Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng bảo đảm tiền vay tại ngân hàng tmcp công thương việt nam – chi nhánh ba đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (432.5 KB, 86 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT VIẾT TẮT TÊN ĐẦY ĐỦ
1 NHNN Ngân hàng Nhà nước
2 NHTMP Ngân hàng thương mại
3 TCTD Tổ chức tín dụng
4 TSĐB Tài sản đảm bảo
5 NQH Nợ quá hạn
6 TCKT Tổ chứ kinh tế
7 HĐQT Hội đồng quản trị
8 KHCN Khách hàng cá nhân
9 KHDN Khách hàng doanh nghiệp
10 NĐCP Nghị định chính phủ
11 CHLB Cộng hòa Liên Bang
12 NHĐT&PT Ngân hàng đầu tư và phát triển
13 NHNT Ngân hàng ngoại thương
14 NHNN&PTNT Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
15 NHCT Ngân hàng công thương
16 NHCV Ngân hàng cho vay
17 UBND Ủy ban nhân dân
18 PGD Phòng giao dịch
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập, cùng với những thuận lợi, cơ hội phát triển mới
là những khó khăn, thách thức. Đất nước chúng ta – một đất nước còn đang
trên đà phát triển thì "cạnh tranh" sẽ là một trong những áp lực lớn nhất trong
con đường hội nhập thế giới. Và các ngân hàng thương mại "Hệ thống huyết
mạch của nền kinh tế" cũng không nằm ngoài quy luật chung đó, để tồn tại và
phát triển buộc các ngân hàng phải trải qua cuộc "đấu tranh sinh tồn".
Như ta đã biết, cạnh tranh ngày càng khốc liệt cũng đồng nghĩa với nó


là rủi ro ngày càng tăng. Hơn thế nữa, trong kinh doanh tín dụng nói chung và
bảo đảm tiền vay nói riêng, rủi ro là yếu tố khách quan, chỉ có thể đề phòng
hạn chế, chứ không thể loại trừ. Rủi ro đến với ngân hàng có thể từ nhiều phía
và diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, gây nên những tổn thất cho các
ngân hàng thương mại. Mặt khác, trong điều kiện nền kinh tế còn khá nhiều
bất ổn như hiện nay, khi mọi dự đoán và tính toán chỉ mang tính lý thuyết, dễ
biến động và không chính xác, thì "bảo đảm tiền vay" là một đòi hỏi mang
tính trước mắt, tất yếu, khách quan.
Xuất phát từ chính nhu cầu thực tiễn trên, đồng thời từ những kiến thức
em đã được học, cùng sự chỉ bảo giúp đỡ nhiệt tình của các cơ chú,anh chị
phòng khách hàng 2 tại – chi nhánh NHCT Ba Đình em đã mạnh dạn đi sâu
nghiên cứu đề tài "Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng bảo đảm
tiền vay tại Ngân Hàng TMCP Công Thương Việt Nam – chi nhánh Ba
Đình " để làm đề tài chuyên đề tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu thực trạng bảo đảm tiền vay tại Ngân Hàng
TMCP Công Thương Việt Nam – chi nhánh Ba Đình trong mấy năm vừa qua,
1
đề tài muốn làm rõ những mặt được, chưa được trong công tác bảo đảm tiền
vay cũng như những nguyên nhân dẫn tới tình trạng đó. Cuối cùng là đề xuất
về giải pháp, kiến nghị để hoạt động bảo đảm tiền vay của chi nhánh ngày
càng hoàn thiện hơn.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Các hoạt động bảo đảm tiền vay tại NHTM
Phạm vi nghiên cứu: Chuyên đề tập trung nghiên cứu những vấn đề bảo
đảm tiền vay tại Ngân Hàng TMCP Công Thương Việt Nam – chi nhánh Ba
Đình
4.Phương pháp nghiên cứu
Đề tài có sử dụng các phương pháp nghiên cứu thông thường như
phương pháp thực tiễn, thống kê, so sánh kết hợp với các phương pháp trừu

tượng hóa khoa học, phương pháp duy vật biện chứng…
5. Kết cấu của đề tài
Ngồi phần mở đầu và kết luận, đề tài được bố cục làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lí luận cơ bản về bảo đảm tiền vay của NHTM
Chương 2: Thực trạng chất lượng bảo đảm tiền vay tại Ngân Hàng
TMCP Công Thương Việt Nam – chi nhánh Ba Đình
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng bảo đảm tiền vay Ngân Hàng
TMCP Công Thương Việt Nam – chi nhánh Ba Đình
2
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO ĐẢM
TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.HOẠT ĐỘNG CHO VAY VÀ NHỮNG RỦI RO TRONG TÍN
DỤNG CỦA NHTM
1.1.1.Tổng quan về ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại (NHTM) ra đời và phát triển gắn liền với nền sản
xuất hàng hoá, nó kinh doanh loại hàng hoá rất đặc biệt đó là “tiền tệ”. Thực
tế các NHTM kinh doanh “quyền sử dụng vốn tiền tệ”. Nghĩa là các NHTM
nhận tiền gửi của công chúng, của các tổ chức kinh tế xã hội. Sử dụng số tiền
đó cho vay và làm phương tiện thanh toán với những điều kiện ràng buộc là
phải hoàn lại vốn gốc và lãi nhất định theo thời hạn đã thoả thuận.
Theo pháp lệnh “các tổ chức tín dụng ”(1990) của Việt Nam thì NHTM
được định nghĩa như sau: “Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh
tiền tệ mà hoạt động chủ yếu là thường xuyên nhận tiền gửi của khách hàng
với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp
vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Theo Luật Ngân Hàng Nhà Nước năm 2003 thì hoạt động ngân hàng
được xác định là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội
dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng,
cung ứng các dịch vụ thanh toán.

