Chuỗi chỉ số xác xuất xảy ra khủng hoảng thực nghiệm của Việt
Nam
Bảng 2.9: Các mức cảnh báo khủng hoảng tương ứng với các mức xác suất khủng
hoảng
Bảng 2.10 : Các mức cảnh báo khủng hoảng đối với Việt Nam giai đoạn
1998-2008
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1 : Hàm xuất
khẩu
Hình 1.2 : Hàm dự trữ ngoại
tệ
Hình 2.1: Chuỗi chỉ số khủng hoảng thực nghiệm 13 biến giai đoạn 1998 –
2008.
Hình 2.2: Biểu đồ so sánh chuỗi chỉ số khủng hoảng cho 10 biến và 13
biến
Hình 2.4: Lãi suất tiền gửi thực tại Việt Nam giai đoạn
1998-2008
Hình 2.3: Chuỗi chỉ số Tín dụng nội địa/GDP Việt Nam giai đoạn
1998-2008
Hình 2.5: Chỉ số M2/Dự trữ ngoại hối Việt Nam giai đoạn
1998-2008
Hình 2.6: Chuỗi xác suất xảy ra khủng hoảng có điều kiện cho Việt Nam 1998 –
2008
Hình 2.7:Chuỗi xác suất khủng hoảng thực nghiệm VN giai đoạn 1998 –
2008.
Hình 3.1: Biểu đồ tăng trưởng tỷ số M
2
/GDP giai đoạn

1998-2008
Hình 3.2: Mô hình trung tâm cảnh báo khủng hoảng chung cho toàn nền kinh
tế
DANH MỤC HỘP
Hộp 1: Các dấu hiệu khủng hoảng
Đ
ông
Á và thực trạng
VN.
DANH MỤC PHỤ LỤC
Phụ lục 1 : Cơ chế truyền động khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ
nhất
Phụ lục 2 : Cơ chế truyền động khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ
hai
Phụ lục 3: Cơ chế truyền động khủng hoảng tiền thệ thế hệ thứ
ba
Phụ lục 4 : Các hậu quả của khủng hoảng tài
chính
Phụ lục 5: Dữ liệu tính chỉ số cảnh báo khủng
hoảng
PHẦN MỞ
ĐẦ
U
1. LÝ DO NGHIÊN
CỨU
Khủng hoảng tài chính gây ra nhiều thiệt hại ở cả khu vực kinh tế tài chính và khu vực kinh
tế
thực, cần rất nhiều thời gian và chi phí để giải quyết hậu quả và phục hồi nền kinh tế.
Thêm
vào đó là các hậu quả về mặt xã hội, làm đảo lộn cuộc sống của hàng triệu con người. Chính


vậy, trong tác phẩm: “Hãy kết toán cuộc sát phạt”, Helen Hayward đã viết: “…các cuộc
khủng
hoảng tài chính đã làm đảo lộn cuộc sống của hàng triệu con người. Cái giá đối với con
người
rất nghiêm trọng, có lẽ không thể nào tính nổi và hậu quả của khủng hoảng vẫn tiếp tục
được
phơi bày. Người nghèo bị tác động bởi thất nghiệp, đồng lương bị giảm, giá cả các nhu
yếu
phẩm tăng cao và các dịch vụ xã hội bị thu hẹp. Trẻ em phải rời ghế nhà trường, lương
thực
và thực phẩm khan hiếm, nạn bạo hành và mại dâm tăng lên. Thất nghiệp và cạnh tranh
sinh
tồn làm cho cộng đồng bị rạn nứt, chính trị trở nên bất ổn, bạo động vì thực phẩm và sắc
tộc
tại Indonesia, nông dân phản kháng ở Thái Lan và công nhân bất bình ở Hàn
Quốc…”
(1)
Tuy nhiên, “Việc bùng nổ khủng hoảng chắc chắn không thể dự báo được. Tuy nhiên, có
thể
xác định được các dấu hiệu mất cân bằng tài chính. Nói cách khác, chắc chắn có thể xác
định
được các yếu kém và nó khiến các cơ quan chức năng cẩn trọng hơn. Tuy nhiên, không
nên
viển vông nghĩ rằng có thể dự báo được khủng hoảng.”
2
Việc xây dựng công cụ cảnh
báo
khủng hoảng đã được thực hiện từ lâu tại các quốc gia khác nhau. Cho tới nay, tại VN
vẫn

chưa có một công cụ cảnh báo nào đúng nghĩa. Chính điều đó đã thôi thúc chúng tôi
nghiên
cứu đề tài “ Nghiên cứu kinh điển và các mô hình cảnh báo khủng hoảng tài
chính”.
2. XÁC
Đ
ỊN
H
VẤN
ĐỀ
NGHIÊN
CỨU
Đ

tài nghiên cứu của này tập trung nghiên cứu những lý thuyết kinh điển về khủng hoảng
tài
chính cũng như các mô hình cảnh báo khủng hoảng tài chính. Từ đó, xây dựng mô hình
cảnh
báo khủng hoảng tài chính cho VN dựa trên những mô hình đã được phát triển áp dụng
thành
công tại các quốc gia khác. Cùng với đó, nhóm nghiên cứu cũng đưa ra những khuyến nghị
để
1
Helen Hayward và Ducan Green,

Đ
ồng
vốn và trừng phạt”, NXB Chính trị quốc gia,
05/2005.
2

Françoise Nicolas Nghiên cứu viên, Trung tâm châu Á , Viện Quan hệ quốc tế Pháp ,Giảng viên
Đ
ại
học Paris-Est - Tham luận đánh giá, dự báo và các biện pháp phòng ngừa khủng hoảng tiền tệ và
hệ
thống ngân hàng –
2008.
giúp VN có thể tránh được những cú sốc tài chính và xa hơn là những cuộc khủng hoảng
tài
chính trong tương
lai.
3. CÂU HỎI VÀ MỤC
Đ
ÍC
H
NGHIÊN
CỨU
Các hình thức khủng hoảng tài chính nào đã diễn ra trong quá khứ ? Cách thức
các
cuộc khủng hoảng này diễn ra như thế nào
?
Đ
âu
là nguyên nhân gây ra các cuộc khủng hoảng tài
chính?
Các mô hình cảnh bảo khủng hoảng tài chính nào đang được sử dụng và đâu là

hình phù hợp với điều kiện của VN hiện
nay?
Những bước đi cần thiết hiện nay để giúp thị trường tài chính vững mạnh và có

thể
tránh được những cú sốc và các cuộc khủng hoảng là
gì?
Trong quá trình đi tìm lời giải cho những câu hỏi nghiên cứu vừa nêu để giải quyết vấn
đề
nghiên cứu đặt ra, đề tài này nhằm vào các đối tượng nghiên cứu cụ thể sau
đây:
Phân tích các nghiên cưu kinh điển về khủng hoảng đặc biệt là các lý thuyết về
“khủng
hoảng kép” và cơ chế truyền động của từng loại khủng
hoảng.
Tính toán và phân tích chuỗi chỉ số khủng hoảng dựa trên mô hình Signal
Approach
qua đó đánh giá về khả năng VN xảy ra khủng
hoảng.
Xem xét sự phù hợp của mô hình và đưa ra các khuyến nghị về mô hình để nâng
cao
hiệu quả cảnh báo đồng thời đề xuất những khuyến nghị về mặt chính sách giúp cho
thị
trường tài chính VN phát triển bền
vững.
Hướng đến đề xuất xây dựng một hệ thống cảnh báo chung cho toàn bộ nền kinh
tế.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Bài nghiên cứu sử dụng chủ yếu phương pháp định tính, định lượng, thống kê, so sánh và
tổng
hợp nhằm làm rõ những vấn đề cần nghiên cứu.
Đối
với nghiên cứu định lượng trong được

