Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

hoàn thiện hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại tổng công ty tài chính cổ phần dầu khí việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (588.34 KB, 119 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình nghiên cứu
khoa học độc lập của tôi. Các số liệu sử dụng trong luận văn là
trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.

Tác giả luận văn

CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Nguyên nghĩa
BCTC Báo cáo tài chính
BĐS Bất động sản
CBNV Cán bộ nhân viên
CIC Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng
CNTT Công nghệ thông tin
CTTC Công ty Tài chính
DN Doanh nghiệp
HĐQT Hội đồng Quản trị
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng Thương mại
PVFC Tổng công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam
PVN Tập đoàn Dầu khí Việt Nam
QTRR Quản trị rủi ro
QTRRTD Quản trị rủi ro tín dụng
TCT Tổng công ty
TCTD Tổ chức tín dụng
RRTD Rủi ro tín dụng
SXKD Sản xuất kinh doanh
TSBĐ Tài sản bảo đảm
MỤC LỤC
1
MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, với xu hướng toàn cầu hoá và
quốc tế hoỏ cỏc luồng tài chính đã làm thay đổi căn bản hệ thống tài chính
ngân hàng, khiến hoạt động kinh doanh ngày càng trở nên phức tạp hơn.
Trong bối cảnh đú, khụng một ngân hàng hay tổ chức tài chính nào có thể tồn
tại lâu dài mà không có hệ thống quản trị rủi ro hữu hiệu. Việc xây dựng một
hệ thống quản trị rủi ro nói chung và quản trị rủi ro tín dụng nói riêng do vậy
có vai trò sống còn đối với hoạt động của bất kỳ một tổ chức tín dụng nào.
Đối với các hầu hết các tổ chức tín dụng tại Việt Nam, hoạt động tín
dụng là hoạt động mang lại thu nhập chính và chủ yếu nhưng cũng là hoạt
động chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Rủi ro tín dụng xảy ra sẽ có tác động rất
lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của mỗi tổ chức tín
dụng. Vì vậy, không ngừng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động quản
trị rủi ro tín dụng luôn là mối quan tâm hàng đầu trên phương diện lý luận
cũng như trong thực tiễn của các tổ chức tài chính- ngân hàng.
Nhiều sự kiện đổ vỡ xảy ra trong ngành tài chính ngân hàng đã cho
thấy công tác quản trị rủi ro tín dụng dù có vai trò rất quan trọng song chưa
được quan tâm đúng mức tại các tổ chức tín dụng, đặc biệt là tại các công ty
tài chính hiện nay. Với đặc thù hoạt động của mô hình công ty tài chính và
đặc thù của một định chế tài chính trong ngành Dầu khí, hoạt động quản trị
rủi ro tín dụng tại PVFC có nhiều điểm khác biệt. Trong những năm qua, hoạt
động quản trị rủi ro tín dụng ở PVFC tuy đạt được nhiều kết quả tích cực, góp
phần quan trọng vào sự phát triển của Tổng công ty, song thực tiễn vẫn còn
những hạn chế, bất cập, như: chưa xây dựng được chiến lược quản trị rủi ro
dài hạn, hệ thống quy trình, quy chế về tín dụng chưa đầy đủ, nhân sự quản trị
rủi ro tín dụng chưa hoàn thiện, một số công cụ quản trị rủi ro tín dụng cũng
chưa phát huy tốt vai trò, tác dụng của nó
Mặt khác, từ trước đến nay chưa có công trình nghiên cứu về hoạt động
quản trị rủi ro tín dụng tại các công ty tài chính nói chung, TCT tài chính CP
Dầu khí Việt Nam nói riêng. Vì thế, các chính sách và công cụ về quản trị rủi

ro tín dụng tại Tổng Công ty cũng chưa được quan tâm giải quyết triệt để, làm
giảm sút vai trò của hoạt động quản trị rủi ro tín dụng.
2
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, tôi chọn đề tài “Hoàn thiện hoạt
động quản trị rủi ro tín dụng tại Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu
khí Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu, với mong muốn củng cố lý luận, tiếp
cận nghiên cứu thực trạng hoạt động quản trị rủi ro tín dụng và đề xuất một số
giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại Tổng Công ty
Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam, góp phần đẩy mạnh hoạt động tín dụng
trên cơ sở đảm bảo an toàn và phát triển bền vững của PVFC.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số giải pháp
chủ yếu nhằm hoàn thiện hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại Tổng Công ty
cổ phần Tài chính Dầu khí Việt Nam. Kết quả nghiên cứu có thể được vận
dụng vào thực tiễn quản lý hoạt động rủi ro tín dụng tại các Công ty tài chính
có tính chất đặc thù tương tự.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu:
Hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại các Tổng công ty tài chính, Công
ty tài chính.
* Phạm vi nghiên cứu:
Hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại Tổng công ty cổ phần tài chính
Dầu khí Việt Nam giai đoạn từ 2008 đến năm 2010
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lờ nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp: lịch sử, hệ thống-
cấu trúc; điều tra thực tiễn; phân tích, so sánh; thống kê
5. Kết cấu luận văn
Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu gồm 03 chương, gồm:
Chương 1: Những vấn đề chung về rủi ro tín dụng và hoạt động quản

trị rủi ro tín dụng của công ty tài chính.
Chương 2: Thực trạng hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại Tổng công
ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam giai đoạn 2008-2010.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại
Tổng công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam.
3
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ HOẠT ĐỘNG
QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.1. Những vấn đề chung về tín dụng của Công ty Tài chính
1.1.1. Khái niệm Công ty Tài chính
1.1.1.1. Khái niệm Công ty Tài chính
Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức tài chính phi ngân hàng đóng
một vai trò quan trọng trong việc huy động các nguồn vốn từ những người
cho vay- những người tiết kiệm, tới người vay- những người cần chi tiêu. Quá
trình đổi mới tài chính đã làm cho các tổ chức tài chính phi ngân hàng trở nên
quan trọng hơn nhiều. Các tổ chức này ngày nay cạnh tranh trực tiếp hơn với
các ngân hàng qua các dịch vụ tương tự như hoạt động của ngân hàng.
CTTC là loại hình TCTD phi ngân hàng, với chức năng là sử dụng vốn
tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư, cung ứng các
dịch vụ tư vấn về tài chính tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác theo quy
định của pháp luật, nhưng không được làm dịch vụ thanh toán, không được
nhận tiền gửi cá nhân.
Theo Luật các TCTD số 47/2010/QH12 “Công ty Tài chính là loại hình
tổ chức tín dụng phi ngân hàng, được thực hiện một hoặc một số hoạt động
ngân hàng theo quy định của Luật các TCTD, trừ các hoạt động nhận tiền gửi
của cá nhân và cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách
hàng”.
Tại Việt Nam, các công ty tài chính phần lớn thuộc các Tập đoàn kinh
tế Nhà nước, như Tổng công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam (trực

