1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHN Đ TI V MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
a. Lý do chọn đề tài
Giáo dục góp phần quan trọng hình thành tư tưởng, tình cảm và nhân cách
cũng như trang bị kiến thức, kỹ năng… cho con người; giáo dục tồn tại và phát
triển cùng xã hội và mang đậm bản chất xã hội. Do đó mỗi dân tộc, quốc gia có
đặc điểm riêng trong quá trình phát triển sự nghiệp giáo dục.
Ở Việt Nam, sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, sự nghiệp phát triển giáo
dục và đào tạo được xem là sự nghiệp của quần chúng nhân dân và hoạt động của
giáo dục theo nguyên lý kết hợp: Nhà trường - Gia đình - Xã hội. Tuy nhiên trong
thời kỳ phát triển theo mô hình kế hoạch hóa tập trung với cơ chế quan liêu, bao
cấp, trách nhiệm của gia đình và xã hội trong giáo dục chưa được nhận thức đầy
đủ. Do đó hoạt động của ngành Giáo dục thiếu sự quan tâm đóng góp của xã hội.
Từ năm 1980, nhà nước đã vận động nhân dân cùng đồng hành với ngành
Giáo dục qua chủ trương “nhà nước và nhân dân cùng làm”, tuy nhiên đây chỉ là
những biện pháp giải quyết khó khăn tạm thời.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã mở đầu cho thời kỳ phát triển mới của đất
nước, chủ trương “nhà nước và nhân dân cùng làm” được nhà nước thể chế hóa
cụ thể hơn. Đến đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991), VIII (1996), chủ
trương xã hội hóa đã trở thành quan điểm lớn của Đảng và nhà nước trong hoạch
định chính sách phát triển đất nước trong đó có lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Xã hội hóa giáo dục (XHHGD) là chủ trương quan trọng cho sự nghiệp phát
triển giáo dục và đào tạo. Quá trình thực hiện XHHGD ở các địa phương trong cả
nước mà điển hình ở Thành phố Hồ Chí Minh đã có những vận dụng sáng tạo,
phản ảnh tình hình kinh tế, xã hội của từng địa phương, vừa mang tính tích cực
đồng thời xuất hiện những hạn chế do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ
quan.
Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố có số lượng dân chiếm 8,34% dân
số, diện tích chiếm 0,6% của cả nước. Qui mô trường lớp quá tải, lượng học sinh
cơ học ngày càng tăng; đời sống cán bộ và giáo viên còn nhiều khó khăn. Trước
thời kỳ đổi mới, Thành phố Hồ Chí Minh đã chủ động tìm những biện pháp để ổn
định cho hoạt động của ngành Giáo dục bằng cách vận động các lực lượng xã
hội, nhân dân cùng chung tay với nhà nước chăm lo cho giáo dục nên khi có chủ
trương XHHGD, Thành phố không những tiếp cận nhanh mà còn là nơi đi đầu
trong những hoạt động XHHGD với sự linh hoạt trong việc hình thành các loại
hình trường, lớp, góp phần làm thay đổi tư duy quản lý giáo dục; hình thành
những cơ chế mới trong hoạt động giáo dục của Thành phố.
Quá trình đổi mới từ năm 1986 đến nay, cũng như trong lĩnh vực phát triển
kinh tế, chủ trương XHHGD được Thành phố Hồ Chí Minh tiếp nhận nhanh với
nhiều sáng tạo, trở thành địa phương đi đầu trong cả nước đưa giáo dục ở Thành
2
phố chuyển động theo hướng xã hội hóa.
Với những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Quá trình thực hiện xã hội
hóa giáo dục phổ thông ở Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1986 đến năm
2010” để nghiên cứu là chọn một điển hình năng động có tính sáng tạo của một
địa phương có điều kiện thuận lợi trong thời kỳ đổi mới để thực hiện XHHGD.
Nghiên cứu về quá trình thực hiện XHHGD bậc phổ thông ở Thành phố Hồ Chí
Minh trong thời kỳ đổi mới để thấy những đóng góp của Thành phố Hồ Chí Minh
trong sự nghiệp phát triển giáo dục của đất nước.
b. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phục dựng lại bức tranh phát triển giáo dục ở Thành phố trong 25 năm
đổi mới (1986-2010) nhằm làm rõ từ trước khi có chủ trương XHHGD, hoạt động
giáo dục ở Thành phố Hồ Chí Minh đã mang tính xã hội hóa. Khi chủ trương
XHHGD được đề ra và triển khai (1996), Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện
nhanh chóng, triệt để, có hiệu quả và trở thành địa phương đi đầu trong tiến trình
thực hiện XHHGD ở phía Nam, đóng góp nhiều kinh nghiệm cho công tác
XHHGD ở nhiều địa phương khác.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN Đ
Xã hội hóa giáo dục được xem là nội dung quan trọng trong đổi mới giáo dục và
là một trong ba tiêu chí (chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa) của giáo dục Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay, đồng thời cũng là một trong các giải pháp cơ bản
để thực hiện chiến lược giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục phù hợp với
tiến trình đổi mới của nước nhà, tạo điều kiện cho hoạt động giáo dục hội nhập
vào xu thế quốc tế hóa.
Nghiên cứu về công tác xã hội hóa giáo dục đã có nhiều công trình khoa học
dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau:
Đề tài: “Khảo sát thực trạng giáo dục ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh
và những giải pháp cần thiết để phát triển, nâng cao một bước chất lượng giáo
dục” năm 1994, do Chu Duy Cán làm Chủ nhiệm, Công trình nghiên cứu đã khảo
sát tình hình hoạt động giáo dục của 6 huyện ngoại thành ở Thành phố Hồ Chí
Minh và nhận định: hoạt động giáo dục ngoại thành rất cần được xã hội hóa.
Cũng năm 1994, Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì
công trình nghiên cứu: “Đánh giá thực trạng các loại hình trường và đề xuất
phương án đa dạng hóa” do Giám đốc Sở Hồ Thiệu Hùng làm chủ nhiệm đề tài,
công trình nghiên cứu này nhằm tìm giải pháp thực hiện đa dạng hóa các loại
hình trường, lớp.
Năm 1997, GS.Viện sĩ Phạm Minh Hạc giới thiệu công trình nghiên cứu:
“Xã hội hóa công tác giáo dục”, tác giả công trình đã xác định nội dung của công
tác xã hội hóa giáo dục là vận động xã hội và nhà nước cùng xây dựng sự nghiệp
giáo dục.
Công trình nghiên cứu “Xã hội hóa giáo dục” năm 2001, do Viện Khoa học
Giáo dục chủ trì, Võ Tấn Quang chủ biên đã phân tích các khái niệm và nội dung
3
của thuật ngữ “xã hội hóa giáo dục” được hiểu và vận dụng khác nhau theo điều
kiện của từng quốc gia.
Năm 2002, Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì đề tài:
“Phát triển giáo dục phổ thông Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010 và những
chỉ tiêu thực hiện 5 năm 2001-2005” do Giám đốc Sở, Trương Song Đức làm
chủ nhiệm. Các tác giả đề ra yêu cầu đẩy mạnh XHHGD qua việc đa dạng hóa
trường lớp, các hình thức đào tạo và đa dạng hóa nguồn đầu tư cho giáo dục.
Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh năm 2005 công bố
công trình nghiên cứu: “Đa dạng hóa các hình thức học tập không chính quy để
nâng cao trình độ học vấn cho người lớn, góp phần xây dựng xã hội học tập ở
Thành phố Hồ Chí Minh” do Nguyễn văn Cương làm chủ nhiệm. Công trình đã
đề xuất đa dạng hóa các loại hình học tập không chính quy bằng các biện pháp xã
hội hóa.
Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh có công trình nghiên
cứu: “Xây dựng và thực hiện thí điểm mô hình mở rộng trường học thành trung
tâm học tập cộng đồng” do TS. Huỳnh Công Minh và PGS.TS. Đỗ Huy Thịnh
thực hiện năm 2006. Theo hai tác giả, mô hình Trung tâm học tập cộng đồng rất
cần thiết cho mục tiêu xã hội học tập, đồng thời đề xuất các giải pháp để Trung
tâm học tập cộng đồng hoạt động có hiệu quả.
Giáo sư Hồ Ngọc Đại giới thiệu công trình nghiên cứu: “Giải pháp phát
triển giáo dục”, tác giả không đề cấp đến XHHGD nhưng giải pháp mà tác giả
trình bày liên quan đến nội dung của XHHGD.
Dưới góc độ quản lý kinh tế có luận án: “Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính
nhằm thúc đẩy xã hội hóa giáo dục ở Việt Nam” của Nghiên cứu sinh Bùi Tiến
Hanh (trường Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội). Tác giả đề xuất cần có chế độ
quản lý nguồn lực của xã hội đóng góp cho giáo dục mới phát huy được nguồn
lực này.
Luận văn: “Một số biện pháp tăng cường quản lý nhà nước về xã hội hóa
giáo dục mầm non tại Thành phố Hồ Chí Minh” của Nguyễn Mạnh Thắng (Học
viện Hành chính Quốc gia). Tác giả đề xuất các giải pháp quản lý nhà nước đối
với công tác XHHGD Mầm non ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 2009, nhóm nghiên cứu về giáo dục của Viện Nghiên cứu và Phát triển
Thành phố Hồ Chí Minh do TS. Dương Kiều Linh chủ nhiệm đề tài: “Hệ thống
giáo dục ngoài công lập ở Thành phố Hồ Chí Minh - Thực trạng và xu hướng
phát triển”. Công trình đã cung cấp nhiều số liệu điều tra về thực trạng đa dạng
hóa trường lớp ở Thành phố Hồ Chí Minh, hoàn cảnh lịch sử và quá trình phát
triển của hệ thống các trường ngoài công lập ở Thành phố.
