Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

chuyển dịch cơ cấu ngành kt ở VN giai đoạn 2000 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.89 KB, 25 trang )

ĐÁNH GIÁ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2001 - 2010
I. TỔNG QUAN VỀ CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ
CẤU NGÀNH KINH TẾ.
1. Các lý thuyết chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
1.1. Cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế là tổng hợp các ngành kinh tế và mối quan hệ tỷ lệ giữa
các ngành thể hiện ở vị trí và tỷ trọng của mỗi ngành trong tổng thể nền kinh tế. Cơ
cấu ngành phản ánh phần nào trình độ phân công lao động xã hội chung của nền
kinh tế và trình độ phát triển chung của lực lượng sản xuất. Thay đổi mạnh mẽ cơ
cấu ngành là nét đặc trưng của các nước đang phát triển.
Khi phân tích cơ cấu ngành của một quốc gia, người ta thường phân tích theo
3 nhóm ngành chính:




Ngành nơng nghiệp. Trong đó ngành nông nghiệp lại bao gồm 3 ngành nhỏ là:
nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp.
Ngành công nghiệp, bao gồm: ngành công nghiệp và xây dựng.
Ngành dịch vụ bao gồm: ngành thương mại , bưu điện và du lịch…
Nhưng theo tính chất mối quan hệ kinh tế với nước ngồi thì cơ cấu ngành
cịn được dựa theo cơ cấu ngành đóng , cơ cấu ngành hướng ngoại,cơ cấu mở hỗn
hợp:








Cơ cấu ngành đóng (hay cịn gọi là cơ cấu hướng nội): được tổ chức dựa trên cơ
cấu tiêu dùng của dân cư. Nhược điểm của cơ cấu này là nền kinh tế khơng có tính
cạnh tranh quốc tế, khơng tranh thủ được sự giúp đỡ của quốc tế.
Cơ cấu hướng ngoại: là hướng tổ chức ngành kinh tế trong nước theo những dấu
hiệu quốc tế về giá cả, câú thị trường quốc tế, nghĩa là cá nhân người sản xuất và
người tiêu dung đều hướng ra thị trường quốc tế. Nhược điểm của cơ cấu này là
nền kinh tế phụ thuộc vào sự biến động của quốc tế, hạ thấp đồng tiền trong nước.
Cơ cấu mở hỗn hợp: Vừa chấp nhận giao lưu thương mại quốc tế vừa không phân
biệt thị trường , nghĩa là coi trọng cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế .
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế: là quá trình chuyển cơ cấu ngành kinh tế
từ dạng này sang dạng khác phù hợp với sự phát triển của phân công lao động xã
hội và phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, phát triển khoa học- công
nghệ. Đây không phải đơn thuần là sự thay đổi vị trí, mà là sự thay đổi cả về lượng


và chất trong nội bộ cơ cấu ngành. Việc chuyển dịch cơ cấu này phải dựa trên cơ sở
một cơ cấu hiện có, do đó nội dung của chuyển dịch cơ cấu ngành là cải tạo cơ cấu
cũ lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến hoàn thiện và phù
hợp hơn.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là nội dung quan trọng nhất và là mục tiêu
chủ yếu của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đối với các nước đang phát
triển. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ngày càng hiện đại hơn từ một
nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công - nông nghiệp, rồi lại đến xã hội tiêu
dùng cao (dịch vụ) , phát triển kinh tế tri thức cũng là nội dung cơ bản, thể hiện
mục tiêu của quá trình công nghiệp hóa đất nước. Ngược lại chuyển dịch cơ cấu
ngành linh hoạt phù hợp với điều kiện bên trong , bên ngoài và các lợi thế tương
đối của nền kinh tế sẽ tạo nên tính chất bền vững , hiệu quả của quá trình tăng
trưởng, kết quả đó có tác dụng củng cố thành quả của công nghiệp hóa và tiếp theo
tác dụng đến các mục tiêu khác của công nghiệp hóa như mục tiêu về xã hội, môi

trường.
2. Các xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Cơ cấu kinh tế luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp
thành cơ cấu kinh tế không cố định. Cấu tạo của cơ cấu kinh tế bao gồm cơ cấu
ngành kinh tế, cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế. Trong đó cơ cấu ngành
là quan trọng nhất, sự chuyển dịch của cơ cấu ngành quyết định đến sự dịch chuyển
của cơ cấu kinh tế. Ta biết rằng cơ cấu ngành là khái niệm mang tính chất " động"
do dựa vào phân công lao động xã hội, sự phát triển của khoa học kĩ thuật. Mà
chúng lại là những yếu tố không cố định do đó cơ cấu ngành là khái niệm mang
tính chất động. do đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng cần phải có sự chuyển dịch
sao cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Theo kinh nghiệp của các nước
đi trước và căn cứ vào các quy luật phát triển kinh tế xã hội. Ngày nay, có một số
xu hướng thay đổi kinh tế rõ ràng trong quá trình phát triển sau.
2.1. Trong quá trình phát triển, tỷ trọng nông nghiệp ngày càng giảm đi , tỷ trọng
công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên . Tỷ trọng ngành dịch vụ ngày càng lấn
át trong cơ cấu ngành kinh tế do tốc độ tăng của ngành dịch vụ có xu hướng ngày
càng nhanh hơn tốc độ phát triển ngành công nghiệp. Đây là xu hướng rõ nhất
trong quá trình chuyển dịch của các nước đang phát triển.
A Fisher cho rằng tỷ lệ nông nghiệp có thể giảm từ 80% đối với các nước
chậm phát triển nhất xuống còn 11-12% ở các nước công nghiệp phát triển và trong
những điều kiện đặc biệt có thể xuống tới 5% , thậm chí 2%. Cùng với quá trình
giảm tỷ trọng nông nghiệp trong thu nhập thì thu nhập của công nghiệp ngày càng
chiếm ưu thế trong cơ cấu kinh tế và nền kinh tế phát triển thì ngành dịch vụ ngày


càng tỏ ra giữ ưu thế chi phối trong sự đóng góp vào tổng thu nhập nền kinh tế. Ví
dụ theo dõi bảng sau:
Bảng 1: Cơ cấu ngành kinh tế theo mức độ thu nhập năm (%)
Các mức thu nhập
Toàn thế giới

Thu nhập cao
Thu nhập trung bình
cao
Thu nhập trung bình
Thu nhập thấp

Nông nghiệp
3
2

Công nghiệp
28
26

Dịch vụ
69
72

5

31

64

13
25

41
28


46
48

Nguồn: theo WB, báo cáo phát triển.
Tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế của các nước có mức thu nhập
trung bình (kể cả trung bình cao và trung bình) rất cao, thể hiện quá trình các nước
này chạy theo chiến lược tăng tốc để tạo ra sự sắc khởi nhanh cho nền kinh tế, để
chuẩn bị tư thế cho một xã hội tiêu dùng cao. Các nền kinh tế thu nhập cao , với cơ
cấu dịch vụ - công nghiệp, tỷ trọng nông nghiệp rất nhỏ. Nhiểu nước đang phát
triển nhất là các nước đã thành công trong chiến lược đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng
và đạt được những thành tựu vừng chắc trong quá trình phát triển kinh tế, điển hình
như các nước Đông Nam Á kể cả Trung quốc và Việt Nam là do chính phủ đã thực
hiện các chính sách nhằm hướng nền kinh tế chuyển dịch theo xu thế này.
Trong quá trình phát triển xu hướng trên cũng thể hiện ở cơ cấu lao động và
nó có ý nghĩa khá quan trọng. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động có tác dụng thúc đẩy
hiệu quả và năng suất từng ngành và trong toàn nền kinh tế. Các nước có thu nhập
trung bình cao và trung bình thấp có tỷ lệ lao động chiếm giữ trong công nghiệp
cao nhất, thể hiện quan điểm hướng tới một xã hội có nền công nghiệp hiện đại và
đang triển khai quá trình tăng trưởng nhanh. Các nước có mức thu nhập cao tỷ lệ
lao động ngành dịch vụ trên 50% phản ánh một xã hội tiêu dùng cao.
2.2. Trong quá trình phát triển, tỷ trọng các ngành sản xuất sản phẩm nhiều lao
động giảm, tỷ trọng các ngành sản xuất sản phẩm có dung lượng vốn cao chiểm
ngày càng lớn và tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn.
Cùng với quá trình phát triển , các nguồn lực tự nhiên, đất đai và lao động
trong xã hội sẽ giảm dần và trở nên ngày một đắt đỏ hơn nên sản lượng thực tế
ngày càng gần với mức sản lượng tiềm năng mà mỗi quốc gia có thể có được. Đi
đôi với nó và một xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển là việc tăng cường
hoạt động đầu tư, nghiên cứu, triển khai, phát triển khoa học công nghệ,.... tạo ra
hiệu quả kinh tế cao hơn từ nguồn nguyên liệu ban đầu bằng cách hoàn thiện quá