thuộc Tập Đoàn Dầu khí Việt Nam), Công ty tài chính Điện lực (trực thuộc
Tập đoàn Điện lực Việt Nam), Công ty tài chính Than khoáng sản Việt nam
(trực thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than khoáng sản Việt Nam).
Như vậy, CTTC là một loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân
hoàn chỉnh hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. CTTC được phép huy
động vốn từ tiền gửi hoặc các nguồn vốn khác của các tầng lớp dân cư hoặc
4
của các tổ chức kinh tế, các định chế tài chính khác trong xã hội, để thực hiện
nghiệp vụ kinh doanh của mình. Phạm vi cho vay của các CTTC là tất cả
những tổ chức kinh tế trong xã hội có nhu cầu về vốn.
Công ty tài chính, vì lý do đó, còn được coi là công cụ để các Tập đoàn
điều tiết vốn và sử dụng vốn.
1.1.1.2. Phân loại Công ty Tài chính
Các loại CTTC bao gồm:
- Công ty tài chính bán hàng: Các CTTC này gián tiếp cấp tín dụng cho
người tiêu dùng để mua các món hàng từ một nhà bán lẻ hoặc từ một nhà sản
xuất.
- Công ty tài chính tiêu dùng: CTTC loại này cung ứng phần lớn nguồn
vốn của mình cho các gia đình và cá nhân vay vào mục đích mua sắm hàng
hoá tiêu dùng hoặc sửa chữa nhà cửa. Hầu hết các khoản cho vay đều được trả
góp định kỳ.
- Công ty tài chính kinh doanh: CTTC loại này cấp tín dụng cho các
doanh nghiệp dưới các hình thức như: Bao thanh toán, cho thuê tài chính
1.1.1.3. Sự khác nhau giữa Công ty tài chính, Ngân hàng thương mại
và các loại hình trung gian tài chính khác.
Trong lịch sử, các CTTC ra đời muộn hơn so với các NHTM. Những
NHTM đầu tiên trên thế giới được thành lập từ thế kỷ XV. Trong quá trình
phát triển của ngành ngân hàng, xuất hiện những tổ chức thực hiện các hoạt
động dịch vụ tài chính nhưng không phải là ngân hàng, sau này được trở
thành các CTTC. Các CTTC ra đời chủ yếu là do sự hạn chế của các luật ngân

hàng, nhiều dịch vụ tài chính của các NHTM không được phép mở rộng sang
lĩnh vực khác. Bên cạnh đó, do hệ thống ngân hàng lúc đó không thể đáp ứng
được nhu cầu to lớn và đa dạng về vốn đầu tư đòi hỏi phải có những tổ chức
thích hợp đáp ứng nhu cầu đó.
Đặc điểm quan trọng để phân biệt CTTC với các NHTM là CTTC
không thực hiện dịch vụ thanh toán và tiền mặt, không huy động tiền gửi tiết
kiệm không kỳ hạn của dân chúng. Thực tế cho thấy, CTTC thực hiện một số
nghiệp vụ như NHTM nhưng không phải là NHTM nên hầu hết các nước xếp
5
CTTC vào loại hình các TCTD phi ngân hàng, cùng với các tổ chức tài chính
tín dụng phi ngân hàng khác như công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm
nhân thọ, báo hiểm tài sản, quỹ trợ cấp, quỹ tương hỗ, quỹ đầu tư
Như vậy, đặc trưng của CTTC khác cơ bản với NHTM ở chỗ: các ngân
hàng nhận tiền gửi thường xuyên trong khi các CTTC thì chủ yếu sử dụng
vốn chủ sở hữu, không huy động tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn của dân
chúng, không nhận tiền gửi của cá nhân, tổ chức với thời hạn ngắn để cho vay
và đầu tư. CTTC không thực hiện các dịch vụ thanh toán và tiền mặt, không
sử dụng vốn để làm phương tiện thanh toán cho khách hàng. Nói cách khác,
NHTM là một định chế tài chính nhận tiền gửi theo mọi yêu cầu của khách
hàng và sử dụng tiền đó cho vay thương mại, NHTM được mở tài khoản
thanh toán và thực hiện chức năng thanh toán cho khách hàng. Khác với
NHTM, CTTC không bị quản lý giám sát chặt chẽ như NHTM. Một trong
những điểm khác biệt nổi bật giữa CTTC và NHTM là NHTM thường thu
gom những món tiền gửi nhỏ để cho vay cả những món tiền nhỏ. Vì lẽ đó,
hoạt động cho vay của CTTC rất thích hợp với những nhu cầu của các doanh
nghiệp và người tiêu dùng.
CTTC là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ với
chức năng cơ bản như các trung gian tài chính khác. Đối với CTTC, việc huy
động nguồn vốn cũng phải được thực hiện theo những phương pháp riêng
theo quy định của pháp luật. Các CTTC có thể áp dụng phưong pháp huy

động vốn thông thường như các trung gian tín dụng khác hoặc thực hiện nhận
tiền gửi từ các tầng lớp dân cư trong xã hội. Một đặc thù của CTTC là đầu ra
cho sản phẩm dịch vụ của mình. So với các trung gian tài chính khác chủ yếu
là thực hiện các nghiệp vụ cho vay dưới hình thức tiền tệ. Các CTTC có thể
tài trợ dưới hình thức cho vay sau khi huy động vốn từ nhiều nguồn khác,
thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá bằng việc cung cấp vốn cho các khách hàng có bán
hàng trả chậm. Hình thức tín dụng thuê mua vẫn là phương thức chủ yếu của
CTTC có đặc thù riêng mà các TCTD khác không có.
Tóm lại, các CTTC được thành lập và hoạt động nhằm đạt mục đích bù
đắp vào khoản thiếu hụt tài chính do thiếu khả năng cung ứng của các NHTM,
6
hoạt động của CTTC thông qua nguồn vốn của mình hoặc vay của khách hàng
bằng cách phát hành tín phiếu hay cổ phiếu.
1.1.2. Hoạt động của Công ty Tài chính
Các hoạt động của CTTC bao gồm: Huy động vốn, sử dụng vốn và các
hoạt động tài chính khác.
1.1.2.1. Huy động vốn:
Công ty tài chính huy động vốn dưới các hình thức sau:
- Nhận tiền gửi của tổ chức;
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy
động vốn của tổ chức;
- Vay vốn của tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính trong nước và nước
ngoài theo quy định của pháp luật; vay Ngân hàng Nhà nước dưới hình thức
tái cấp vốn theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
1.1.2.2. Sử dụng vốn
Các hình thức sử dụng vốn của CTTC bao gồm:
- Cho vay, bao gồm cả cho vay trả góp, cho vay tiêu dùng;
- Bảo lãnh ngân hàng;
- Chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng, các giấy tờ có giá khác;
- Phát hành thẻ tín dụng, bao thanh toán, cho thuê tài chính và các hình