Nhìn chung NHTM có 3 chức năng cơ bản:
+ Chức năng trung gian tài chính, bao gồm trung gian tín dụng và trung
gian thanh toán giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
+ Chức năng tạo tiền, tức là chức năng sáng tạo ra bút tệ góp phần gia
tăng khối tiền tệ cho nền kinh tế
3
+ Chức năng “sản xuất” bao gồm việc huy động và sử dụng các nguồn
lực để tạo ra “sản phẩm” và dịch vụ ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế.
1.1.2. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
1.1.2.1.Khái niệm hoạt động cho vay
Nhà kinh tế học người Pháp Louis Baundin, định nghĩa tín dụng như là “
Một sự trao đổi tài hóa hiện tại lấy một tài hóa tương lai” Ở đây, chúng ta thấy
yếu tố thời gian đã xen lẫn vào cùng cho nên sẽ có sự bất trắc, rủi ro xảy ra và
cần có sự tín nhiệm, sử dụng sự tín nhiệm của nhau nên mới có danh từ tín dụng.
Tại Việt Nam các quyết định 1627/2001_QĐ_NHNN ngày 31/12/2001
của thống đốc NHNN Việt Nam về việc ban hành quy chế cho vay của tổ
chức tín dụng đối với khách hàng và hướng dẫn thưc hiện số 49/QĐ_HĐQT
ngày 31/05/2002 NHCT Việt Nam quyết định số 106/QĐ_HĐQT_NHCT
ngày 20/08/2002 về việc cho vay đối với khách hàng trong hệ thống ngân
hàng công thương Việt Nam, phân tích đánh giá doanh nghiệp dưới giác độ
tài chính-ngân hàng.
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó ngân hàng cho vay giao
cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất
định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
1.1.2.2. Phân loại các hình thức cho vay
Vịêc phân loại cho vay tạo cơ sở cho việc thiết lập những quy chế và quy
trình cho vay thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay, giảm rủi ro tín dụng
nhằm bảo đảm tiền vay.
●Căn cứ vào thời hạn cho vay
+ Cho vay ngắn hạn: là khoản cho vay có thời hạn không quá 12 tháng

+ Cho vay trung hạn: là khoản cho vay có thời hạn trên 12 tháng cho đến
60 tháng
+ Cho vay dài hạn: : là khoản cho vay có thời hạn trên 60 tháng
4
● Căn cứ theo hình thức bảo đảm
+ Cho vay có bảo đảm: là việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản của khách
hàng hoặc bảo đảm của bên thứ ba, bao gồm các hình thức như thế chấp, cầm cố
bằng tài sản của khách hàng, bên thứ ba, bảo lãnh của bên thứ ba.
+Cho vay không có bảo đảm: là việc cho vay không có bảo đảm bằng tài
sản của khách hàng hoặc bảo đảm của bên thứ ba.
●Căn cứ theo phương thức cho vay
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: là hình thức tín dụng mà TCTD và
khách hàng thỏa thuận và xác định một hạn mức tín dụng duy trì trong một
khoảng thời gian nhất định.
+ Cho vay từng lần: là hình thức cho vay mà mỗi lần vay vốn khách
hàng TCTD thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng.
+ Cho vay tài trợ dự án: Là hình thức tín dụng mà TCTD cho khách hàng
vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
và các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
+ Cho vay hợp vốn: là hình thức cho vay mà một nhóm TCTD cùng cho
vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong
đó, có một vốn TCTD làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các TCTD khác.
+ Cho vay trả góp: là hình thức cho vay mà khi vay vốn TCTD và khách
hàng xác định và thỏa thuận việc trả nợ số gốc và lãi vay được chia ra nhiều
kỳ hạn trong thời hạn cho vay
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: TCTD cam kết đảm bảo sẵn
sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định.
TCTD và khách hàng thỏa thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự
phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
+ Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng là

hình thức cho vay mà TCTD chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn
5
vay trong phạm vi mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ và
rút thẻ tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của TCTD.
+ Cho vay theo hạn mức thấu chi: là hình thức cho vay mà TCTD thỏa thuận
cho khách hàng chỉ vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng.
1.1.2.3 .Nguyên tắc và điều kiện cho vay
● Nguyên tắc: Khách hàng
+ phải sử dụng vốn vay đúng mục đích
+ phải hoàn trả cả gốc và lãi của vốn vay đúng thời hạn đã cam kết trong
hợp đồng
● Điều kiện: Khách hàng
+ phải có đủ tư cách pháp lý
+ phải được sử dụng hợp pháp
+ phải có năng lực tài chính lành mạnh đủ để đảm bảo hoàn trả tiền vay
đúng hạn đã cam kết
+ phải có phương án, dự án khả thi và hiệu quả
+ phải thực hiện đảm bảo tiền vay theo quy định
1.1.3.Những rủi ro trong tín dụng của ngân hàng thương mại
Rủi ro tín dụng: là sự xuất hiện các yếu tố không bình thường trong
quan hệ tín dụng, gây ra hậu quả xấu đến hoạt động của ngân hàng như thiệt
hại về mặt tài sản, ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng.Và được hiểu là,
ngân hàng cho vay ra nhưng không thu hồi được vốn hoặc không thu hồi vốn
đúng thời hạn trong hoạt động ngân hàng rủi ro tín dụng chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong các loại rủi ro. Bởi vì hơn 2/3 tài sản của ngân hàng là các món vay
đem lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng.
●Các hình thức của rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng xảy ra khi người vay không trả được nợ lãi và nợ gốc
đúng hạn, đầy đủ. Theo phương thức quản lý rủi ro tín dụng hiện nay, người
ta chia rủi ro tín dụng thành bốn cấp độ theo mức độ rủi ro.