TS. Hồ Thiệu Hùng trong bài báo nhan đề: “Xã hội hóa giáo dục - Thuật
ngữ cũ mà vẫn mới” trên tạp chí của Viện Nghiên cứu giáo dục. Tác giả căn cứ
vào nghị quyết 90-CP của Chính phủ (21/8/1997) và qua thực tiễn XHHGD ở
Thành phố Hồ Chí Minh, đã trình bày các hình thức chủ yếu của XHHGD.
4
Thành Ủy Thành phố Hồ Chí Minh đã giao nhiệm vụ cho Hội Khuyến học
Thành phố Hồ Chí Minh nghiên cứu đề tài: “Xây dựng mô hình xã hội học tập ở
Thành phố Hồ Chí Minh thời hội nhập” do Chủ tịch Hội Nguyễn Văn Hanh làm
chủ nhiệm. Công trình này đã khảo sát nhu cầu và điều kiện học tập của nhân dân
để đáp ứng cho tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Thành phố.
Công trình nghiên cứu: “Giáo dục Việt Nam 1945-2010” do Phạm Tất Dong chủ
biên, tác phẩm giới thiệu tình hình phát triển giáo dục của các địa phương. Các
địa phương đều vận động XHHGD cho sự nghiệp phát triển giáo dục.
TS. Huỳnh Công Minh, nguyên Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Thành
phố Hồ Chí Minh, đã tiếp cận, nghiên cứu hệ thống giáo dục của một số nước và
đã liên hệ với hoạt động Giáo dục ở Thành phố trong tác phẩm: “Giáo dục và
Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh hội nhập các nền Giáo dục tiên tiến”.
Trường Cán bộ quản lý Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức Hội
thảo khoa học: “Đổi mới Quản lý và Nâng cao chất lượng Giáo dục - Đào tạo
các tỉnh phía Nam”. Trong hội thảo, có nhiều tham luận liên quan đến vấn đề
XHHGD.
Trong bài viết:“Xã hội hóa giáo dục thời lập quốc”, tác giả Bá Mạnh thuật
lại bài học dựa vào sức dân trong công tác chống mù chữ năm 1945 của Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Gần đây, vấn đề XHHGD ở Việt Nam cũng được sự quan tâm của Ngân
hàng thế giới, các học giả, nhà quản lý giáo dục ở nước ngoài.
TS. Yeow Poon có công trình nghiên cứu: “Socialization of Education in
Việt Nam - Lessons from international experience”, tác giả nhận định chủ trương
XHHGD như hình thức đối tác Công - Tư (Public - Private partnerships = PPP)
là cách để cải thiện tài chính và mở rộng quy mô giáo dục.
Word Bank (Ngân hàng thế giới) có công trình nghiên cứu: “The role of the
private school sector in Education in Viêt Nam” do Paul Glewwe Harry và
Anthony Patrinos thực hiện. Sau phần giới thiệu tổng quan hệ thống giáo dục phổ
thông của Việt Nam, tác giả căn cứ vào mức thu nhập năm của Việt Nam - VLSS
(Vietnam Living Standards Survey) để khảo sát thành phần gia đình cho con em
học trường ngoài công lập.
Bài viết “Giáo dục Việt Nam – Nguồn gốc lịch sử, xu hướng phát triển gần
đây” của TS. Jonathan D. London. Tác giả nêu 3 vấn đề lớn của giáo dục Việt
Nam: mối tương quan giữa giáo dục và phát triển còn mâu thuẫn giữa nhu cầu và
khả năng đáp ứng; các chính sách phát triển giáo dục chưa mang tính ổn định lâu
dài; vấn đề chất lương đào tạo cũng cần đánh giá chính xác.
Tóm lại, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề thực
hiện XHHGD phổ thông ở Thành phố Hồ Chí Minh. Kế thừa các công trình
nghiên cứu về lĩnh vực này của các nhà nghiên cứu đi trước, các báo cáo chuyên
đề về XHHGD của Bộ và Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh; báo
cáo tổng kết của Hội Khuyến học Thành phố; báo cáo về công tác XHHGD của
5
một số đơn vị trường học trong cả nước Luận án nghiên cứu về quá trình thực
hiện XHHGD phổ thông ở Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1986 đến năm 2010.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động của giáo dục Thành phố theo chủ trương xã hội hóa bao gồm sự chỉ
đạo của Đảng, các cấp chính quyền và ngành Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh;
sự hưởng ứng của các lực lượng xã hội qua các hành động đóng góp cụ thể cho
sự nghiệp phát triển giáo dục qua 2 giai đoạn trong thời kỳ đổi mới, trong đó giai
đoạn đầu 1986-1996 là những hoạt động mang tính sáng tạo theo tinh thần xã hội
hóa và giai đoạn 1997-2010 là những điều chỉnh theo chủ trương XHHGD của
Đảng.
b. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu quá trình thực hiện XHHGD bậc học phổ thông ở
Thành phố Hồ Chí Minh với các giới hạn cụ thể sau:
+ Việc triển khai chủ trương XHHGD phổ thông ở Thành phố (Đảng bộ,
Chính quyền, ngành Giáo dục)
+ Các tổ chức đoàn thể, các tổ chức kinh tế và nhân dân hưởng ứng chủ
trương XHHGD qua các hành động cụ thể: vận động nguồn lực từ xã hội cho
giáo dục (đóng góp cho hệ thống trường công lập, xây dựng các quỹ học bổng,
nhân dân hiến đất xây dựng trường, lớp…), chăm lo giáo dục thế hệ trẻ…
+ Đa dạng hóa các hình thức đào tạo và trường, lớp, trong đó có cả loại hình
đào tạo không chính quy, liên kết quốc tế về giáo dục, du học tự túc
Phạm vi không gian nghiên cứu ở Thành phố Hồ Chí Minh với địa giới hành
chính đến thời điểm hiện nay (2010), thời gian từ năm 1986 đến nay được chia
làm 2 giai đoạn 1986-1996 và 1997-2010.
Việc phân kỳ làm 2 giai đoạn, chúng tôi căn cứ vào thời điểm năm 1986, khi
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI quyết định đổi mới đất nước, trong đó có đổi
mới giáo dục, năm 2010 được xem là năm cuối của kế hoạch phát triển giáo dục
giai đoạn 2001-2010.
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
a. Phương pháp nghiên cứu
Là chuyên ngành lịch sử nên luận án đã vận dụng Phương pháp lịch sử và
phương pháp logic xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu để làm rõ quá trình
hoạt động của giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh qua các giai đoạn thăng trầm
nhất là giai đoạn thập niên 80, bối cảnh lịch sử cụ thể dẫn đến sự khủng hoảng
của giáo dục Việt Nam trong đó có giáo dục Thành phố.
Đường lối đổi mới là quá trình tất yếu để đưa Việt Nam vào kỷ nguyên phát triển
mới đã làm thay đổi tư duy quản lý xã hội nói chung và cán bộ quản lý giáo dục
nói riêng. Trong đổi mới giáo dục, công tác XHHGD được xem là động lực quan
trọng của tiến trình đổi mới, qua đó làm rõ mối quan hệ giữa phát triển kinh tế
đối với sự phát triển của Giáo dục và Đào tạo trong điều kiện kinh tế - xã hội nhất
6
định ở Thành phố. Luận án cũng vận dụng phương pháp bổ trợ như: phương phân
tích tài liệu các văn bản, phương pháp xử lý số liệu thống kê Xã hội học, phương
pháp phân tích so sánh.
Ngoài ra luận án cũng thực hiện phỏng vấn một số cán bộ quản lý Giáo dục
các cấp của Thành phố nhằm xác định rõ những chuyển động tích cực của hoạt
động giáo dục khi thực hiện chủ trương XHHGD cũng như những hạn chế trong
quá trình thực hiện.
b. Nguồn tài liệu
- Các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc khóa VI, VII, VIII, IX, X, XI và các
Văn kiện Hội nghị Trung ương VI (khóa VI); Văn kiện Hội nghị Trung ương 4
(khóa VII); Văn kiện Hội nghị Trung ương 2 (khóa VIII); Tài liệu của Bộ Giáo
dục và Đào tạo: “Tiếp tục quán triệt Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII và triển
khai thi hành luật giáo dục”; Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí
Minh; Báo cáo tổng kết về công tác XHHGD của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Các văn bản pháp quy liên quan đến giáo dục của UBND Thành phố Hồ
Chí Minh, tài liệu Thống kê.
- Các báo cáo tổng kết tổng kết hàng năm từ 1986 đến 2011 của Sở Giáo
dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh; các công trình nghiên cứu có liên quan
đến đề tài (sách, tạp chí, internet ); các tài liệu thu thập từ những cơ sở giáo dục
ở Thành phố Hồ Chí Minh, tài liệu phỏng vấn, tham khảo ý kiến từ các nhà khoa
học, các nhà quản lý giáo dục, giáo viên quan tâm đến đề tài.
5. Đóng góp khoa học của luận án
- Trên cơ sở nghiên cứu, luận án phục dựng lại bức tranh chân thực về quá
trình thực hiện XHHGD ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới, luận
án cung cấp một số tư liệu và vấn đề thực tiễn cho các nhà nghiên cứu trong việc
nghiên cứu về mặt lý luận của công tác XHHGD vốn còn đang nhiều cách tiếp
cận khác nhau trong xã hội.
- Luận án góp phần vào việc tổng kết hoạt động thực tiễn công tác XHHGD
ở Thành phố Hồ Chí Minh, cung cấp cứ liệu thực tế cùng đề xuất các giải pháp
cho các cơ quan quản lý giáo dục các cấp ở Thành phố nghiên cứu đề ra kế hoạch
phát triển mới cho công tác XHHGD ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian
tới.
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ bước phát triển mới của
lịch sử giáo dục cả nước nói chung, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng từ khi đất
nước bước vào thời kỳ đổi mới đến nay.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận án có 4 chương
nội dung:
Chương 1: Tổng quan về xã hội hóa giáo dục và sự phát triển của giáo dục
ở Thành phố Hồ Chí Minh trước thời kỳ đổi mới.