thức cấp tín dụng khác sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.
Như vậy, CTTC và NHTM đều được phép cấp tín dụng dưới hình thức
cho vay, bảo lãnh, chiết khấu, tái chiết khấu. Tuy nhiên, một số hình thức cấp
tín dụng khác như phát hành thẻ tín dụng, bao thanh toán nếu như được coi là
tất nhiên được phép hoạt động khi được cấp phép thành lập NHTM thì đối với
CTTC phải được NHNN chấp thuận.
Đối với hoạt động cho thuê tài chính, nếu được NHNN chấp thuận cho
phép hoạt động thì CTTC được phép trực tiếp thực hiện trong khi NHTM phải
thực hiện thông qua công ty con, công ty liên kết.
1.1.2.3. Các hoạt động tài chính khác
Ngoài huy động vốn và sử dụng vốn, CTTC còn được phép hoạt động
trờn cỏc lĩnh vực sau:
7
Mở tài khoản
- CTTC được mở tài khoản thanh toán tại NHTM, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài.
+ CTTC được phép thực hiện hoạt động phát hành thẻ tín dụng được mở
tài khoản tại ngân hàng nước ngoài theo quy định của pháp luật về ngoại hối.
+ CTTC được mở tài khoản tiền gửi, tài khoản quản lý tiền vay cho
khách hàng.
Hoạt động góp vốn, mua cổ phần
- CTTC được góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp, quỹ đầu tư.
- CTTC được thành lập, mua lại công ty con, công ty liên kết hoạt động
trong các lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán, quản lý tài sản bảo đảm sau khi
được NHNN chấp thuận bằng văn bản.
Các hoạt động kinh doanh khác
- Tiếp nhận vốn ủy thác của Chính phủ, tổ chức, cá nhân để thực hiện
các hoạt động đầu tư vào các dự án sản xuất, kinh doanh, cấp tín dụng được
phép; ủy thác vốn cho tổ chức tín dụng thực hiện cấp tín dụng. Việc tiếp nhận
vốn ủy thác của cá nhân và ủy thác vốn cho các tổ chức tín dụng cấp tín dụng

thực hiện theo quy định của NHNN.
- Tham gia thị trường tiền tệ.
- Mua, bán trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp.
- Bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp; đại
lý phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác.
+ Kinh doanh, cung ứng dịch vụ ngoại hối.
+ Cung ứng dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính, đầu tư.
+ Cung ứng dịch vụ quản lý, bảo quản tài sản của KH.
1.1.3. Hoạt động tín dụng của Công ty Tài chính
Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả.Đó là sự
chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ
từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định trả lại với
một lượng lớn hơn.
8
Hoạt động tín dụng của CTTC bao gồm các hoạt động cho vay, bảo lãnh,
chiết khấu, tái chiết khấu, phát hành thẻ tín dụng, bao thanh toán, cho thuê tài
chính và các hình thức cấp tín dụng khác sau khi được NHNN chấp thuận.
Hoạt động tín dụng của CTTC dựa trên một số nguyên tắc nhất định
nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời, cụ thể bao gồm:
- Khách hàng phải cam kết hoàn trả nợ gốc và lãi vay đúng thời hạn đã
thoả thuận trong HĐTD. Các khoản tín dụng có nguồn gốc chủ yếu từ các
khoản tiền gửi của KH và các khoản mà CTTC vay mượn. CTTC có trách
nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như đã cam kết đối với bên thứ 3. Do vậy, CTTC
luôn yêu cầu KH phải thực hiện đúng cam kết về trả nợ gốc và lãi vay nhằm
đảm bảo tính thanh khoản của mình.
- Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo đúng mục đích đã
thoả thuận trong hợp đồng. Đõy không những là nguyên tắc mà còn là
phương châm hoạt động của tín dụng. Mục đích ghi trong HĐTD đảm bảo
CTTC không tài trợ cho các hoạt động trái luật pháp và việc tài trợ đó là phù
hợp với cương lĩnh của CTTC và quan trọng hơn, mục đích đú đó được

CTTC thẩm định và đánh giá để đảm bảo KH hoàn trả được gốc và lãi đúng
hạn.
Khi cấp tín dụng cho khách hàng, CTTC luôn đặt ra mục tiêu cao nhất
là thu hồi được gốc và lãi vay theo thời hạn đã thoản thuận trong HĐTD. Để
đảm bảo thực hiện được mục tiêu này, CTTC tiến hành việc cấp tín dụng cho
khách hàng thông qua một quy trình gồm có 3 bước quan trọng là quá trình
thẩm tra trước, trong và sau khi cho vay. Cụ thể như sau:
- Phân tích, thẩm định trước khi cấp tín dụng. Nội dung chủ yếu là thu
thập và xử lý thông tin liên quan đến KH bao gồm: uy tín, tình hình hoạt động
sản xuất kinh doanh của KH, năng lực tài chính, khả năng tạo ra nguồn lợi
nhuận và ngân quỹ, quyền sở hữu các tài sản và các điều kiện khác có liên
quan đến KH.
- Xây dựng, ký kết HĐTD và giải ngân. HĐTD là văn bản xác nhận
thoả thuận giữa KH và CTTC với nội dung chủ yếu là CTTC cam kết cấp cho
KH một khoản tín dụng (hoặc hạn mức tín dụng) trong một khoảng thời gian
9
và với mức lãi suất nhất định. Sau khi HĐTD được ký kết, CTTC sẽ tiến hành
giải ngân cho KH như đã thoả thuận, việc giải ngân cũng được tiến hành một
cách chặt chẽ nhằm đảm bảo các điều kiện giải ngân quy định trong HĐTD
được thoả mãn. Quá trình giải ngân cũng là bước nhằm kiểm soát vốn vay có
được sử dụng đúng mục đích hay không, thông thường các CTTC giải ngân
trực tiếp vào tài khoản của người thụ hưởng.
- Theo dõi khoản vay: CTTC sẽ tiến hành việc kiểm tra sử dụng vốn
vay sau khi giải ngân, kiểm tra hoạt động SXKD của KH theo định kỳ hoặc
đột xuất khi có phát sinh các sự kiện có nguy cơ ảnh hưởng đến khả năng trả
nợ của KH. Hoạt động theo dõi khoản vay có thể chia ra thành theo dõi toàn
danh mục và theo dõi từng khoản vay riêng lẻ.
Trong theo dõi danh mục, CTTC cần phải đảm bảo các hạn mức (ví dụ
hạn mức về ngành, lĩnh vực, hạn mức đối với KH/nhúm KH…) nhằm đảm
bảo không vi phạm các tỷ lệ an toàn, xem xét các xu hướng, tập trung vào các