trình chế biến sản phẩm. Vì vậy, xu hướng chung của quá trình chuyển dịch cơ cấu
là sự giảm dần các sản phẩm dựa trên lợi thế tài nguyên và lao động, tăng dần tỷ
trọng các hàng hóa vốn cao, các hàng hóa cao cấp, chất lượng cao trải qua nhiều
công đoạn chế biến tinh vi. Điều này thể hiện không chỉ trong ngành công nghệ cao
với sự gia tăng tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến, ngành công nghiệp chế biến
công nghệ cao mà cả trong xu hướng chuyển dịch của ngành dịch vụ. Đối với
ngành dịch vụ, đó là sự phát triển mạnh của các ngành tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm, luật, giáo dục, y tế và du lịch. Tất cả các dịch vụ này đi theo chiều hướng
cung cấp hàng hóa chất lượng cao.
2.3. Xu thế " mở" trong cơ cấu ngành kinh tế.
Các ngành kinh tế kém phát triển thường tồn tại cơ cấu kinh tế dạng "đóng".
Vì vậy cơ cấu sản xuất thường trùng với cơ cấu tiêu dùng cả về quy mô và chủng
loại sản phẩm hàng hóa. Dạng cơ cấu đóng ngày càng trở nên không phù hợp cả về
tính hiệu quả lẫn xu thế phát triển của nền kinh tế toàn cầu. Cơ cấu mở là dạng phù
hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường, hội nhập và hợp tác quốc tế cũng như khu
vực và là xu hướng hiệu quả nhất cho việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế của
các nước đang phát triển.
Đặc trưng nổi bật của dạng này là cơ cấu sản xuất với cơ cấu tiêu dùng trong
nước. Theo đó cho phép các nước có điều kiện lựa chọn được một cơ cấu ngành sản
xuất có hiệu quả nhất. Dấu hiệu để tổ chức các ngành kinh tế này là dựa trên các
yếu tố có lợi thế của đất nước (có thể là lợi thế tuyệt đối, lợi thế so sánh hay lợi thế
theo giá và nguồn lực) và những đặc trưng của thị trường quốc tế như giá cả hàng
hóa, nhu cầu và chất lượng sản phẩm quốc tế. Cơ cấu mở còn giúp các nước tiêu
dùng hàng hóa (cả về quy mô và chủng loại), kể cả các hàng hóa không có khả
năng sản xuất hoặc sản xuất trong nước thiếu hiệu quả, thông qua con đường nhập
khẩu hoặc trao đổi hai chiều.
3. Các tiêu chí và chỉ tiêu đánh giá chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành.
3.1. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trong quá trình mở rộng quy mô của nền kinh tế, do tốc độ tăng trưởng của

các bộ phận cấu thành nền kinh tế không giống nhau, dẫn đến các mối quan hệ về
số lượng và chất lượng giữa chúng thay đổi, tức cơ cấu kinh tế biến đổi. Sự biến
đổi của cơ cấu kinh tế là một quá trình thường xuyên , liên tục và thường diễn ra
với tốc độ tương đối chậm chạp theo thời gian. Có nhiều phương pháp đánh giá
trình độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế song phương pháp vector là phương pháp được
sự dụng phổ biến hơn cả.
3.2. Hiệu quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế.


Sự ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội là yêu cầu trước hết để các nhà kinh
doanh yên tâm bỏ vốn đầu tư, có thể dự kiến và thực thi những dự án đầu tư dài
hạn, giảm bớt rủi ro trong quá trình đầu tư. Sự ổn định về kinh tế liên quan đặc biệt
đến sự ổn định của tiền tệ, sự đúng đắn của các định hướng chiến lược phát triển
dài hạn đất nước.
Môi trường đầu tư được hệ thống pháp luật và chính sách của nhà nước đảm
bảo. Hệ thống luật pháp, trước hết là luật đầu tư công bằng, hợp lý và được đảm
bảo thực thi trong thực tiễn đối với mọi thành phần kinh tế, tạo dựng một nền kinh
tế thị trường, với những quy luật vốn có phát huy tác dụng tích cực của cơ chế thị
trường. Nhờ đó, các nguồn vốn đầu tư được huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu
quả.
3.3. Tính hợp lý của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tính hợp lý của một cơ cấu kinh tế thực chất là sự chuyển dịch cơ cấu sản
lượng đầu ra. Sự chuyển dịch đó phụ thuộc vào hai yếu tố: năng suất lao động và
quy mô sử dụng các yếu tố đầu vào như vốn, lao động, tài nguyên và khoa học
công nghệ.
Việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Vì tăng
trưởng kinh tế và biến đổi cơ cấu kinh tế là hai mặt của phát triển kinh tế. Giữa
chúng có mối quan hệ qua lại như mối quan hệ lượng và chất. Cơ cấu kinh tế hợp
lý thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cần thiết để hoàn
thiện hơn nữa cơ cấu kinh tế trong tương lai.

3.4. Tính bền vững trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.




Về mặt xã hợi: Các chỉ số xã hội là thước đo mục tiêu cuối cùng của sự phát triển,
nó được thể hiện trên các khía cạnh: mức độ đảm bảo các nhu cầu của con người,
mức độ nghèo đói và bất bình đẳng về kinh tế cũng như xã hội. Các nghiên cứu
kinh tế phát triển cho rằng vấn đề đảm bảo xã hội và tăng trưởng kinh tế không
phải luôn vận động đồng biến với nhau, nó phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh
tế, hướng đi của mỗi nước trong quá trình thực hiện mục tiêu phát triển và quan
trọng hơn là chính sách phân phối thu nhập cũng như sự quan tâm đối với người
nghèo và tầng lớp dễ bị tổn thương trong xã hội của nhà nước.
Về môi trường: Việc khai thác sử dụng tài nguyên thiên nhiên luôn gắn bó hữu cơ
với bảo vệ môi trường sinh thái. Vì thế, cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật,
chính sách khai thác sử dụng tài nguyên thiên nhiên và tổ chức thực thi có hiệu lực
các pháp luật đã ban hành. Một mặt sử dụng các biện pháp sinh học để tái tạo, nâng
cao độ phì nhiêu của đất đai, duy trì và phát triển các loài thực vật, động vật đảm
bảo sự ổn định và cân bằng hệ sinh thái. Mặt khác sử dụng các thành tựu khoa học,
công nghệ tiên tiến để khắc phục tình trạng ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn




nước, xử lý các chất thải rắn, sử dụng các loại thiết bị lọc bụi, giảm thanh, chống
bức xạ, phóng xạ.
Tăng trưởng ổn định: Bản chất của tăng trưởng là sự phản ánh thay đổi về lượng
của nền kinh tế. Ngày nay, yêu cầu tăng trưởng kinh tế được gắn với tình bền vững
hay việc đảm bảo chất lượng tăng trưởng ngày càng cao. Theo khía cạnh này, điều
được nhận mạnh nhiều hơn là sự gia tăng liên tục, có hiệu quả của chỉ tiêu quy mô

và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người. Hơn thế nữa, quá trình ấy phải được
tạo nên bởi nhân tố đóng vai trò quyết định là khoa học, công nghệ và vốn nhân lực
trong một cơ cấu kinh tế hợp lý.
4. Các yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế chịu sự tác động của nhiều nhân tố, do đó việc
phân tích các nhân tố này sẽ cho phép tìm ra một cơ cấu ngành hợp lý. Cả 2 nhóm
nhân tố chính ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngàng kinh tế:
4.1

Nhóm nhân tố địa lý tự nhiên: Vị trí địa lý, khí hậu, đất đai tài nguyên.

Các nhân tố này có ảnh hưởng lớn đến q trình chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế . Bởi vì nguyên tắc của chuyển cơ cấu ngành kinh tế là phải tạo ra được cơ
cấu kinh tế hợp lý trên cơ sở sử dụng đươc hiệu quả mọi lợi thế so sánh. Với mỗi
đặc điểm khác nhau về vị trí địa lý, khí hậu, đất đai, tài ngun thì sẽ có một cách
lựa trọn cơ cấu ngành kinh tế khác nhau.
4.2








Nhóm nhân tố kinh tế - xã hội

Dân số và nguồn lao động : Nhân tố này tác động không nhỏ tới quá trình chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế. Với đặc điểm dân số đông, nguồn lao động dồi dào, cho
nên trong quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tranh thủ lợi thế nguồn lao

động dồi dào, nguồn lao động rẻ để phát triển những ngành thu hút nhiều lao động,
vốn đầu tư
Nhân tố truyền thống lịch sử: Việc phát huy những ngành nghề tiểu thủ công
nghiệp truyền thống cũng ảnh hưởng khơng nhỏ đến q trình chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế. Điêù này không chỉ tạo ra những sản phẩm truyền thống xuất khẩu
mà còn tạo điệu kiện các ngành dịch vụ du lịch
Nhân tố thị thường:Thị trường đặc biệt là cầu và cạnh tranh trên thị trường trong và
ngồi nước là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đầu tiên tới cơ cấu ngành
kinh tế .Chính cầu mà cơ cấu và xu thế vận động của chúng ta đặt ra những mục
tiêu cần vươn lên để thoả mãn, là cơ sở để đảm bảo tính thực thi và và hiệu quả của
phương án chuyển dịch cơ ấu ngành kinh tế.
Nhân tố khoa học công nghệ: Tác động của khoa học cơng nghệ có ảnh hưởng
nhiều mặt đến cơ cấu ngành của nền kinh tế .ở nước ta ,yếu tố này đã thúc đẩy sự ra
đời và thúc đẩy một số ngành như dầu khí , điện tử…làm thay đổi quy mô tốc độ
phát triển của cac ngành chế biến, dịch vụ.