Chương 2: Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện đổi mới phát triển giáo dục
7
Phổ thông theo hướng xã hội hóa (1986-1996).
Chương 3: Thành phố Hồ Chí Minh đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục phổ thông
(1997- 2010).
Chương 4: Nhận định và đánh giá về quá trình thực hiện xã hội hóa giáo dục phổ
thông ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN V XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC V SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
GIÁO DỤC Ở THNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỚC THỜI KỲ ĐỔI
MỚI
1.1 Về Khái niệm xã hội hóa giáo dục
1.1.1. Giáo dục và các hình thức giáo dục
Giáo dục là hoạt động hướng tới con người thông qua một hệ thống các biện
pháp tác động nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm; rèn luyện kỹ năng
và lối sống
1.1.2. Xã hội hóa
Là quá trình tương tác giữa cá nhân, nhóm với xã hội, cũng có thể hiểu xã
hội hóa là cộng đồng trách nhiệm giữa nhà nước và xã hội trong các hoạt động
kinh tế - văn hóa - xã hội nhằm làm cho xã hội ngày càng phát triển.
1.1.3. Xã hội hóa giáo dục
Xã hội hóa giáo dục được hiểu là toàn xã hội cùng tham gia vào công tác
giáo dục (all for Education, Educatin for all). Toàn xã hội được hiểu là toàn bộ hệ
thống chính trị, nhân dân và các lực lượng xã hội cùng tham gia có trách nhiệm
vào hoạt động giáo dục.
1.1.4 Mục tiêu, nội dung, hình thức thể hiện của xã hội hóa giáo dục
Tạo ra sự thay đổi về cơ bản cơ chế quản lý, vận hành và tổ chức hoạt động
giáo dục theo hướng dân chủ hóa, đa dạng hóa phù hợp với cơ chế của nền kinh
tế thị trường. Nâng cao nhận thức của mọi thành viên trong xã hội về vai trò của
giáo dục - đào tạo đối với sự nghiệp phát triển đất nước và của cá nhân.
1.2. Tình hình Giáo dục theo hướng xã hội hóa ở một số nước trên thế giới
Giáo dục các nước Trung Quốc, Singapore, Nhật bản, Phần Lan, Hoa Kỳ,
Hàn quốc đều đã và đang nỗ lực nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu học tập cho
nhân dân với sự hợp tác của toàn xã hội.
1.3. Sự phát triển giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh trước đổi mới (1986)
1.3.1. Vài nét về lịch sử Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh
Trong thời kỳ miền Nam bị tạm chiếm, Sài Gòn là Trung tâm chính trị - kinh
tế của toàn miền Nam với địa phận bao gồm:
- Đô thành Sài Gòn có 11 quận.
-Tỉnh Gia Định có 8 quận là: Bình Chánh, Hóc Môn, Nhà Bè, Cần Giờ,
Quảng Xuyên (rừng Sác), Tân Bình , Thủ Đức, Gò vấp.
Sau ngày giải phóng miền Nam, ngày 2/7/1976, Quốc hội khóa IV nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã ra nghị quyết đặt tên Thành phố Hồ Chí
8
Minh cho Sài Gòn và Gia Định. Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích 2.095 km²,
với dân số 3.498.120 người (1975) và đã phát triển lên 7.123.000 người (2009).
1.3.2. Giáo dục ở Sài Gòn - Gia Định trước giải phóng 1975
Khi Nguyễn Ánh thống nhất đất nước, thiết chế kinh tế - chính trị - xã hội ở
miền Nam bắt đầu theo quỹ đạo chung của cả nước. Tuy nhân dân chưa chú trọng
lắm với việc học tập lâu dài, nhưng Nam Kỳ cũng sản sinh được nhiều nhà văn
hóa lớn cho dân tộc như Gia Định Tam gia, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Đình Chiểu
(Đồ Chiểu), họ Mạc ở Hà Tiên thành lập Thi đàn Chiêu Anh Các để tập hợp các
nhà thơ, trí thức đương thời… Phan Thanh Giản là vị tiến sĩ đầu tiên của Nam Kỳ
Thời kỳ thuộc địa Pháp (1859-1954), Chính quyền thực dân thiết lập nền
giáo dục theo mẫu quốc ở Nam kỳ từ rất sớm, ngày 8/5/1861, Đô đốc Charner ký
Nghị định lập trường Collège d' Adran để đào tạo thông ngôn người Việt và cho
cả người Pháp muốn học tiếng Việt. Năm 1879, chính quyền thực dân có chủ
trương dùng giáo dục để phục vụ cho chính sách thuộc địa và đã thành lập Sở
Học chánh Nam Kỳ (Service de l´ Instruction) vào ngày 17/3/1879.
Thời kỳ thực dân mới, trong giai đoạn 1954-1958, miền Nam vẫn tiếp tục
duy trì nền giáo dục do Pháp thiết lập trước đây. Miền Nam dưới sự bảo trợ của
Mỹ nên đường lối xây dựng quốc gia (miền Nam) phải theo sự chỉ đạo của Mỹ.
Họ có kế hoạch thay đổi hệ thống giáo dục của Pháp trước đây bằng việc thiết lập
một hệ thống giáo dục theo kiểu Mỹ. Chính phủ Mỹ thông qua cơ quan Phát triển
quốc tế USAID (United state agency for international development) đã cử phái
đoàn cố vấn của Đại học Ohio sang miền Nam Việt Nam để hoạch định kế hoạch
phát triển nền giáo dục cho miền Nam.
1.3.3. Giáo dục cách mạng ở Thành phố Hồ Chí Minh 10 năm sau giải
phóng (1975-1985)
- Cải tạo nền Giáo dục cũ và xây dựng nền Giáo dục mới
Công lập hóa các trường tư thục; nhà nước thống nhất quản lý giáo dục; cải
tạo mạng lưới trường lớp; hình thành các loại hình học tập và ngành học; đào tạo
đội ngũ giáo viên; xây dựng lực lượng chính trị trong nhà trường.
- Ngành Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh triển khai hoạt động dạy và
học theo cơ chế bao cấp
Năm học đầu tiên ở miền Nam sau ngày giải phóng, hệ phổ thông thực hiện
theo chương trình giáo dục 12 năm gồm: Cấp I, học 5 năm; Cấp II, học 4 năm;
Cấp III, học 3 năm. Ngành Giáo dục hoạt động hoàn toàn dựa vào ngân sách nhà
nước, khi ngân sách nhà nước bị hạn chế thì hoạt động giáo dục phải đối mặt với
nhiều khó khăn.
Tình trạng thiếu trường lớp đã trở nên nghiêm trọng trước sự gia tăng học
sinh dẫn đến hậu quả là vùng nội thành và vùng ven mỗi năm còn tồn tại khoảng
800 lớp phải học ca 3 (1/10 tổng số các lớp học toàn Thành phố) thậm chí có một
số lớp phải học ca 4.
9
- Xây dựng hệ thống tổ chức và đội ngũ giáo viên cho nền Giáo dục cách
mạng
Lực lượng nòng cốt là: giáo viên kháng chiến tại chỗ; giáo viên ở chiến khu
về, giáo viên ở miền Bắc chi viện và hồi kết. Lực lượng giáo viên này cùng với
lực lượng giáo viên tại chỗ tham gia tiếp quản các trường và cơ sở giáo dục.
Chương 2
THNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THỰC HIỆN ĐỔI MỚI
PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG THEO HƯỚNG XÃ HỘI HÓA (1986-1996)
2.1. Bối cảnh đất nước và Thành phố Hồ Chí Minh khi bước vào đổi mới
Việt Nam tiến hành đổi mới trong hoàn cảnh khủng hoảng kinh tế, xã hội
nghiêm trọng, giai đoạn 1986-1990 là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Chủ
trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế dần dần khắc phục được những
yếu kém và có những bước phát triển.
Giai đoạn 1986-1990, cùng cả nước, tình hình phát triển kinh tế Thành phố
có khả quan hơn nhưng vẫn còn bị ảnh hưởng nặng bởi giai đoạn trước đó; nền
kinh tế chưa đi vào quỹ đạo của cơ chế thị trường; dân số tăng (tăng bình quân
năm là 3,4%) chủ yếu tăng cơ học. Đến cuối năm 1989, sau 3 năm thực hiện
chương trình phát triển giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ III, hoạt động của ngành Giáo dục
Thành phố Hồ Chí Minh có chuyển biến tích cực: đã phấn đầu “duy trì, củng cố”
để dần dần “ổn định sự nghiệp giáo dục; phục hồi nền nếp, kỷ luật, kỷ cương”.
Tuy nhiên Thành phố vẫn còn khoảng 65.000 người mù chữ trong độ tuổi từ 15
đến 35
2.2. Hình thành quan điểm về xã hội hóa giáo dục
Từ năm 1979, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành
Nghị quyết số 14/NQ-TW về cải cách giáo dục, trong đó có đặt vấn đề: “Cần có
kế hoạch dài hạn… động viên toàn xã hội gánh vác sự nghiệp giáo dục…”. Theo
tinh thần đó, Ban thư ký Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam ban hành chỉ thị
221/CT/TW (21/3/1980) về vận động toàn dân tham gia xây dựng sự nghiệp giáo
dục. Ngày 19/3/1981, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 124/CP về việc
thành lập Hội đồng Giáo dục các cấp với chức năng và nhiệm vụ cơ bản nhằm
động viên, tổ chức, phối hợp, sử dụng hợp lý các lực lượng xã hội và huy động
đúng khả năng của địa phương để phát triển sự nghiệp giáo dục ở địa phương…
Tháng 12 năm 1986, Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng Cộng sản
Việt Nam đề xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, giáo dục phải đáp ứng
cho yêu cầu của phát triển kinh tế và kêu gọi toàn xã hội cùng có trách nhiệm với
sự nghiệp giáo dục. Tiếp đó, ngày 10/10/1990, Bộ Giáo dục cùng Công đoàn
Giáo dục Việt Nam ra Thông tư liên tịch số 35/TTLT hướng dẫn toàn ngành mở
Đại hội Giáo dục cơ sở nhằm vận động xã hội chia sẻ trách nhiệm với ngành
Giáo dục, đồng thời đẩy mạnh phong trào: “Toàn dân tham gia xây dựng sự
nghiệp giáo dục”.