6
+ Không được trả lãi đúng hạn:
Cấp độ thấp nhất là khi người vay không trả được lãi đúng hạn, khi đó
ngân hàng sẽ chuyển số lãi đó vào khoản mục lãi treo phát sinh. Hình thức rủi
ro này được xếp vào mức rủi ro thấp vì ngoại trừ trường hợp khách hàng
muốn quỵt nợ, chiếm dụng vốn thì phần lớn đều xuất phát từ việc thiếu cân
đối trong kỳ hạn trả nợ của khách hàng.
+ Không thu được vốn đúng hạn:
Khi không thu được vốn đúng hạn tình hình dường như nghiêm trọng
hơn, một phần do một lượng vốn cho vay lớn bị mất. Khi đó, ngân hàng sẽ
chuyển số nợ vốn đó sang mục nợ quá hạn phát sinh. Khoản mục này phát
sinh vào thời gian đáo hạn hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, đây chưa phải là
khoản mất mát hiện thực của ngân hàng vì có thể tiến độ hoạt động kinh
doanh của khách hàng bị chậm so với kế hoạch đã đề ra trình ngân hàng.
+ Không thu được lãi:
Khi ngân hàng không thu được lãi thì tình hình đã trở nên nghiêm trọng
hơn. Tình hình kinh doanh của khách hàng có thể đã kém hiệu quả đến mức
không thể trả đủ lãi cho ngân hàng. Khi đó ngân hàng phải chuyển khoản lãi
này vào khoản mục lãi treo đóng băng và thậm chí có thể phải thực hiện miễn
giảm lãi cho khách hàng.
+ Không thu đủ vốn cho vay:
Tình huống xấu nhất xảy ra khi ngân hàng không thu đủ vốn cho vay và
lúc này ngân hàng bị mất vốn. Tại thời điểm này, ngân hàng sẽ chuyển khoản
nợ vào mục nợ không có khả năng thu hồi hoặc phải xoá nợ, coi như khép lại
một hợp đồng tín dụng không có hiệu quả.
Trên đây chỉ là bốn hình thức phổ biến giúp cho ngân hàng thương mại
nhận biết rủi ro tín dụng và có biện pháp xử lý. Vỡ vậy, khi nghiên cứu về rủi
ro tín dụng, người ta thường chú trọng vào các trường hợp có nguy cơ xảy ra
7
rủi ro tín dụng như là lãi treo phát sinh và đặc biệt là nợ quá hạn phát sinh.

Còn ở các trường hợp khác có lãi treo đóng băng hay nợ không có khả năng
thu hồi được coi là rủi ro thực sự nên thường được xem xét để giải quyết hậu
quả và rút ra những bài học kinh nghiệm.
1.2.BẢO ĐẢM TIỀN VAY TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.2.1.Khái niệm bảo đảm tiền vay
“Bảo đảm tiền vay là việc TCTD áp dụng các biện pháp nhằm phòng
ngừa rủi ro tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho
khách hàng vay”. Đứng trên góc độ của người cho vay, bảo đảm tiền vay phải
đáp ứng được ba yêu cầu sau:
+ Giá trị của bảo đảm phải lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm: Bảo đảm tín
dụng không chỉ là nguồn thu nợ thứ hai của ngân hàng mà còn có ý nghĩa thúc
giục người đi vay, nếu không sẽ mất tài sản đảm bảo. Nhưng nếu như tài sản
đảm bảo nhỏ hơn so với nghĩa vụ được đảm bảo thì người vay dễ có động cơ
không trả nợ.
Nghĩa vụ bao gồm vốn gốc, lãi( kể cả lãi quá hạn) và các chi phí khác trừ
trường hợp các bên có thoả thuận lãi và các chi phí không thuộc phạm vi bảo
đảm.
+ Tài sản phải có sẵn thị trường tiêu thụ: Mức độ thanh khoản của tài
sản đảm bảo có vai trò quan trọng trong xác định mức cho vay. Nếu độ thanh
khoản của tài sản cao ít biến động, chi phí chờ xử lý thấp, thì mức cho vay
cao và ngược lại độ thanh khoản thấp chi phí cao thì mức cho vay thấp.
+ Tài sản phải có đủ cơ sở pháp lý để người cho vay có quyền ưu tiên về
xử lý tài sản khi xảy ra rủi ro tín dụng: Tài sản phải thuộc quyền sở hữu hợp
pháp của người vay và người bảo lãnh và được pháp luật cho phép giao dịch,
8
đồng thời phải có đủ cơ sở pháp lý để ngân hàng được quyền ưu tiên xử lý tài
sản khi người vay không thanh toán đúng hạn.
1.2.2. Sự cần thiết của bảo đảm tiền vay
1.2.2.1. Đối với ngân hàng.

+ Bảo đảm tiền vay giúp ngân hàng bảo đảm an toàn trong cấp tín dụng:
Sự an toàn là một vấn đề cần xem xét trước tiên đối với mọi khoản vay.
Vì lý do này một ngân hàng thường sẽ cho vay trên cơ sở có bảo đảm để giảm
thiểu rủi ro.
Về thực chất bảo đảm tín dụng là thiết lập những cơ sở pháp lý để có
thêm nguồn thu nợ thứ hai ngoài nguồn thu nợ thứ nhất.
Trong cho vay kinh doanh nguồn thu nợ thứ nhất là doanh thu cho vay
đối với cho vay vốn lưu động, hoặc khấu hao và lợi nhuận đối với cho vay
trung và dài hạn để hình thành tài sản cố định. Trong cho vay tiêu dùng nguồn
thu nợ thứ nhất của ngân hàng là thu nhập cá nhân như tiền lương, các khoản
thu nhập tài chính( lãi cho vay, lãi chứng khoán) và các khoản thu nhập khác.
Khi đánh giá hoạt động của khách hàng nếu thấy nguồn thu nợ thứ nhất
chưa có cơ sở chắc chắn thì buộc ngân hàng phải thiết lập nguồn thu nợ thứ
hai bao gồm giá trị tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba vì
ngân hàng có thể bán các tài sản bảo đảm để thu nợ nếu khách hàng không trả
được nợ.
Hơn nữa, hoạt động tín dụng an toàn thì bản thân điều này lại có những
tác động tích cực đến những mặt hoạt động khác do uy tín của ngân hàng
được nâng cao.
+ Bảo đảm tiền vay giúp ngân hàng tạo lập quan hệ tín dụng với khách hàng:
Từ đó ngân hàng phải phân tích đánh gía khách hàng dưới nhiều góc độ
khác nhau, trong đó bảo đảm tín dụng được coi là tiêu chuẩn xét duyệt cho
vay vì nó trả lời được phần nào cho ngân hàng những câu hỏi trên. Tuy nhiên
9
cũng thấy đây không phải là tiêu chuẩn mang tính nguyên tắc khi cấp tín dụng
cho khách hàng, mà là một phần trong những điều kiện vay vốn.
+ Bảo đảm tiền vay nhằm mục đích gắn trách nhiệm của người vay
trong việc quản lý và sử dụng tiền vay:
Mặc dù bảo đảm không phải là tiêu chuẩn mang tính nguyên tắc
nhưng không phải vì thế mà đặt thấp vị trí của nó. Đặc biệt trong nền kinh tế

