Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Một số biện pháp sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy toán lớp 1, biện pháp rèn kỹ năng học tốt môn tiếng việt lớp 1 và công nghệ giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.81 KB, 16 trang )

/>Một số biện pháp sử
dụng đồ dùng dạy học
trong dạy toán lớp 1
và biện pháp rèn kỹ
năng học tốt môn
Tiếng Việt lớp 1 -
Công nghệ giáo dục
/>1.Một số biện pháp sử
dụng đồ dùng dạy học
trong dạy toán lớp 1
SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG DẠY HỌC CÁC PHÉP
TRỪ TRONG PHẠM VI 10.
Việc dạy học cho học sinh các phép trừ
trong phạm vi 10 là một trong những nội dung cơ
bản, quan trọng trong chương trình Toán 1. Đó
cũng chính là cơ sở ban đầu giúp các em học tính
toán ở các lớp học sau.
1. Chuẩn bị đồ dùng đầy đủ cho 1 tiết học
- Trước mỗi giờ dạy, giáo viên phải chuẩn bị cho tiết học đó. Đồ
dùng chuẩn bị cho tiết học phải được ghi trong giáo án, ghi rõ đồ
dùng cho giáo viên và học sinh.
/>- Cụ thể bài: "Phép trừ trong phạm vi 6".
+ Chuẩn bị đồ dùng cho giáo viên và học sinh: 6 thẻ hình tam
giác, 6 thẻ hình tròn, 6 thẻ hình vuông.
+ Ngoài ra giáo viên còn chuẩn bị thêm bảng cài và tranh bài tập
4 phần a.
2. Nghiên cứu , tìm hiểu và sử dụng thành thạo đồ dùng đó
Với mỗi loại đồ dùng dạy học đã chọn , trước khi lên lớp người
giáo viên phải có sự chuẩn bị chu đáo cụ thể là : nghiên cứu ,
tìm hiểu xem đồ dùng đó có thể sử dụng để dạy những bài nào
và cách sử dụng như thế nào để khai thác kiến thức của bài học


một cách hiệu quả nhất.
3. Đồ dùng trực quan phù hợp với từng giai đoạn học tập của
học sinh
Ở giai đoạn đầu năm lớp 1 các đồ dùng dạy học thường là các
vật thật (bông hoa, cái kéo, viên bi, ) các tranh ảnh về các vật
gần gũi với cuộc sống của các em (con gà, ôtô, con thỏ, con
mèo, quả táo, ) Đến cuối lớp 1 các em có thể sử dụng đồ dùng
ở mức độ trừu tượng, khái quát hơn (que tính, bó que tính, hình
tròn, hình vuông, )
/>Ví dụ: Bài phép trừ trong phạm vi 3 là bài đầu tiên học về phép
trừ, giáo viên có thể cho học sinh quan sát cô thao tác bằng
những bông hoa, quả cam hoặc giáo viên gọi học sinh lên để
làm: Bạn Nga có 3 bông hoa (một học sinh cầm), bạn Nga cho
bạn Hà 2 bông hoa (một học sinh khác cầm). Hỏi bạn Nga còn
mấy bông hoa? Học sinh quan sát các bạn làm và sẽ nói ngay
được phép tính: 3 - 2 = 1.
Nhưng sang đến bài: Phép trừ trong phạm vi 6 giáo viên và học
sinh sử dụng đồ dùng ở mức độ khái quát hơn để hình thành
phép tính (dựa vào các hình vuông, hình tam giác, hình tròn).
4. Sử dụng đúng lúc, đúng mức độ các đồ dùng học toán
Khi hình thành các bảng trừ, giáo viên hướng dẫn học sinh sử
dụng đồ dùng học tập để tìm ra kết quả các phép trừ (dạy bài
mới). Nhưng khi đã thuộc lòng bảng trừ thì cố gắng không dùng
que tính, đốt ngón tay để làm tính mà nói ngay, viết ngay kết
quả phép tính. Chỉ khi nào quên công thức tính thì mới sử dụng
que tính, đốt ngón tay để hỗ trợ cho trí nhớ (luyện tập thực
hành).
5. Chuyển dần, chuyển kịp thời các phương tiện trực quan từ
dạng cụ thể sang dạng trừu tượng hơn
/>Ngay ở giai đoạn phải sử dụng các đồ vật cụ thể (vật thực, vật

