Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

197 Biện pháp cổ phần hóa bệnh viện công trên địa bàn TP.HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (924.43 KB, 96 trang )

Trang 1

























BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH







PHẠM THỊ HỒNG VÂN



GIẢI PHÁP CỔ PHẦN HÓA
BỆNH VIỆN CÔNG TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


Chuyên ngành: Kinh tế – Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60.31.12


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TIẾN SĨ LÊ THỊ LANH






TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2007
Trang 2

DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ HÌNH
Trang
Bảng 1.1 Cơ cấu chi phí khám chữa bệnh tại nước Cộng hòa liên bang Đức 18
Bảng 2.1 Nguồn vốn bệnh viện công trong giai đoạn 2002-2006 28
Bảng 2.2 Tỷ lệ nguồn thu viện phí của 20/25 bệnh viện công ở thành
phố Hồ Chí Minh 32
Bảng 2.3 Tỷ lệ nguồn thu từ ngân sách của 20/25 bệnh viện công ở thành
phố Hồ Chí Minh 35
Bảng 2.4 Tỷ lệ nguồn thu dòch vụ của 20/25 bệnh viện công ở thành phố
Hồ Chí Minh 37
Bảng 2.5 Tỷ lệ chi thanh toán cá nhân của 20/25 bệnh viện công ở Thành
phố Hồ Chí Minh 44
Bảng 2.6 Tỷ lệ chi chuyên môn của 20/25 bệnh viện công ở thành phố Hồ
Chí Minh 47
Bảng 2.7 Tỷ lệ chi đầu tư phát triển của 20/25 bệnh viện công ở thành phố
Hồ Chí Minh 49
Bảng 2.8 So sánh mức thu nhập của Bác só tại bệnh viện Công và bệnh viện
Tư tại thành phố Hồ Chí Minh 54
Đồ thò 2.1 Minh họa điều trò nội trú của bệnh viện đa khoa và bệnh viện
chuyên khoa 22
Đồ thò 2.2 Minh họa thành phần nguồn thu giai đoạn 2002-2006 31
Đồ thò 2.3 Minh họa thành phần nguồn chi giai đoạn 2002-2006 42
Hình 2.1 Phòng hậu sản bệnh viện Từ Dũ 23
Hình 2.2 Trước phòng khám bệnh viện nhân dân Gia Đònh 26
Hình 2.3 Máy chụp X – quang còn được sử dụng tại bệnh viện Bình Dân 51
Hình 2.4 Máy gây mê cũ còn được sử dụng tại bệnh viện Bình Dân 51
Trang 3
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU 01

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HÓA BỆNH VIỆN

1.1. Sự cần thiết cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước – những thành
tựu và hạn chế 05
1.1.1 Sự cần thiết cổ phần hóa 05
1.1.2 Những thành tựu và hạn chế 05
1.2. Sự cần thiết cổ phần hóa bệnh viện công 07
1.2.1. Sự cần thiết cổ phần hóa 07
1.2.2. Những vướng mắc khi thực hiện cổ phần hóa bệnh viện Bình
Dân 08
1.3. Quan điểm cổ phần hóa bệnh viện 11
1.3.1. Theo quan điểm của Tiến só Nguyễn Đức Hiệp – Bộ bảo
tồn và môi trường, New South Wales, Úc; quan điểm của ông
Ronald Henry Aylife – Giám đốc tốc chức tài chính Merrill Lynch
khu vực Đông Nam Á. 11
1.3.2. Theo quan điểm của Tiến só Dương Huy Liệu – Vụ trưỏng
Vụ kế hoạch – Tài chính của Bộ Y tế. 12
1.3.3. Theo quan điểm tác giả 13
1.4. Kinh nghiệm quản lý bệnh viện của các nước 14
1.4.1. Indonexia 14
1.4.2. Thái Lan 15
1.4.3. Trung Quốc 16
1.4.4. Đức 17
Trang 4
Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TẠI CÁC BỆNH VIỆN
CÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 20
2.1 Tình hình khám chữa bệnh tại các bệnh viện công trên đòa bàn thành
phố Hồ Chí Minh 20
2.1.1 Mạng lưới bệnh viện ở thành phố Hồ Chí Minh 20
2.1.2 Tình hình khám chữa bệnh của các bệnh viện công 21