10
Năm 1991, Đảng Cộng sản Việt Nam họp Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VII tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới. Giáo dục và Đào tạo cùng với Khoa
học và Công nghệ được xem là quốc sách hàng đầu trong chiến lược phát triển
đất nước.
Năm 1993, Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) ra nghị quyết số
04/NQ-TW về việc tiếp tục đổi mới sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo. Đến Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VIII, chủ trương “xã hội hóa” trở thành quan điểm chung
để hoạch định chính sách phát triển các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết
theo tình thần xã hội hóa….
2.3. Buổi đầu thực hiện đổi mới Giáo dục ở Thành phố Hồ Chí Minh theo
hướng xã hội hóa (1986-1990)
2.3.1. Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh triển khai đổi mới giáo dục
Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ IV (10/1986), phần về
phương hướng nhiệm vụ giai đoạn 1986-1991 đối với Giáo dục và Đào tạo đã chỉ
đạo công tác giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng bộ và nhân dân Thành phố.
Phải làm tốt hơn nữa việc phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong việc
dạy chữ, dạy người và dạy nghề Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ
Chí Minh lần thứ IV đã mở ra hướng đổi mới hoạt động giáo dục, xác định trách
nhiệm cộng đồng xã hội đối với sự nghiệp phát triển giáo dục của địa phương
2.3.2. Tổ chức Đại hội Giáo dục các cấp
Nhằm nâng cao trách nhiệm của xã hội đối với giáo dục, Thành phố Hồ Chí
Minh đã chỉ đạo các quận, huyện tổ chức ĐHGD các cấp và UBND quận 10
được chọn là đơn vị đầu tiên của Thành phố tổ chức ĐHGD làm cơ sở để phát
động phong trào toàn dân chăm lo cho giáo dục, sau đó tiến hành ĐHGD toàn
Thành phố.
2.3.3. Ngành Giáo dục phối hợp với các lực lượng xã hội trong hoạt
động chống mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học
Thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị đầu tiên của các tỉnh, thành phía Nam
hoàn thành chỉ tiêu xóa mù chữ (cho 9,5 vạn người) sau 21 tháng kể từ ngày giải
phóng, tuy nhiên do 6 huyện ngoại thành cơ sở hạ tầng còn hạn chế, đời sống
người dân còn nhiều khó khăn (chủ yếu làm nông nghiệp), các quận nội thành có
dân nhập cư nhiều, trẻ em các dân tộc (Hoa, Khmer, Chăm…) không thích đến
trường …Tình trạng mù chữ, bỏ học từ cấp I trong độ tuổi từ 6 đến 14 ở 6 huyện
ngoại thành có chiều hướng phát triển. Do đó công tác Xóa mù chữ và Phổ cập
tiểu học được xem là công tác trọng tâm của Thành phố Hồ Chí Minh.
2.3.4. Ngành Giáo dục phối hợp với các lực lượng xã hội ngăn chặn
tình trạng học sinh bỏ học; từng bước nâng cao hiệu suất đào tạo
Cuối những năm 80 tình hình suy thoái kinh tế đã tác động mạnh đến đời
sống của nhân dân, học sinh bỏ học nhiều để phụ giúp kinh tế gia đình, cha mẹ ít
có điều kiện quan tâm đến việc học hành của con em. Tình trạng này ảnh hưởng
nghiêm trọng đến hiệu suất đào tạo và sự phát triển trình độ dân trí. Biện pháp
11
thực hiện là huy động các ban ngành, Chính quyền và các đoàn thể, các dòng
họ… cùng phối hợp với ngành Giáo dục tham gia vào việc ngăn chặn tình trạng
bỏ học
2.4. Những thể nghiệm xã hội hóa giáo dục ở Thành phố Hồ Chí Minh
(1990-1996)
2.4.1. Triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII, huy động
toàn xã hội làm giáo dục.
Bước vào thập niên 90, ngành Giáo dục cả nước nói chung và Thành phố
Hồ Chí Minh nói riêng vẫn còn nhiều khó khăn, ngân sách có cải thiện nhưng
chưa đủ cho nhu cầu hoạt động. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII:
“Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo”, ngày 26/5/1993 Ban chấp
hành Đảng bộ Thành phố họp và ra Nghị quyết 15/NQ-TU đã đề ra nhiều biện
pháp nhằm đẩy mạnh phát triển giáo dục: xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng lực lượng khoa học và kỹ thuật, khoa học xã hội và chuyên môn
nghiệp vụ phải đi trước một bước so với phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt chăm
lo cho giáo dục ngoại thành, vùng căn cứ cách mạng, vùng dân cư có lao động
nghèo và các trẻ em bất hạnh, khuyết tật.
2.4.2. Nhân rộng Đại hội Giáo dục các cấp
Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục phát huy xã hội hóa công tác giáo dục
với mục tiêu trước mắt là vận động nguồn lực trong dân để phát triển giáo dục
theo yêu cầu, nhiệm vụ mới.Thành phố đã tiến hành nhân rộng Đại hội Giáo dục
các cấp để đẩy mạnh tiến trình đổi mới sự nghiệp phát triển giáo dục ở Thành
phố.
2.4.3. Vận động các đoàn thể quần chúng chống tình trạng lưu ban, bỏ
học
Tình trạng học sinh bỏ học, lưu ban do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu
do hoàn cảnh khó khăn về kinh tế đã ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu suất đào tạo.
Nhân dân và các tổ chức đoàn thể đã kết hợp với ngành Giáo dục bằng các hoạt
động cụ thể theo đối tượng và chức năng từng ngành
2.4.4. Vận động xã hội trong hoạt động cải thiện đời sống giáo viên
Đời sống khó khăn là nguyên nhân chủ yếu khiến một bộ phận giáo viên
bỏ việc hoặc chuyển ngành, Thành phố đã có nhiều biện pháp vận động xã hội
cùng nhà nước chăm lo cho đời sống giáo viên: Thành phố ban hành một số chế
độ nhằm khuyến khích giáo viên khu vực ngoại thành, các quận huyện tùy theo
khả năng kinh tế của địa phương để hỗ trợ cho đời sống giáo viên; Sở và các
Phòng Giáo dục vận động các cơ sở kinh tế nhận đỡ đầu cho các trường học…
12
2.4.5. Tăng cường đáp ứng nhu cầu học tập cho đối tượng người khuyết
tật
Trong điều kiện mới của sự nghiệp phát triển giáo dục, hoạt động giáo dục -
đào tạo phải đáp ứng nhu cầu học tập của mọi lứa tuổi, mọi thành phần trong
nhân dân và đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời cho mọi người trong đó có đối
tượng trẻ khuyết tật cần được quan tâm đào tạo về văn hóa, nghề nghiệp để các
đối tượng này có điều kiện đóng góp vào sự nghiệp phát triển chung của xã hội.
Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đã ra Nghị quyết 15/NQ-TU về lĩnh vực Giáo
dục và Đào tạo, trong đó có nhấn mạnh đến việc đào tạo đối với đối tượng trẻ
khuyết tật.
2.4.6. Huy động sức dân đóng góp xây dựng, sửa chữa trường lớp
Cơ sở vật chất trường lớp luôn là vấn đề khó khăn của giáo dục Thành
phố, trong lúc đó lượng học sinh ngày càng tăng do tình trạng di dân đến Thành
phố lập nghiệp. Trong lúc ngân sách chưa thể đáp ứng kịp, nguồn lực từ xã hội đã
kịp thời giúp ngành Giáo dục khắc phục các khó khăn nêu trên. Có sự đóng góp
của xã hội nên cơ sở vật chất trường lớp đã đảm bảo hơn cho hoạt động dạy và
học.
2.4.7. Hình thành hợp tác quốc tế trong Giáo dục&Đào tạo để khai thác
nguồn lực từ bên ngoài
Sự thành công của đường lối đổi mới về công tác đối ngoại của Đảng nên
các hoạt động xã hội (trong đó có ngành Giáo dục) có điều kiện giao lưu quốc tế
rộng rãi qua các chương trình hợp tác, liên kết đào tạo và tiếp nhận viện trợ của
các tổ chức, trường học của nhiều nước trên thế giới. Qua đó ngành Giáo dục
Thành phố Hồ Chí Minh đã cử nhiều đoàn công tác là giáo viên, cán bộ công
nhân viên, học sinh tham quan học tập ở một số nước, đồng thời cũng tiếp nhận
các chuyên gia, giáo viên nước ngoài đến thành phố Hồ Chí Minh giảng dạy và
hàng trăm học sinh với nhiều quốc tịch khác nhau đến học tập.
2.4.8. Mở rộng quy mô trường lớp - thực nghiệm đa dạng hóa loại hình
đào tạo và trường lớp
Đa dạng hóa cũng được hiểu là các đơn vị đào tạo thuộc hệ công lập
khai thác có hiệu quả cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên, công nhân viên sẵn có
để thực hiện công tác đào tạo nâng cao chất lượng và phát triển về số lượng nhằm
đáp ứng nhu cầu học tập cho nhân dân, nhu cầu lao động chuyên môn trong sản
xuất trong lúc ngân sách nhà nước chưa thể mở rộng về quy mô. Từ đó các cơ sở
đào tạo công lập đã tổ chức các chương trình đào tạo khác nhau, chủ yếu là các
ngành nghề mà xã hội đang có nhu cầu các trường cơ sở đào tạo được linh hoạt
trong công tác chiêu sinh đào tạo theo khả năng của đơn vị mình vừa góp phần
đáp ứng nhu cầu học tập cho nhân dân, vừa tăng nguồn thu để cải thiện đời sống
giáo viên - công nhân viên, vừa có tiền để cải tạo cơ sở trường lớp trong lúc ngân
sách nhà nước còn khó khăn.