1.

Nhân tố chính trị: Sự ổn dịnh về chính trị cũng là cơ sở thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu ngành theo hướng CNH-HĐH. ở nước ta do có sự lãnh đạo của đảng
,do đường lối phát xã hội đúng đắn ,vì vậy sau 10 năm đổi mới nước ta đã thu được
nhiều thành tựu to lớn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Nhân tố chính sách: Những định hướng chiến lược và vai trò quản lý vĩ mơ của
nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc hình thành cơ cấu ngành .Nếu ta
phó mặc cho sự tác động của thị trường thì sự hình thành cơ cấu ngành mong muốn

sẽ rất chậm,nếu là những ngành khơng vì mục đích lí luận hoặc tỷ suất lợi nhuạn
thấp .Ngược lại nếu nhà nước can htiệp quá sâu vào quá trình thực hiện sẽ dẫn tới
việc hình thành cơ cấu ngành kém hiệu quả.
II.
THỰC TRẠNG CHUYỂN DICH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ CỦA
VIỆT NAM TỪ NĂM 2001 TỚI NAY
Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành theo thu nhập
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố đã
được Đảng và Nhà nước ta xác định là con đường tất yếu để Việt Nam nhanh thốt
khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển, trở thành một quốc gia văn minh, hiện đại.
Nội dung cơ bản của chuyển dich cơ cấu kinh tế của nước ta theo hướng cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là tăng tỉ trọng trong GDP của ngành công
nghiệp và dịch vụ, đồng thời giảm dần tỉ trọng trong GDP của ngành nông nghiệp.
Thực hiện định hướng cơ bản trên đây của Đảng và Nhà nước về chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, sau hơn 20 năm đổi mới,
chúng ta đã đạt được những kết quả nhất định.

Cơ cấu GDP theo ngành của Việt Nam giai đoạn 2000-2013. Đơn vị %
Nông, lâm,
Công nghiệp
Năm
Tổng số
Dịch vụ
thủy sản
và xây dựng
2000
100
24,5
36,7
38,8

2001
100
23,3
38,1
38,6
2002
100
23,0
38,5
38,5
2003
100
22,5
39,5
38,0
2004
100
21,8
40,2
38,0
2005
100
20,9
41,0
38,1
2006
100
20,4
41,5
38,1

2007
100
20,3
41,6
38,1
2008
100
22,0
39,9
38,1
2009
100
20,9
40,2
38,9


2010
2011
2012
2013

100
100
100
100

20,6
22,1
19,7

18,4

41,1
40,2
38,6
38,3

38,3
37,7
41,7
43,3

Tỷ trọng ngành nơng, lâm, ngư nghiệp có xu hướng giảm dần từ 24,5% năm
2000 giảm 6,1% xuống còn 18,4% năm 2013.Tỷ trọng các ngành công nghiệp, xây
dựng và dịch vụ thay đổi tăng giảm nhưng nhìn chung vẫn chiếm tỷ trọng khá cao.
Ngành công nghiệp và xây dựng tăng 1,6% từ năm 2000 (36,7%) so với năm 2013
(38,3%). Ngành dịch vụ có xu hướng tăng dần từ 38,8% năm 2000 lên 43,3% năm
2013, tăng 4,5%.
Cơ cấu kinh tế đang thay đổi theo hướng tích cực, tỷ trọng ngành nơng, lâm,
ngư nghiệp giảm, tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng, tỷ trọng
ngành dịch vụ luôn giữ ở mức cao. Đây là xu hướng chuyển dịch tích cực theo
hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng
tiền lực của nền kinh tế nhất là tiềm lực công nghiệp và kết cấu hạ tầng.
Công nghiệp: Vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, vừa đi
nhanh vào một số ngành lĩnh vực có cơng nghệ hiện đại, cơng nghệ cao. Phát triển
mạnh công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản, may mặc….Xây dựng có chọn lọc
một số cơ sở cơng nghiệp nặng quan trọng. Sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để
trang bị cho các ngành kinh tế và quốc phịng, khai thác có hiệu quả các nguồn tài
ngun thiên nhiên.
Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ, thương mại, kể

cả thương mại điện tử, các loại hình vận tải, bưu chính – viễn thơng, du lịch, tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm….
Mức độ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo thu nhập
Năm
2000
2005
2010
2013
Góc phi (độ)
0
5,38
5,6
7,2
Chuyển dich cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam đang đi đúng hướng song q
trình chuyển dịch vẫn cịn diễn ra chậm.
Cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch tích cực theo hướng mở cửa, hội nhập vào kinh tế
thế giới, thể hiện ở tỷ lệ xuất khẩu/GDP ngày càng tăng
Năm
2000
2005
2010
2013
Tỉ lệ xuất
khẩu/GDP
46,4
61,3
69,3
75,1
(%)
Nhiều sản phẩm của Việt Nam như gạo, cao su, may mặc, giày dép, hải sản,

… đã có sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Việt Nam có tiềm năng xuất
khẩu lớn các loại hạt, dầu, đồ gỗ nội ngoại thất, than đá, giày dép, sản phẩm thủ






2.

cơng mỹ nghệ, thủy hải sản, cao su, đóng tàu, thủy tinh, cà phê, máy móc nơng
nghiệp, hạt tiêu, đồ gia dụng, đồ chơi, trò chơi và hàng may mặc. Ngược lại, tiềm
năng xuất khẩu có vẻ giới hạn đối với sản phẩm sữa, sản phẩm từ sợi đay, rau quả,
gạo, hoa tươi cắt cuống, ô tô, xe máy và hàng dệt gia dụng.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
còn nhiều hạn chế so với yêu cầu phát triển, thể hiện trong những điểm sau:
Tốc độ chuyển dịch cịn chậm. Tính đến nay, tỉ trọng ngành nơng nghiệp trong
GDP cịn cao, xếp thứ 3/9 nước khu vực Đông Nam Á, thứ 10/37 nước và vùng
lãnh thổ của Châu Á và thứ 40/164 nước và lãnh thổ trên thế giới. Tỷ trọng công
nghiệp trong GDP trong quan hệ so sánh với các nước và vũng lãnh thổ tương ứng
có thứ hạng là 5/9, 15/37 và 30/164
Cơ cấu nội bộ ngành còn nhiều bất hợp lý, tỷ trọng ngành nơng nghiệp có xu hướng
tăng lên từ 71,46% năm 2005 lên 75,86% năm 2010 thì ngành lâm nghiệp và ngư
nghiệp có xu hướng giảm xuống. Ngành lâm nghiệp giảm từ 3,70% năm 2005
xuống 2,63% năm 2010, tỷ trọng ngành ngư nghiệp không ổn định và có xu hướng
giảm từ 24,84% năm 2005 xuống cịn 21,51% năm 2010 qua đó cho thấy cơ cấu
nội bộ ngành nơng nghiệp đang có sự bất hợp lý.
Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành theo cơ cấu lao động
Bên cạnh cơ cấu thu nhập, cơ cấu lao động cũng là một tiêu chí đánh giá
quan trọng của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Trong giai đoạn từ năm 2001 đến

nay, cơ cấu lao động của nước ta đã có những bước chuyển biến khơng ngừng để
phù hợp với năng lực sản xuất mới cũng như đáp ứng nhu cầu đổi mới và phát triển
của nền kinh tế đất nước.

Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013

Cơ cấu lao động theo ngành của Việt Nam giai đoạn 2001-2013. đơn vị %
Nông,
lâm, Công nghiệp
Tổng số
Dịch vụ
thủy sản
và xây dựng
100
63.5
13.1
22.4

100
61.9
15.4
22.7
100
60.2
16.5
23.3
100
58.7
17.3
24.0
100
57.1
18.2
24.4
100
55.4
19.3
25.3
100
53.9
19.9
26.2
100
52.6
20.8
26.6
100
51.9

21.4
26.7
100
48.2
22.4
29.4
100
48
22,4
29.6
100
47.5
21.1
31.4
100
46.9
21.1
32.0


Nguồn: Tổng Cục Thống Kê (GSO).
Tỷ trọng lao động ngành nơng, lâm, ngư nghiệp có xu hướng giảm dần từ
63.5% năm 2001 giảm xuống còn 49.6% năm 2013, tuy nhiên tỷ trọng này vẫn còn
khá lớn so với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới, chứng tỏ trình độ kĩ
thuật và năng suất lao động của lao động nước ta chưa cao. Tỷ trọng các ngành
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ nhìn chung đều tăng qua các năm nhưng với tốc
độ không nhanh. Ngành công nghiệp và xây dựng tăng 8% từ năm 2001 (13.1%) so
với năm 2013 (21.1%). Ngành dịch vụ tăng nhanh hơn từ 22,4% năm 2001 lên 32%
năm 2013, tăng 9.6%.
Có thể thấy, cơ cấu lao động cũng đang thay đổi theo hướng tích cực, tỷ

trọng ngành nơng, lâm, ngư nghiệp giảm, tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng và
dịch vụ tăng. Tuy nhiên để đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động ta cần
xem xét về mức độ dịch chuyển như thế nào.
Mức độ chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế.
Năm
Góc phi (độ)

2001
0

2005
6.4

2010
15.6

2013
17.1

Chuyển dich cơ cấu lao động theo ngành kinh tế của Việt Nam đang đi đúng
hướng song q trình chuyển dịch vẫn cịn diễn ra chậm.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong quý I/2014, cơ cấu lao động ở
nước ta đã có sự chuyển dịch đáng chú ý:
Số lao động đang làm việc ở nhóm ngành nơng - lâm nghiệp - thủy sản so
với cùng kỳ 2013 đã tăng từ hơn 24,289 triệu người lên hơn 24,868 triệu người, hay
tăng 2,39% nên tỷ trọng của nhóm ngành này trong tổng số các nhóm ngành đã
tăng từ 46,8% lên 47,1%. Số lao động đang làm việc ở nhóm ngành cơng nghiệp xây dựng đã giảm từ hơn 11 triệu người, xuống còn 10,982 triệu người, giảm
0,19% nên tỷ trọng của nhóm ngành này trong tổng số đã giảm từ 21,2% xuống còn
20,8%. Số lao động đang làm việc ở nhóm ngành dịch vụ đã tăng từ 16,608 triệu
người lên gần 17 triệu người, tăng 2,05% nên tỷ trọng của nhóm ngành này trong

tổng số đã tăng từ 32% lên 32,1%.
Những con số chuyển dịch tỷ trọng lao động trong các nhóm ngành cho thấy
xu hướng khơng tích cực, bởi năng suất lao động trong nhóm ngành cơng nghiệp xây dựng cao gấp 1,34 lần nhóm ngành dịch vụ và cao gấp 4,63 lần nhóm ngành
nông - lâm nghiệp - thủy sản.


Vì vậy, việc đưa vốn về khu vực nơng thơn, để vừa đẩy mạnh chế biến, làm
tăng giá trị nông, lâm-thủy sản, vừa rút bớt lao động sang làm công nghiệp, dịch
vụ, đồng thời đơ thị hóa theo phương thức “ly nông bất ly hương” là điều cần thiết.
Bên cạnh đó, để nâng cao năng suất lao động, một trong những nội dung
quan trọng là tăng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo. Theo ước tính của Tổng cục
Thống kê, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc đã qua đào tạo đạt 18,3%,
cao hơn tỷ lệ 17,9% của năm 2013. Tuy nhiên, đó vẫn là tỷ lệ thấp, sẽ khó thực
hiện được mục tiêu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại.
Cũng theo ước tính của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ thất nghiệp của lao động
trong độ tuổi quý I năm nay là 2,18%, trong đó khu vực thành thị là 3,75%. Các tỷ
lệ này đều thấp hơn các tỷ lệ tương ứng của cùng kỳ năm trước (2,27% và 3,8%).
Trong khi đó, tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi ở khu vực nông thôn
quý I năm nay là 3,44%, tương đương với mức của cùng kỳ năm trước.
3.

Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành theo vốn đầu tư
Kinh nghiệm cũng như thực tế cho thấy nếu có chính sách đầu tư hợp lý sẽ
tạo đà cho việc phát triển nền kinh tế. Chính sách đầu tư bao gồm cả việc tạo nguồn
vốn và sử dụng nguồn vốn.Tỷ trọng phân bổ đầu tư vào các ngành khác nhau sẽ
mang lại hiệu quả khác nhau.Vốn đầu tư cũng như tỷ trọng vốn vốn đầu tư của các
ngành có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển các ngành trong toàn bộ nề kinh tế.
Cơ cấu vốn đầu tư theo ngành giai đoạn 2005-2013 (%)
2000

Tổng nguồn
vốn
Ngành nông
nghiệp
Ngành công
nghiệp
Dịch vụ

2005

2008

2009

2010

2011

2012

2013

100

100

100

100


100

100

100

100

13.8

7.5

6.4

6.3

6.2

6

5.3

5.6

39.3

42.6

41.5


40.6

40.2

40.4

41.5

41.8

46.9

49.9

52.1

53.1

53.6

53.6

53.2

52.6

Nguồn: Tổng Cục Thống Kê (GSO).
Qua bảng trên ta thấy cơ cấu vốn đầu tư các ngành trong giai đoạn 2000 đến
2013 có sự chuyển biến rõ nét. Vốn đầu tư vào ngành nông nghiệp giảm dần từ
13.8% năm 2000 xuống cịn 5.6% năm 2013. Ngành cơng nghiệp thì được tập trung

vốn nhiều hơn , năm 2000 là 39.3% thì đến năm 2013 tăng lên 41,8% trong tổng số
vốn đầu tư phát triển cho cả nước. Còn ngành dịch vụ vốn đầu tư tập trung vào đây
cũng tang lên từ 46.9% năm 2000 lên 52.6% năm 2013. Điều này cho thấy rằng


vốn đầu tư đang được tập trung chủ yếu cho phát triển công nghiệp và dịch vụ
nhiều hơn đúng với định hướng phát triển theo hướng cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa
của nước ta.

Vốn đầu tư phát triển tồn xã hội thực hiện theo giá hiện hành phân theo ngành kinh tế
2005
Tổng số
Nơng nghiệp, lâm nghiệp
và thủy sản
Khai khống
Cơng nghiệp chế biến, chế
tạo
Sản xuất và phân phối
điện, khí đốt, nước nóng,
hơi nước và điều hồ
khơng khí
Xây dựng
Cung cấp nước; hoạt động
quản lý và xử lý rác
thải…
Bán buôn và bán lẻ; sử
chữa ô tô, mô tô, xe máy

Vận tải, kho bãi
Dịch vụ lưu trú và ăn

uống
Thông tin và truyền thông
Hoạt động tài chính, ngân
hàng và bảo hiểm

2007

2008

2009

2010

2011

2012

Sơ bộ
2013

343135

532093

616735

708826

830278


924495

1010114

1091136

25715

33907

39697

44309

51062

55284

52930

60992

26780

37794

50214

59754


62520

67950

70405

73649

65892

104689

104801

120146

161904

186008

222528

250517

34112

49339

58033


67338

70491

75347

79294

83796

12292

19725

23370

26227

39023

43914

47273

47790

8932

13845


16041

18465

21504

23297

23940

26950

18257

23036

28216

31188

40684

49461

64849

72122

40159


69946

76439

85343

95814

104653

106365

116311

6628

10899

12305

14923

17436

20802

27576

26405


12490

19262

22264

25872

30305

31617

32627

31205

2205

6324

7587

9888

15692

18952

22425


27605


Hoạt động kinh doanh bất
động sản
Hoạt động chuyên môn,
khoa học và cơng nghệ
Hoạt động hành chính và
dịch vụ hỗ trợ
HĐ của ĐCS tổ chức CTXH;QLNN; ANQP…
Giáo dục và đào tạo
Y tế và hoạt động trợ giúp
xã hội
Nghệ thuật, vui chơi và
giải trí
Hoạt động khác

4426

23444

32198

33315

39023

45763

52728


62738

2863

5402

6327

8010

9299

11556

14041

16181

11495

17921

20741

23817

27897

29121


28788

29132

10767

14606

17940

21406

25157

28844

30606

31533

10829

15637

17837

20202

23580


27273

31415

26732

5699

7399

8795

10278

12039

15255

18990

18330

4203

6188

8617

10632


12537

14607

17071

16115

39391

52730

65313

77713

74311

74791

66263

73031

Cơ cấu đầu tư theo khối ngành kinh tế có sự dịch chuyển mạnh mẽ, đúng
hướng và hợp lý. Không chỉ ở các ngành mà ở trong nội bộ các ngành cũng có có
sự chuyển dịch. Tỷ trọng vốn đầu tư khối ngành sản xuất kinh doanh tăng lên trong
khi khố ngành kết cấu hạ tầng giảm đi. Nguyên nhân là do chính sách thặt chặt
quản lý nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước nhằm hạ nhiệt nền kinh

tế, giảm áp lực lạm phát trong thời gian gần đây. Cụ thể ở các ngành như sau:


Ngành nơng nghiệp:
Chuyển dich cơ cấu đầu tư ngành nơng nghiệp có nhiều bước tiến bộ đi đúng
hướng. Trong ngành nông nghiệp, tỷ trọng đầu tư đã được chú trọng vào chăn nuôi
và giảm nhẹ trồng trọt xuống. điều này thể hiện nông nghiệp chúng ta đã từng
bước phát triển theo một cơ cấu tiên tiến. Trong trồng trọt diện tích trồng lúa giảm
dần dể tăng diện tích trồng các loại cây cỏ có giá trị kinh tế cao hơn (như cây cơng
nghiệp ngắn ngày: bơng, mía, đậu tương…cây công nghiệp lâu năm: chè, cao su...)
song vẫn bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và tăng xuất khẩu gạo một cách
đáng kể, phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp ngày càng đá
ứng nhu cầu của thị trường và có hiệu quả hơn.