thị trường rủi ro rất có thể xảy ra đối với các chủ thể kinh doanh, và khi mang
tài sản của mình ra làm đảm bảo cho khoản vay ( giá trị tài sản làm bảo đảm
thường lớn hơn giá trị khoản vay) sẽ có trách nhiệm hơn trong việc quản lý và
sử dụng vốn vay để trả nợ ngân hàng mà không phải đem tài sản có giá trị của
bản thân để trả nợ. Đây là ý nghĩa quan trọng nhất của bảo đảm tín dụng.
+ Bảo đảm tiền vay là tiêu chuẩn bổ sung những mặt hạn chế của nhà
quản trị tín dụng, cũng như phòng ngừa những diễn biến không thuận lợi của
môi trường kinh doanh.
Nâng cao năng lực thẩm định của cán bộ nhân viên ngân hàng khi thực
hiện bảo đảm tiền vay. Để bảo đảm cho nguồn thu nợ thứ hai có thể bù đắp
được các tổn thất khi rủi ro tín dụng xảy ra thì việc định giá tài sản đẩm bảo là
quan trọng. Thế nhưng việc định giá tài sản đảm bảo chỉ có ý nghĩa trong
trường hợp cho vay đối với những khách hàng tư nhân, ít uy tín hoặc những
doanh nghiệp nhỏ làm ăn không ổn định. Còn đối với những công ty lớn có
chính sách quản lý hiệu quả, có sản phẩm và các dịch vụ được thị trường sẵn
sàng chấp nhận, có lợi nhuận tương đối ổn định và với một tình hình tài chính
ổn định, uy tín trong thanh toán nợ cũ thì đó là những khách hàng tiềm năng
và trong trường hợp này chính những yếu tố trên đã là tài sản đảm bảo rồi. Do
đó cán bộ tín dụng phải vận dụng đảm bảo tiền vay một cách linh hoạt trong
từng điều kiện hoàn cảnh, khách hàng, loại tín dụng cụ thể.
10
1.2.2.2. Đối với khách hàng.
+ Khách hàng là người gửi tiền: Bảo đảm tiền vay góp phần giảm rủi ro
trong hoạt động kinh doanh tín dụng của NHTM, vì vậy khoản tiền gửi của
khách hàng trong ngân hàng an toàn hơn, yên tâm hơn về khoản tiết kiệm của
mình.
+ Khách hàng là người vay vốn: Qua áp dụng đảm bảo tiền vay hướng
cho khách hàng phải sử dụng vốn vay có hiệu quả để có khả năng trả nợ ngân
hàng và nhận lại tài sản. Khi vay vốn khách hàng phải cầm cố thế chấp tài sản
thuộc sở hữu của mình, khách hàng chỉ có thể nhận lại tài sản đảm bảo và các

giấy tờ có liên quan khi đã trả hết nợ gốc và lãi cho ngân hàng.
Như vậy khi đem tài sản của mình làm bảo đảm cho khoản vay khách
hàng sẽ có trách nhiệm hơn trong quản lý và sử dụng vốn vay, điều đó cũng
có nghĩa là hiệu quả của vốn vay cũng được đảm bảo cùng với đó, vốn vay sẽ
thực sự đem lại những lợi ích cho chủ thể vay vốn.
1.2.2.3. Đối với nền kinh tế
Việc đảm bảo tiền vay thực hiện tốt sẽ hạn chế được nợ quá hạn, nợ khó đòi,
giảm rủi ro, tăng lợi nhuận, nâng cao uy tín của ngân hàng thu hút người gửi
1.2.3. Nội dung các hình thức bảo đảm tiền vay
1.2.3.1.Bảo đảm bằng tài sản
Là hình thức bảo đảm được thiết lập trên cơ sở tài sản của bên vay hoặc tài
sản của bên thứ ba cho khoản đi vay.
●Thế chấp tài sản: là việc bên vay vốn có nghĩa vụ đem tài sản là bất
động sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình để đảm bảo cho vốn vay đối với
ngân hàng. Khi ký kết hợp đồng tín dụng ngân hàng sẽ cung cấp cho chủ thể
đi vay một lượng vốn trong một khoảng thời gian nhất định và nhận lại do bên
vay hoàn trả. Đồng thời cũng được bên vay giao quản lý tài sản là bất động
sản của sở hữu của bên vay để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
11
Trường hợp đến hạn bên vay vì một lý do nào đó không trả được nợ cho ngân
hàng thì ngân hàng có quyền xử lý tài sản thế chấp đó để thu hồi lại vốn đã
cho vay, có thể là bán đấu giá tài sản thế chấp hay chuyển quyền sở hữu tài
sản cho ngân hàng theo luật định. Còn nếu chủ thể vay vốn đã hoàn trả cả gốc
và lãi đúng hạn thì ngân hàng sẽ trả lại tài sản thế chấp cho bên vay.
Tài sản thế chấp là bất động sản bao gồm: Nhà ở, công trình xây dựng
gắn liền với đất; quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai, tàu
biển theo quy định của luật Hàng hải Việt Nam, tàu bay theo quy định của
luật Hàng không dân dụng Việt Nam … để đề phòng những tác động khách
quan làm thay đổi giá trị của tài sản thế chấp (như sự vận động của giá cả thị
trường, sự quy hoạch lại khu vực có tài sản thế chấp…) ngân hàng thường chỉ