sử
dụng trong nghiên cứu này, chúng tôi dùng phương pháp phi tham số dựa trên mô hình
Signal
Approach nhằm làm rõ vai trò của các biến số kinh tế vĩ mô góp phần gây ra khả năng
khủng
hoảng.
5. NỘI DUNG NGHIÊN
CỨU
Chương 1: Các nghiên cứu kinh điển về khủng hoảng bao gồm khủng hoảng ngân hàng,
khủng
hoảng tiền tệ, khủng hoảng nợ và đặc biệt là khủng hoảng kép thế hệ 1, thế hệ 2. Sau đó là
các
nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng tài chính và cuối cùng là các mô hình cảnh báo tài chính
đã

Chương 2: Áp dụng mô hình Signal Approach vào VN để tính toán chuỗi chỉ số khủng
hoảng
cho
giai đoạn 1998-2008 qua đó nhìn nhận xác suất VN rơi vào khủng
hoảng.
Chương 3: Xem xét sự phù hợp của mô hình Signal Approach khi áp dụng vào VN qua đó
đưa
ra những đề xuất để nâng cao hiệu quả cảnh báo cho mô hình và đề xuất những chính sách
cho
sự phát triển bền vững của thị trường tài chính
VN.
6. Ý NGHĨA NGHIÊN CỨU CÔNG
T
RÌN
H

Về lý luận đề tài này giúp cho chúng ta có một cái nhìn sâu hơn về khủng hoảng tài
chính
thông qua các lý thuyết kinh điển về khủng hoảng. Bên cạnh đó, dựa trên mô hình
Signal
Approach đã được áp dụng khá thành công tại nhiều nước, đề tài này còn đóng góp được
chuỗi
chỉ số cảnh báo khủng hoảng tài chính cho VN trong giai đoạn 1998-2008. Một vấn đề cần
lưu
ý
là mô hình này được phát triển chủ yếu dùng cho việc cảnh báo khủng hoảng tiền tệ và
ngân
hàng. Tuy nhiên, trong nhiều công trình nghiên cứu về khủng hoảng kép đã kiểm chứng
mối
quan hệ khủng hoảng tiền tệ có liên quan mật thiết với khủng hoảng nợ (điều này được
chúng
tôi trình bày kỹ trong lý thuyết về khủng hoảng kép) do đó mô hình này cũng đồng thời có
thể
cảnh báo cho khủng hoảng
nợ.
Về mặt thực tiễn, đề tài này đã đóng góp một công cụ cảnh báo định lượng giúp cho các
nhà
điều hành chính sách vĩ mô có một cái nhìn rõ hơn về khả năng dễ bị thương tổn của các
bộ
phận trong thị trường tài chính để từ đó có các giải pháp điều chỉnh thích hợp giúp cho
hệ
thống tài chính lành mạnh hơn. Cuối cùng chúng tôi cũng đề xuất thêm những chính sách
khác
cho Việt Nam phát triển ổn định và bền vững trong cả ngắn hạn và dài
hạn.
CHƯƠNG 1: NGHIÊN CỨU KINH

Đ
I

N VÀ CÁC MÔ HÌNH CẢNH
B
ÁO
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
1.1 Nghiên cứu kinh điển về khủng hoảng tài
c
h
í
nh
Khủng hoảng tài chính, một cách tổng quát được hiểu là sự xấu đi một cách rõ ràng và
nhanh
chóng của tất cả hay hầu hết các nhóm chỉ tiêu tài chính của một nền kinh tế quốc gia như
lãi
suất ngắn hạn, giá trị tài sản, tình trạng không trả đuợc nợ và những thất bại của các định
chế
tài chính. Khủng hoảng tài chính có thể được biểu hiện dưới một số dạng khủng hoảng đặc
thù.
1.1.1 Khủng hoảng tiền tệ (Currency
C
r
i
s
i
s)
Khủng hoảng tiền tệ còn được gọi là khủng hoảng tỷ giá hối đoái hay khủng hoảng cán
cân
thanh toán nổ ra khi hoạt động đầu cơ tiền tệ dẫn đến sự giảm giá một cách đột ngột của

đồng
nội tệ hoặc trường hợp buộc các cơ quan có trách nhiệm phải bảo vệ đồng tiền của nước
mình
bằng cách nâng cao lãi suất hay chi ra một khối lượng lớn dự trữ ngoại
hối.
Khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ nhất. Paul Krugman (1979) và sau đó là Flood &
Garber
(1984) đã giải thích cơ chế truyền động của khủng hoảng tiền tệ dựa vào mô hình tiền tệ
đơn
giản với tên gọi lý thuyết khủng hoảng thế hệ thứ nhất
3
.
Khủng hoảng tiền tệ (hay khủng hoảng cán cân thanh toán) liên quan đến việc Chính
phủ
không còn đủ dự trữ ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu sử dụng ngoại tệ của các khu vực khác
nhau
trong nền kinh tế và buộc phải phá giá đồng nội tệ. Mọi chuyện thường bắt đầu từ việc
Chính
phủ duy trì cơ chế tỷ giá hối đoái cố định. Chính phủ có thể bảo vệ tỷ giá này bằng cách
can
thiệp vào thị trường ngoại hối (trực tiếp mua hoặc bán ngoại tệ). Nếu có một thị trường
tài
chính phát triển, nghiệp vụ này có thể được thực hiện bằng các hoạt động thị trường mở
hay
can thiệp vào thị trường ngoại hối kỳ hạn. Tuy nhiên, việc bảo vệ tỷ giá cũng có giới hạn
của
nó. Trước sức ép giảm giá trị nội tệ (thường là do Chính phủ in tiền để bù đắp thâm hụt
ngân
sách), Chính phủ phải bán ngoại tệ để bảo vệ tỷ giá. Dự trữ ngoại hối giảm và cuối cùng
Chính

phủ buộc phải chấm dứt tỷ giá cố định và chuyển sang thả nổi tỷ giá.
Đ
iểm
đặc biệt là
ngay
trước khi dự trữ cạn kiệt, sự suy yếu của các yếu tố kinh tế vĩ mô căn bản trở thành tín
hiệu
cho các cuộc tấn công mang tính đầu cơ vào đồng nội tệ và đẩy nhanh khủng
hoảng.
3
Xem Phụ lục 1.1 : Cơ chế truyền động của khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ
nh
ất
Khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ hai. Obsfeld đã phát triển mô hình khủng hoảng tiền tệ thế
hệ
thứ hai (mô hình kỳ vọng xoay vòng)
4
.. Theo ông, việc quyết định bảo vệ tỷ giá hối đoái
cố
định có cả lợi ích và chi phí.
Đ
ứng
trước sức ép phải thả nổi tỷ giá, nếu Chính phủ quyết
định
bảo vệ tỷ giá cố định thì lợi ích có được sẽ là uy tín về chính sách trong dài hạn. Nhưng
việc
bảo vệ tỷ giá tạo ra nhưng tác động tiêu cực tới nền kinh tế nội địa vì thường thì lãi suất
phải
tăng lên. Lãi suất tăng, trước hết làm suy giảm tăng trưởng kinh tế và gây ra thất nghiệp.
Tác