tiêu chí hạn mức đã xác định nhằm giảm thiểu rủi ro danh mục cho vay và tối
đa hóa lợi nhuận.
Hoạt động theo dõi từng khoản vay riêng lẻ bao gồm: Theo dõi tình
hình thực hiện trả nợ của KH, cập nhật thông tin tài chính, theo dõi các thay
đổi trong môi trường kinh doanh của KH, cập nhật thông tin về TSĐB, việc
tuân thủ các cam kết, theo dõi khả năng sinh lời của phương án vay vốn của
KH, phân loại khoản vay và trích dự phòng.
Quan hệ tín dụng kết thúc khi CTTC thu hồi hết nợ gốc và lói. Cỏc
khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn nợ gốc và lãi là các
khoản tín dụng an toàn. Đối với một số trường hợp KH không hoàn trả hoặc
hoàn trả không đúng hạn, việc xem xét tìm ra nguyên nhân là rất quan trọng
để giúp CTTC kịp thời đưa ra các quyết định xử lý kịp thời, đảm bảo tính an
toàn của khoản tín dụng.
Tín dụng bao gồm các hoạt động:
Cho vay
Hoạt động cho vay là hoạt động kinh doanh chủ yếu của CTTC nhằm
tạo ra lợi nhuận; chỉ có lãi suất cho vay mới bù đắp nổi chi phí huy động vốn,
10
chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh, chi phí quản lý, chi phí thuế các loại và chi
phí rủi ro đầu tư. Hoạt động cho vay đa dạng, phong phú bao gồm nhiều loại
hình:
* Nếu căn cứ vào thể thức cho vay, hoạt động cho vay gồm:
- Tín dụng ứng trước: Là thể thức cho vay được thực hiện trên cơ sở
hợp đồng tín dụng, trong đó khách hàng được sử dụng một hạn mức cho vay
trong một thời gian nhất định. Tín dụng ứng trước có hai loại là ứng trước có
bảo đảm và ứng trước không cần bảo đảm. Ứng trước có bảo đảm là loại tín
dụng được cấp phỏt trờn cơ sở có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của
bên thứ ba; ứng trước không bảo đảm là loại tín dụng được cấp không cần có
tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh mà chỉ dựa trên uy tín của khách hàng.
- Thấu chi: Với tên gọi khác là tín dụng hạn mức, là hình thức cấp tín

dụng ứng trước đặc biệt được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong
đó khách hàng được phép sử dụng dư nợ trong giới hạn và thời hạn nhất định.
Khác với tín dụng ứng trước, thấu chi mức tín dụng được thoả thuận chưa
phải là khoản tiền CTTC cho vay, chỉ khi nào khách hàng sử dụng mới được
coi là tín dụng được cấp và tính tiền lãi. Thấu chi được áp dụng đối với khách
hàng có uy tín, có lịch sử tài chính tốt và có khả năng tài chính lành mạnh.
- Chiết khấu thương phiếu: Là loại hoạt động tín dụng ngắn hạn, trong
đó người cung cấp sản phẩm hàng hoá dịch vụ lập ra các thương phiếu thể
hiện số hàng hoá, dịch vụ đã cung cấp và chuyển nhượng lại quyền sở hữu
thương phiếu cho CTTC để được thanh toán trước hạn số tiền bằng mệnh giá
của thương phiếu trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí, CTTC chịu trách
nhiệm thu tiền ở người mua hàng hoá, dịch vụ khi đến hạn.
* Nếu căn cứ vào đối tượng cho vay, hoạt động cho vay gồm:
- Cho vay theo ngành nghề kinh doanh: theo các ngành công nghiệp,
thương mại, dịch vụ, nông nghiệp, bất động sản
- Cho người tiêu dùng vay để mua vật dụng như xe hơi, các sản phẩm
hàng hoá có giá trị lớn và thời gian sử dụng dài như mua nhà, mua thẻ tín
dụng, trang trải các chi phí cá nhân
- Cho các TCTD khác vay
11
- Cho tập đoàn kinh tế và các công ty thành viên của tập đoàn kinh tế vay.
* Nếu căn cứ vào thời gian vay:
- Cho vay ngắn hạn: là các khoản cho vay dưới 1 năm
- Cho vay trung hạn: các khoản vay từ 1 năm đến 5 năm
- Cho vay dài hạn: là các khoản vay trên 5 năm
Hoạt động cho thuê tài sản
Là hình thức cho thuê tài sản để khách hàng sử dụng vào một mục đích
nhất định theo hợp đồng đã ký kết. Nếu trong hợp đồng có kèm theo cam kết
của người cho thuê sẽ bán lại tài sản này chậm nhất là khi kết thúc hợp đồng
cho người đi thuê theo giá thoả thuận trước thì gọi là thuê tài chính, nếu trong