13
Hình thành hệ B trong trường công
Từ năm học 1986-1987, Thành phố cho phép ngành Giáo dục được mở
hệ B (có thu học phí cao hơn) trong các trường công lập nhằm huy động nguồn
lực xã hội để giảm bớt khó khăn cho các trường và đời sống giáo viên.
Trường Bán công
Bắt đầu từ năm học 1989-1990, việc đa dạng hóa các trường cấp THCS
chuyển động theo mô hình trường bán công với hai Trường Bán công Tân Bình
quận Tân Bình và Diên Hồng quận 10.
Trường Dân lập
Ngoài loại hình trường bán công, hệ thống trường dân lập cũng đã hình
thành và phát triển.
CHƯƠNG 3
THNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẨY MẠNH XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG (1997- 2010)
3.1. Những điều kiện mới của công tác xã hội hóa giáo dục ở Thành phố Hồ
Chí Minh
Đến năm 1996, sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, Việt
Nam đã thu được những thành tựu to lớn, phát triển kinh tế rất khả quan, trong 5
năm (1991-1995) tăng trưởng GDP bình quân là 8,2%. Về quan hệ quốc tế có sự
phát triển mạnh, phá thế bị bao vây, cấm vận, tháng 7 năm 1995 Việt Nam và
Hoa Kỳ chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Đại hội VIII đề ra
“Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000”.
Trong giai đoạn 1996-2003, tăng trưởng kinh tế của Thành phố do sự
đóng góp của các thành phần kinh tế, các ngành trong đó ngành công nghiệp và
xây dựng có bước phát triển khá, ngoài ra Thành phố cũng thu hút được nguồn
vốn đầu tư từ nước ngoài.
Về địa giới hành chính, ngày 6/1/1997, Chính phủ ban hành Nghị định
03/CP thành lập các quận mới ở Thành phố là các quận: Thủ Đức, quận 2, quận
9, quận 7 và quận 12. Các quận mới thành lập vốn trước đó là khu vực nông
nghiệp nên cơ sở hạ tầng còn rất hạn chế, do đó nhu cầu xây dựng trường lớp mới
càng trở nên cấp bách.
3.2. Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện xã hội hóa giáo dục (1997-2000)
3.2.1. Vận dụng Chủ trương xã hội hóa giáo dục của ngành Giáo dục
Thành phố Hồ Chí Minh
Quán triệt tinh thần chỉ đạo thực hiện xã hội hóa giáo dục của Đảng và
Nhà nước, ngày 22/1/1997, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh ban hành chương
trình hành động số 05/CTr-TU về thực hiện chiến lược phát triển sự nghiệp Giáo
dục và Đào tạo Thành phố và những nhiệm vụ chủ yếu đến năm 2000 giao trách
nhiệm cho các ban, ngành cùng phối hợp với ngành Giáo dục thực hiện các
nhiệm vụ chính sau “Chấn chỉnh kỷ cương học đường; tiếp tục đổi mới giáo dục
để nâng cao chất lượng đào tạo; chăm lo xây dựng đội ngũ thầy cô giáo nhằm
14
tạo nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội” Giai đoạn 1997-2000, công tác
XHHGD ở Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục phát huy các biện pháp vận động
nguồn lực từ xã hội như giai đoạn trước để tạo điều kiện cho giáo dục phát triển
3.2.2. Đẩy mạnh phổ cập giáo dục Trung học cơ sở
Từ năm học 1996-1997, Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố chỉ đạo
thực hiện phổ cập trung học cơ sở với mục tiêu phấn đấu cụ thể từng quận cho
năm học này bằng việc thực hiện xã hội hóa với sự hợp tác của các lực lượng xã
hội. Để thực hiện công tác phổ cập được tốt, Đảng bộ và Chính quyền Thành phố
Hồ Chí Minh, Sở Giáo dục và Đào tạo đề ra kế hoạch để vận động nhân dân cùng
thực hiện và chính nhân dân tự giác thực hiện thì kế hoạch mới thành công.
3.2.3. Tiếp tục phát triển trường ngoài công lập
Ngân sách dành cho giáo dục tăng, nhưng số lượng học sinh ngày càng
tăng là khó khăn lớn nhất của ngành Giáo dục Thành phố. Thành Phố đẩy mạnh
việc thành lập trường ngoài công lập để đáp ứng nhu cầu học tập cho nhân dân.
năm học 1997-1998 ở Thành phố Hồ Chí Minh có 1.236.467 học sinh các bậc
học, tăng 45.701 học sinh so với năm học 1996-1997 riêng học sinh trung học cơ
sở và trung học phổ thông tăng 14.000 học sinh, trong khi đó ngân sách của
Thành phố Hồ Chí Minh chỉ đầu tư thêm 400 phòng học cho các bậc học. Hệ
thống trường ngoài công lập cần được tạo điều kiện phát triển để đáp ứng nhu cầu
học tập cho nhân dân.
3.2.4. Năm 1999 là “Năm giáo dục” của Thành phố Hồ Chí Minh
Nhằm đẩy mạnh tiến trình phát triển giáo dục theo chủ trương xã hội hóa,
Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố tham mưu với Thành ủy chọn năm 1999 làm
“Năm Giáo dục” của Thành phố. Ngày 18/1/1999, Thành ủy Thành phố Hồ Chí
Minh ra chỉ thị 23-CT/TU về việc thực hiện “Năm Giáo dục 1999” của Thành
phố. “Năm 1999 - Năm Giáo dục của Thành phố Hồ Chí Minh” với 4 nội dung:
Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo; xây dựng cơ sở vật chất; chăm lo đội
ngũ cán bộ giáo viên, công nhân viên; xây dựng môi trường giáo dục. Trong năm
1999, UBND Thành phố Hồ Chí Minh đã duyệt chi ngân sách 156,3 tỷ đồng để
đầu tư xây mới và sửa chữa lớn trường lớp, trong đó dành 2/3 số tiền cho khu vực
ngoại thành và các quận mới. Ngoài ngân sách được cấp, ngành Giáo dục còn
được cho ứng vốn trước năm 2000 để xây trường với số tiền là 160,4 tỷ đồng.
3.3. Thực hiện xã hội hóa giáo dục theo “Chiến lực phát triển giáo dục 2001-
2010”
Ngày 28/12/2001, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 201/2001/QĐ-
TTg về “Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010”.Theo đó ngành Giáo dục
Thành phố Hồ Chí Minh đã đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2010 phù hợp với
tình hình của Thành phố, với các nội dung: tập trung đầu tư, chăm lo và phát triển
sự nghiệp giáo dục; tạo sự chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục toàn diện;
nâng cao chất lượng giáo dục mũi nhọn; mở rộng giáo lưu hợp tác quốc tế về
giáo dục; đẩy mạnh thực hiện chủ trương XHHGD.
15
3.3.1 Tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất cho giáo dục
Nhằm tạo chuyển biến về cơ sở trường lớp (xóa bỏ ca ba, xóa trường tranh
tre, giảm tải các lớp học), Thành phố chỉ đạo Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp
với các ban ngành chức năng hoàn thành quy hoạch chi tiết hệ thống trường lớp
trên địa bàn Thành phố nhằm tạo quỹ đất cho giáo dục. Thành phố cũng giao cho
ngành Giáo dục nguồn vốn vay của Ngân hàng Thế giới và vận động các tổ chức
phi chính phủ tài trợ xây mới trường học. Tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong
và ngoài nước thành lập các trường từ cấp mầm non đến đại học…
3.3.2. Nguồn lực vật chất nhân dân đóng góp cho ngành Giáo dục
Ngoài học phí, tiền cơ sở vật chất đóng cho các trường công lập, nhân dân
hiến đất xây trường, nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh còn tham gia đóng góp
cho các quỹ học bổng mà các Đoàn thể, Hội (chi hội) Khuyến học vận động. Phụ
huynh học sinh đóng góp mua trang thiết bị đồ dùng dạy học cho các trường như
máy tính, phòng lab, đèn chiếu sáng khi trường có yêu cầu. Khi có chủ trương
đa dạng hóa trường lớp, hệ thống trường ngoài công lập đã phát triển bằng 100%
nguồn vốn của xã hội.
3.3.3. Đẩy mạnh đa dạng hóa các loại hình trường lớp
Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động
Giáo dục, Y tế, Văn hóa và Thể dục Thể thao và nghị quyết số 20/2005/QĐ-
BGD&ĐT phê duyệt Đề án: “Quy hoạch phát triển xã hội hóa giáo dục giai
đoạn 2005-2010” Trong đó có kế hoạch phân luồng học sinh giữa hệ công lập và
ngoài công lập như sau:
- Đối với nhà trẻ ngoài công lập chiếm 80% số các cháu, mẫu giáo ngoài
công lập chiếm 70% số các cháu.
- Đối với giáo dục phổ thông, phấn đấu đến năm 2010 đạt tỉ lệ bình quân
trong cả nước số học sinh tiểu học ngoài công lập chiếm 1%, Trung học cơ sở
ngoài công lập chiếm 3,5% và Trung học phổ thông ngoài công lập chiếm 40%.
Trên cơ sở này, hệ thống trường Phổ thông dân lập có điều kiện phát triển, số
lượng trường dân lập ra đời ngày càng nhiều và nhận thức quản lý đã có thay đổi
khi thấy sự phát triển của hệ thống trường ngoài công lập đã đóng góp không nhỏ
cho quá trính phát triển giáo dục ở Thành phố Hồ Chí Minh.