tượng trưng) cũng phải chuyển dần từ vật "cụ thể" sang vật "ít
cụ thể" hơn.
Ví dụ 1 : Khi dạy về "Phép trừ trong phạm vi 4" lúc đầu giáo
viên có thể cho học sinh trực quan.
Bước 1: Lấy 4 hình quả cam rồi cất đi 1 hình quả cam quả cam
để được 3 hình quả cam.
Bước 2: Lấy 4 que tính rồi cất đi 3 que tính để có 1 que tính.
Bước 3: Lấy 4 chấm tròn, rồi cất đi 2 chấm tròn để được 2 chấm
tròn.
Từ 4 qủa cam đến 4 que tính rồi đến 4 chấm tròn đã có sự
chuyển dần tư vật cụ thể sang vật có tính trừu trượng hơn và
điều quan trọng là học sinh nhận được "cái chung" của nhóm vật
đó ban đầu là "bốn" (số lượng đều là 4).
Ví dụ 2: Ở các phép trừ trong phạm vi 3, 4, 5 hình thành dựa
vào các đồ vật, vật tượng trung gần gữi với học sinh (con gà,
ôtô, quả táo, cái kéo, ) Nhưng sang đến các phép trừ trong
phạm vi 6, 7, 8, 9, 10 hình thành dựa vào các hình tam giác, hình
tròn, hình vuông.
/>6. Thay đổi phương pháp sử dụng đồ dùng một cách linh hoạt
tránh nhàm chán.
Trong bài dạy "Phép trừ trong phạm vi 6" ở các phép tính đầu 6
-1 = 5 ;
6 - 5 =1 ; 6 - 2 = 4 hình thành từ đồ dùng, học sinh nêu bài toán
và lập phép tính. Nhưng đến phép tính 6 - 3 = 3 thì giáo viên có
thể nâng cao hơn một mức là từ đồ dùng lập phép tính và nêu
bài toán. Thay đổi như vậy học sinh tránh nhàm chán và phát
huy tư duy toán học cho các em hơn.
7. Rèn kỹ năng sử dụng đồ dùng cho học sinh
Điều quan trọng nhất là sử dụng đồ dùng dạy học: Giáo viên tổ
chức, hướng dẫn cho học sinh hoạt động trên bộ đồ dùng của

từng cá nhân. Từ các hoạt động có định hướng đó, học sinh tự
mình phát hiện, tìm tòi được các kiến thức mới của môn Toán.
Chẳng hạn, trong bài "Phép trừ trong phạm vi 6" học sinh dưới
sự hướng dẫn của giáo viên, các em thao tác lấy, xếp các hình
theo yêu cầu của giáo viên.
Lấy 6 hình tam giác (đính lên bảng), cất đi 1 hình tam giác (giáo
viên lấy cất đi) . Hỏi còn mấy hình tam giác?
/>Ngoài ra khi sử dụng bộ đồ dùng giáo viên rèn cho học sinh ý
thức giữ gìn, sắp xếp bộ đồ dùng nhanh nhẹn và ngăn nắp, làm
theo hiệu lệnh và ký hiệu (giáo viên ghi ĐD thì học sinh lấy đồ
dùng, giáo viên xoá thì học sinh phải cất ngay đồ dùng).
8. Tìm thêm những đồ dùng phụ trợ để tiết học thêm sinh
động hoặc chọn các trò chơi để củng cố kiến thức khắc sâu
bài.
Ví dụ : Dạy bài "Phép trừ trong phạm vi 6" ở bài 4 phần a viết
phép tính thích hợp giáo viên có thể hình vẽ các con chim để
học sinh nêu bài toán cho học sinh, tạo hứng thú cho học sinh
trong học tập.
Ngoài ra, sau mỗi bài giáo viên có thể tổ chức cho học sinh trò
chơi củng cố (bằng bộ đồ dùng toán của học sinh).
- Lập phép tính (học sinh sử dụng các số dấu lập phép tính theo
yêu cầu của giáo viên).
- Cài kết quả (giáo viên nêu phép tính, học sinh thi cài kết quả
nhanh).
9. Ứng dụng công nghệ thông tin:
Hiện nay việc ứng dụng công nghệ thông tin vào lĩnh vực giáo
dục đã hỗ trợ tích cực trong dạy học môn Toán. Cụ thể trong
/>thiết kế các tiết dạy giáo án điện tử, giáo viên đã sữ dụng các
hình ảnh sinh động, gần gũi với các em đã đem đến sự hứng
thú, tích cực khám phá, lĩnh hội kiến thức mới cho học sinh.