cho vay số tiền tối đa bằng 70% giá trị tài sản thế chấp. Tuy nhiên khi bán đấu
giá tài sản thế chấp mà thu được một lượng tiền lớn hơn giá trị khoản vay thì
ngân hàng chỉ được thu hồi đủ lượng vốn vay mà người đi vay phải trả phần
còn lại sẽ trả cho chủ tài sản.
Theo Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay
thì tài sản bảo đảm tiền vay phải được xác định giá trị tại thời điểm ký kết hợp
đồng bảo đảm; việc xác định giá trị tài sản tại thời điểm này chỉ để làm cơ sở
xác định mức cho vay của tổ chức tín dụng và không áp dụng khi xử lý tài sản
để thu hồi nợ. Việc xác định giá trị tài sản bảo đảm tiền vay phải được lập
thành văn bản riêng kèm theo hợp đồng bảo đảm. Đối với tài sản bảo đảm tiền
vay không phải là quyền sử dụng đất thì việc xác định giá trị tài sản bảo đảm
tiền vay do các bên thoả thuận hoặc thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn
xác định trên cơ sở giá thị trường tại thời điểm xác định, có tham khảo các
loại giá như giá quy định của Nhà nước (nếu có) giá mua, giá trị còn lại trên
sổ sách kế toán và các yếu tố khác về giá. Đối với giá trị quyền sử dụng đất
thế chấp đã được qui định rõ trong điều 8 chương II Nghị định 178/1999/NĐ-
CP và điều 5 mục 3 Thông tư 06 /2000/TT-NHNN1.
12
●Cầm cố tài sản:vay vốn ngân hàng là việc bên vay vốn (bên cầm cố)
có nghĩa vụ giao tài sản là động sản thuộc sở hữu của mình cho bên vay vốn
(gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ (bao gồm nợ
gốc, lãi và tiền phạt lãi quá hạn). Nếu tài sản mà pháp luật có quy định đăng
ký quyền sở hữu hoặc có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu thì các bên có thể
thoả thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản và giao bản gốc giấy tờ quyền sở hữu
tài sản cho bên nhận cầm cố. Tài sản dựng để cầm cố vay vốn các tổ chức tín
dụng là các động sản có giá trị chuyển nhượng hoặc mua, bán được dễ dàng:
phương tiện vận tải, phương tiện đi lại, công cụ lao động, máy móc thiết bị,
vật tư hàng hóa .
+ Giấy tờ trị giá được bằng tiền đang có hiệu lực thanh toán: kỳ phiếu,
chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết kiệm, trái phiếu do các tổ chức phát hành…, cổ

phiếu, thương phiếu.
+ Các vật quý bằng vàng bạc, đá quý, ngoại tệ, tiền mặt, tiền gửi ngân hàng.
+ Giá trị hợp đồng bảo hiểm
+ Các tài sản khác nếu pháp luật quy định.
Tuỳ theo tính chất từng loại tài sản cầm cố mà bên cầm cố phải tổ chức
đánh giá, kiểm định về số lượng và định giá tài sản trước khi ký hợp đồng
cầm cố. Trong quá trình định giá kiểm định phải có đại diện hợp pháp của cả
hai bên am hiểu về tính năng và tác dụng của tài sản hoặc có thể thuê chuyên
gia kỹ thuật để đánh giá, kiểm định phù hợp thực tế. Khi vay bên cầm cố tài
sản phải giao bản gốc giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản, các giấy tờ có
liên quan khác và tài sản cầm cố cho bên nhận cầm cố. Bên nhận cầm cố phải
bảo quản tài sản cầm cố và các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản cầm
cố như quy định trong hợp đồng cầm cố tài sản.
Được quyền tổ chức đấu giá tài sản cầm cố để thu hồi nợ theo nguyên
tắc đã thoả thuận trong hợp đồng và được thu nợ gốc, lãi và tiền phạt (nếu có)
13
từ tiền thu bán đấu giá tài sản cầm cố nếu bên cầm cố không hoàn thành được
nghĩa vụ trả nợ.
●Tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay: Bảo đảm tiền vay bằng tài
sản hình thành từ vốn vay là việc khách hàng vay dựng tài sản hình thành từ
vốn vay để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đó đối với
tổ chức tín dụng.
Như vậy, khác với chế độ bảo đảm khác, bảo đảm tài sản hình thành từ
vốn vay là việc khách hàng vay lại dựng chính tài sản hình thành (được mua
sắm hoặc xây dựng lên) từ khoản vay mà khách hàng đã vay tại tổ chức tín
dụng để đảm bảo cho chính khoản vay này. Do vậy xét về thời gian, tài sản
đảm bảo chưa hình thành (chưa tồn tại) tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng
và các bên chỉ ký kết hợp đồng bảo đảm khi tài sản bảo đảm được hình
thành. Trong khi đó việc cho vay có bảo đảm bằng hình thức cầm cố, thế
chấp, bảo lãnh thông thường lại dựng tài sản đã hình thành, đã có tại thời

điểm ký kết hợp đồng tín dụng.
Để bảo đảm việc thu hồi vốn và lãi, pháp luật quy định những điều kiện
để đảm bảo tính an toàn.
+ Điều kiện đối với khách hàng vay: Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức tín dụng, cũng như tính hiệu quả của việc sử dụng vốn vay
khách hàng phải đáp ứng được những điều kiện như là: có tín nhiệm đối với
TCTD trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc lẫn lãi;
Có khả năng tài chính và có các khoản thu hợp pháp; Có dự án, phương án sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi; Có mức vốn tự có tham gia vào dự án và
giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng các biện pháp cầm cố, thế chấp tối thiểu
bằng 50% vốn đầu tư của dự án;…
+ Điều kiện đối với tài sản hình thành từ vốn vay: Để đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức tín dụng, cũng như tính hiệu quả của việc sử
14
dụng vốn vay từ tài sản hình thành từ vốn vay phải đáp ứng được những điều
kiện như là: Tài sản hình thành từ vốn vay phải xác định được Quyền sở hữu
của khách hàng vay đối với tài sản: như giấy chứng nhận quỳên sử dụng đất
của khu đất mà trên đó tài sản sẽ được hình thành và phải hoàn thành các thủ
tục xây dựng theo quy định của pháp luật; Tài sản được phép dịch và không
có tranh chấp;…
●Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba: Bảo lãnh bằng tài sản của bên
thứ ba là việc bên thứ ba (còn gọi là bên bảo lãnh) cam kết với TCTD cho vay
về việc sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ trả nợ
thay cho khách hàng vay, nếu đến hạn trả nợ mà khách hàng vay không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ.
Như vậy, bên bảo lãnh chỉ được phép bảo đảm bằng tài sản thuộc sở hữu
của chính mình hoặc bằng giá trị quyền sử dụng đất kể cả đất thuê mà thời
hạn thuê đã được trả tiền còn dư với 5 năm, còn đối với doanh nghiệp nhà
nước thì tài sản thuộc quyền quản lý, quyền sử dụng của doanh nghiệp đó.
Về phần mình, TCTD sẽ tiến hành kiểm tra điều kiện của tài sản đảm bảo