2.1.2.1 Điều trò nội trú 21
2.1.2.2 Điều trò ngoại trú và số lượt khám bệnh 24
2.2 Đánh giá năng lực tài chính các bệnh viện công 27
2.2.1 Phân tích nguồn vốn 27
2.2.2 Phân tích nguồn thu 30
2.2.2.1 Phân tích nguồn thu viện phí 31
2.2.2.2 Phân tích nguồn thu từ ngân sách 35
2.2.2.3 Phân tích nguồn thu dòch vụ 37
2.2.2.4 So sánh giá khám chữa bệnh giữa bệnh viện công và
bệnh viện tư 39
2.2.3 Phân tích nguồn chi 42
2.2.3.1 Phân tích chi thanh toán cá nhân 44
2.2.3.2 Phân tích chi chuyên môn 46
2.2.3.3 Phân tích chi đầu tư phát triển 48
2.2.3.4 So sánh cách tính thu nhập trả cho bác só tại bệnh viện
công và bệnh viện tư 52
2.3 Những vấn đề tồn tại chủ yếu ở các bệnh viện công 56

Chương III: GIẢI PHÁP CỔ PHẦN HÓA BỆNH VIỆN CÔNG TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1 Đònh hướng cổ phần hóa bệnh viện công 59
Trang 5
3.1.1 Nghò quyết 05/2005/NQ-CP của chính phủ về việc đẩy mạnh
xã hội hóa giáo dục và y tế
59
3.1.2 Đònh hướng cổ phần hóa bệnh viện công trên đòa bàn thành
phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 60
3.2 Giải pháp thực hiện cổ phần hóa bệnh viện công 62
3.2.1 Giải pháp tầm vó mô 62
3.2.1.1 Hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý Bệnh viện 62

3.2.1.2 Xây dựng những văn bản pháp quy liên quan lónh vực
hoạt động của bệnh viện cổ phần hóa 64
3.2.2 Giải pháp tầm vi mô 65
3.2.2.1 Hoàn thiện công tác tổ chức quản lý bệnh viện 65
3.2.2.2 Nâng cao năng lực tài chính của bệnh viện 65
3.2.2.3 Xây dựng đội ngũ cán bộ y tế chuyên nghiệp 70
3.2.3 Giải pháp hỗ trợ 72
3.2.3.1 Bảo hiểm y tế 72
3.2.3.2 Trợ cấp trực tiếp chi phí khám chữa bệnh cho bệnh
nhân từ Chính phủ. 73
3.2.3.3 Ưu tiên về thuế thu nhập doanh nghiệp và vay vốn ưu
đãi 74
3.3 Lộ trình thực hiện giải pháp cổ phần hóa bệnh viện công 74
3.3.1 Giai đoạn chuẩn bò 74
3.3.2 Giai đoạn thí điểm và rút kinh nghiệm 75
3.3.3 Giai đoạn mở rộng triển khai 76

KẾT LUẬN 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
PHỤ LỤC 82
Trang 6
PHẦN MỞ ĐẦU

• Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Tại các bệnh viện công hiện nay tình trạng quá tải là phổ biến, cơ
sở vật chất nhiều nơi bò xuống cấp, thiết bò làm việc nhiều nơi còn lạc
hậu, bệnh nhân phải tốn nhiều thời gian cho việc chờ đợi điều trò. Mức độ
đầu tư của bệnh viện công hiện nay là rất thấp so với mức độ đầu tư của
bệnh viện tư nhân. Bệnh viện công đang rất cần vốn để đầu tư thêm cơ sở
vật chất và trang thiết bò làm việc nhưng phải phụ thuộc vào kế hoạch