động nữa là đối với hệ thống NH, lãi suất cao buộc các NH phải trả lãi cao hơn cho tiền
gửi.
Những đối tượng vay nợ theo lãi suất thả nổi sẽ gặp khó khăn về khả năng thanh toán. Tỷ lệ
nợ
khó đòi và tình trạng vỡ nợ vì thế gia tăng làm ảnh hưởng tới khả năng vững mạnh về mặt
tài
chính của cả hệ thống
NH
Khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ ba. Lý thuyết về khủng hoảng tiền tệ nhận được một
bước
phát triển nữa sau khủng hoảng Châu Á năm 1997. Khủng hoảng xảy ra khi đất nước bị
giảm
sụt nhanh chóng về nguồn vốn do những hoảng sợ về tài chính. Trong một số trường hợp,
một
số nước là đối tượng sự rút vốn ồ ạt ra khỏi NH với tỷ giá hối đoái cố định hoạt động như

chức năng của hợp đồng tiền gửi. Các mô hình thuộc thế hệ thứ ba cho rằng khủng hoảng

thể do sự mất cân đối ngoại tệ của các NH, doanh nghiệp. chính sự mất cân đối này có thể
dẫn
đến phát sinh nhu cầu về ngoại tệ. Tổng hợp các nhu cầu về ngoại tệ có thể dẫn đến sức ép
lên
tỷ giá. Tỷ giá hối đoái giảm làm lái suất của các nhà đầu tư nước ngoài giảm dẫn đến
dòng
chảy ngoại tệ ra ngoài và hệ quả là dẫn tới khủng hoảng tiền
tệ.
Một dạng của khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ ba là do "rủi ro về hành vi dẫn đến khủng
hoảng".
Đ
ầu

tư quá mức, đặc biệt là những khoản đầu tư rủi ro của các NH, các tổ chức tài chính
khác
xẩy ra do những hành động hoặc chính sách của Chính phủ
5
.
1.1.2 Khủng hoảng ngân hàng (Banking
C
r
i
s
i
s)
Theo quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): “Khủng hoảng NH là trạng thái các NH lâm vào tình trạng
rút
tiền ổ ạt và bị phá sản. Các NH buộc phải dừng việc thanh toán các cam kết của mình, hoặc
để
tránh tình trạng này, Nhà nước buộc phải can thiệp bằng biện pháp hỗ trợ đặc biệt.
Khủng
hoảng NH có thể bùng phát tại một NH và lây truyền ra toàn bộ hệ
thống”
6
.
Ngược lại với mô hình khủng hoảng tiền tệ, được xây dựng chủ yếu dựa trên những giả
định
về thông tin cân xứng, những lý thuyết về khủng hoảng NH lại cho rằng tính bất ổn (dễ đổ
vỡ)
4
Xem Phụ lục 1.2 : Cơ chế truyền động của khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ
h
ai

.
5
Xem Phụ lục 1.3 : Cơ chế truyền động của khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ
b
a
.
6
Quỹ tiền tệ Quốc tế, Triển vọng kinh tế thế giới 1998, năm
1998.
của hệ thống NH bắt nguồn từ những thông tin bất cân tương xứng, là tình trạng khi một
bên
trong mối quan hệ kinh tế hay giao dịch có ít thông tin về phía bên kia, điều này dẫn tới ba
vấn
đề cơ bản
sau:
Sự lựa chọn đối nghịch: Lựa chọn đối nghịch là vấn đề thông tin bất tương xứng xuất
hiện
trước khi giao dịch thực hiện, khi các nhà đầu tư đã tham gia vào những dự án chứa
đựng
nhiều rủi ro đang tìm kiếm một cách chủ động những khoản cho vay. Vì vậy, những người đi
vay
đưa ra những kết quả không như mong đợi lại hầu như được lựa
chọn.
Rủi ro về đạo đức: Rủi ro về đạo đức xuất hiện sau khi giao dịch được thực hiện.
Đ
ứng

trên
quan điểm của người cho vay, họ sẽ quan tâm tới việc khoản vay có được sử dụng đúng
mục

đích hay không. Rủi ro về đạo đức có thể xảy ra khi người đi vay sử dụng tiền để đầu tư
vào
những dự án rủi ro cao. Nếu dự án thành công, họ sẽ nhận được những lợi ích lớn. Ngược
lại
khi sự dự án thất bại, người cho vay phải là người gánh chịu hầu hết hậu quả. Mặt khác, rủi
ro
đạo đức còn là việc người đi vay sử dụng tiền vay cho mục đích chi dùng cá nhân hay
thực
hiện những dự án không có khả năng sinh lời mà chỉ nhằm vào việc tăng vị thế hay quyền
lực.
Tâm lý bầy đàn: Những người cho vay thường cố gắng theo sự dẫn dắt của ngưới mà họ
tin
tưởng là sẽ có những thông tin tốt hơn. Hành vi bầy đàn có thể xuất hiện khi các nhà đầu

thiếu thông tin về khả năng của những người quản lý quỹ của mình. Những người quản lý
quỹ
khả năng kém sẽ nhận thấy là hợp lý khi thực hiện theo những quyết định của những nhà
đầu
tư khác để không bị phát hiện. Và tính bầy đàn là hợp lý khi kết quả đối với một chủ thể
theo
sau một hành động gia tăng bởi vì nhiều chủ thể khác cũng thực hiện cùng hành
động.
Trong thế giới tài chính đặc trưng bởi thông tin bất tương xứng, những nhà cung cấp quỹ
gặp
khó khăn trong việc quản lý các trung gian tài chính. Các tổ chức này cũng gặp những
khó
khăn tương tự đối với những người sử dụng quỹ. Vì vậy, trong khi những tài sản của NH
đặc
trưng bởi tính khó chuyển đổi và không dễ định giá trên thị trường, những NH với
những

khoản nợ của mình chủ yếu được cấu thành bởi nhu cầu tiền gửi rất dễ bị tổn thương đối
với
việc đánh giá lại kỳ vọng.
Đ
iều
này góp phần vào tính dễ đổ vỡ vốn có của NH. Dễ dàng
nhận
thấy, với sự hiện diện của những thông tin không tương xứng hay không đầy đủ, nhà đầu tư
sẽ
thực hiện những hành động qua đó có thể khuyếch đại những biến động về giá và gây ra
những
cuộc khủng khoảng bất
ngờ.
Những nhân tố, nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng NH không chỉ là những vấn đề về
bất
tương xứng mà còn được gắn kết vào sự biến động có tính chu kỳ, những cú sốc bất lợi
bên
ngoài và tự do hóa tài chính. Tuy nhiên, nhờ vào lý luận về việc phân tích thông tin bất
tương
xứng ở trên, việc gia tăng trong lãi suất và gia tăng tính không chắc chắn là những
nguyên
nhân chủ yếu làm tăng sự đổ vỡ của NH và có thể dẫn tới sự phá sản. Miskin đã thêm vào
hai
nguyên nhân tiềm ẩn làm cho khủng hoảng NH dễ xảy ra ở các nước đang phát triển hơn.
Đ
ó
là:
Thứ nhất, các nước đang phát triển thường là những nơi sản xuất hàng hóa thô, dễ bị tác
động
bởi