và bên bảo lãnh phải tự chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của tài sản bảo
đảm này sau đó, TCTD và bên bảo lãnh sẽ thoả thuận sử dụng hình thức cầm
cố hay thế chấp nào để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Song điều đáng lưu ý ở
đây là khi xem xét và quyết định cho vay có bảo đảm của bên thứ ba, ngân
hàng cần quan tâm tới 3 nguyên tắc sau :
+ Thứ nhất: Bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh một cách tự nguyện và chỉ
được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình.
+ Thứ hai: Trong mỗi lần bảo lãnh thì bên bảo lãnh phải phát hành thư
bảo lãnh của mình.
+ Thứ ba: Ngân hàng cần xem xét kỹ lưỡng khả năng tài chính, tình trạng
tài sản và uy tín của bên bảo lãnh.
15
Trong quá trình bảo lãnh bên thứ ba( tức người bảo lãnh) phải có trách
nhiệm trả nợ thay cho bên được bảo lãnh nếu như đến hạn thanh toán mà họ
không trả được nợ cho ngân hàng(nợ ở đây bao gồm cả gốc, lãi và chi phí
khác nếu có, và bên bảo lãnh cũng phải đôn đốc người đi vay thanh toán nợ
cho ngân hàng. Mặt khác, người bảo lãnh cũng có quyền yêu cầu ngân hàng
kiểm tra việc sử dụng vốn vay của khách hàng khi cần thiết và khi bên bảo
lãnh đã trả nợ cho con nợ thì có nghĩa là họ đã trở thành chủ nợ trực tiếp, lúc
này quan hệ giữa ngân hàng và bên bảo lãnh được chấm dứt.
Hiện nay các TCTD có quyền lựa chọn quyết định việc cho vay có bảo
đảm hay không có bảo đảm bằng tài sản với điều kiện phải tuân thủ các quy
định của chính phủ, NHNN và các bộ ngành liên quan. Việc áp dụng hình
thức cho vay không có bảo đảm bằng tài sản tuy có nhiều rủi ro song lại là
phổ biến trong hoạt động tín dụng của các NHTM bởi sự đánh đổi giữa doanh
thu, lợi nhuận và tính bấp bênh, mạo hiểm trong kinh doanh.
1.2.3.2 Bảo đảm không bằng tài sản.
Tổ chức tín dụng lựa chọn cho vay không có bảo đảm bằng tài sản là việc
cho vay của Ngân hàng cho vay, theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay
không được bảo đảm đầy đủ bằng tài sản của khách hang vay, bên thứ ba, bảo

lãnh của bên thứ ba. mà bảo đảm dựa vào uy tín của người đi vay.
Để được vay theo hình thức này khách hàng vay phải có đủ điều kiện sau:
+ Phải có tín nhiệm đối với ngân hàng. Dự án đầu tư, phương án kinh
doanh,dịch vụ khả thi có hiệu quả đảm bảo nguồn trả nợ. Dự án phương án phục
vụ đời sống khả thi phù hợp với qui định của pháp luật đảm bảo nguồn trả nợ.
+Phải có đủ khả năng tài chính, các nguồn thu hợp pháp khác để đảm
bảo nghĩa vụ trả nợ trong thời hạn cam kết. Đối với các doanh nghiệp phải có
lãi hai năm liền kề tính đến thời điểm vay vốn. Riêng doanh nghiệp Nhà nước
chỉ cần không trong diện sắp xếp lại là được vay vốn.
16
+ Tổ chức tín dụng Nhà nước cho vay không có đảm bảo theo chỉ định
của Chính phủ: cho vay đối với khách hàng vay để thực hiện các chương trình
kinh tế đặc biệt, trọng điểm của Nhà nước và đối với một số khách hàng thuộc
đối tượng được hưởng các chính sách tín dụng ưu đãi về điều kiện vay vốn
theo qui định tại các văn bản qui phạm pháp luật của Chính phủ hoặc Thủ
tướng Chính phủ.
+ Ngoài ra còn có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thề chính trị -
xã hội cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn.
Cùng với sự ra đời của Nghị định 178/1999/NĐ-CP đã khẳng định một
cách nhìn mới trong vấn đề bảo đảm tín dụng: mọi khách hàng vay đều bình
đẳng trước sự lựa chọn của các tổ chức tín dụng . Điều kiện cho vay không có
bảo đảm bằng tài sản hay có bảo đảm bằng tài sản không phân biệt doanh
nghiệp Nhà nước, hay doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hay hộ gia
đình, cá nhân mà quyền lựa chọn quyết định cho vay hoàn toàn thuộc vào
ngân hàng . Việc đổi mới này có ý nghĩa thúc đầy các doanh nghiệp nhất là
các doanh nghiệp Nhà nước phải tự mình vươn lên, không ỷ lại vào chính
sách ưu đãi, bao cấp của Nhà nước để từng bước hội nhập kinh tế và khu vực
trong tiến trình đổi mới của đất nước.
Tóm lại bảo đảm tiền vay là một biện pháp hết sức cần thiết đối với hoạt
động cho vay của các NHTM. Nó không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với ngân