Ngành công nghiệp
Sự thay đổi cơ cấu ngành công nghiệp được coi là phù hợp với xu hướng
khách quan:
+
Nhóm ngành cơng nghiệp khai thác được phát triển tập trung vào những tài
nguyên có trữ lượng lớn và giá trị kinh tế cao (dầu khí, than đá...) để đáp ứng nhu
cầu trong nước và xuất khẩu.


+
Nhóm ngành cơng nghiệp nặng được phát triển theo hướng tập trung hơn vào
các ngành sản xuất sản phẩm trong nước có khả năng và có nhu cầu lớn ( điện, cơ
khí chế tạo và lắp ráp, đóng tàu, vật liệu xây dựng…)
+

Nhóm ngành cơng nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và chế biến nông lâm thủy
sản được chú trọng phát triển vừa đáp ứng nhu cầu trong nước thay thế nhập khẩu
và phục vụ xuất khẩu, vừa tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động,
tăng mức đóng góp vào ngân sách nhà nước.
+
Một số ngành cơng nghiệp cao ( điện tử dân dụng, máy tính, cơ khí, cơng
nghệ thơng tin…) tuy cũng mới hình thành nhưng có tốc độ phát triển nhanh và
ngày càng trở thành bộ phận chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu ngành công
nghiệp.
+
Các ngành nghề thủ công nghiệp ở nông thôn được chú trọng phát triển
nhằm thúc đẩy thực hiện phân công lại lao động ở nông thôn và tạo them việc làm
và thu nhập cho dân cư nơng thơn.


Ngành dịch vụ
Tỷ trọng của ngành tiêu thụ những sản phẩm dịch vụ ( khách sạn, du lịch, nhà
hàng…thể thao, giải trí..) có tốc độ tăng nhanh và cao hơn ác ngành thương mại
khác.
Ngành tài chính tín dụng có tốc độ tăng cao hơn. Hoạt động KH - CN đã
tăng lên khá hơn so với trước.Một số ngành dịch vụ đã phát triển khá nhanh và
đang từng bước mở rộng quy mô như vận tải, kho bãi đặc biệt là dịch vụ viễn thơng
có bước phát triển đột phá, đưa ngành viễn thông nước ta trở thành ngành dịch vụ
hiện đại có năng lực cạnh tranh với các nước trong khu vực.
Một là: cơ cấu ngành chuyển dịch theo hướng hiện đại cịn rất chậm, chưa
đóng góp tích cực vào việc tạo ra bước đột phá trong phát triển cả chất lượng và
hiệu quả.
Hai là: Chuyển dịch cơ cấu ngành mới chỉ chú ý tăng tỷ trọng công nghiệp
và dịch vụ mà chưa chú ý tới nhiều mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng
hiện đại, phát triển mạnh kỹ thuật công nghệ tiên tiến trong tất cả các ngành. Các

ngành sử dụng cơng nghệ tiên tiến cịn ít, các ngành công nghệ gia công, lắp ráp
chiếm tỷ trọng lớn.
Ba là: quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành chưa thực sự diễn ra theo một
chiến lược, quy hoạch tổng thể mà phần nhiều mang tính tự phát. Vi thề quy hoạch
tổng thể thường bị phá vỡ, nên hiệu quả đầu tư thấp, cơ cấu chuyển dịch chưa đáp
ứng được yêu cầu phát triển bền vững.


4.
4.1

Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân
Thành tựu
Thứ nhất: Trong nền kinh tế đã hình thành được các lĩnh vực, các khu vực, sản
phẩm có vai trị động lực, mũi nhọn như: thăm dò, khai thác và chế biến dầu khí,
chế tạo và lắp ráp ơ tơ; sản xuất điện; xi măng; dệt may; chế biến thủy sản; công
nghiệp xây dựng; thơng tin viễn thơng; vận tải; tài chính ngân hàng; du lịch… đóng
góp vào tăng trưởng và hiện đại hóa nền kinh tế.
Thứ hai: Chuyển dịch cơ cấu ngành thời gian qua phù hợp với điều kiện và hồn
cảnh đất nước trong từng thời kỳ góp phần ổn định kinh tế - xã hội và từng bước
tạo lập nền tảng cho quá trình phát triển của đất nước.
Thứ ba: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng tích cực trên cả ba mặt
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo thu nhập, lao động và vốn đầu tư:
+
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo thu nhập từ năm 2000 đến năm 2013
giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp (giảm 6.1%), tăng tỷ trọng của ngành công
nghiệp (tăng 1.6%) và dịch vụ (tăng 4.5%). Trung bình trong giai đoạn năm 2000 –
2013 cơ cấu ngành kinh tế nước tư đó là cơng nghiệp – nơng nghiệp – dịch vụ với
tỷ trọng trung bình tương ứng là 21.4% - 39.7% - 38.9%. Trong 2 năm 2012 và
2013 chúng ta đã có bước tiến mới khi cơ cấu ngành kinh tế nước ta là dịch vụ công nghiệp – nông nghiệp.

+
Tương tự cơ cấu ngành theo lao động cũng có sự chuyển dịch tăng tỷ trọng
lao động trong khu vực nông nghiệp giảm 16.6% từ năm 2001 đến năm 2013 trung
bình mỗi năm giảm 1.3%, tỷ trọng lao động trong ngành phi nông nghiệp (công
nghiệp và dịch vụ) tăng 17.6%, trung bình mỗi năm tăng 1.4%.
+
Cơ cấu vốn đầu tư có sự chuyển dịch rõ nét. Tỷ trọng ngành nơng nghiệp từ
năm 2000 đến năm 2013 giảm 8.2 %, đây là con số lớn so với tỷ trọng vốn đầu tư
cho nông nghiệp năm 2000 là 13.8%, ngành công nghiệp – xây dựng và dịch vụ
tăng 2.5% và 5.7%. Như vậy sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo ngành nước ta là
phù hợp với tỷ trọng đầu tư cho nông nghiệp nhỏ, đầu tư cho phát triển công nghiệp
và dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn.
Thứ tư: Mức độ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tăng qua các giai đoạn về cả thu
nhập, lao động và vốn đầu tư.
Thứ năm: Cơ cấu ngành kinh tế đã chuyển dịch tích cực theo hướng mở cửa, hội
nhập nền kinh tế thế giới thể hiện ở tỷ lệ xuất khẩu/GDP tăng từ năm 2000 46.4%
lên năm 2010 là 69.3% và năm 2013 là 75.1%.
Kết quả chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời gian qua là động lực chủ yếu để nền
kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao và ổn định, tạo tiền đề vật chất để


nền kinh tế giữ vững được các cân đối vĩ mơ, góp phần phát triển kinh tế xã hội bền
vững.
Để có được những thành tựu trên đây là do:
Thứ nhất là do nguyên nhân khách quan
+
Rút kinh nghiệm từ bài học không thành công trong quá khứ về phân bổ
nguồn lực phát triển, vấn đề cơng nghiệp hóa nói chung và chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế nói riêng được nhìn nhận lại theo tinh thần đổi mới tư duy kinh tế.
+

Nhận thức về quá trình tái sản xuất mở rộng với quy luật “ các ngành sản
xuất tư liệu sản xuất để chế tạo tư liệu sản xuất tăng nhanh nhất, sau đó đến sản
xuất tư liệu sản xuất để chế tạo tư liệu tiêu dùng; và chậm nhất là sự phát triển của
sản xuất tư liệu tiêu dùng” . Trong thời đại tồn cầu hóa ngày nay, khơng phải chỉ
xem xét bó hẹp trong phạm vi mỗi nền kinh tế quốc gia; mà còn trong những điều
kiện cụ thể, nền kinh tế mang tính tồn cầu trong sự phân công lao động quốc tế.
+
Đối với mỗi nền kinh tế quốc gia, nhất là với nhưng nền kinh tế cịn kém
phát triển, khơng thể tập trung mọi nguồn lực hiện có của đất nước để ưu tiên phát
triển riêng ngành công nghiệp nặng mà không chú ý đến các ngành kinh tế khác.
Thứ hai là do nguyên nhân chủ quan
+
Nước ta đã có sự đổi mới về chính sách cơ cấu, ngày càng phù hợp hơn với
tình hình thực tế, nên đã có tác dụng thúc đẩy q trình chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa.
+
Những chính sách điều chỉnh cơ cấu đầu tư, phân bổ lại nguồn lực của nền
kinh tế nói chung và nguồn vốn ngân sách nói riêng đã có tác dụng làm giảm bớt
mức độ căng thẳng do chủ trương tập trung ưu tiên phát triển công nghiệp nặng quá
sức chịu đựng của nền kinh tế gây ra.
+
Cùng với sự điều chỉnh cơ cấu đầu tư là các chính sách khuyến khích sự phát
triển một nền kinh tế đa hình thức sở hữu
4.2

Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đạt được trình bày trên đây thì chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế nước ta vần còn tồn tại những điểm chưa hợp lí. Sự chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế ở nước ta thời gian qua còn những hạn chế:
Thứ nhất là: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo thu nhập diễn ra không liên

tục. Trong những năm 2008 và 2011 tỷ trọng ngành nông nghiệp tăng, tỷ trọng
ngành công nghiệp và xây dựng giảm.