những cú sốc bên thương mại.
Đ
iều
này có thể phá hỏng bảng cân đối kế toán của
NH,
được cấu thành chủ yếu bởi khoản cho vay đến các doanh nghiệp trong nước. Sự thiếu tính
đa
dạng hoá bên ngoài có thể đưa tới những vấn đề trầm trọng ở những quốc gia đang phát
triển
hơn là những quốc gia phát triển có sự đa dạng hoá tốt ở nhiều
nước.
Thứ hai, các NH ở những nước đang phát triển huy động các quỹ với những khoản nợ
bằng
ngoại tệ. Vì vậy, một sự sụt giảm giá trị đồng nội tệ có thể gia tăng tình trạng nợ nần, trong
khi
giá trị tài sản của NH không tăng. Kết quả la dẫn đến sự xấu đi của vốn chủ sở hữu sẽ làm
gia
tăng khả năng phá sản của
NH.
1.1.3 Khủng hoảng nợ ( Debt
C
r
i
s
i
s)
Khủng hoảng nợ nước ngoài xảy ra khi một quốc gia không có khả năng trả nợ nước
ngoài,
bao gồm cả các khoản nợ của Chính phủ hay của khu vực tư nhân
7

. Nghiên cứu
của
Detragiache và Spilimbergo (2001) cho rằng một cuộc khủng hoảng nợ có thể xảy ra khi
thỏa
một
hoặc cả hai điều kiện : đầu tiên, các nghĩa vụ nợ phải chi trả hoặc các khoản lãi vay
đối
với
nước ngoài của các chủ nợ là NH hoặc các chủ sở hữu trái phiếu vượt quá hơn 5% số
nợ
còn
lại; thứ hai, Các quốc gia xin giãn các khoản nợ hoặc thỏa thuận kéo dài thời gian chi
trả
nợ đối với các chủ nợ được niêm yết trên danh sách của trung tâm phát triển tài chính toàn
cầu
thuộc NH thế giới (World Bank’s Global Development
Finance).
Khác với những khoản nợ thông thường giữa các cá nhân là những khoản nợ có thể thu
hồi
dựa trên cơ sở luật pháp, nợ của các Chính phủ đứng ngoài luật pháp của một nước.

hoàn toàn dựa vào lòng tin và sự tín nhiệm đối với chính phủ đi vay. Trừ những
trường
hợp giữa 2 nước xảy ra những bất đồng lớn về chính trị, còn lại thì loại cho vay này –
đôi
khi thật đáng ngạc nhiên – lại là một sự mạo hiểm lớn đối với người cho vay, vì vậy
trong
trường hợp làm ăn không thành đạt, các chính phủ con nợ có thể bị cự tuyệt trong một
thời
gian dài, không thể vay tiếp được nữa. Nợ nhà nước là phần trách nhiệm của toàn thể

đất
nước, không phụ thuộc vào thành công hay thất bại của một hoạt động riêng lẻ nào
được
7
Quỹ tiền tệ Quốc tế, Triển vọng kinh tế thế giới 1998, năm
1998.
tài trợ bằng khoản tiền cho vay. Triển vọng khả năng hoàn trả nợ của loại nợ không
phải
của nhà nước thì phụ thuộc vào cả sự tin cậy tín nhiệm của các đối tượng vay lẫn vào
thành
công hoặc thất bại trong hoạt động làm ăn của đối tượng này. Do vậy mức rủi ro bị vỡ
nợ
còn lớn hơn khá nhiều kiểu cho vay nợ tư nhân ngay cả khi những khoản nợ này có thể
thu
hồi nhờ sức ép của luật
pháp
8
.
8
Fulbright Economics Teaching Program , “Khủng hoảng nợ ở các nước đang phát triển”, năm
2003.
1.1.4 Khủng hoảng kép (Twin
c
r
i
s
i
s)
Khủng hoảng kép thế hệ thứ nhất. Thập niên “rối loạn” tài chính trong những năm 1990
đã

hướng mở các nhà nghiên cứu không chỉ còn xem xét khủng hoảng tiền tệ như một sự kiện

lập, mà hiện nay, đã có nhiều công trình đi vào nghiên cứu mối tương quan giữa khủng
hoảng
tiền tệ và khủng hoảng NH. Theo nghiên cứu của Chang và Velasco (1999), khủng hoảng
tiền
tệ
và khủng hoảng NH có thể đi liền với nhau và có mối quan hệ nhân quả trực tiếp.
Thực
nghiệm
trong giai đoạn 1997 – 1998 cho thấy, khủng hoảng NH và khủng hoảng tiền tệ
bùng
nổ mạnh
mẽ vào cùng một thời điểm ở Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc. Các đợt
tấn
công đầu cơ
vào đồng baht xảy ra vào tháng 7 năm 1997 đã làm Chính phủ Thái Lan phải
bảo
vệ đồng tiền
của mình bằng cách sử dụng dự trữ ngoại tệ. Khi dự trữ ngoại tệ gần cạn
kiệt,
Thái Lan buộc
phải thả nổi tỷ giá, khủng hoảng nhanh chóng lan ra các nước
Đ
ông
Á
khác.
Đ
ồng
nội tệ

của Hàn Quốc, Indonesia, Malaysia và Philipines đều chịu sức ép. Sự phá
giá
đồng nội tệ ở
các nước này cùng với lãi suất gia tăng đã làm nhiều doanh nghiệp nhanh
chóng
trở thành khó
khăn của các tổ chức tài chính và dẫn tới khủng hoảng
NH.
Obsfeld (1994) cho rằng lĩnh vực NH họat động yếu kém có thể làm tiền đề cho khủng
hoảng
tiền
tệ nếu các nhà đầu cơ dự đoán được rằng Chính phủ sẽ ưu tiên kiềm chế lạm phát hơn

sự ổn
định tỷ giá hối đoái. Mục đích của sự ưu tiên chính sách này là để tránh nạn phá
sản
trong
lĩnh vực NH. Tuy nhiên, Velasco (1987) và Calvo (1997) lại tranh luận rằng
khủng
hoảng
NH là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tiền tệ nếu sự tăng cường khả năng thanh
toán
bằng
tiền mặt cũng như sự hỗ trợ tài chính từ phía Chính phủ đối với hệ thống NH không
đồng
nhất
cùng sự ổn định tỷ giá hối đoái. Miller (1999) cũng cho rằng sự mất giá tiền tệ như

một
phần của việc lựa chọn chính sách hợp lý cho một chính phủ bị đe dọa bởi khủng