hàng (thu hồi vốn kịp thời đầy đủ, đảm bảo cho hoạt động ngân hàng có hiệu
quả) đối với khách hàng vay vốn (khuyến khích tự chủ đạt hiệu quả kinh
doanh) mà còn có ý nghĩa to lớn đối với sự ổn định của nền kinh tế.
1.2.3.3 Quy trình thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay.
●Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ và xem xét các điều kiện để ra quyết định
áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay phù hợp.
Thực tiễn đã chứng minh hoàn trả tín dụng mặc dù không phải là mục
đích kinh doanh của ngân hàng, song nó lại là điều kiện quan trọng nhất để
17
thực hiện mục tiêu kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy mà trong quá trình hoạt
động tín dụng ngân hàng luôn phải xem xét một cách thận trọng từ hồ sơ, giấy
tờ vay vốn hợp lệ đến uy tín và năng lực tài chính của khách hàng, từ đó mà
áp dụng những phương thức cho vay thích hợp nhằm đảm bảo thu hồi nợ.
● Bước 2: Thẩm định, đánh giá tài sản bảo đảm.
Trong cho vay có tài sản đảm bảo, ngoài việc đánh giá khách hàng và
phân tích các hồ sơ cần thiết, ngân hàng luôn phải chú trọng đặc biệt tới công
tác đánh giá tài sản bảo đảm nhằm xem xét các điều kiện của tài sản và định
giá chúng.
+ Thẩm định về các điều kiện của tài sản gồm: Thẩm định tính hợp pháp;
thẩm định về tính lưu thông và quyền sở hữu. Việc thẩm định tài sản bảo đảm
ở nước ta hiện nay còn nhiều khó khăn bất cập, tài sản được chia làm 2 loại,
một loại pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, một loại không. đối
với loại có đăng ký thì việc thẩm định tính sở hữu đơn giản chỉ là kiểm tra
giấy tờ sở hữu nhưng với loại không đăng ký thì ngân hàng phải xem xét từ
nhiều kênh thông tin khác nhau tránh rủi ro không đáng có. Còn riêng đối với
những tài sản mà pháp luật quy định phải đúng bảo hiểm thì ngân hàng cần
kiểm tra xem khách hàng đã đúng bảo hiểm chưa? tài sản là nhà hay quyền sử
dụng đất thì ngân hàng đầu tiên phải kiểm tra những giấy tờ có liên quan tới
tài sản đó như: Quyền sử dụng đất, sổ đỏ xem xét tài sản đó có bị kê biên
hay không? Nếu là bất động sản thì đánh giá về vị trí địa lý, kiến trúc ra sao?

Giá cả như thế nào? nếu là động sản như máy móc thiết bị, dây chuyền sản
xuất thì điều mà ngân hàng phải quan tâm là chủng loại, tính hiện đại, tính
phổ biến. Ngoài ra, các tài sản là hàng hoá, giấy tờ có giá hay nguyên vật liệu
sản xuất thì ngân hàng phải kiểm tra tính chân thực cũng như số lượng, chất
lượng, giá trị của tài sản đó, kiểm tra tính hợp pháp của giấy tờ có giá thông
qua các yếu tố như tổ chức phát hành, mệnh giá, thời hạn.
18
+ Việc định giá tài sản phải dựa trên cơ sở tuân theo đúng quy luật cung
– cầu, sát với giá cả thị trường. điều này là rất quan trọng bởi vì nếu như ngân
hàng quy định mà quá cao so với giá trị thực thì dẫn đến giá trị cho vay lớn
hơn giá trị tài sản đảm bảo, khi xảy ra sự cố khách hàng không thực hiện
nghĩa vụ, NHTM bán tài sản đảm bảo không đủ để trả nợ, gây rủi ro cho hoạt
động kinh doanh của ngân hàng. Ngược lại, nếu ngân hàng định giá tài sản
bảo đảm quá thấp so với giá trị thực thì sẽ gây thiệt thòi cho khách hàng, làm
giảm khối lượng cấp tín dụng, dẫn đến giảm doanh thu,giảm khả năng cạnh
tranh của ngân hàng. Do đó việc đánh giá chính xác tài sản bảo đảm là một
nghiệp vụ hết sức phức tạp, khó khăn và vô cùng quan trọng, vì vậy đối với
những tài sản có giá trị lớn, tính chất kỹ thuật chuyên môn sâu, ngân hàng
phải lập tổ thẩm định hoặc thuê chuyên gia, công ty thẩm định chuyên nghiệp
tiến hành.
●Bước 3: Xác định mức cho vay thích hợp nhằm bảo đảm thu hồi nợ.
Khi đã hoàn tất được việc định giá trị tài sản bảo đảm , ngân hàng cần
xác định mức cho vay đối với khoản vay có tài sản đảm bảo đó thông qua
việc so sánh mối tương quan giữa giá trị của khoản vay với giá trị của tài sản
đảm bảo , phổ biến là ở tỷ lệ 50%, 70%. Tuy nhiên để xác định được mức cho
vay tương đối an toàn, ngân hàng còn phải căn cứ vào nhiều khía cạnh như
đặc điểm, tính chất của tài sản bảo đảm. ở việt nam nếu cầm cố bằng giấy tờ
có giá như trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc thì có thể vay được tới
100% giá trị, còn những tài sản có biến động lớn về giá dẫn đến nguy cơ rủi
ro cao thì mức cho vay dao động bằng hoặc dưới 50% giá trị tài sản đảm bảo.