hợp đồng không kèm theo điều kiện mua lại thì gọi là thuê hoạt động. Trong
nghiệp vụ đi thuê thường liên quan đến ba bên, bên thứ nhất là khách hàng
hay còn gọi là người thuờ, bờn thứ hai là nhà cung cấp tài sản thuê, và bên
thứ ba là CTTC còn gọi là người cho thuê.
- Thuê tài chính: Theo Uỷ ban Tiờu chuẩn Kế toán Quốc tế thỡ thuờ tài
chớnh có bốn tiêu chuẩn là quyền sở hữu tài sản được chuyển giao khi hết hạn
hợp đồng, hợp đồng có quy định quyền chọn mua, thời hạn hợp đồng bằng
phần lớn thời hạn hoạt động của tài sản và hiện giá tiền thuê lớn hơn hoặc gần
bằng giá trị tài sản. Có hai loại thuê tài chính là: Thuê tiêu dùng và thuê
doanh nghiệp
- Thuê hoạt động: Là một dàn xếp hợp đồng trong đó một bên chấp
nhận trả một khoản tiền thuê theo thoả thuận và được sử dụng tài sản thuộc sở
hữu bên kia. Sau thời gian thuê, khách hàng không phải mua tài sản này và
nếu cần thì có thể ký hợp đồng thuê tiếp theo.
Thuê hoạt động khác với thuê tài chính ở các điểm thời gian cho thuê
ngắn, mức vốn được thu hồi nhỏ hơn nhiều so với giá trị tài sản, người đi thuê
có thể được phép huỷ ngang hợp đồng và không có thoả thuận chuyển quyền
sở hữu hoặc bán lại tài sản trong hợp đồng thuê.
Bao thanh toán
Là hoạt động mua các yêu cầu chi trả của một doanh nghiệp nào đó,
nhận các khoản chi trả của các yêu cầu này, thông thường các yêu cầu chi trả
là ngắn hạn. Hoạt động này có ba bên tham gia là người mua nợ (CTTC), chủ
12
nợ (doanh nghiệp cung cấp hàng hoá, dịch vụ) và người mắc nợ (người mua
hàng hoá và dịch vụ). Người mua nợ thanh toán giá mua nhỏ hơn giá trị
khoản nợ cho chủ nợ (thông thường từ 80 đến 90%). Số tiền còn lại được trả
lại cho chủ nợ sau khi người mắc nợ hoàn tất việc trả nợ, sau khi đã trừ đi tiền
lai vay và phí hoa hồng. Người mắc nợ coi hợp đồng mua bán đã hoàn tất;
còn người mua nợ chịu trách nhiệm quản lý, theo dõi, thu hồi và chịu rủi ro về
các khoản chi trả của các yêu cầu chi trả đó. Bao thanh toán vừa là phương

thức thu nợ, vừa là kỹ thuật phòng tránh rủi ro và là một phương tiện để tài
trợ cho các hoạt động của khách hàng.
Bảo lãnh
Bảo lãnh chính là việc ngân hàng cam kết sẽ thanh toán cho bên thụ
hưởng của hợp đồng khoản đền bù trong phạm vi của số tiền được nêu rõ
trong giấy bảo lãnh nếu bên đối tác không thực hiện được trách nhiệm của
mình trong hợp đồng. Ngân hàng không bảo lãnh việc bên đối tác có thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng của mình cho bên thụ hưởng hay không mà chỉ đảm
bảo sự thanh toán trong phạm vi số tiền trong giấy bảo lãnh. Bảo lãnh ngân
hàng là sự đảm bảo cho bên thụ hưởng trong trường hợp nếu những hoạt động
được chỉ rõ trong hợp đồng không được thực hiện vì bất kỳ lí do nào thỡ bờn
thụ hưởng sẽ được quyền hưởng tiền đền bù.
Lợi ích của bảo lãnh:
• Giảm thiểu rủi ro.
•Khách hàng không phải thanh toán ngay cho bên đối tác vỡ đó cú bảo
lãnh của ngân hàng do đó có cơ hội trì hoãn việc thanh toán và làm tăng tài
sản lưu thông hiện có
Các hình thức của bảo lãnh bao gồm: Bảo lãnh dự thầu, Bảo lãnh bảo
hành, Bảo lãnh thực hiện hợp đồng, Bảo lãnh thanh toán, Bảo lãnh nhận hàng
1.2. Rủi ro tín dụng và hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của Công
ty Tài chính
1.2.1. Khái niệm và phân loại rủi ro tín dụng
1.2.1.1. Khái niệm
Rủi ro là hai từ không được mong đợi đối với tất cả các lĩnh vực trong
đời sống xã hội. Đã có rất nhiều học giả nghiên cứu về rủi ro, đưa ra những
13
khái niệm về nó như: "rủi ro là bất trắc gây ra mất mát, thiệt hại"; "rủi ro là sự
bất trắc cụ thể liên quan đến một hay nhiều biến cố không mong đợi"
Nhưng mọi quan điểm đều thống nhất và đưa ra một cách hiểu chung là: "rủi
ro là khả năng xảy ra các biến cố không lường trước, khi xảy ra sẽ làm cho

kết quả thực tế khác kết quả kỳ vọng theo kế hoạch". Rủi ro luôn xuất hiện bất
ngờ và đe dọa sự sống còn của DN, vì vậy để tồn tại và phát triển, các doanh
nghiệp không còn con đường nào khác là phải đương đầu với rủi ro, tiên liệu và
phán đoán các rủi ro có thể xảy ra để tìm biện pháp phòng ngừa, hạn chế nhằm
giảm thiểu thiệt hại do rủi ro gây ra.
RRTD là một trong những loại rủi ro lâu đời nhất và lớn nhất trong thị
trường tài chính, nó thường xuyên xảy ra và gây hậu quả nặng nề đối với hoạt
động của TCTD vỡ cỏc khoản cho vay thường chiếm quá nửa giá trị tổng TS
và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu của các TCTD. RRTD cũng là loại rủi ro
phức tạp nhất, quản lý và phòng ngừa khó khăn nhất. Nó đòi hỏi TCTD phải
có những giải pháp đồng bộ, hữu hiệu mới có thể hạn chế, ngăn ngừa và giảm
thiểu tối đa những thiệt hại có thể xảy ra.
Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của NHNN Việt
Nam thì “RRTD trong hoạt động ngân hàng của TCTD là khả năng xảy ra
tổn thất trong hoạt động ngân hàng của TCTD do KH không thực hiện hoặc
không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
Nếu coi tín dụng là việc "tin tưởng" đưa cho KH sử dụng giá trị hiện tại
với mong muốn nhận được giá trị tương lai trong một thời gian nhất định thì
RRTD chính là khả năng mong muốn đó không được đáp ứng hay nói cách
khác đó là khả năng xảy ra sự khác biệt không mong muốn giữa kết quả thực
tế và kết quả kỳ vọng theo kế hoạch - đúng hạn nhận được đầy đủ gốc và lãi.
Với mục tiêu là đúng hạn theo hợp đồng tín dụng nhận được đầy đủ
gốc và lãi như đó nờu ở trên, thì RRTD có thể được hiểu là những tổn thất
tiềm năng có thể xảy ra do các bên đối tác trong hợp đồng tín dụng không có
khả năng hoặc không có đủ năng lực thực hiện nghĩa vụ của họ một cách đầy
đủ hoặc đúng hạn theo cam kết.
14
1.2.1.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh, RRTD được phân chia thành các
loại sau:

Sơ đồ 1.1: Phân loại rủi ro tín dụng:
- Rủi ro giao dịch: là một hình thức của RRTD mà nguyên nhân phát
sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh
giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có 03 bộ phận chính là rủi ro lựa chọn, rủi ro
bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.
+ Rủi ro lựa chọn: là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân
tích tín dụng khi CTTC lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra
quyết định cho vay.
+ Rủi ro bảo đảm: phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều
khoản trong HĐTD, các loại TSBĐ, chủ thể bảo đảm, cách thức đảm bảo và
mức cho vay trên giá trị của TSBĐ.
+ Rủi ro nghiệp vụ: là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản
vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro
và kỹ thuật xử lý các khoản cho vay có vấn đề.
- Rủi ro danh mục: là một hình thức của RRTD mà nguyên nhân
phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của CTTC,
được phân chia thành 02 loại : rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.
Rủi ro
tín dụng
Rủi ro
tín dụng
Rủi ro
giao dịch
Rủi ro
giao dịch
Rủi ro
danh mục
Rủi ro
danh mục
Rủi ro

nội tại
Rủi ro
nội tại
Rủi ro
tập trung
Rủi ro
tập trung
Rủi ro
bảo đảm
Rủi ro
bảo đảm
Rủi ro
nghiệp vụ
Rủi ro
nghiệp vụ
Rủi ro
lựa chọn
Rủi ro
lựa chọn
15
+ Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, đặc điểm riờng cú mang tính
riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó
xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của KH.
+ Rủi ro tập trung: là rủi ro khi CTTC tập trung vốn cho vay quá
nhiều đối với một số KH, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong
cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định;
hoặc cùng một loại hình cho vay có độ rủi ro cao.
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản trị rủi ro tín dụng
tại Công ty Tài chính
Theo nghiên cứu của ngân hàng Standard Chartered, nguyên nhân chủ

yếu của các khoản nợ có vấn đề xuất phát từ (i) KH, (ii) TCTD và (iii) hoàn
cảnh khách quan. Trong đó nguyên nhân từ phía KH chiếm tỷ lệ cao nhất
khoảng từ 51-53%, kế tiếp là nguyên nhân từ phía TCTD chiếm khoảng 38-
39%, số còn lại là từ nguyên nhân hoàn cảnh khách quan.
1.2.2.1. Các yếu tố bên ngoài
a. Các yếu tố về môi trường kinh tế
Sự biến động của thị trường thế giới
Nền kinh tế VN là nền kinh tế mở, xu hướng hội nhập với kinh tế thế
giới và khu vực là một xu hướng tất yếu, do đó trước những biến động của thị
trường thế giới, nền kinh tế VN nói chung và thị trường tài chính VN nói
riêng sẽ không tránh khỏi bị ảnh hưởng, do đó hoạt động quản trị rủi ro tín
dụng của Công ty tài chính cũng bị ảnh hưởng.
Quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế
Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu
gia tăng khi nó tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến các KH của
CTTC phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của
thị trường. Bên cạnh đó, sự cạnh tranh của các CTTC trong nước và quốc tế,
hay sự cạnh tranh giữa các NHTM và CTTC cũng khiến cho các CTTC trong
nước gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi khả năng thu hỳt cỏc KH có
tiềm lực tài chính tốt của các NHTM hay các TCTD nước ngoài.
16
Quy hoạch, phân bổ tín dụng
Sự cạnh tranh tự phát, không có quy hoạch hợp lý , sự bất lực trong vai
trò của các hiệp hội ngành nghề đã dẫn đến sự gia tăng vốn đầu tư vào một số
ngành, dẫn đến khủng hoảng thừa. Trong cuộc khủng hoảng đó, chỉ có một số
DN có tiềm lực tốt mới có thể đứng vững, số còn lại chính là nợ xấu của các
CTTC.
b. Các yếu tố về môi trường pháp lý
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
Luật và các văn bản dưới luật của Việt Nam đang trong quá trình hoàn

thiện nên còn nhiều mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản. Điều này dẫn
đến các CTTC gặp nhiều khó khăn trong việc thực thi các quy định của Pháp
luật trong hoạt động tín dụng, đặc biệt là trong vấn đề xử lý rủi ro tín dụng do
thiếu các văn bản hướng dẫn chế độ chính sách cụ thể.
Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát của NHNN
Mô hình tổ chức của thanh tra NHNN còn nhiều bất cập, chưa hiệu quả,
hoạt động thanh tra giám sát thường chủ yếu được thực hiện tại chỗ, còn thụ
động theo kiểu xử lý những vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn và
phòng ngừa rủi ro. Vì thế có những sai phạm của các CTTC không được
thanh tra NHNN cảnh báo sớm, có biện pháp ngăn chặn cho đến khi xảy ra
hậu quả nặng nề.
Hệ thống thông tin quản lý
Hiện nay, kênh cung cấp thông tin về tình hình hoạt động tín dụng tốt
nhất ở VN hiện nay chính là Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC)
của NHNN. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của CIC vẫn còn nhiều hạn chế.
Thông tin thiếu cập nhật, cung cấp đơn điệu, chưa đáng tin cậy tuyệt đối.
Hạn chế trong khâu quản lý thông tin, cung cấp thông tin minh bạch sẽ
là thách thức cho hệ thống các CTTC trong việc mở rộng và kiểm soát tín
dụng. Nếu các TCTD nói chung và CTTC nói riêng cạnh tranh bằng cách cố
gắng tăng trưởng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin bất đối xứng
thì không tránh khỏi nguy cơ nợ xấu gia tăng.
17
1.2.2.2. Từ phía khách hàng vay
Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay
CTTC cấp tín dụng trên cơ sở phương án kinh doanh của KH. Tuy
nhiên, xuất phát từ thực tế là phương án kinh doanh của KH chỉ là kế hoạch,
việc thực hiện kế hoạch đó như thế nào, có đúng như dự kiến hay không phụ
thuộc vào ý chí chủ quan của khách hàng, không phụ thuộc vào ý chí của
CTTC. Về phía KH, có nhiều nguyên nhân tác động đến ý chí thực hiện
phương án kinh doanh của mình như các phương án kinh doanh khác lợi