3.3.4. Phổ cập giáo dục các bậc học để nâng cao trình độ dân trí
Trình độ dân trí quyết định đến con đường phát triển của quốc gia, nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc tế. Công tác phổ cập giáo dục các cấp ở phổ thông sẽ
tạo nền tảng cho giáo dục nghề và đại học để tạo nguồn nhân lực cho nhu cầu
phát triển. Thành phố Hồ Chí Minh sau khi hoàn thành xóa mù chữ, ngành Giáo
dục đã thực hiện phổ cấp giáo dục tiểu học cho các đối tượng vửa thoát mù chữ
để củng cố và giữ vững thành tích này, song song đó tiếp tục đẩy mạnh phổ cập
cấp THCS.
16
3.3.5. Nhân rộng các Trung tâm Học tập Cộng đồng; thực hiện công
bằng trong giáo dục
Ở Thành phố Hồ Chí Minh, các Trung tâm Học tập Cộng đồng hình thành từ
năm 2002 nhằm đáp ứng nhu cầu học tập cho nhân dân, tiến tới xây dựng xã hội
học tập. Ở Thành phố Hồ Chí Minh, các Trung tâm Học tập cộng đồng phát triển
nhanh: năm học 2003-2004 có 16 trung tâm, đến năm học 2009-2010 đã phát
triển lên 250 trung tâm. Thành Ủy, HĐND, UBND Thành phố Hồ Chí Minh cũng
chỉ đạo cho ngành Giáo dục, Hội Nông dân và các ban ngành chức năng chăm lo
cho con em nông dân, con em các gia đình diện xóa đói giảm nghèo được đến
trường
3.3.6. Tăng cường liên kết quốc tế về giáo dục - đào tạo và khuyến khích
du học tự túc
Ngành Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh xác định công tác
đối ngoại cũng là một kênh để thực hiện xã hội hóa giáo dục, từ năm 1992, ngành
Giáo dục và Đào tạo Thành phố đã xây dựng các mối quan hệ liên kết quốc tế về
giáo dục đồng thời khuyến khích học sinh đi du học theo nhiều hình thức: du học
tự túc; du học Trao đổi văn hóa; du học tại chỗ. Thành phố cũng tạo điều kiện
cho nước ngoài đầu tư thành lập trường ở Thành phố. Năm 2006, ngành Giáo dục
và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu thực hiện chủ trương hội nhập quốc
tế và khu vực theo 3 lộ trình căn bản: một là tạo điều kiện để học sinh du học,
giáo viên tham gia tu nghiệp quốc tế; hai là mở rộng liên kết đào tạo, thu hút các
nhà đầu tư nước ngoài, du nhập chương trình và phương pháp đào tạo tiên tiến;
ba là tích cực xây dựng nhà trường Việt Nam theo chuẩn quốc tế.
CHƯƠNG 4
NHẬN ĐỊNH V ĐÁNH GIÁ V QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN XÃ HỘI
HÓA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở THNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ
NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2010
4.1. Thành quả của công tác xã hội hóa giáo dục ở Thành phố Hồ Chí Minh
(1986-2010)
4.1.1. Đảm bảo trường lớp, đáp ứng nhu cầu học tập cho nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh đã tăng dần tỉ trọng đầu tư từ ngân sách cho giáo
dục (bình quân tăng gần 1.000 tỉ đồng/năm); ngoài ra sự nghiệp Giáo dục của
Thành phố Hồ Chí Minh cũng có được sự đóng góp nguồn lực của nhân dân và
kiều bào; Thành phố Hồ Chí Minh đã hình thành sự hợp tác quốc tế về Giáo dục
và Đào tạo nên các tổ chức Giáo dục nước ngoài đầu tư thành lập trường (từ mầm
non đến đại học) ngày càng phát triển. Ở Thành phố, từ chỗ học sinh phải học ca
3, đến nay đã có 80% học sinh tiểu học được học bán trú; 100% trẻ 6 tuổi vào lớp
1; 32,3% học sinh THCS học 2 buổi/ngày; 15,4% học sinh THPT học 2
buổi/ngày; 100% học sinh phổ thông được học ngoại ngữ, vi tính.
17
4.1.2. Xã hội đã hình thành ý thức trách nhiệm với sự nghiệp phát triển
Giáo dục – Đào tạo
Chủ trương XHHGD đã tạo điều kiện cho nhân dân tham gia vào hoạt động
giáo dục một cách chủ động; khơi dạy được ý thức trách nhiệm cao của nhân dân
đối với tiền đồ của phát triển giáo dục. Nhân dân và các lực lượng xã hội ở Thành
phố Hồ Chí Minh đã thực sự chia sẻ trách nhiệm với ngành Giáo dục trong mọi
mặt hoạt động vì sự nghiệp phát triển chung. Các quỹ học bổng, các chương trình
vận động đóng góp từ xã hội nhằm tạo cơ hội học tập cho mọi đối tượng trở
thành sinh hoạt thường xuyên
4.1.3. Bước đầu hình thành xã hội học tập
Xã hội hóa giáo dục đã khơi dạy tinh thần hiếu học của nhân dân, là cơ sở cho
việc hình thành xã hội học tập. Tính đến năm 2010, Thành phố Hồ Chí Minh có
250 Trung tâm học tập cộng đồng, đạt tỉ lệ 77,63%, là nơi cung ứng nhu cầu học
tập không chính quy cho cư dân địa phương. Hệ thống Trung tâm giáo dục
thường xuyên đã có đủ ở 24/24 quận, huyện. Các Trung tâm này kết hợp việc
giáo dục văn hóa như hệ phổ thông và dạy nghề. Hệ thống các cơ sở văn hóa
ngoài giờ có gần 600 cơ sở với nhiều chương trình đào tạo đa dạng. Với quy mô
hiện có, các cơ sở giáo dục và đào tạo ở Thành phố Hồ Chí Minh hoạt động với
tần suất cao (ngày và đêm) để đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của các thành
phần cư dân.
4.2 Vai trò, tác dụng của xã hội hóa giáo dục
4.2.1. Xã hội hóa góp phần mở rộng quy mô giáo dục
Hệ thống trường lớp ở Thành phố phát triển cả ở hệ công lập và ngoài công
lập; ngoài hệ thống trường phổ thông, 24 Trung tâm Giáo dục Thường xuyên phủ
đều các quận, huyện; số lượng Trung tâm Học tập Cộng đồng ngày càng phát
triển đến cấp xã, phường; các trường có vốn đầu tư nước ngoài cũng phát triển…
4.2.2. Xã hội hóa giáo dục đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của các tầng
lớp nhân dân
Xã hội phát triển kéo theo nhu cầu cuộc sống cũng đòi hỏi cao hơn, về giáo
dục, yêu cầu hưởng thụ giáo dục của xã hội ngày càng cao và đa dạng. Cơ sở vật
chất trường, lớp; chương trình đào tạo; điều kiện và thời gian học tập; thành phần
giảng viên…đã trở thành tiêu chí cạnh tranh trong giáo dục và đào tạo. Hoạt động
giáo dục và đào tạo ở Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng đa dạng về loại hình,
quy mô và chương trình…có khả năng đáp ứng ngày càng cao cho nhu cầu học
tập của xã hội.
4.2.3. Xã hội hóa giáo dục góp phần nâng cao chất lượng giáo viên
Xã hội hóa giáo dục đã làm cho hoạt động giáo dục phong phú và đa dạng,
đáp ứng nhu cầu học tập của mọi đối tượng người học. Khi hoạt động giáo dục có
sự chuyển động tích cực với hệ thống trường, cơ sở đào tạo ngoài công lập ra đời
và phát triển tạo công việc cho giáo viên nhiều hơn, đồng thời tính cạnh tranh
18
cũng cao hơn, giáo viên phải đầu tư để nâng cao trình độ và chuyên môn nhằm
đáp ứng cho yêu cầu giảng dạy đồng thời khẳng định mình
4.2.4. Xã hội hóa giáo dục góp phần nâng cao trình độ dân trí
Trong xu thế toàn cầu, sự cạnh tranh cao dẫn đến nhu cầu học tập ngày càng
tăng. Chủ trương XHHGD tạo điều kiện cho giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh có
thêm nguồn lực để đáp ứng nhu cầu học tập cho nhân dân, yếu tố quan trọng là
chính nhân dân nhận thức được việc học tập rất quan trọng cho cuộc sống, nên
mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi đều nỗ lực học tập, từ đó tạo nên phong trào học tập
trong toàn Thành phố.XHHGD vừa tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu học tập của xã
hội, đồng thời khơi dạy tinh thần hiếu học trong nhân dân.
4.2.5. Xã hội hóa giáo dục thúc đẩy quá trình hình thành Xã hội học tập
Nền tảng để hình thành Xã hội học tập chính là nhận thức của người dân về
tầm quan trọng của việc học tập cho chính họ và cho sự phát triển chung của xã
hội. Khi nhận thức học tập trở thành nhu cầu của cuộc sống phát triển trong nhân
dân thì xã hội học tập mới định hình để phát triển.
4.3. Những vấn đề đang đặt ra từ công tác xã hội hóa giáo dục ở Thành phố
Hồ Chí Minh
4.3.1. Về khả năng huy động sức dân để phát triển giáo dục
Chủ trương XHHGD đã tạo sự chủ động cho nhân dân tham gia vào sự
nghiệp giáo dục bằng nhiều hình thức đóng góp tùy vào khả năng của người dân
(hiến đất xây trường học, đưa rước học sinh, góp công sửa chữa trường lớp, giữ
gìn cảnh quan sư phạm quanh trường học, khuyên bảo học sinh cá biệt, cảnh báo
cho nhà trường những hiện tượng tiêu cực ngoài cổng trường….) và quan trọng là
nhân dân tự đầu tư thành lập trường tham gia vào công tác đào tạo đã làm cho
quy mô trường lớp phát triển
4.3.2. Về nguồn lực đóng góp của dân
Nguồn lực của dân rất đa dạng, khi nhân dân nhận trách nhiệm với sự nghiệp
phát triển giáo dục, nhân dân sẽ tự giác tham gia đóng góp cho giáo dục theo khả
năng của nhân dân (tinh thần hoặc vật chất). Đóng góp của dân không chỉ có tiền
mà là bất cứ gì có lợi cho giáo dục, nhân dân sẵn sàng đóng góp theo khả năng.