ngân sách được duyệt. Mặc khác bệnh viện công là đơn vò hành chính sự
nghiệp có thu, quy chế lương bổng theo các tiêu chuẩn ngạch lương, bậc
lương và bò khống chế mức thu nhập tăng thêm không được vượt quá mức
tối đa theo quy đònh của Nhà nước.
Kể từ khi Nhà nước cho phép thành lập các cơ sở khám chữa bệnh
tư nhân, số lượng bệnh viện tư nhân cũng tăng lên đáng kể, lượng bệnh
nhân tại các bệnh viện tư nhân ngày càng đông. Điều đó cho thấy bệnh
viện tư nhân đang hoạt động có hiệu quả.
Trong điều kiện làm việc có sự cạnh tranh giữa các bệnh viện công
và bệnh viện tư nhân thì các bệnh viện công có thế mạnh về trình độ
chuyên môn của y bác só điều trò, có thương hiệu tốt, có quỹ đất rộng rãi,
bên cạnh đó cũng có nhiều điểm bất lợi do quá tải, do cơ chế trả lương
không sử dụng được hết quỹ thời gian có thể làm việc của các bác só giỏi,
do không đủ vốn để đầu tư mới cơ sở vật chất và trang thiết bò, do thời
gian phải chờ đợi lâu trong khám chữa bệnh, từ đó làm ảnh hưởng đến
chất lượng phục vụ tại các bệnh viện công, tình trạng “chạy xô” của bác
só. Vấn đề cần giải quyết dứt điểm tình trạng quá tải tại các bệnh viện
Trang 7
công đi đôi với việc nâng cao chất lượng khám chữa bệnh là vấn đề
không chỉ riêng ngành y tế mà còn được toàn xã hội quan tâm. Do đó, đề
tài của luận văn “Giải pháp cổ phần hóa bệnh viện công trên đòa bàn
thành phố Hồ Chí Minh” được tác giả lựa chọn nghiên cứu để tìm ra
những giải pháp thích hợp cho việc thực hiện cổ phần hóa bệnh viện công
nhằm nâng cao chất lượng dòch vụ y tế, góp phần giải quyết dứt điểm tình
trạng quá tải tại các bệnh viện công.

• Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: luận văn nghiên cứu các giải pháp thực hiện cổ
phần hóa bệnh viện công trên đòa bàn thành phố Hồ Chí Minh
Về thời gian: Chủ yếu tập trung phân tích giai đoạn từ năm 2002

đến năm 2006.
Đối tượng nghiên cứu: đề tài sử dụng số liệu nghiên cứu từ 20/25
bệnh viện công hạng 1 (Tiêu chuẩn phân loại bệnh viện: Theo Thông tư
số 23/2005/TT-BYT ngày 25/08/2005 về việc hướng dẫn xếp hạng đơn vò y
tế”) thuộc Sở y tế thành phố Hồ Chí Minh, 5 bệnh viện còn lại không
nghiên cứu gồm có: bệnh viện Tâm thần, bệnh viện phong Bến Sắn, bệnh
viện y học cổ truyền, bệnh viện đa khoa Sài Gòn, bệnh viện truyền máu
và huyết học.

• Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và kinh nghiệm về quản lý y tế nói
chung và cổ phần hóa bệnh viện công nói riêng của một số nước trong
khu vực và trên thế giới, từ đó rút ra những kinh nghiệm cần thiết để vận
Trang 8
dụng vào việc thực hiện cổ phần hóa bệnh viện công trên đòa bàn thành
phố Hồ Chí Minh.
- Phân tích đánh giá thực trạng về tình hình hoạt động bệnh viện
giai đoạn từ năm 2002-2006 để tìm ra được thế mạnh của từng bệnh viện.
Thực hiện so sánh về nguồn vốn, về mức giá viện phí, mức thu nhập của
nhân viên y tế từ hai khối bệnh viện công và bệnh viện tư để chỉ ra những
điểm không phù hợp trong điều kiện hoạt động cạnh tranh như hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện cổ phần hóa
bệnh viện công trên đòa bàn thành phố Hồ Chí Minh, qua đó luận văn đưa
ra một lộ trình cụ thể để thực hiện cổ phần hóa bệnh viện công.

• Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu giải pháp thực hiện cổ phần hóa bệnh viện
công là một đề tài mới, mô hình doanh nghiệp bệnh viện công chưa thực
hiện ở Việt Nam và việc cổ phần hóa bệnh viện công của các nước trên
thế giới chưa phổ biến. Vì thế kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp

chúng ta thấy được khả năng thực hiện cổ phần hóa bệnh viện công, tìm
ra giải pháp thực hiện cổ phần hóa bệnh viện công, từ đó sẽ là tiền đề cho
những bước nghiên cứu tiếp theo.
- Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là duy vật biện chứng, phương
pháp thống kê và so sánh dựa vào kết quả điều tra, quan sát, phân tích và
nhận đònh về năng lực tài chính và khả năng thực hiện cổ phần hóa các
bệnh viện công. Từ đó đưa ra giải pháp và lộ trình thực hiện cổ phần hóa
bệnh viện công trên đòa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
- Nguồn dữ liệu thu thập chủ yếu bao gồm các tư liệu thống kê, số
liệu từ các báo cáo tài chính và báo cáo nhân sự của Sở y tế thành phố Hồ
Trang 9
Chí Minh, kết hợp với số liệu điều tra thực tế để sử dụng phân tích và
chứng minh. Luận văn có chọn lọc những ý kiến đánh giá và nhận đònh
của các nhà lãnh đạo trong ngành y tế cũng như các chuyên gia kinh tế
trong và ngoài nước nhận đònh về việc cổ phần hóa bệnh viện công.

• Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn này gồm ba chương chính:
Chương 1
: Cơ sở lý luận về cổ phần hóa bệnh viện
Chương 2
: Thực trạng hoạt động tại các bệnh viện công trên đòa bàn
thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3
: Giải pháp cổ phần hóa bệnh viện công trên đòa bàn thành phố
Hồ Chí Minh














Trang 10
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HÓA BỆNH VIỆN

1.1. Sự cần thiết cổ phần hóa Doanh nghiệp Nhà nước – những thành tựu
và hạn chế
1.1.1. Sự cần thiết cổ phần hóa
Hiện nay hầu hết các chuyên gia đều thừa nhận rằng cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước là một bộ phận cấu thành quan trọng của quá trình cải cách và
cải tổ nền kinh tế của nhiều nước. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhằm
xắp xếp lại các doanh nghiệp, nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp, xoá bỏ độc quyền Nhà nước, tạo ra môi trường cạnh
tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Nhà nước có điều kiện tập trung
vốn và các nguồn lực để đầu tư phát triển các dòch vụ công cộng, tạo tiền và môi
trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả.
Ở nước ta nhiều doanh nghiệp nhà nước kinh doanh kém hiệu quả, tình
trạng “lời giả, lỗ thật” kéo dài trong nhiều năm làm ngân sách Nhà nước bò thất
thu. Tính tự chủ và tự chòu trách nhiệm chưa được phát huy trong doanh nghiệp
nhà nước, môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp không thật sự bình đẳng.
Sự đầu tư dàn trải làm cho Nhà nước không còn đủ nguồn lực và vốn để đầu tư
vào cơ sở hạ tầng và đầu tư vào những ngành kinh tế mũi nhọn hay đầu tư cho