nhuận cao hơn nhưng cũng đồng nghĩa với rủi ro cao hơn, đó là chưa kể đến
việc phương án kinh doanh mà khách hàng đưa ra chỉ là phương án “khống”.
Ngay cả khi KH thực hiện nghiêm túc phương án kinh doanh như được
đề xuất với CTTC thì thiện chí trả nợ của KH chưa chắc đã được đảm bảo. Có
thể thấy được việc này rất rõ khi nhìn lại thời điểm nửa cuối năm 2008 đến
nửa đầu năm 2009, khi lãi suất vay vốn được đẩy lên đến 21%/năm. Với mức
lãi suất cao như vậy, các KH sẽ muốn giữ lại nguồn thu để tiếp tục kinh doanh
thay vì trả nợ CTTC rồi sau đó vay lại với lãi suất cao hơn.
Tình hình tài chính yếu kém, thiếu minh bạch
Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ phải trả/vốn tự có cao là
đặc điểm chung của hầu hết các DN VN. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ,
chính xác, rõ ràng các số liệu trong sổ sách kế toán vẫn chưa được các DN
tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Trong khi đó, không phải hầu hết các
DN hiện nay đều có BCTC được kiểm toán, hay được kiểm toán bởi các công
ty có uy tín. Do vậy, số liệu mà các DN cung cấp cho CTTC nhiều khi chỉ
mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Việc phân tích tình hình tài chính
của DN vì vậy mà thường thiếu tính thực tế và xác thực, dẫn đến những sai
lầm trong việc nhận diện và phòng ngừa rủi ro nợ xấu.
1.2.2.3. Các yếu tố từ phía Công ty tài chính
Cụng tác kiểm tra nội bộ
Kiểm tra nội bộ được xem như hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng.
Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời điểm vỡ nú
18
nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của kiểm
tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc
kinh doanh.
Công tác kiểm tra nội bộ của các nếu chỉ tồn tại trên hình thức sẽ dẫn
đến việc CTTC không lường được hết tất cả RRTD mà mình đang gặp phải
để kịp thời có những biện pháp phòng ngừa kịp thời.
Đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ tín dụng

Đạo đức của cán bộ tín dụng (CBTD) là một trong các yếu tố tối quan
trọng để giải quyết vấn đề hạn chế RRTD. CBTD thiếu đạo đức sẽ che dấu
thông tin, dẫn đến việc CTTC cho vay KH trong trạng thái “thụng tin bất cân
xứng” và đây là một nguy cơ có thể dễ dàng dẫn đến nợ xấu cho CTTC.
Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ có thể thấy, phần lớn các CBTD đều
có chuyên môn về tài chính – ngân hàng, tuy nhiên, các phương án, dự án vay
vốn lại thuộc các ngành kinh tế khác, thậm chí là các ngành về kỹ thuõt –
công nghiệp. Điều này có thể dẫn đến việc CTTC cho vay trên cơ sở kết quả
thẩm định tín dụng còn sơ sài, chưa phản ánh được hết tình hình của khách
hàng từ đó dẫn đến việc cho vay thiếu sự cẩn trọng cần thiết.
Công tác giám sát và quản lý sau khi cho vay
Việc quản lý, giám sát sau cho vay nhằm đảm bảo CTTC luôn nắm
được thế chủ động trong mối quan hệ tín dụng với KH. Tuy nhiên, các CTTC
thường tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà lơi
lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát sau cho vay.
Việc theo dõi tình hình của khách hàng và tình hình triển khai phương án
sản xuất kinh doanh nhằm đảm bảo KH vay tuân thủ các điều khoản đề ra trong
HĐTD và cam kết giữa KH và CTTC, có như vậy mới đảm bảo được khả năng
trả nợ của KH và kịp thời có những biện pháp xử lý kịp thời khi có phát sinh các
sự kiện có nguy cơ ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ của CTTC.
Việc không thực hiện hoặc thực hiện sơ sài, chỉ mang tính hình thức
của công tác giám sát, quản lý sau cho vay sẽ dẫn đến việc CTTC không có
19
được thông tin đầy đủ, kịp thời về khách hàng, do đó không phát hiện được
các dấu hiệu cảnh báo rủi ro sớm để kịp thời có biện pháp xử lý, phòng ngừa.
Hệ thống công nghệ thông tin
Không kể đến các hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống khai – trao đổi
thông tin KH thì hệ thống phần mềm quản lý dữ liệu phổ biến và hiện đại nhất
hiện nay là Core Banking.
Tuy nhiên hiện chỉ có một số TCTD sử dụng Core Banking, con số này

đối với các CTTC càng bé nhỏ. Điều đó cho thấy tình trạng quản lý thông tin
thiếu hiệu quả hiện nay ở các TCTD nói chung và CTTC nói riêng.
Thiếu một hệ thống quản lý dữ liệu ngân hàng hiện đại, các CTTC phải
thực hiện báo cáo thủ công bằng cách yêu cầu các Chi nhánh, Phòng Giao
dịch thực hiện gửi báo cáo bằng văn bản cho Hội sở. Như vậy sẽ dẫn đến tình
trạng số liệu báo cáo không chính xác, từ đó các CTTC không nắm bắt được tình
hình tín dụng thực tế dẫn đến không có những biện pháp xử lý thích hợp, kịp
thời.
Sự hợp tác giữa các TCTD và CTTC, vai trò của Trung tâm thông
tin tín dụng ngân hàng
Một KH có thể có quan hệ vay vốn với nhiều TCTD khác nhau, do vậy
các TCTD và CTTC cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau để có được thông tin
về KH một cách đầy đủ, kịp thời nhất nhằm hạn chế RRTD.
Việc KH đến kỳ trả nợ tại một TCTD nhưng không thực hiện đầy đủ,
đúng hạn nghĩa vụ của mình với TCTD này là một dấu hiệu cảnh báo sớm về
RRTD đối với CTTC cùng cho vay đối với KH đó.
Đặc biệt là trước khi cấp tín dụng đối với một KH, việc KH này hiện
đang có dư nợ quá hạn tại TCTD nào khác là một thông tin tối quan trọng đối
với một CTTC để có thể đưa ra quyết định có hay không cấp tín dụng cho KH
một cách phù hợp.
Việc không có được thông tin về tình hình quan hệ của KH với các
TCTD khác sẽ đưa CTTC vào trạng thái cận kề với rủi ro cấp tín dụng đối với
những KH xấu, dẫn đến nguy cơ gia tăng rủi ro.
20
1.2.2.4. Hậu quả của rủi ro tín dụng
a. Đối với nền kinh tế
Hoạt động của các TCTD liên quan đến hoạt động của DN, các ngành
và các cá nhân, vì vậy một khi TCTD gặp phải RRTD hay bị phá sản thì
ngưới gửi tiền ở TCTD sẽ hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở
các TCTD khác, làm cho toàn bộ hệ thống gặp khó khăn. Một TCTD bị phá

sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình SXKD của DN, không có tiền trả lương dẫn
đến đời sống công nhân gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa sự hoảng loạn của các
TCTD ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền KT. Nó làm nền KT bị suy thoái,
giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Ngoài ra
RRTD RRTD cũng ảnh hưởng đến nền KT thế giới vì ngày nay nền KT mỗi
quốc gia đều phụ thuộc vào nền KT khu vực và thế giới. Kinh nghiệm cho
thấy cuộc khủng hoảng tài chính Châu á (1997) và mới đây là cuộc khủng
hoảng tài chính Nam Mỹ (2001 – 2002) đã làm rung chuyển toàn cầu. Mặt
khác mối quan hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các nước phát triển rất nhanh nên
RRTD tại một nước ảnh hưởng trực tiếp đến nền KT các nước có lien quan.
b. Đối với Tổ chức tín dụng
Rủi ro làm giảm uy tín các TCTD
Khi một TCTD có mức độ RR của các tài sản có là cao thì TCTD
đó thường đứng trước nguy cơ mất uy tín của mỡnh trờn thị trường.
Không một ai muốn gửi tiền vào một TCTD mà tổ chức đó có tỷ lệ nợ
quá hạn vượt qua mức cho phép, có chất lượng TD không tốt và gây
nhiều vụ thất thoat lớn. Thông tin về việc một TCTD có mức độ rủi ro
cao thường được báo chí nêu lên và lan truyền trong dân chúng, điều này
sẽ khiến cho việc huy động vốn gặp rất nhiều khó khăn.
Rủi ro làm ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của các TCTD
Hoạt động chủ yếu của các TCTD là nhận tiền gửi và cho vay, nếu
các khoản TD gặp RR thì việc thu hồi nợ vay sẽ gặp nhiều khó khăn
trong khi đó các khoản tiền gửi vẫn phải thanh toán đúng hạn. trong lúc
21
không huy động được vốn do mất uy tín, do người rút tiền ngày càng
tăng lên, kết quả là TCTD gặp khó khăn trong khâu thanh toán.
Rủi ro làm giảm lợi nhuận của TCTD
RRTD làm cho doanh thu thấp (do không thu được lãi vay), dẫn
đến lợi nhuận thấp, thậm chí là lỗ. Hơn nữa kể cả trường hợp không lỗ
thì RRTD cao dẫn đến phải tăng trích lập dự phòng RR khiến cho lợi

nhuận còn lại càng thấp, thậm chí là trích dự phòng hết cả phần lợi
nhuận trước thuế khiến cho phần lợi nhuận sau thuế bằng 0.
Rủi ro có thể làm các TCTD phá sản
Nếu RR xảy ra ở mức độ TCTD không có khả năng ứng phó thì sẽ
gây phản ứng dây chuyền trong dân chúng, dân chúng sẽ đổ xô đến rút
tiền gửi và TCTD không còn khả năng thanh toán sẽ đi đến phá sản.
1.2.3. Hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của Công ty Tài chính
Hoạt động tín dụng đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của
CTTC, chính vì vậy hầu hết các CTTC đã thiết lập nhiều biện pháp nhằm hạn
chế rủi ro tín dụng. Đây thực chất là một quá trình liên tục bắt đầu từ khâu
thẩm định đánh giá trước khi phê duyệt; trong khi phê duyệt khoản vay; giải
ngân; theo dõi khoản vay (bao gồm cả việc đưa ra các dấu hiệu cảnh báo sớm
về tình trạng của khách hàng), quản lý các khoản nợ có vấn đề cho đến khi
thu hồi vốn.
1.2.3.1. Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng
Quản trị rủi ro tín dụng là việc nhận dạng, đánh giá, giám sát và kiểm
soát các rủi ro tín dụng nhằm đảm bảo việc đưa ra các quyết định rủi ro là rõ
ràng và phù hợp với chiến lược và mục tiêu kinh doanh do Ban Điều hành
Công ty đề ra.
Mục tiêu của QTRRTD được hiểu không chỉ có nghĩa là giảm thiểu rủi
ro, đúng hơn mục tiêu QTRRTD là tối ưu hoá chi phí sử dụng để QTRR
nhưng vẫn đảm bảo các giới hạn rủi ro xác định. Hoạt động QTRRTD hiệu
quả khi hạn chế và phòng ngừa được rủi ro còn ở dạng “tiềm năng”. Tuy
nhiên, đặc trưng của rủi ro nói chung và RRTD nói riêng là bao gồm cả rủi ro
dự tính, rủi ro không dự tính cũng như rủi ro hữu hiệu, rủi ro tiềm tàng. Có sự
22
tồn tại của tổ chức đi kèm với rủi ro, thậm chí là “sống chung với rủi ro”. Vì
thể tổ chức phải luôn xác định rừ “cỏc thông số an toàn” và thực hiện các biện
pháp để duy trì các thông số đó. QTRRTD là phải xác định rừ cỏc giới hạn
chấp nhận RRTD của tổ chức và thực hiện các biện pháp nhằm đạt được các

mục tiêu đó nhưng với chi phí thấp nhất.
1.2.3.2. Kết cấu mô hình quản trị rủi ro tín dụng
a. Chính sách quản trị rủi ro tín dụng
Nhằm đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng, các
CTTC thiết lập chính sách QTRRTD đồng bộ nhằm đưa ra các quy tắc, chuẩn
mực trong hoạt động tín dụng của mình. Chính sách QTRRTD thường được
thiết lập dưới dạng các văn bản, quy trình, quy chế, quy định cấp tín dụng đối
với từng loại khách hàng, từng loại lĩnh vực ngành nghề, từng loại mục đích
sử dụng vốn khác nhau. Các quy định này đảm bảo hoạt động tín dụng luôn
nằm trong khuân khổ cho phép, đảm bảo không vượt quá ngưỡng giới hạn
chịu rủi ro của CTTC.
Ngoài ra, chính sách QTRRTD còn vạch ra phương hướng hoạt động
và một khung tham chiếu rõ ràng để làm căn cứ xem xét các nhu cầu vay vốn.
Điều này tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi
ro và nâng cao khả năng sinh lời của CTTC.
b. Bộ máy quản trị rủi ro tín dụng
Tùy đặc điểm hoạt động, các CTTC xây dựng bộ máy QTRRTD phù
hợp nhằm đảm bảo có đầy đủ nhân sự đối với các hoạt động QTRRTD ở các
cấp khác nhau và các phạm vi, mức độ khác nhau. Điều này đảm bảo hoạt
động QTRRTD được thực hiện quy củ, toàn diện.
c. Công cụ quản trị rủi ro tín dụng
Việc áp dụng các công cụ QTRRTD là không thể thiếu trong hoạt động
QTRRTD tại các CTTC. Tùy từng mức độ phát triển của hoạt động
QTRRTD, mỗi CTTC áp dụng các công cụ QTRRTD khác nhau như:
Phân loại và đánh giá khách hàng
Thông tin bất cân xứng dẫn đến sự lựa chọn đối nghịch, do vậy các
CTTC (người không có thông tin) sẽ sử dụng cơ chế sàng lọc (screening) nhằm

×