Như khi dạy bài “ Phép trừ trong phạm vi 6” giáo viên đưa hình
ảnh có 6 con chim đậu trên cành cây sau đó bay đi hai con chim,
hỏi còn lại trên cành mấy con chim?
Lúc này các em không còn phải tư duy trừu tượng mà đã tri giác
hình ảnh hai con chim vỗ cánh bay đi, như vậy sẽ dễ dàng thấy
ngay kết quả của bài toán.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Toán đã đem lại
hiệu quả đáng kể trong các tiết dạy. Tuy nhiên chúng ta cần lưu
ý xác định đó chỉ là phương tiện hỗ trợ dạy học, tuỳ theo từng
bài dạy để sử dụng sao cho linh hoạt hợp lý, tránh lạm dụng quá
mức cần thiết nếu không sẽ mang lại hiệu quả giáo dục không
như mong muốn.
/>2.Biện pháp rèn kỹ
năng học tốt môn
Tiếng Việt lớp 1 -
Công nghệ giáo dục
Để thực hiện tốt môn Tiếng Việt lớp 1- Công
nghệ giáo dục, cô Hoàng Thị Minh Lan cho rằng,
người giáo viên cần phải nghiên cứu kĩ mục đích,
yêu cầu, nội dung và phương pháp dạy học của
chương trình Tiếng Việt công nghệ giáo dục lớp 1
cũng như mục đích yêu cầu, nội dung, phương
pháp dạy học phần âm của từng bài dạy. Đặc biệt,
/>phải thực hiện đúng theo quy trình của thiết kế
Tiếng Việt lớp 1 – Công nghệ giáo dục. Để học
sinh nắm chắc ác bài học về phần âm là vô cùng
quan trọng, nên bước đầu giáo viên cần cung cấp
cho học sinh các kĩ năng: Làm quen với môi
trường học tập, với thầy cô, bạn bè, biết sử dụng
các đồ dùng học tập, biết nhận nhiệm vụ và hoàn