hoảng
NH
trong cơ chế tỷ giá hối đoái cố định. Gonzalex – Hermosillo ( 1996) thì lại đưa ra
nguyên
nhân
khủng hoảng kép nằm ở hệ thống tài chính nghèo nàn khi có thể thay thế vốn nội
địa
bằng
vốn nước
ngoài.
Nghiên cứu của Reuven Glick và Michael Hutchison (1999) đã phân tích những nguyên
nhân
căn bản gây lên cuộc khủng hoảng NH và khủng hoảng tiền tệ ở 90 quốc gia phát triển và
đang
phát triển trong thời kỳ 1975 – 1997. Công trình đã tập trung nghiên cứu về tần số, mức độ
tập
trung theo khu vực, mối quan hệ và thời gian tương đối cho quá trình xảy ra hai cuộc
khủng
hoảng. Thông qua việc sử dụng mô hình “độ nhiễu” (singal-to-noise), tác giả ước định vai
trò
của khủng hoảng NH trong việc dự đoán khủng hoảng tài chính trong tương lai, và ngược
lại.
Kết
hợp với ước lượng xác suất trong việc bùng nổ khủng hoảng bằng hồi quy, phương
trình
hai biến và đa biến, kết quả đã chỉ ra mức tương quan rất mạnh giữa khủng hoảng NH

khủng hoảng tài chính tại các thị trường mới nổi. Thậm chí, hiện tượng này vẫn xảy ra sau
khi
đã kiểm soát sự thay đổi trong cấu trúc tài chính và cấu trúc nền kinh tế. Họ cũng đã

chứng
minh sự xuất hiện của khủng hoảng NH là một chỉ báo hữu hiệu đưa đến cuộc khủng
hoảng
tiền tệ. Tuy nhiên, hiện tượng ngược lại thì không xảy ra, khủng hoảng tiền tệ không phải

một chỉ báo hữu dụng cho một cuộc khủng hoảng NH trong tương lai. Kết quả cũng cho
thấy,
sự mở cửa của các thị trường mới nổi đối với dòng vốn đầu tư nước ngoài, song song với
một
cấu trúc tài chính tự do đã làm cho các thị trường này dễ bị tổn thương và dẫn tới khủng
hoảng
kép
9
.
Tiếp cận những nghiên cứu về mô hình khủng hoảng kép thế hệ một đã làm cho chúng ta
hiểu
nhiều hơn về khủng hoảng kép thông qua các chính sách nghèo nàn và đi sâu tập trung vào
các
yếu tố từ hệ thống tài chính. Có nhiều mô hình cho thấy mực độ phù hợp cao trong việc
giải
thích khủng hoảng kép. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của Raphael H.Solomon (12 - 2003)
đã
chỉ ra những luận điểm mà các mô hình khủng hoảng kép cần khắc phục. Thứ nhất, vì
trong
các mô hình này, hoàn toàn giả định rằng mọi sự rút tiền ồ ạt đều dẫn tới khủng hoảng tiền
tệ,
nên
nó không giải thích được thực tế một vài trường hợp khủng hoảng NH đôi khi đưa tới
một
chế độ

tiền tệ tốt hơn. Ngoài ra, những mô hình trước không giải thích được sự lựa chọn
cân
bằng, do đó
cũng ko ước lượng được mức độ rủi ro của chính sách cố định tỷ giá. Thứ ba,
các
mô hình đó
không cho phép cư dân trong và ngoài nước có kì vọng khác nhau do đó nó ko
giải
thích được các
hành vi khác nhau trong thời kì xảy ra khủng
hoảng.
Nghiên cứu của Raphael H.Solomon (12 - 2003)
10
“mổ xẻ” khủng hoảng kép thế hệ thứ
nhất
cũng như việc giải quyết ba vấn đề trên qua khía cạnh xuất phát từ hệ thống tài chính và
đặc
biệt là hiện tượng rút tiền ồ ạt từ NH. Mô hình tiếp tục kế thừa nền tảng biến sunspots
11
đã
được Cass và Shell (1983, 1984), Cole và Kehole (1996), cũng như Peck và Shell (2003)
sử
dụng. Nhưng điểm mới của mô hình là ông đã sử dụng mô hình hai biến Sunspots có
tương
quan (không tương quan hoàn toàn) vào mô hình rút tiền ồ ạt thay vì, Cass và Shell
(1983,
9
Reuven Glick – Federal Reserve Bank of San Francisco và Michael Hutchison -
Department
of Economics University of California, “Banking and currency: how common are twins,

năm
1999.
10
Raphael H.Solomon - Monetary and Financial Analysis Department Bank of Canada , “Anatony of a
twin
crisis”, năm
2003.
11
Cass và Shell (1983, 1984) định nghĩa biến sunspot như là “biến ngoại sinh, đó là hiện tượng
ngẫu
nhiên không ảnh hưởng tới hàng hóa hoặc khả năng sản xuất”. Trong một mô hình cân bằng đa chiều ,
b
iế
n
sunspots sẽ đóng vai trò như cơ chế lựa chọn cân
b

ng.
1984) chỉ xem xét tới một biến Sunspots và Peck và Shell (2003) sử dụng hai biến
sunspots
không có tương quan
12
. Sự tương quan giữa hai biến Sunspot cho phép khoảng rộng hơn
trong
cân bằng của trò chơi rút tiền cũng như xác suất xảy ra khủng hoảng
kép.
Kết quả của công trình đã trả lời được rất nhiều câu hỏi mà các công trình khác chưa trả
lời
được.
Đ

ầu
tiên, sự tương tác giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài có ảnh hưởng tới
thời
điểm và tính chất của khủng hoảng kép. Nếu không có yếu tố nước ngoài, mọi cuộc
khủng
hoảng tài chính đều xảy ra như nghiên cứu của Diamond và Dybvig (1983). Tuy nhiên,
trong
mô hình được trình bày sự xuất hiện của khủng hoảng phụ thuộc vào hành động của nhà đầu

trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Ở đây, cả nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đều

thể rút tiền ồ ạt khỏi NH. Nếu hành động một cách riêng rẽ, những nhà đầu tư nước
ngoài
không thể tự mình gây ra một cuộc khủng hoảng kép đột ngột. Việc rút tiền ồ ạt của các
nhà
đầu tư nước ngoài mặc dù dẫn đến khủng hoảng tiền tệ nhưng không dẫn tới sự sụp đổ của
NH
bởi vì NH không buộc phải cung cấp những ngoại tệ hiếm để đến nỗi thiếu mất tính
thanh
khoản. Một điều đáng ngạc nhiên là hành động của các nhà đầu tư trong nước lại có thể gây
ra
khủng hoảng kép. Việc rút tiền ồ ạt của họ có thể dẫn đến sự sụp đổ của NH. Các nhà đầu

nước ngoài đến vào giai đoạn mà họ chỉ nhận được những đồng nội tệ vô giá trị.
Đ
ồng
ngoại
tệ
theo sau đồng nội tệ bị rút ra khỏi NH và kết quả là chế độ tỉ giá cố định bị sụp đổ và
cuộc