4.3.3. Dựa vào nhu cầu học tập của xã hội để phát triển giáo dục và đào
tạo
Trong cơ chế kinh tế thị trường, công tác đào tạo cũng như một dạng dịch vụ,
muốn tồn tại phải đáp ứng đúng nhu cầu học tập của xã hội. Do đó các cơ sở đào
tạo luôn cập nhật với nhu cầu trên để tổ chức các nội dung đào tạo theo những
hình thức linh hoạt nhằm tạo sự thuận lợi cho các đối tượng người học khác nhau
(đào tạo ngắn hạn, dài hạn, cơ bản, nâng cao…). Nhu cầu học tập của xã hội rất
đa dạng, các cơ sở giáo dục (công lập và ngoài công lập) nếu biết nắm bắt được
nhu cầu học tập của xã hội để đáp ứng sẽ có điều kiện phát triển, đồng thời tạo
thương hiệu lâu dài (đương nhiên chất lượng đào tạo phải đảm bảo)
19
4.3.4. Sự năng động, linh hoạt của các địa phương trong đổi mới cơ chế
quản lý
Chủ trương xã hội hóa giáo dục mang tính định hướng, các địa phương, cơ sở
đào tạo tùy vào hoàn cảnh cụ thể của đơn vị mà có biện pháp vận động phù hợp.
Kết quả của công tác vận động xã hội tùy thuộc vào khả năng, tính linh hoạt của
lãnh đạo địa phương, lãnh đạo quản lý giáo dục các cấp. Từ thực tiễn chủ động
đổi mới hoạt động của ngành, các cơ sở giáo dục đã cung cấp cho Lãnh đạo
Thành phố Hồ Chí Minh, Sở Giáo dục và Đào tạo những mô hình vận động sức
dân theo chủ trương xã hội hóa, qua đó UBND cùng Sở Giáo dục và Đào tạo
Thành phố Hồ Chí Minh đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm, đề ra kế hoạch chỉ
đạo thống nhất trong toàn Thành phố.
4.4. Những hạn chế của công tác xã hội hóa giáo dục ở Thành phố Hồ Chí
Minh
Những thành quả mà giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh đạt được là cả một quá
trình phấn đấu của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố, tuy nhiên
thành quả trên chưa tương xứng với tầm vóc của Thành phố, còn một số hạn chế:
số trường lớp (cả công lập và dân lập) đạt chuẩn chưa cao; đời sống của giáo viên
còn thấp so với mặt bằng chung; chưa có cơ chế kiểm tra và quản lý nguồn lực
của xã hội đóng góp cho giáo dục; quy mô trường lớp phát triển về lượng, còn
hạn chế về chất; hoạt động đóng góp cho giáo dục của các lực lượng xã hội còn
mang tính phong trào.
4.5 Bài học kinh nghiệm về thực hiện xã hội hóa giáo dục ở Thành phố Hồ
Chí Minh
a. Quán triệt quan điểm của Đảng, Nhà nước và Bộ Giáo dục và Đào tạo về
phát triển giáo dục theo chủ trương xã hội hóa, chủ động triển khai từ thí điểm
đến đại trà các biện pháp xã hội hóa giáo dục.
b. Mạnh dạn tạo điều kiện cho các phòng Giáo dục quận, huyện, các trường
chủ động tháo gỡ khó khăn, phát huy sáng kiến tạo ra nhiều điển hình về xã hội
hóa giáo dục từ cơ sở
c. Đẩy mạnh việc tổ chức vận động huy động sức dân, cả xã hội chăm lo cho
giáo dục bằng nhiều nội dung và hình thức thích hợp, phù hợp với các đối tượng;
sử dụng hiệu quả sự đóng góp của dân.
d. Giữ vững vai trò chủ lực trong đầu tư ngân sách và tăng cường quản lý nhà
nước trong công tác XHHGD.
4.6 Những đề xuất để đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục
Một là, Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo cần tổ chức tổng kết thực hiện
xã hội hóa giáo dục từ các địa phương theo định kỳ để đánh giá và rút kinh
nghiệm, đồng thời chấn chỉnh những hạn chế, lạm dụng trong công tác xã hội hóa
giáo dục.
Hai là, việc định hướng phân luồng học sinh đến năm 2010 của Chính phủ,
số học sinh ngoài công lập ở cấp trung học phổ thông là 40%. Số học sinh này sẽ
20
theo học trường ngoài công lập và phải trả học phí, như vậy tính công bằng trong
giáo dục thiếu thuyết phục nếu học sinh không có điều kiện tài chánh để theo học
tiếp; học sinh, sinh viên trong hệ thống trường công lập được ngân sách cấp, còn
đối với hệ thống trường ngoài công lập không được ngân sách chi. Nhà nước cần
có chính sách cấp hoặc hỗ trợ học phí cho học sinh, sinh viên ở các trường ngoài
công lập, có vậy mới đảm bảo tính công bằng trong học tập.
Ba là, nhà nước cần có những cơ chế và chính sách phù hợp với yêu cầu đẩy
mạnh xã hội hóa giáo dục (về đất đai, thuế , bảo lãnh vay vốn…) để xã hội có
thêm nhiều trường ra trường, có chính sách ưu tiên để khuyến khích các tổ chức
xã hội hình thành trường ngoài công lập với mục đích phi lợi nhuận. Thành phố
cần tạo quỹ đất sạch để mời gọi các nhà đầu tư có tiềm lực mạnh thành lập
trường; để xây dựng xã hội học tập, nhà nước cần tăng cường đầu tư về vật chất
và nhân lực cho các Trung tâm học tập công đồng để các Trung tâm này hoạt
động có thực chất hơn, đáp ứng nhu cầu học thiết thực cho cộng đồng dân cư
từng địa phương.
Bốn là, mỗi quận, huyện nên có quỹ phát triển giáo dục, là nơi tập trung sự
đóng góp của nhân dân cho giáo dục do Hội Khuyến học quản lý, không để các
trường vận động riêng lẻ vừa tản mát vửa ảnh hưởng không tốt đến công tác xã
hội hóa giáo dục. Ban quản lý quỹ do Hội đồng Giáo dục địa phương bầu chọn
đồng thời quyết định việc xuất quỹ, trong điều kiện ngân sách hiện nay, Thành
phố nên đầu tư nhiều hơn cho các Trung tâm giáo dục thường xuyên để tạo sự
bình đẳng về cơ hội học tập cho nhân dân (bộ phận nhân dân còn khó khăn về
kinh tế).
KẾT LUẬN
Trong cơ chế bao cấp trước đây, Giáo dục được xem là ngành phúc lợi xã
hội được ngân sách nhà nước bao cấp toàn bộ, hệ thống trường học chỉ có hệ
công lập.Tình hình quốc tế có nhiều chuyển biến lớn, không thuận lợi cho công
cuộc xây dựng đất nước, Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã
hội. Ngân sách nhà nước không đủ sức bao cấp như trước đây. Ngành Giáo dục
và Đào tạo bị ảnh hưởng nặng nề. Số lượng học sinh, sinh viên tăng; trường lớp
vừa thiếu vừa xuống cấp; đời sống khó khăn khiến một bộ phận giáo viên bỏ
việc, học sinh bỏ học để phụ giúp kinh tế gia đình…Trước tình hình này, Hội
đồng Chính phủ đã ban hành Quyết định 124/CP (19/3/1981) về việc thành lập
Hội đồng Giáo dục nhằm vận động toàn xã hội cùng chăm lo cho sự nghiệp giáo
dục.
Có thêm nguồn lực từ nhân dân nhưng hoạt động của ngành Giáo dục vẫn
còn nhiều hạn chế do tình hình kinh tế đất nước chưa cải thiện, mức sống của
nhân dân còn thấp, cơ chế quản lý bao cấp không còn phù hợp với tình hình phát
triển của đất nước, cần có phương thức hoạt động và cơ chế quản lý mới.
21
Đường lối đổi mới của Đảng đã đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển
mới. Sự nghiệp phát triển giáo dục không chỉ là trách nhiệm của nhà nước, mà cả
xã hội cùng chung tay gánh vác, trong đó nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Thành phố Hồ Chí Minh, một thành phố lớn và đông dân nhất phía Nam
không nằm ngoài hoàn cảnh khó khăn chung của đất nước. Trong hoàn cảnh khó
khăn chung, ngành Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh đã dựa vào sức dân để ổn
định hoạt động. Quá trình thực hiện xã hội hóa giáo dục phổ thông ở Thành phố
Hồ Chí Minh từ năm 1986 đến năm 2010, đã trải qua 25 năm với 2 giai đoạn
đáng ghi nhận:
Giai đoạn đầu đổi mới 1986-1996, đây là giai đoạn khó khăn nhất của hoạt
động giáo dục ở Thành phố Hồ Chí Minh (và cả nươc). Trước những khó khăn
này, Đảng bộ và Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đã chỉ đạo các lực lượng
xã hội vận động nhân dân đóng góp hỗ trợ cho giáo dục theo chức năng của từng
tổ chức, các quận, huyện tìm biện pháp để hỗ trợ cho giáo dục, đồng thời kêu gọi
nhân dân cùng chia sẻ khó khăn với ngành Giáo dục.