Thứ hai là: Tốc độ chuyển dịch diễn ra chậm. Đến nay tỷ trọng nơng nghiệp trong
GDP cịn cao, xếp thứ 3/9 nước khu vực Đông Nam Á, thứ 10/37 nước và vùng
lãnh thổ ở châu Á và cao thứ 40/164 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.
+ Tỷ trọng của nông nghiệp trong cơ cấu ngành kinh tế vẫn cịn cao, trung bình
chiếm 21.4% giai đoạn năm 2000 đến năm 2013 trong khi một số nước trong khu
vực và trên thế giới con số tương ứng này nhỏ hơn rất nhiều.
+ Cơ cấu lao động có q ít sự thay đổi. Phần lớn lao động tăng thêm vẫn cịn nằm
lại trong khu vực nơng nghiệp năng suất thập và nguồn lao động vẫn chủ yếu là lao
động phổ thơng, khơng có nhiều cơ hội để tự thực hiện sự chuyển đổi một cách linh
động.Tỷ trọng lao động trong nông nghiệp mặc dù giảm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao
trong tổng số lao động cả nước, trung bình trong giai đoạn 2001 – 2013 chiếm
54.3%, từ con số trên ta có thể thấy được cơ cấu lao động chưa hợp lý của nước ta.
Thứ ba là: Cơ cấu nội bộ ngành cịn nhiều bất hợp lý:
+ Trong cơng nghiệp, tỷ lệ cơng nghiệp khai thác cịn chiếm trên 10%, trong khi tỷ
trọng công nghiệp chế biến mới chiếm trên dưới 20%. Cơng nghiệp chế biến cịn
mang nặng tính gia công, công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm.
+ Trong nông nghiệp, sản xuất vẫn còn phân tán, manh mún, lao động chậm được
di chuyển ra ngồi nơng nghiệp, q trình CNH, HĐH nơng nghiệp nơng thơn diễn
ra cịn chậm.
+ Trong ngành dịch vụ, các phân ngành dịch vụ hiện đại, đóng vai trị động lực
như tài chính – tín dụng, khoa học – cơng nghệ chiếm tỷ trọng cịn thấp và tăng
trưởng chậm.
Thứ tư là: Hiệu quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn hạn chế, thể hiện ở năng suất
lao động xã hội tăng chậm, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư kém, sức cạnh tranh thấp.
Cơ cấu kinh tế ngành khơng những khơng mở đường cho việc tích tụ và tập trung
vốn mà cịn hạn chế q trình áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại, cản trở

việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
vừa nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Trong ngành nông nghiệp năng suất lao động thấp, mặc dù chiếm tỷ lệ cao về lao
động nhưng tạo ra thu nhập thấp, trung bình giai đoạn 2001 – 2013, để tạo ra 1%
thu nhập thì cần 2.56% lao động trong khu vực nông nghiệp trong khi con số này
chỉ là 0.48% trong ngành công nghiệp và xây dựng.
Thứ năm là: Mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành về cả mặt vốn, lao động và
vốn đầu tư còn diễn ra chậm.


Cơ cấu lao động chuyển dịch nhanh, chưa cùng nhịp với sự chuyển dịch cơ cấu
ngành. Mức độ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo GDP năm 2013 là tương ứng
với góc phi 7.2, trong khi đó cơ cấu chuyển dịch lao động theo ngành kinh tế lại là
17.1. Điều này chứng tỏ mức độ chuyển dịch của ngành chậm hơn rất nhiều so với
lao động, gây áp lực lên vấn đề giải quyết việc làm.
Thứ sáu là: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa tạo nền tảng vững chắc cho việc ổn
định kinh tế vĩ mô, phát triển trong dài hạn, tuy cơ cấu ngành kinh tế vĩ mơ trong
GPD đã có những thay, nhưng nếu phân tích sâu hơn các khía cạnh phản ánh chất
lượng của chúng như tỷ trọng các sản phẩm công nghiệp chế biến, các sản phẩm có
hàm lượng cơng nghệ cao, tỷ trọng các lĩnh vực dịch vụ chất lượng cao, tỷ trọng
các sản phẩm cơng nghiệp và dịch vụ xuất khẩu có giá trị gia tăng cao …thì thấy
rằng vẫn cịn ẩn chứa nhiều nhân tố chưa đảm bảo sự phát triển bền vững của nền
kinh tế. Do tính liên kết cịn rời rạc, các ngành tương đối đôc lập với nhau trong
hoạt động sản xuất và thâm nhập thị trường, dẫn đến hệ quả tất yếu là nền kinh tế
dễ bị tổn thương trước những bất lợi của nền kinh tế thế giới, dễ rơi vào khủng
hoảng.
Còn tồn tại những hạn chế trên đây là do
Thứ nhất: Về phương diện tư duy chính sách: Những nỗ lực ưu tiên vẫn nghiêng
nhiều hơn về khía cạnh tăng trưởng GDP và chuyển dịch cơ cấu GDP ở tầm ngắn
hạn, trong khi chưa dành sự quan tâm thỏa đáng đến sự chuyển dịch cơ cấu lao

động và chất lượng của các ngành nghề trong dài hạn.
Thứ hai: Về phương diện triển khai thực hiện các chính sách đã ban hành:
+
Nguồn cung lao động vẫn lớn hơn nhiều so với mức cầu, nhất là đối với lực
lượng lao động phổ thông, nên những người sử dụng lao động có xu hướng duy trì
mức trả lương thấp và không tuân thủ đầy đủ những quy định về điều kiện lao động
mà vẫn dễ dàng tuyển dụng lao động khi cần thiết.
+
Quá trình đổi mới, chuyển sang kinh tế thị trường gặp nhiều lực cản nên có
xu hướng chậm chạp về tốc độ và kéo dài thời gian, những nguyên nhân chủ yếu
cản trở quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của cơ chế kế hoạch hóa tập trung
trước đây vẫn tồn tại mà chưa bị loại bỏ hồn tồn. Các rào cản đó đã khiến cho
việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo thị trường để hướng các nguồn lực vào lĩnh vực
có lợi thế hơn trở nên rất khó thực hiện.
Ngồi ra cịn có một số nguyên nhân khác gây ra các mặt hạn chế của chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo ngành như: cơ cấu đầu tư không hợp lý; không chú trọng đầu tư
theo chiều sâu; quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành chưa diễn ra theo một quy
hoạch; trình độ cơng nghệ thấp; mơi trường ngành dịch vụ thiếu tính cạnh tranh
lành mạnh; công nghiệp phụ trợ chưa phát triển; thiếu trình độ lao động có chun


mơn, trình độ tay nghề cao; q trình đào tạo nguồn nhân lực khơng đi trước đón
đầu xu thế; ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tòa cầu…
III.
1.

GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ

Một số hướng cơ bản cho các nhóm ngành cơ bản như sau:
1.1


Nhóm ngành sản x́t nơng nghiệp



1.2

Sản x́t lương thực là trọng tâm của sản xuất nông nghiệp. Trong đó sản
xuất lúa gạo là ngành có ý nghĩa đặc biệt quan trọng:
Ngoài sản xuất lương thực, các ngành sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả,
rau quả, chăn nuôi và nuôi trồng thủy hải sản hiện tại và tương lai sẽ là
ngành có vai trò quan trọng hơn trong nhóm ngành sản xuất nông nghiệp.
Nhóm ngành công nghiệp – dịch vụ sử dụng nhiều lao động

Tập hợp trong nhóm này là các ngành công nghiệp nhẹ như: may mặc, giày
dép, đồ gỗ, gia công các loại, lắp ráp đồ điện và điện tử, chế biến lương thực và
thực phẩm… Đặc điểm của nhóm ngành này là sử dụng nhiều lao động, phần lớn là
lao động phổ thông, có khả năng thu hồi vốn nhanh và khá linh hoạt thích ứng với
môi trường kinh doanh. Tuy giá trị gia tăng thu được là không cao nhưng nhóm
ngành này vẫn đem lại hiệu quả tổng thể rất cao cho nền kinh tế vì tính thích hợp
của nó đối với điều kiện cụ thể của các nền kinh tế trong giai đoạn đầu của thời kỳ
CNH
Ở Việt Nam hiện nay, những ngành này đang có dấu hiệu phát triển tốt. Đến
năm 2020, nhóm ngành này vẫn sẽ là sự lựa chọn của đông đảo của các nhà đầu tư
và do đó vẫn chiếm một tỷ trọng đáng kể trong nền kinh tế. Vì vậy, không cần phải
có các chính sách khuyến khích đặc biệt nào từ phía nhà nước mà chỉ cần thực hiện
đúng các cam kết chính sách hiện có như: chính sách đối với doanh nghiệp sử dụng
nhiều lao động, nhất là lao động nữ; các chính sách tiếp cận nguồn vốn tín dụng,
đất đai và các chính sách khác, cũng như đảm bảo tất cả các doanh nghiệp phải tuân
thủ phấp luật một các nghiêm minh, bình đẳng và không gây cản trờ đối với các

doanh nghiệp.
1.3

Nhóm ngành công nghiệp dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên

Đây là nhóm ngành cần vốn đầu tư lớn, công nghệ khai thác và chế biến
ngày càng hiện đại, yêu cầu về mức độ hiệu quả kinh tế theo quy mô lớn và đặc
biệt có tính tranh giành cao so với các ngành kinh tế khác và có ảnh hưởng trực tiếp
tới môi trường. Nhà nước một mặt cần khuyến khích các nhà đầu tư tham gia thằm
dò tìm kiếm, khai thác và chế biến các loại tài nguyên dưới nhiều hình thức khác
nhau; mặt khác cần trực tiếp tổ chức, đầu tư phát triển nhóm ngành này nhằm tận


dụng ưu thế trời cho để nhanh chóng tạo dựng một nền công nghiệp trong giai đoạn
đầu thực hiện CNH.
1.4

Nhóm ngành công nghiệp và dịch vụ công nghệ cao

Trong toàn bộ nền kinh tế nói chung, việc rút ngắn quá trình CNH và chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng hiện đại chủ yếu bằng cách rút ngắn thời gian
trải qua các bước tuần tự từ thấp đến cao của thang bậc công nghệ – kỹ thuật. Vì
vậy hiện nay cần phải tập trung ngay vào việc tiếp cận và phát triển những ngành,
lĩnh vực sản xuất và dịch vụ dựa trên công nghệ – kỹ thuật cao của thế giới như:
sản xuất thiết bị, linh kiện điện tử, áp dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp,
y tế, sản xuất các vật liệu mới, công nghệ phần mềm, tham gia vào một số công
đoạn có liên quan đến công nghệ – kỹ thuật cao trong chuỗi giá trị toàn cầu, áo
dụng công nghệ tiên tiến nhất trong các lĩnh vực dịch vụ thông tin truyền thông,
ngân hàng, tài chính, quản lý xã hội, giao thông vận tải…
1.5


Nhóm ngành định hướng xuất khẩu

Đối với xuất khẩu truyền thống vẫn cần thiết áp dụng hệ thống đồng bộ các
chính sách khuyến khích miễn là các chính sách này vẫn được các bạn hàng quốc tế
chấp nhận như hỗ trợ tín dụng cho các ngân hàng xuất – nhập khẩu trong việc tìm
kiếm mở rộng thị trường đầu tư nâng cao công nghệ kỹ thuật. Đối với các mặt hàng
chế biến, lắp ráp các hàng hóa dịch vụ còn lại việc dành và giữ thị phần cả trong và
ngoài nước theo kiểu xuất khẩu tại chỗ sẽ có ý nghĩa quyết định.
Nhóm ngành hướng về xuất khẩu không phải như kiểu truyền thống mà là
toàn bộ nền kinh tế bất kể nông nghiệp, công nghiệp hay dịch vụ đều dịch chuyển
theo lối nâng cấp trình độ công nghệ kỹ thuật để nhờ đó mà nâng cao vị thế trong
chuối, tức là toàn bộ nền kinh tế vận hành theo tinh thần của chính sách nâng cao
năng lực cạnh tranh của mô hình CNH hướng về xuất khẩu một cách toàn diện.
1.6

Những lĩnh vực nhà nước trực tiếp đầu tư

Nhà nước cần phải và chỉ nên trực tiếp đầu tư vào những lĩnh vực cần thiết
cho hoạt động kinh tế và xã hội mà tư nhân không thể hoặc không muốn làm, bao
gồm:
Các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng (do cần nhiều vớn đầu tư, thời hạn thu
hời vớn lâu).
• Các lĩnh vực nghiên cứu công nghệ, khoa học cơ bản như toán, lý, hóa, kinh
tế chính trị, triết…; các lĩnh vực đòi hỏi công nghệ kỹ thuật cao, thiết bị hiện
đại (do đầu tư lớn mà rủi ro cao, tư nhân chưa đáp ứng được nhưng nó lại rất
cần thiết cho nền kinh tế).
Giải pháp



2.


2.1

Các giải pháp chính sách cơ bản

Đây là nhóm giải pháp mang tính chiến lược lâu dài quyết định tới
toàn bộ quá trình phát triển của đất nước, trong đó chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế diễn ra như là kết quả đương nhiên của toàn bộ các chính sách. Điểm trọng tâm
của chính sách này là tạo lập một thể chế hỗ trợ thị trường, làm cho thị trường hoạt
động tốt hơn, nhờ đó mà phân bổ một cách tối ưu các nguồn lực sẵn có của quốc
gia dựa theo lợi thế so sánh.
2.1.1 Lực chọn mô hình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu. (CNH)
Trong lịch sử CNH của thế giới hiện đại có 2 mô hình CNH phổ biến: CNH
thay thế hàng nhập khẩu và hướng về x́t khẩu.




CNH thay thế hàng nhập khẩu là cớ gắng sản xuất ra sản phẩm trước đây phải nhập
khẩu thay vì phải nhập khẩu, lấy việc tự sản xuất làm mục tiêu. Vì vậy, xét về cơ
chế đây là mô hình lẩn tránh sự cạnh tranh quốc tế nên không còn phù hợp với xu
thế hội nhập quốc tế hiện nay.
CNH hướng về xuất khẩu là sản xuất với mục tiêu nhu cầu thị trường, phương
châm của mô hình này là sản xuất cái thị trường cần và cái mà mình có lợi thế chứ
không phải xuất phát từ nhu cầu tiêu dùng trong nước. Để có được sản phẩm có sức
cạnh tranh, nhất là trên thị trường thế giới, nhà cung cấp phải có năng lực, kiến
thức bản lĩnh để dối mặt với những thách thức đầy rủi ro trên thị trường.
Các chính sách khuyến khích xuất khẩu thường gồm:

+

Không đánh thuế xuất khẩu, trợ giá xuất khẩu.

+

Nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu.

+

Giảm bớt thủ tục hành chính.

+

Nghiên cứu và xúc tiến mở rộng thị trường từ phía quản lý nhà nước.

Tư tưởng cơ bản về cách tiếp cận chính sách thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta ở tầm ngắn hạn và trung hạn trong những năm đầu thế kỉ XXI là:
triệt để và nhất quán hơn nữa trong việc áp dụng chính sách của mô hình CNH
hướng về xuất khẩu, đồng thời giảm bớt phạm vi và những biện pháp thay thế nhập
khẩu trên cơ sở cân nhắc kĩ càng kết quả dài hạn.
2.1.2 Xây dựng và hoàn thiện thể chế thị trường
Điểm đột phá cho chính sách này là thông tin thị trường minh bạch, công
khai, dễ tiếp nhận. Để thực hiện biện pháp này cần:





2.1.3


Thiết lập một cơ chế thu thập, xử lý cung cấp thông tin thống nhất có nhiệm vụ hỗ
trợ doanh nghiệp.
Xây dựng mạng lưới các cơ quan tổ chức liên thông thực hiện nhiệm vụ trên.
Trong giai đoạn đầu, để xây dựng hệ thống thông tin thì đầu tư của nhà nước là chủ
yếu như đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ phát triển kinh tế và xã hội.
Khai thông, huy động các nguồn lực cho phát triển và chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế
Điểm đột phá cho giải pháp này là luật hóa vốn đầu tư từ các loại tài sản cố
định và nâng cao năng lực xã hội. Giải pháp khai thông nguồn vốn có sẵn trong xã
hội là tạo lập cơ chế quyền sở hữu để đưa tài sản của dân chúng vào trong hệ thống
tài sản sở hữu hợp pháp, tức là xây dựng và hoàn thiện thể chế thị trường trong đó
đặc biệt nhấn mạnh nội dung quyền tài sản trong hệ thống pháp luật. Bên cạnh đó
cần nâng cao năng lực xã hội (vốn xã hội) như đào tạo tay nghề nâng cao trình độ
cho người lao động để họ có thể tham gia sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực khác
khi nền kinh tế chuyển dịch cơ cấu ngành.
2.1.4 Mở rộng thị trường
Kết hợp mở rộng thị trường trên thị trường quốc tế với tăng sức mua thị
trường trong nước, trong đó đặc biệt chú ý tới thị trường nông thôn. Trong điều
kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế không thể chỉ căn cứ vào các nhân tố đầu vào từ phía
cung mà còn phải căn cứ vào những xu hướng vận động của nhu cầu thị trường để
lựa chọn các lĩnh vực, sản phẩm tiến hành đầu tư, tức là bổ sung thêm cách tiếp cận
từ phía cầu để nghiên cứu đề xuất các giải pháp chính sách chủn dịch cơ cấu kinh
tế.