khủng hoảng tiền tệ diễn
ra.
Thứ hai, một khả năng không được đề cập đến trong những mô hình trước đây là hiện
tượng
các nhà đầu tư trong và ngoài nước đồng loạt rút tiền ồ ạt. Chính sự tấn công kết hợp này đã
để
lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho hệ thống tài chính. Thực tế là khi nhà đầu tư nước
ngoài
rút tiền ồ ạt thì đảm bảo tiền gửi cho các nhà đầu tư trong nước bị đe dọa, có nghĩa là
trong
trường hợp này nhà đầu tư trong nước chịu thiệt và người ở ngoài được lợi. Trong phạm vi
các
giá trị tham số mà tại đó một sự rút tiền đồng loạt của cả hai phía nhà đầu tư có khả năng
xảy
ra, mức lỗ của nhà đầu tư trong nước vượt quá mức lợi nhuận nhà đầu tư nước ngoài
nhận
được (với cơ sở tính là đô la Mỹ). Khi mức hữu dụng nhà đầu tư trong nước mất đi thấp
hơn
mức hữu dụng nhà đầu tư nước ngoài nhận được. Không thể nói rằng một cuộc khủng
hoảng
kép có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài sẽ tồi tệ hơn trường hợp không có sự tham
gia
12
Với một biến sunpots, mô hình sẽ đưa lại kết quả là khủng hoảng kép chắc chắn xuất hiện kèm với rút tiền ồ
ạt
và khủng hoảng NH.
Đối
với mô hình có 2 biến sunpot không tương quan hoàn toàn đưa đến kết luận là
khủng
hoảng kép sẽ dễ dàng xảy ra trong trường hợp có hiện tượng khủng hoảng NH nhưng không đảm bảo chắc

c
h

n
khủng hoảng sẽ xảy
r
a
.
của họ, nếu một cuộc khủng hoảng không quyết định mức độ phân chia chức năng hữu
dụng
cho mỗi thành viên tham
gia.
Khủng hoảng kép thế hệ thứ hai. Không được mọi người biết đến như khủng khoảng kép
thế
hệ một, cho tới nay nhiều công trình đã nghiên cứu và chỉ ra loại khủng hoảng kép thế hệ
thứ
hai, đó là sự xuất hiện đồng thời của khủng hoảng nợ và khủng hoảng tiền tệ. Nhiều quốc
gia
(gần đây như: Argentina, Ecuador và Nga) đã phải đối mặt với những vấn đề trong cán
cân
thanh toán cũng cùng lúc đương đầu với những khoản nợ tới
hạn.
Trong phân tích thực nghiệm của Bernhard Herz, Hui Tong
13
(12 – 2004) dựa trên cơ sở
của
74 nước đang phát triển từ 1975 đến 2001 để ước lượng đồng thời khủng hoảng tiền tệ

khủng hoảng nợ. Công trình đã tìm thấy bằng chứng rõ ràng cho quan hệ nhân quả từ
khủng

hoảng nợ tới khủng hoảng tiền tệ, và bằng chứng không chắc chắn cho quan hệ nhân quả
theo
chiều ngược lại
14
.
Đặc
biệt những bằng chứng xác thực của hai tác giả còn chứng minh
khủng
hoảng nợ và khủng hoảng tiền tệ có chung những nguyên nhân như: dự trữ ngoại tệ trên tỷ
lệ
nhập khẩu thấp, tốc độ tăng trưởng GDP thấp và FDI trên tỷ lệ nợ nước ngoài
thấp.
Bảng 1.1 : Khủng hoảng kép thế hệ thứ
hai
Không Vỡ
Nợ
Vỡ
Nợ
Không phá
giá
Không khủng
hoảng
Khủng hoảng
nợ
Phá
giá
Khủng hoảng tiền
tệ
Khủng hoảng kép thế hệ
hai

Trong các nghiên cứu trước đây xem khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng nợ như những
sự
kiện cô lập, tại đó, các nhà khoa học đã phân tích quyết định “vỡ nợ” và quyết định phá giá
nội
tệ không có mối quan hệ trong sự lựa chọn chính sách của Chính phủ. Trong khi các tác
phẩm
kinh điển nghiên cứu khủng hoảng kép thế hệ hai đã nhận định: “Các nhân tố kinh tế vĩ

trong thời điểm Chính phủ quyết tâm thanh toán các khoản nợ đồng thời giữ cố định tỷ
giá
chính là nguồn gốc của khủng hoảng kép. Và theo đó, những sự kiện này cũng được gây ra
bởi
13
Bernhard Herz - Lehrstuhl für Wirtschaftspolitik Universität Bayreuth và Hui Tong - Economics
D
e
par
t
m
e
n
t
University of California at Berkeley, “The Interactions between Debt and Currency Crises – Common Causes
or
Contagion”, 12 –
2004.
14
“Hệ số của chậm trễ một năm khủng hoảng nợ trong phương trình khủng hoảng tiền tệ là 0.52, hệ số này khác
0
với mức ý nghĩa 0.001%. Hệ số độ trễ 2 năm khủng hoảng tiền tệ trong mô hình khủng hoảng nợ là 0.27, hệ

số
này khác 0 với mức ý nghĩa 8%” - Bernhard Herz, Hui Tong (12 –
2004)
một cơ chế truyền dẫn từ khủng hoảng nợ đến cuộc khủng hoảng tiền tệ hoặc theo một số

chế
khác”
15
.
Cũng theo các nghiên cứu này, quyết định “vỡ nợ” và quyết định phá giá đồng nội tệ có
thể
thay thế hoặc bổ sung cho nhau. Quyết định phá giá nội tệ và quyết định không chi trả
khoản
nợ tới hạn là hai quyết định thay thế nhau nếu xét trên khía cạnh phân phối tài chính trong
chi
tiêu công dẫn tới Chính phủ bị áp chế trong các chính sách tài khóa và lượng dự trữ ngoại
tệ
không đủ lớn để thanh toán các khoản nợ đến hạn. Ví dụ do những vấn đề trong thể chế
hoặc
áp lực chính trị, Chính phủ phải có sự lựa chọn để thay thế cho chi phí về tài chính. Theo
quan
điểm này, khủng hoảng tiền tệ sẽ làm giảm áp lực tài chính lên chính phủ và lựa chọn
thực
hiện một cuộc khủng hoảng nợ là kém phù hợp
hơn.
Ngược lại, khủng hoảng nợ và khủng hoảng tiền tệ là hai sự kiện bổ sung cho nhau nếu các

vọng từ khủng hoảng này dẫn tới các yếu tố phát sinh khủng hoảng kia được đáp ứng.
Theo
giả định của Bernhard Herz và Hui Tong (12 – 2004), những nhà đầu cơ kì vọng phá giá

đồng
nội tệ và yêu cầu lãi suất cao hơn, do đó làm tăng áp lực tài chính lên Chính phủ. Tiếp
đó,
Chính phủ cố gắng làm giảm tỷ lệ nợ thực bằng lạm phát và đồng thời tuyên bố không chi
trả
khoản nợ tới hạn. Lúc này, nhà đầu cơ sẽ yêu cầu một phần bù rủi ro cao hơn nữa và tăng
sức
ép lên tài chính công và ngày càng làm gia tăng khủng hoảng tiền tệ cũng như khủng hoảng
nợ.
Cho tới nay, những tác động qua lại giữa khủng hoảng nợ và khủng hoảng tiền tệ đã được
trình
bày trong nhiều lý thuyết và trong các nghiên cứu thực nghiệm (Chiodo và Owyang 2002

Mussa 2002). Gần đây, một số nghiên cứu lý thuyết như Calvo (1998), Aizenman et al.
(2002),
Benigno and Missale (2001), Bauer et al. (2003), and Jahjah and Montiel (2003) đã thống
nhất
những khía cạnh của khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng nợ trong cơ cấu của sự đi ngược
với
dự trữ ngoại tệ. Trong thực nghiệm, Goldstein (1998), Reinhart (2002), và Sy (2003) đã
cung
cấp những bước đi đầu tiên trong việc phân tích thực nghiệm của khủng hoảng nợ và
khủng
hoảng tiền tệ. Goldstein (1998) đã đưa ra bằng chứng chỉ ra rằng khủng hoảng tiền tệ có
liên
hệ mật thiết với khả năng xảy ra vỡ nợ. Reinhart (2002) tìm thấy tỷ lệ nợ có giới hạn thường
bị
đánh giá thấp sau khủng hoảng tiền tệ và sự đánh giá thấp đó là một dự báo cho khủng
hoảng
nợ. Bà đã đưa ra như một chỉ báo, đó là khủng hoảng tiền tệ làm gia tăng rủi ro vỡ nợ.