những vùng còn khó khăn. Chính vì thế việc thực hiện cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước là cần thiết và là bước phát triển tất yếu trong quá trình phát
triển nền kinh tế nước nhà.
1.1.2. Những thành tựu và hạn chế
¾ Thành tựu
Qua cổ phần hóa, doanh nghiệp nhà nước đã chuyển thành doanh nghiệp
có nhiều chủ sở hữu, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động cho doanh
Trang 11
nghiệp thích nghi với nền kinh tế thò trường, huy động thêm được nguồn vốn của
xã hội vào sản xuất kinh doanh hiệu quả, sức cạnh tranh và khả năng hội nhập
của doanh nghiệp được nâng lên. Qua thực tiễn, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước đã trở thành giải pháp quan trọng, chủ yếu để cơ cấu lại, đổi mới cơ chế
quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. (Nguồn:
Default.aspx?tabid=612&ItemID= 21460) .
Sau khi cổ phần hóa có tới 90% doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, góp
phần tăng nguồn thu ngân sách nhà nước, tăng thu nhập cho người lao động, huy
động vốn xã hội tăng lên, chấm dứt tình trạng bù lỗ của ngân sách nhà nước, tạo
thêm công ăn việc làm. Chỉ có 10% số doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động
kém hiệu quả mà nguyên nhân có thể xuất phát từ trước khi cổ phần hóa, như
doanh nghiệp hoạt động kém, nội bộ mất đoàn kết, sự can thiệp quá sâu của
chính quyền đòa phương . Nguồn:

Object=4 &News_ID=3435467

¾ Hạn chế

Bên cạnh những thành tựu đạt được từ việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước thì vẫn còn có một số hạn chế nhất đònh, như tiến độ thực hiện cổ phần hóa
còn chậm, tỷ lệ cổ phần bán ra ngoài doanh nghiệp còn thấp. Ở một số nơi nhận
thức về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn chưa đầy đủ và thống nhất,

vướng mắc trong quá trình thực hiện chưa được tháo gỡ kòp thời. Một số quy đònh
của cơ quan quản lý nhà nước còn chưa phù hợp, thời gian cổ phần hóa một
doanh nghiệp còn dài. Doanh nghiệp nhà nước khi chuyển thành công ty cổ phần
chưa được quan tâm đúng mức đến đổi mới phương thức quản trò và điều hành
doanh nghiệp, hiệu quả sản xuất và kinh doanh của một số công ty sau cổ phần
Trang 12
hóa chưa cao, số lượng doanh nghiệp niêm yết trên thò trường chứng khoán còn
ít. (Nguồn: http://www. mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=612&ItemID=21460)
Chính

sách và quy trình cổ phần hóa ở nước ta trên thực tế vẫn còn nhiều
bất cập, như khâu xác đònh giá trò doanh nghiệp dễ gây thất thoát vốn Nhà nước,
việc xử lý các khoản nợ tồn đọng chưa triệt để hay mức độ chuyên nghiệp của
các tổ chức cung ứng dòch vụ thẩm đònh giá doanh nghiệp của nhiều đơn vò còn
thấp. (Nguồn:


3435467)


1.2. Sự cần thiết cổ phần hóa bệnh viện công:
1.2.1. Sự cần thiết cổ phần hóa
Trong khoản thời gian 5 năm gần đây, tình trạng quá tải tại các bệnh viện
công trên đòa bàn thành phố Hồ Chí Minh là thường xuyên mà Sở y tế thành phố
chưa giải quyết được dứt điểm. Từ chỗ quá tải đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến
chất lượng điều trò, như bệnh nhân phải chờ đợi lâu, bệnh nhân phải nằm ghép
giường hay nằm giường tạm, điều kiện vệ sinh không tốt, cơ sở vật chất nhiều
nơi bò xuống cấp, nhiều máy móc thiết bò hiện đại chưa được trang bò đầy
đủ….Bệnh viện công đang rất cần nguồn vốn để đầu tư cơ sở vật chất và trang
thiết bò làm việc nhưng nguồn kinh phí cấp phát của ngân sách vừa eo hẹp, vừa