thành nhiệm vụ một cách nhanh nhẹn…
Về kiến thức, các em phải nắm chắc: Tiếng gồm 2 phần (phần
âm đầu và phần vần); biết đánh vần theo cơ chế 2 bước, dùng
thao tác và đọc theo 4 mức độ; biết vẽ mô hình 2 phần của tiếng,
đưa tiếng vào mô hình; biết phân biệt nguyên âm và phụ âm;
biết tạo ra các tiếng mới bằng cách thay phụ âm đầu hoặc các
dấu thanh trong tiếng việt; biết nghe đọc và viết đúng, đẹp các
tiếng đã học.
Trước giờ lên lớp, giáo viên cần nghiên cứu kỹ sách học sinh,
giáo viên và tìm hiểu nội dung bài đọc trong chương trình lớp 1
học
/>Giáo viên nắm vững chất lượng học tập của học sinh, từ đó có
thể vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học.
Khi học xong tiết Tiếng Việt hình thành kiến thức các em phải
nắm vững được các kiến thức trong bài học, giáo viên điều tra
xem bao nhiêu học sinh trong lớp có thể làm được bài, từ đó có
hướng luyện cho các học sinh còn hổng kiến thức.
Trong giờ học Tiếng Việt, để giờ học bớt căng thẳng, giáo viên
cần tổ chức thêm một số trò chơi giữa tiết và cuối tiết.
Với những lỗi phát âm cơ bản, trước hết, giáo viên phải phát âm
chuẩn, sau đó, vận dụng một cách linh hoạt các phương pháp và
hình thức sửa lỗi phát âm.
Giáo viên có thể sử dụng phương pháp luyện tập theo mẫu: Giáo
viên phát âm chuẩn, rõ ràng, thật chậm từ 2 - 3 lần, sau đó cho
học sinh phát âm sai phát âm lại. Phương pháp quan sát và phân
tích cách phát âm:
Giáo viên quan sát phát hiện học sinh phát âm sai; nói rõ nguyên
nhân phát âm sai bằng cách chỉ ra cách sử dụng các bộ phận
phát âm không đúng của các em. Sau đó, giáo viên mô tả cách
/>phát âm, như: Nêu rõ vị trí đặt lưỡi, vị trí của lưỡi với răng, độ

mở của môi
Phương pháp luyện tập tổng hợp: Phân tích các thành phần và
âm vị mắc lỗi để học sinh nhận diện (đối với các âm ghép như:
th, nh, ch, kh, ph, gh, ng,tr)
Đưa vào trong ngữ cảnh để khu biệt nét nghĩa cho học sinh có ý
thức phân biệt âm đúng âm sai (đối với các âm dễ lẫn lộn như l-
n, s-x, tr-ch, r-g, gi-d-v)
Phương pháp tổ chức trò chơi học tập: Giáo viên thay đổi các trò
chơi hấp dẫn để thu hút sự chú ý học sinh giúp các em tiếp thu
bài tốt hơn.
Để dạy tốt môn Tiếng Việt 1- Công nghệ giáo dục phần âm có
hiệu quả cao, theo cô Hoàng Thị Minh Lan, giáo viên cần làm
tốt các quy trình 4 việc và vận dụng phù hợp các hình thức tổ
chức dạy học trong từng tiết học một cách hiệu quả nhất.
Đồng thời, sử dụng một số phương pháp dạy học như: Phương
pháp làm mẫu, phương pháp phân tích mẫu, phương pháp hỏi
đáp, phương pháp trực quan… kết hợp với nhiều hình thức dạy
học như: Học theo lớp, nhóm; cá nhân,
/>Giáo viên luôn yêu cầu học sinh thực hành và rèn luyện kỹ năng
đọc, viết; lưu ý trang bị cho học sinh kiến thức từ thấp đến cao.
Để làm được điều này, người giáo viên chỉ nhiệt tình giảng dạy
là không đủ mà còn phải vận dụng linh hoạt các phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học; phải biết kích thích lòng say mê học
tập của các em, đồng thời lưu ý đến điều kiện thực tế ở mỗi lớp,
mỗi trường
Phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học như tranh,
ảnh, vật thật cho học sinh học chậm.
- Ở lứa tuổi học sinh tiểu học nhất là học sinh lớp Một khả năng
tư duy trừu tượng kém, phần lớn các em phải dựa trên những mô
hình vật thật, tranh ảnh, do vậy trong các giờ học việc yêu cầu

giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học là không thể thiếu kể cả đồ
dùng do giáo viên tự làm, đồ dùng dạy học là phương tiện
chuyển tải thông tin và là nội dung truyền thụ kiến thức giáo dục
tư cách, rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh, nó có tác
dụng điều khiển hoạt động của học sinh từ trực quan sinh động
đến tư duy trừu tượng, kích thích hứng thú cho học sinh học tập.
Có nhà giáo dục trẻ cho rằng trẻ không sợ học mà chỉ sợ những
/>tiết học đơn điệu nhàm chán vì thế đồ dùng dạy học có tác dụng
rất lớn trong quá trình dạy môn Tiếng Việt - Học vần cho học
sinh, nhất là các em học sinh học chậm.
Ví dụ: Ở những bài học về vần. Chẳng hạn như Bài 41 trang 86
Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 Tập 1: Dùng tranh vẽ ( hoặc vật
thật) trái lựu; Tranh con hươu sao để học sinh quan sát và tìm ra
từ khoá sau khi các em đã nhận diện vần ưu và ươu ở phần đầu
tiết học. Từ những hình ảnh như thế các em sẽ dễ nhớ và nhớ
chính xác hơn các vần và các từ được học bởi các em có sự liên
tưởng từ vật thật đến vần của bài học.
Như vậy dùng tranh, ảnh, vật thật trong các giờ Tiếng Việt –
Học vần giúp học sinh nhớ vần và từ tốt hơn.
- Ngoài ra dùng tranh, ảnh có vai trò rất lớn trong phần luyện
nói ở các tiết tập đọc môn Tiếng Việt lớp 1 – học kì II.
Như vậy rõ ràng trong cùng một giờ học giáo viên biết vận dụng
khéo léo tranh, ảnh thì vừa phát huy được tính sáng tạo chủ động
cho học sinh khá giỏi lại vừa tạo sự hứng thú cố gắng vươn lên
cho học sinh học chậm.
/>sử dụng các đồ dùng trực quan sinh động, các hình thức dạy học
phát huy tính tích cực của học sinh. Ví dụ: Khi dạy vần ai, ay
giáo viên có thể tổ chức trò chơi “Em là họa sỹ”:
- Em hãy tô màu xanh vào những đám mây có chứa vần ai.
- Em hãy tô màu hồng vào những đám mây có chứa vần ay.

Chắc chắn với vai trò của “một họa sỹ tí hon” các em sẽ vô cùng
say sưa với các tác phẩm nghệ thuật của mình mà không hề cảm
thấy mệt mỏi và căng thẳng. Tuy nhiên giáo viên cần phải thay
đổi thường xuyên những hình ảnh minh họa để giúp học sinh
khỏi bị nhàm chán.
d) Không giải nghĩa từ bằng duy danh định nghĩa, từ điển mà
nên giải nghĩa từ bằng các hình ảnh trực quan, các vật thật hoặc
đưa các từ vào trong văn cảnh cụ thể để học sinh hiểu được
nghĩa của từ.
đ) Sử dụng ngữ liệu chứa nội dung hấp dẫn, sưu tầm các câu
đồng giao, thơ để giúp học sinh dễ thuộc, viết đúng các chữ cái.
Ví dụ:
- i, t hai chữ giống nhau
/>i ngắn có dấu, t dài có ngang.
Hoặc sử dụng một số câu đố vui để giới thiệu một số âm, vần
thay cho việc yêu cầu học sinh quan sát tranh để tạo hứng thú
trong học tập cho học sinh. Ví dụ:
- Nét tròn em đọc chữ o
Khuyết đi một nửa sẽ cho chữ gì? (Chữ c)
Giáo viên cùng học sinh tham gia đố vui rồi dẫn học sinh vào
bài học một cách nhẹ nhàng:
GV: Đố các con đây là con gì?
Mắt màu hồng, thích rau xanh
Đôi tai dài thượt, chẳng nhanh hơn Rùa.
(Con Thỏ - Dạy bài 15: t, th, tổ, thỏ)
e) Hạn chế tối đa sử dụng tiếng địa phương trong dạy học. Chỉ
sử dụng khi thật sự cần thiết với học sinh lớp 1 các trường vùng
cao, vùng sâu.
Sưu tầm.

×