Tuy
nhiên, Reinhart (2002) gián tiếp điều chỉnh khả năng có thể xảy ra, đó là khủng hoảng nợ

15
Bernhard Herz và Hui Tong, The Interactions between Debt and Currency Crises – Common Causes
or
Contagion, 12 –
2004.
khủng hoảng tiền tệ có thể có những nhân tố chung. Ngược lại, Sy (2002) gần đây đã đưa
ra
kết luận rằng tại 13 thị trường mới nổi từ 1994 – 2002 thì khủng hoảng tiền tệ không có
mối
liên quan tới khả năng xảy ra một sự vỡ nợ. Chính vì vậy, bản chất của khủng hoảng kép

khủng hoảng nợ vẫn là một câu hỏi
mở.
Nghiên cứu của Obstfeld (1994) đã phân tích sự tác động qua lại giữa khủng hoảng tiền tệ

khủng hoảng nợ với sự thống nhất quan điểm: quyết định bảo vệ đến cùng chính sách tài
khóa
và chính sách tiền tệ của Chính phủ bằng sự cân bằng chi phí thay cho chi phí về tài chính,
đặc
biệt là các chi phí cho việc tăng lạm pháp, phá giá nội tệ và chi phí cho vỡ nợ. Như vậy,
chính
phủ không thể cam kết mình thực hiện các khoản nợ và tỷ giá hối đoái cố định. Một mặt,
chính
phủ tăng chi phí tài chính bằng phát hành tiền làm gia tăng lạm phát và phá giá để chống
lại
chi phí của vỡ nợ. Chi phí này bao gồm sự mất uy tín trên thị trường vốn quốc tế và giảm
GDP

trong lúc nền kinh tế rối loạn theo sau khủng hoảng nợ. Mặt khác, Chính phủ tăng khả năng
vỡ
nợ chống lại chi phí của lạm phát và phá giá đồng nội tệ. Như là một phương thức giải
thoát,
điều này có thể tạo ra tình trạng tự phát sinh khủng hoảng kép thế hệ hai. Nó cũng tồn tại
khả
năng lan truyền, tác động từ chính sách này tới các chính sách khác của một quốc gia. Sự

vọng khủng hoảng nợ có thể làm tăng việc trả nợ định kỳ của một quốc gia vì lãi suất cao,
do
đó dẫn đến việc chính phủ làm tăng lạm phát và làm khủng hoảng tiền tệ xẩy ra dễ
hơn.
1.1.5 Nguyên nhân của khủng hoảng tài
c
h
í
nh
Những yếu tố gây mất cân đối và nguy hiểm cho hoạt động tài chính có thể chia ra các
nhóm:
kinh tế vĩ mô không ổn định, sự yếu kém trong cơ cấu tài chính, điều kiện tài chính toàn
cấu,
chế độ tỷ giá và mất ổn định chính trị. Thêm vào đó, bản thân hoạt động kinh tế có xu
hướng
dao động, làm tăng tính nhạy cảm của thị trường góp phần tăng áp lực lên hệ thống tài
chính.
Tình trạng bất ổn định kinh tế vĩ mô là nguyên nhân sâu xa quan trọng trong nhiều cuộc
khủng
hoảng. Chính sách mở rộng tiền tệ và tài chính thái quá gây nên sự bùng nổ cho vay tín
dụng,
tổng số nợ tăng lên đáng kể.

Đ
ầu
tư quá nhiều vào
B
Đ
S
đưa giá cổ phiếu và
B
Đ
S
đến
tình
trạng bất ổn định. Khi lạm phát xảy ra, Chính phủ phải áp dụng thắt chặt các chính sách
nhằm
kìm giữ lạm phát, khuyến khích điều chỉnh khả năng thanh toán với bên ngoài cộng với
những
điều chỉnh về giá
B
Đ
S.
Từ đó đưa đến tình trạng giảm sút trong hoạt động kinh tế, khó
khăn
trong thanh toán nợ, giảm giá trị các tài sản thế chấp và làm tăng các khoản cho vay tín
dụng
không có lợi tức. Những nguyên nhân kinh tế vĩ mô, nhất là bùng nổ tín dụng đóng vai
trò
quan trọng trong việc tạo ra khu vực tài chính yếu kém ở nhiều nước Mỹ Latinh cũng như

hàng loạt thị trường mới
nổi.

Cơ cấu các luồng vốn vào cũng là một nguyên nhân quan trọng trong nhiều cuộc khủng
hoảng
tại các thị trường mới nổi. Trong cả hai cuộc khủng hoảng tại Thái Lan và Mexico năm 1994

1995, sự lệ thuộc quá lớn vào các khoản vay ngắn hạn để bù đắp những thâm hụt tài
khoản
vãng lai là một nhân tố cốt yếu gây nên khủng hoảng. Chính sách mở rộng tiền tệ và tín
dụng
thu hút một số lượng lớn các luồng vốn chảy vào. Dòng vốn chảy vào quy mô lớn sẽ sản
sinh
ra sự định giá cao tiền tệ và khích động sự bùng nổ đầu cơ tài chính, dẫn tới khủng
hoảng.
Việc áp dụng chính sách tỷ giá phù hợp với đặc điểm nền kinh tế một quốc gia cũng là
điều
kiện cần thiết để giảm bớt khả năng xảy ra khủng hoảng. Khi luồng vốn vào ngày càng
tăng,
một chính sách neo tỷ giá sẽ làm cho tiền tệ trong nước bị định giá cao. Tiền tệ định giá
cao
làm tăng giá hàng xuất khấu, làm cho khu vực kinh tế thực suy giảm hoạt động. Tuy nhiên
lại
kích thích những nhà cho vay vay mượn bằng ngoại tệ nhiều hơn. Các nhà hoạch định
chính
sách tiền tệ cố duy trì việc định giá cao tiền tệ bằng cách dùng dự trữ ngân sách hoặc
chính
sách tiền tệ thắt chặt. Khi dự trữ ngày càng suy yếu thì việc phá giá tiền tệ là không tránh
khỏi.
Ngoài những điều kiện kinh tế bên trong, điều kiện kinh tế bên ngoài cũng đóng vai trò
quyết
định trong khủng hoảng tài chính, đặc biệt tại các nền kinh tế thị trường mới nổi.
Đ