Mặt khác, tỷ lệ cho vay còn phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế và chu kỳ hoạt
động của tài sản bảo đảm. Chẳng hạn, khách hàng vay vốn là doanh nghiệp
xuất khẩu gạo thì chu kỳ hoạt động theo mùa vụ khác với doanh nghiệp sản
xuất xi măng có công suất ổn định, do đó mức cho vay,phương thức cho vay
19
cũng không giống nhau. Nếu tài sản đảm bảo là dây chuyền sản xuất hiện đại,
công nghệ cao, đời hoạt động dài thì mức cho vay tương ứng cũng khác tài
sản là nguyên vật liệu, công cụ lao động ngoài ra mức cho vay còn phụ
thuộc vào chủ trương, chính sách của từng thời kỳ của mỗi NHTM. Sau khi
hoàn thành việc xác định mức cho vay, cán bộ ngân hàng sẽ chuyển sang
bước tiếp theo.
●Bước 4: Ký hợp đồng và quản lý tài sản bảo đảm.
Hợp đồng bảo đảm tài sản thường được ký kết đồng thời với hợp đồng
tín dụng sau khi hoàn tất các thủ tục cần thiết. Tuỳ theo hình thức bảo đảm và
tài sản bảo đảm mà hợp đồng bảo đảm có thể được lập riêng hoặc nằm trong
hợp đồng tín dụng và cũng tuỳ từng loại hình bảo đảm theo quy định của pháp
luật mà hợp đồng bảo đảm phải công chứng nhà nước và tài sản bảo đảm phải
đăng ký giao dịch bảo đảm với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Đối với tài sản tài chính thì tuỳ theo sự thoả thuận giữa ngân hàng và
khách hàng mà thực hiện hình thức thế chấp pháp lý hay thế chấp công bằng,
nếu là thế chấp pháp lý thì bên bảo lãnh phải chuyển giao quyền sở hữu cho
ngân hàng, nếu là thế chấp công bằng thì chuyển giao giấy chứng nhận quyền
sở hữu, còn tài sản cầm cố thì có rất nhiều loại tài sản với những đặc điểm
tính chất khác nhau nên tuỳ thuộc vào đặc tính đó mà ngân hàng và bên bảo
đảm tự thoả thuận phương pháp chuyển giao tài sản sao cho phù hợp nhất. Và
điều đặc biệt lưu ý ở đây là hợp đồng bảo đảm chỉ có ý nghĩa pháp lý khi và
chỉ khi nó đi kèm với hợp đồng tín dụng (hợp đồng gốc)
Việc quản lý tài sản bảo đảm bao gồm cả việc bảo quản, đánh giá lại tài
sản và xử lý sau khi đánh giá hiệu qủa của việc quản lý này còn phụ thuộc vào
cơ sở vật chất (như kho bãi để bảo quản), trình độ cán bộ ngân hàng trong

việc định giá tài sản và đưa ra được những biện pháp xử lý thoả đáng, đảm
bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của NHTM.
20
●Bước 5: Xử lý tài sản bảo đảm.
Khi đến hạn thanh toán, nếu khách hàng thực hiện đầy đủ những nghĩa
vụ của mình thì ngân hàng sẽ tiến hành giải chấp, hợp đồng tín dụng và hợp
đồng bảo đảm được thanh lý hoàn toàn. Còn trong trường hợp khách hàng
không thanh toán đúng hạn, lơ là nghiã vụ trả nợ hoặc có hành vi bất hợp tác
trong việc thanh toán nợ thì ngân hàng buộc phải xử lý tài sản đảm bảo
thường gặp phải rất nhiều khó khăn, nan giải, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới
ở Việt Nam hiện nay,khi mà thủ tục hành chính còn nhiều bất cập, hành lang
pháp lý còn chưa hoàn thiện, nhiều văn bản quy định chồng chéo buộc mỗi
ngân hàng phải có các biện pháp xử lý linh hoạt cho riêng mình.
1.3.CHẤT LƯỢNG BẢO ĐẢM TIỀN VAY TRONG HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.3.1.Khái niệm về chất lượng bảo đảm tiền vay
Chất lượng của công tác bảo đảm tiền vay chính là chất lượng của những hình
thức mà ngân hàng chấp nhận làm bảo đảm cho món vay của khách hàng có khả
năng thực hiện đúng chức năng là nguồn thu nợ thứ hai cho ngân hàng hay không,
có giúp ngân hàng bảo toàn được nguồn vốn khi xảy ra rủi ro hay không.
1.3.2. Một số chỉ tiêu phản ánh chất lượng bảo đảm tiền vay và điều
kiện cần thiết nâng cao chất lượng bảo đảm tiền vay.
1.3.2.1. Một số chỉ tiêu phản ánh chất lượng bảo đảm tiền vay
Theo quyết định 493/2005_QĐ_NHNN thì:
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và lãi đã quá
hạn bao gồm các nhóm nợ 2,3,4,5
Nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm 3,4,5
21
●Tỷ lệ của các nhóm nợ trên tổng dư nợ
+ Tỷ lệ nợ quá hạn

Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ NQH trên tổng dư nợ =
Tổng dư nợ
Tỷ lệ này phản ánh số dư NQH mà ngân hàng cấp cho khách hàng chiếm
bao nhiêu trong tổng dư nợ đã cho. Tỷ lệ này càng cao thì phản ánh chất
lượng tín dụng cho vay có bảo đảm càng thấp và ngược lại.
+ Tỷ lệ nợ xấu
Dư nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ =
Tổng dư nợ
Tỷ lệ này phản ánh khả năng thu hồi nợ của ngân hàng với các khoản cho
vay . Tỷ lệ này càng cao thì phản ánh chất lượng tín dụng cho vay càng thấp
và ngược lại.
●Tỷ lệ cho vay không có tài sản đảm bảo
Dư nợ cho vay không có TSBĐ
Tỷ lệ cho vay không có TSBĐ=
Tổng dư nợ cho vay
Tỷ lệ này phản ánh khả năng thu hồi nợ của ngân hàng với các khoản cho
vay không có TSBĐ. Tỷ lệ này càng cao thì phản ánh chất lượng tín dụng cho
vay có bảo đảm càng thấp và ngược lại.
1.3.2.2.Điều kiện cần thiết nâng cao chất lượng bảo đảm tiền vay.
Người cho vay thì tài sản bảo đảm tiền vay phải có được các điều kiện sau:
+ Một là, giá trị tài sản bảo đảm phải lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm
+ Hai là, tài sản đảm bảo phải có sẵn trên thị trường tiêu thụ.
22

×