2.2

Đới với thị trường nước ngoài: trong thời gian trước mắt cần đưa ra một chương
trình hành động về xuất khẩu với mục tiêu đặt ra là chiếm tỷ trọng cao trong doanh
số nhập khẩu của mỗi một trong bốn thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc.
Đối với thị trường trong nước: thị trường trong nước trong điều kiện toàn cầu hóa,
khu vực hóa không chỉ là thị trường dành riêng cho các công ty trong nước mà là
một bộ phận của thị trường quốc tế. Nâng cao thu nhập cho nông dần cần được coi
là điểm then chốt để khởi động thị trường trong nước vào thời điểm hiện nay. Để
giải quyết vấn đề này, hướng giải quyết chính là đẩy mạnh quá trình đô thị hóa
thông qua một số biện pháp như: đổi mới chế độ quản lý hộ khẩu theo kiểu phân
biệt giữa thành phố và nông thôn, tích cực phát triển thành phố, tăng đầu tư cơ sở
hạ tầng…
Các giải pháp trực tiếp
Đây là nhóm giải pháp mang tính đột phá về cơ cấu, thúc đẩy sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế diễn ra một cách nhanh chóng hợp lý theo hướng đã chọn. Các giải


pháp thuộc nhóm này chủ yếu sẽ là xác định hướng ưu tiên và khuyến khích đầu tư
vào các lĩnh vực được xác định là ưu tiên. Đồng thời nhà nước sẽ đóng vai trò chủ
đầu tư trực tiếp trong một số lĩnh vực cần thiết để tạo dựng cơ sở hỗ trợ cho khu
vực doanh nghiệp phát triển.
Lựa chọn các ngành cần tập trung phát triển






Xác định mợt sớ lĩnh vực trọng điểm trong thời gian trước mắt: cần thỏa mãn các

điều kiện sau đó là những lĩnh vực có lợi thế về các nguồn tài nguyên thiên nhiên,
khai thác được nhiều ng̀n nhân lực sẵn có và có chỉ số ICOR thấp.
Xác định các ngành được xem là mũi nhọn. Với tầm nhìn trung và dài hạn, ngoài
ba tiêu thức trên phải có tính định hướng công nghệ kỹ thuật hiện đại cho nền kinh
tế. Vì vậy về dài hạn các tiêu thức của các lĩnh vực được chọn là ngành mũi nhọn
là: Định hướng công nghệ – kỹ thuật tiên tiến, Định hướng xuất khẩu, sử dụng các
lợi thế về nguồn lực (trước tiên là nguồn lao đợng) và có chỉ sớ ICOR hợp lý.
Tìm ra phân đoạn thị trường mà nhà đầu tư có thể tham gia Để tiếp cận vào chuỗi
giá trị toàn cầu các ngành sản xuất cần tìm ra phân đoạn thị trường mà nhà đầu tư
có thể tham gia, tranh thủ mọi cơ hội để nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị. Muốn
vậy nhà nước cần có những chính sách nhằm xây dựng một thể chế hỗ trợ thị
trường như:
+
Cung cấp thông tin giá rẻ hoặc miễn phí, có những ưu đãi để hướng nhà đầu
tư vào các lĩnh vực nhà nước khuyến khích.
+
Cải cách hành chính, giảm thiểu chi phí ra nhập thị trường và tạo ra môi
trường xã hội hỗ trợ doanh nghiệp.
+
Cải tạo và tổ chức lại đối với các lĩnh vực thuộc các ngành tập trung vốn và
kỹ thuật, đồng thời tiếp tục hỗ trợ cho ngành ít tập trung vốn và kỹ thuật có cơ sở
trong nước vững chắc hoặc có lợi thế so sánh.
+
Phân chia hợp lý các nguồn lực trong nước cho các ngành sản x́t bên cạnh
đó phải tích cực thu hút ng̀n vốn và kỹ thuật tiên tiến nước ngoài để phát triển
những ngành mới, cải tạo những ngành cũ, tham gia và nâng cấp vị thế trong chuỗi
giá trị toàn cầu.
2.3

Giải pháp cụ thể với từng ngành


Với mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. nhà nước ta đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm thực hiện
được mục tiêu đề ra. Theo đó, Bộ kế hoach đầu tư cũng đã định hướng cho sự
chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế nước ta đến năm 2020, xu hướng vẫn là giảm tỷ
trọng ngành nông nghiệp và tăng nhanh tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ,


định hướng đến năm 2020 tỷ trọng nông nghiệp chỉ cịn chiếm từ 14-15%, tỷ trọng
cơng nghiệp tăng lên và chiếm khoảng từ 41-43%, tỷ trọng dịch vụ chiếm 44-45%.
2.3.1 Nơng nghiệp:









Tiếp tục đẩy mạnh sản xuất nơng nghiệp hàng hóa theo hướng kinh tế thị trường
hiện đại. Mở rộng thị trường nâng cao chất lượng nông sản, tăng cường yêu tố công
nghệ trong sản xuất kinh doanh.
Tiếp tục đẩy mạnh tăng năng suất cây trồng vật nuôi tăng năng suất ruộng đât, năng
suất lao động, giảm chi phí.
Hồn thiện cơ cấu sản xuất nơng nghiệp theo hướng tồn diện trên cơ sở chun
mơn hóa tập trung hóa.
Phát triển cơng nghiệp chế biến nông, lâm , thủy sản, xây dựng các vùng nguyên
liệu vững chắc, nâng cao chất lượng sản phẩm chế biến.
Xây dựng các loại hình kinh tế phù hợp trong nơng nghiệp.

Thực hiện chính sách thúc đẩy phát triển nơng nghiệp giai đoạn 2011 – 2020 như
chính sách đầu tư, chính sách tín dụng, thị trường, ruộng đất.
Bảo vệ môi trường sinh thái trong nông nghiệp theo hướng phát triển nông nghiệp
sinh thái, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch.
2.3.2 Cơng nghiệp








Tập trung phát triển các ngành cơng nghiệp có tiềm năng trong tương lai như cơng
nghiệp hiện đại sản xuất ô tô xe máy các sản phẩm điện tử điện lạnh, chú trọng vào
công nghiệp hỗ trợ sản xuất đầu vào, công nghiệp chế biến.
Thu hút đầu tư nước ngồi để đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước. Các nguồn vốn đầu tư trưc tiếp từ nước ngoài ( FDI ), viện trợ phát triển
( ODA ), vốn từ cộng đồng việt kiều và các dịch vụ thu ngoại tệ.
Thực hiện chính sách nhập khẩu công nghệ, nhận chuyển giao công nghệ hiện đại
từ các quốc gia phát triển khác.
Xây dựng mới và phát triển các khu cơng nghiệp có sẵn.
2.3.3 Dịch vụ:








Đa dạng hóa các ngành dịch vụ, mở rộng thị trường tiêu thụ các sản phẩm dịch vụ,
đáp ứng tốt nhu cầu phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Chú trọng vào dịch vụ
giáo dục, y tế, xã hội .
Nâng cao chất lượng, quy mô và hiệu quả hoạt động du lịch. Tận dụng tốt những
thế mạnh về phong cảnh cũng như văn hóa của đất nước mở them nhiều loại hình
dịch vụ du lịch mới lạ.
Nâng cao chất lượng, tăng khối lượng và độ an toàn vận tải khách, hàng hóa trên
tất cả cá loại hình vận tải, có biện pháp tích cực để giải quyết tốt vận tải khách công
cộng ở các thành phố lớn. Loại bỏ các tệ nạn ảnh hưởng tới khách du lịch, đặc biệt
là khách nước ngoài.




Phát triển nhanh các loại hình dịch vụ tài chính ngân hàng, kiểm toán ngành tư vấn
pháp luật, dịch vụ trí tuệ, tin học …


×