Nguồn lực hỗ trợ của nhân dân, bước đầu từ những đóng góp vật chất của
phụ huynh học sinh cho những nhu cầu cấp bách ở các trường học đến các phong
trào chăm lo cho giáo dục do các lực lượng xã hội phát động như: “ Ánh sáng văn
hóa hè”; “học bổng Nguyễn Thị Minh Khai”…đã giúp ngành Giáo dục ổn định
hoạt động, đồng thời định hình hướng phát triển mới cho sự nghiệp giáo dục
Thành phố Hồ Chí Minh. Trong giai đoạn này, tuy chưa có chủ trương xã hội hóa
giáo dục, nhưng hoạt động của giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh đã phát triển
theo tinh thần xã hội hóa.
Đến cuối thập niên 80, không thể thụ động trông chờ vào sự đóng góp của
nhân dân, ngành Giáo dục đã chủ động tìm cách tháo gỡ khó khăn ngay từ trong
hệ thống tổ chức bằng cách tham mưu với lãnh đạo Đảng và chính quyền Thành
phố Hồ Chí Minh cho phép các trường được mở hệ B (thu học phí cao hơn hệ A)
để cải thiện nguồn thu. Việc làm này được xã hội đồng tình đã mở ra hướng phát
triển mới cho hoạt động giáo dục vốn chỉ có duy nhất hệ công lập.
Giai đoạn 1997-2010, khi đất nước đã trải qua 10 năm thực hiện đổi mới,
nền kinh tế đã phát triển vững chắc và quan điểm thực hiện xã hội hóa để phát
triển đất nước đã được Đảng khẳng định. Thành phố Hồ Chí Minh đạt được kết
quả khả quan trong phát triển kinh tế nên đã tăng chi ngân sách cho các hoạt
động kinh tế, văn hóa, xã hội, trong đó lĩnh vực giáo dục được ưu tiên. Sự nghiệp
giáo dục ở Thành phố có thêm điều kiện để phát triển khi chủ trương xã hội hóa
ban hành theo tinh thần chỉ đạo của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và được
cụ thể hóa bằng Nghị quyết 90/CP của Chính phủ.
Thành phố Hồ Chí Minh là một Thành phố lớn, được xem là trung tâm chính
trị, kinh tế, văn hóa của phía Nam, hoạt động kinh tế sôi động, có mối quan hệ
quốc tế rộng rãi nên hoạt động giáo dục có được quan hệ hợp tác quốc tế; lực
lượng người Việt ở nước ngoài có thân nhân ở Thành phố cũng đông. Thực hiện
22
chủ trương xã hội hóa giáo dục, Thành phố Hồ Chí Minh có được sự đóng góp
của các tổ chức quốc tế, lực lượng người Việt ở nước ngoài đã góp phần tăng
nguồn lực vật chất cho hoạt động giáo dục đồng thời tạo điều kiện cho Giáo dục
Thành phố Hồ Chí Minh tiếp cận với các hệ thống Giáo dục hiện đại trên thế
giới. Ngoài ra, Thành phố Hồ Chí Minh cũng có nhiều trường cao đẳng, đại học
(của Trung ương và của địa phương) nên người dân ở các tỉnh khác cũng đóng
góp cho hoạt động giáo dục của Thành phố. Ngoài việc huy động sức dân được
ngành Giáo dục vận dụng để đưa giáo dục phát triển, ngân sách Thành phố Hồ
Chí Minh cũng ưu tiên đầu tư cho giáo dục
Trong công tác xã hội hoá giáo dục, sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Chính
quyền các cấp quyết định đến sự phát triển của quá trình thực hiện. Ở Thành phố
Hồ Chí Minh, công tác giáo dục được đưa vào nghị quyết của Đảng bộ các cấp và
là tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ quản lý các cấp.
Chủ trương xã hội hóa giáo dục đã khuyến khích và tạo điều kiện cho xã hội
tham gia vào công tác giáo dục, qua đó hoạt động của giáo dục ở Thành phố Hồ
Chí Minh ngày càng sôi động và đa dạng,
Kế thừa truyền thống hiếu học của dân tộc, nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh sẵn lòng đầu tư cao cho việc học của con em mình, nên nguồn lực của xã
hội đóng góp cho sự nghiệp giáo dục ở Thành phố Hồ Chí Minh không nhỏ, mức
đóng góp của nhân dân Thành phố cho giáo dục đạt gần bằng ngân sách của nhà
nước (so với tổng chi cho giáo dục) [68, tr.73]. Do đó nguồn lực từ xã hội này
cần được sử dụng có hiệu quả để có tác dụng tích cực cho hoạt động giáo dục,
qua đó thuyết phục người dân về tính hiệu quả nguồn đóng góp của nhân dân cho
giáo dục. Thời gian qua, nguồn lực vật chất của xã hội hóa chưa được định hướng
cụ thể ở tầm Thành phố nên hiệu quả sữ dụng chưa được cao như mong muốn
của nhân dân và nhà nước. Trong thực tiễn việc thực hiện chủ trương xã hội hóa
giáo dục ở Thành phố Hồ Chí Minh còn có những bất cập mà công luận chưa hài
lòng, các nhà nghiên cứu giáo dục, các cơ quan ngôn luận cũng đã đề cập. Các
lực lượng xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều hoạt động đóng góp cho
sự nghiệp giáo dục nhưng còn mang tính phong trào, hành chánh hóa công tác
vận động, do đó chưa khai thác tốt nguồn lực trong xã hội.
Ở Thành phố Hồ Chí Minh, có một số trường tư thục phổ thông áp dụng
công nghệ giáo dục nước ngoài vào công tác dạy và học, các trường này thường
lấy danh là trường quốc tế để chiêu sinh. Ngành Giáo dục nên xem lại hoạt động
của loại hình trường này
Hoạt động của các trường học phải mang tính ổn định, lâu dài, nên cần
những nhà đầu tư có tâm huyết và tiềm lực mạnh, đủ lực chịu đựng khó khăn
trong thời gian dài.
Ngành Giáo dục cần thúc đẩy tiến trình đổi mới mạnh mẽ hơn theo quan
điểm sự nghiệp phát triển giáo dục là trách nhiệm của toàn xã hội, xây dựng cơ
chế để nhân dân tham gia vào tất cả các hoạt động của giáo dục sẽ thu hút được
23
nguồn lực từ trong dân vào xây dựng sự nghiệp giáo dục.Thực hiện xã hội hóa để
tạo nguồn lực xây dựng nền giáo dục tiên tiến hiện đại nhằm phục vụ cho công
cuộc xây dựng đất nước là quan điểm đúng đắn của Đảng, xã hội hóa giáo dục
không chỉ là vận động nguồn lực từ xã hội cho phát triển giáo dục mà là tăng
cường quyền lợi học tập của nhân dân, phù hợp với xu thế chung của giáo dục
hiện đại.
Từ Đại hội Đảng lần thứ VII năm 1991, đã khẳng định giáo dục và đạo tạo
là quốc sách hàng đầu và đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển.
Tuy Nhà nước đã tăng đầu tư cho giáo dục, cộng thêm với đóng góp của xã hội,
nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ cho hoạt động giáo dục và đào tạo. Trong tương lai
gần, khả năng đầu tư của Nhà nước cho giáo dục khó thể tăng hơn, do đó xã hội
hóa giáo dục vẫn là biện pháp cơ bản để phát triển sự nghiệp giáo dục.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, hợp tác và cạnh tranh luôn đan xen
nhau, phát triển khoa học công nghệ được xem là lợi thế cạnh tranh cao. Các
quốc gia đã và đang đầu tư mạnh vào giáo dục để xây dựng nền kinh tế tri thức,
tạo nguồn nhân lực cho phát triển công nghệ cao để chiếm lĩnh lợi thế cạnh tranh
trên trường quốc tế. Giáo dục - Đào tạo và Khoa học - Công nghệ được xem là
quốc sách hàng đầu, nhưng Giáo dục – Đào tạo phải đi trước để tạo nguồn nhân
lực cho Khoa học – Công nghệ. Giáo dục và đào tạo được xem là quốc sách hàng
đầu nên cả hệ thống chính trị cùng nhân dân đều có trách nhiệm với sự nghiệp
giáo dục.
Theo một nghiên cứu về cải cách giáo dục thì tổng chi cho giáo dục Việt
Nam (ngân sách nhà nước và đóng góp của xã hội) so với GDP rất cao so với các
nước trên thế giới, cụ thể qua số liệu của 3 năm: 8,3% GDP (2005), 8,4% GDP
(2006) và 9,2% GDP (2007) [64, tr.79]. Tính riêng năm 2005 thì tổng chi cho
giáo dục chiếm 8,3% GDP (68.968 tỉ đồng): ngân sách nhà nước chi 5%, phần
chi của nhân dân chiếm 3,3% GDP.[59, tr.95]. Năm 2010, Ngân sách nhà nước
dành cho giáo dục chiếm 20% trong tổng chi ngân sách nhà nước, cộng thêm với
sự đóng góp của xã hội nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của
hoạt động giáo dục trong xu thế hội nhập quốc tế. Trong khi đó với tình hình hiện
nay mức chi ngân sách nhà nước cho giáo dục khó tăng hơn, hơn nữa xu thế giáo
dục hiện đại là học tập suốt đời, nhu cầu giáo dục ngày càng đa dạng cả về hình
thức tổ chức và nội dung học tập. Xã hội học tập trở thành tiêu chí của giáo dục
hiện đại, do đó nhu cầu của giáo dục đã vượt ngoài khả năng ngân sách của nhà
nước (kể cả các nước công nghiệp phát triển) vì tính đa dạng của hoạt động giáo
dục và nhu cầu hưởng thụ giáo dục ngày càng tăng của xã hội. Xã hội hóa giáo
dục là xu thế tất yếu của sự nghiệp phát triển giáo dục.