áng
lưu
ý
nhất là những thay đổi lớn, đột ngột xảy ra về điều kiện thương mại quốc tế và lãi suất của
thế
giới. Ví dụ giá xuất khẩu giảm bất ngờ có thể làm giảm khả năng trả nợ của các công ty
trong
nước và làm giảm danh mục các khoản cho vay đầu tư phân tán rủi ro. Những động thái về
lãi
suất tín dụng tại các nước công nghiệp phát triển chính ngày càng trở nên quan trọng đối
với
các nền kinh tế thị trường mới nổi trên toàn thế giới, phản ánh xu hướng liên kết thị
trường
vốn thế giới và toàn cầu hoá đầu tư ngày càng tăng. Lãi suất tín dụng của thế giới giảm liên
tục
trong thời gian dài, khiến dòng vốn chảy vào các thị trường mới nổi ngày càng tăng lên,
trong
khi các nhà đầu tư tài chính quốc tế luôn tìm kiếm lợi nhận đầu tư cao hơn và mức độ an
toàn
tín dụng đang có lợi cho các nước vay nợ nước ngoài do lãi suất thấp hơn. Tuy nhiên, việc
các
nước công nghiệp phát triển đột ngột tăng lãi suất có thể chặn đứng luồng tài chính nước
ngoài
chảy vào các nền kinh tế thị trường mới nổi, làm tăng chi phí của các NH trong nước sử
dụng
vốn ngoài nước, tăng thêm mối đe dọa và nguy cơ sụp đổ hệ thống tài chính. Một số công
trình
nghiên cứu gần đây cho thấy sự cố khủng hoảng NH tại các thị trường mới nổi có liên
quan
một cách hệ thống tới những thay đổi về các điều kiện tài chính toàn

cầu.
Những rối loạn trong khu vực tài chính, gắn liền với bất ổn kinh tế vĩ mô là nhóm các nhân
tố
khác gây ra nhiều cuộc khủng hoảng. Thường những rối loạn này nảy sinh khi việc tự do
hoá
và cải cách tài chính diễn ra nhanh trong điều kiện chính sách giám sát còn yếu kém.
Những
chính sách điều tiết không tuân thủ quy luật trong môi trường tài chính được nới lỏng, tạo ra
sự
mạo hiểm về tâm lý bởi chúng khuyến khích các thể chế tài chính có tỷ lệ vốn thấp chấp
nhận
những rủi ro thiếu cân nhắc. Trong một số trường hợp, việc cho vay do thân quen, cho vay
chỉ
định và hoạt động gian lận đã làm xấu đi chất lượng và hiệu quả phân tán rủi ro. Những
quy
định về kế toán, minh bạch thông tin và khung pháp lý không đầy đủ làm cho vấn đề trở
nên
trầm trọng thêm bởi nó cho phép các NH che đậy những khó khăn mới nảy sinh. Cùng
với
những vấn đề nêu trên là các chính phủ không thi hành ngay những biện pháp đúng đắn khi

vấn đề phát sinh và hậu quả là những thiệt hại ngày càng lớn hơn và trở nên khó giải
quyết.
1.2 Các mô hình cảnh báo khủng hoảng tài
c
h
í
nh
1.2.1 Mô hình prob
it

Mô hình Probit được xây dựng dựa trên việc tính toán mức độ ảnh hưởng của các biến số
kinh
tế vĩ mô (được đại diện bằng một ma trận X đóng vai trò biến giải thích trong mô hình) lên
xác
suất xảy ra khủng hoảng tài
chính.
Ở đây yêu cầu phải xây dựng 3 phương trình theo mô hình Probit khác nhau để mô tả
tương
tác của từng biến số kinh tế ứng với từng loại khủng hoảng (mô hình này xem xét khủng
hoảng
tài chính dưới 3 loại theo lý thuyết: khủng hoảng tiền tệ, khủng hoảng NH, khủng hoảng
nợ).
Dưới đây, chúng tôi sẽ trình bày chi tiết trường hợp của khủng hoảng tiền tệ. Hai trường
hợp
còn lại cũng được xây dựng tương
tự.
Trong mô hình khủng hoảng tiền tệ, biến số phụ thuộc là một biến số nhị phân, nhận một
trong
hai giá trị 1 hoặc 0. Ta có phương trình hồi
quy:
CC
t
= α + β
X
Theo mô hình Probit, chúng ta có mô hình xác suất như
sau:
P
t
= F(CCt) = F (α + β
X)

Với P
t
là xác suất CC
t
nhận giá trị 1, X là ma trận tập hợp các biến kinh tế và F(Ii) là hàm
số
phân phối chuẩn tích lũy thể hiện như sau
:
F

(

Ii)
1
n
2

e
t

2
/
2

.dz
2
Nó chính là hàm mật độ phân phối xác suất và giúp chúng ta tính được giá trị xác suất xảy
ra
khủng hoảng. Thực hiện biến đổi xác suất, ta sẽ có phương trình hồi quy hoàn chỉnh hơn
như

sau:
F–1 (P
t
) = α + β X =
CC
với F-1(Ii) là hàm số nghịch đảo của hàm số F(Ii), chính là hàm
số:
F 1(I
i
)
1
e
t /
2
2
Theo phương pháp hồi quy, thực hiện hồi quy với biến phụ thuộc là CC
t
và các biến độc lập

X (X ở đây là một tập hợp gồm các biến số kinh tế từ X
1
, X
2
, X
3
… X
n
), ta sẽ xác định
được
ma trận hệ số α và β. Với α và β đã biết, mô hình sẽ cho chúng ta biết ứng với một mức giá

trị
X
nào đó, xác suất xảy ra khủng hoảng sẽ là bao nhiêu cũng như một thay đổi trong X sẽ
đem
lại
thay đổi trong P
t
là bao nhiêu – thông qua hàm số F(α + β X). Lưu ý rằng ở đây các giá
trị
X
phải ứng với thời điểm t – 1 (nghĩa là dùng biến số kinh tế thời điểm t – 1 dự báo cho
xác
suất
khủng hoảng thời điểm t)
.
Tương tự như vậy, đối với khủng hoảng NH và khủng hoảng nợ chúng ta cũng có các
phương
trình hồi
quy:
DCt = F-1(Pt) =
α+βX
BCt = F-1(Pt) = α + β
X
1.2.2 Mô hình Neuro
F
uzz
y
Nền tảng của mô hình Neuro Fuzzy là logic mờ (Fuzzy Logic). Logic mờ căn bản xem xét
khả
năng một chủ thể có thuộc về một tập hợp mà ta đang xem xét hay không. Cho S là một

tập
hợp và x là một phần tử của tập hợp đó. Một tập con mờ F của S được định nghĩa bởi một
hàm
tư cách thành viên µ (x) đo “mức độ” mà theo đó x thuộc về tập
F.
F
Trong đó : 0 ≤ µ (x) ≤
1.
F
Khi µ (x) = 0 nghĩa là x hoàn toàn không thuộc tập
F.
F
Khi µ (x) = 1 nghĩa là x thuộc F hoàn
toàn.
F
Sự khác biệt giữa mô hình Neuro Fuzzy và những mô hình đã thành công truyền thống nằm

những quy luật mà logic mờ mô tả thông qua việc sử dụng những biến ngôn ngữ thay cho
biến

×