chậm trễ.
Các bệnh viện công hiện nay đang duy trì mức thu viện phí một phần,
chưa được hạch toán đầy đủ các khoản chi phí phát sinh thực tế cho hoạt động
khám chữa bệnh, tài sản cố đònh phục vụ cho hoạt động sự nghiệp không được
tính khấu hao đưa vào chi phí để thu hồi vốn đầu tư, nguồn vốn đầu tư vào bệnh
viện phần lớn là từ kế hoạch cấp phát ngân sách được duyệt. Như vậy chế độ
hạch toán kế toán hiện nay tại các bệnh viện công không phản ánh đúng và đầy
Trang 13
đủ giá trò nguồn thu và nguồn chi vì thế chưa tạo được khả năng cạnh tranh theo
bản chất kinh tế.
Bệnh viện công đang có thế mạnh về đội ngũ y bác só điều trò (trình độ
chuyên môn cao, có thâm niên trong nghề lâu năm, tập hợp nhiều bác só chuyên
khoa đầu ngành), có quỹ đất rộng, có vò trí mặt bằng thuận lợi, có thương hiệu
tốt, có lượng khách hàng (là bệnh nhân) rất lớn nhưng chưa khai thác hết khả
năng đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân. Cơ chế trả lương không
khuyến khích được khả năng làm thêm giờ của các bác só giỏi, các bác só bệnh
viện công thường phải chi phối cho công việc làm thêm ngoài giờ, Sở y tế khó
kiểm soát được tình trạng “chạy xô” của bác só.
Từ ngày 21 tháng 8 năm 1997 Nghò quyết số 90/NQ-CP của Chính phủ
ban hành về việc thực hiện xã hội hoá y tế nhưng tốc độ xã hội hóa còn chậm so
với tiềm năng và chỉ tiêu đònh hướng của Nghò quyết. Xuất phát từ tình hình đó,
Nghò quyết số 05/2005/NQ-CP của Chính phủ ra đời ngày 18/4/2005 về việc đẩy
mạnh hoạt động xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể
thao.

1.2.2. Những vướng mắc khi thực hiện cổ phần hóa bệnh viện Bình
Dân
Dự án thí điểm cổ phần hóa bệnh viện Bình Dân đã thu hút rất nhiều sự
quan tâm của công chúng và đã gây ra nhiều phản ứng khác nhau. Từ lúc chuẩn
bò dự án đến lúc kết thúc dự án kéo dài gần 3 năm nhưng đã mang lại cho xã hội

một góc nhìn mới về dòch vụ y tế chứ không đơn thuần là một cơ chế “cấp -
phát”. Nhìn lại toàn bộ quá trình diễn tiến của dự án thí điểm cổ phần hóa bệnh
viện Bình Dân sẽ cho chúng ta thấy được những vướng mắc khi thực hiện cổ
phần hóa bệnh viện công.
Trang 14
- Tháng 7/2004, Ủy ban nhân dân thành phố Hồø Chí Minh chỉ đạo chuẩn
bò xây dựng đề án thí điểm cổ phần hóa bệnh viện Bình Dân.
- Ngày 01/07/2005 Ủy ban nhân dân thành phố Hồø Chí Minh gửi công văn
số 3894/UBND-CNN kiến nghò Thủ tướng Chính phủ cho phép tiến hành thí
điểm cổ phần hóa bệnh viện Bình Dân.
- Ngày 05/09/2005, công văn số 4995/VPCP-ĐMDN của Văn phòng
Chính phủ truyền đạt chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ cho phép Ủy ban nhân
dân thành phố Hồø Chí Minh chỉ đạo xây xây dựng đề án thí điểm cổ phần hóa
bệnh viện Bình Dân, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét.
- Ngày 08/11/2006, tại công văn số 6525/VPCP-ĐP của Văn phòng Chính
phủ xác đònh: Thủ tướng đồng ý cho phép Thành phố thí điểm cổ phần hóa một
số cơ sở y tế của Nhà nước thuộc Thành phố quản lý, trên cơ sở đó tổng kết và
mở rộng.
Xét về mặt pháp lý, việc cổ phần hóa bệnh viện Bình Dân đã được các
cấp lãnh đạo đồng thuận và được phép tiến hành. Từ trước đến nay bệnh viện
công là đơn vò hành chính sự nghiệp, bệnh viện chưa hoạt động như một doanh
nghiệp nên khi thực hiện chuyển đổi hình thức sở hữu và hình thức hoạt động sẽ
khó tránh khỏi nhiều xu hướng phản bác và gây nên tâm lý hoang mang trong
dân chúng. Đặc biệt là kênh thông tin bất cân xứng như nước ta càng tạo thêm
nhiều áp lực cho nhà quản lý một khi thấy việc mua bán cổ phiếu ảo bệnh viện
Bình Dân diễn ra quá ồ ạt (Nguồn:

name=News&file=article&sid= 2951
). Từ đó đã gây lên một làn sóng phản đối
rằng Nhà nước đang bán phần tài sản khổng lồ của mình đầu tư vào Bình Dân

với giá rẻ cho các nhà đầu tư mưu lợi (Nguồn:

in_depth/2007/06/09/VnPressReivew_NNguyen/)
Trang 15
Trước nhiều ý kiến trái ngược nhau của các nhà chuyên môn cũng như
các đoàn thể xã hội về việc thí điểm cổ phần hoá bệnh viện Bình Dân, đến ngày
21/06/2007, Phó Chủ tòch thường trực ủy ban nhân dân thành phố Hồø Chí Minh
thông báo đã chính thức gửi văn bản xin ý kiến Thủ tướng Chính phủ cho ngưng
việc thực hiện thí điểm cổ phần hóa bệnh viện Bình Dân. Như vậy những vướng
mắc khi thực hiện thí điểm cổ phần hóa bệnh viện Bình Dân có thể thấy là:
Thứ nhất, Chính phủ đã có chủ trương thực hiện cổ phần hóa bệnh viện
công kể từ tháng 9 năm 2005 (theo công văn số 4995/VPCP-ĐMDN) nhưng đến
tháng 11/2006 (theo công văn số 6525/VPCP-ĐP) vẫn chưa có một văn bản luật
hay dưới luật hướng dẫn về việc tổ chức, quản lý và hoạt động của mô hình
bệnh viện công sau khi cổ phần hóa. Lónh vực y tế đặc biệt nhạy cảm và được
toàn xã hội quan tâm, khi bệnh viện công thực hiện cổ phần hóa sẽ hoạt động
như một doanh nghiệp hướng tới mục tiêu lợi nhuận, điều này gây nên tâm lý
hoang mang về quyền lợi của người nghèo bò bỏ qua. (Nguồn:
tiengviet/ sbn_62/2007/18348/).
Không có văn bản luật hướng dẫn điều hành cụ thể về hoạt động của
bệnh viện cổ phần nên cũng gây ra một tâm lý đầu cơ cho nhà đầu tư vì các
bệnh viện tư nhân hiện nay đang làm ăn có lãi, một khi được góp vốn đầu tư vào
những bệnh viện công có uy tín lớn chắc chắn sẽ mang lại lợi nhuận lớn cho nhà
đầu tư. Thể hiện điều này rõ nhất là các nhà đầu tư săn tìm mua cổ phiếu ảo của
bệnh viện Bình Dân với giá tăng từ 7 đến 8 lần mệnh giá (Nguồn:
tintuc / chinh-tri-xa-hoi/phong-su/188756.asp).
Thứ hai, việc thực hiện thí điểm cổ phần hóa bệnh viện Bình Dân không
có một sự chuẩn bò kỹ về năng lực quản trò nguồn nhân lực cũng như năng lực
quản lý tài chính. Thật sự cho đến năm 2006 bệnh viện Bình Dân cũng mới tự
chủ được hơn 80% (Nguồn: theo số liệu chương II – nghiên cứu của tác giả),

Trang 16
phần còn lại nhận từ ngân sách. Khi cổ phần hóa, bệnh viện Bình Dân chưa có
thời gian thử nghiệm tự chủ hoàn toàn, chính vì thế bệnh viện chưa thực sự phát
huy triệt để nguồn thu để bù đắp vào phần thiếu hụt khi cắt giảm nguồn thu
ngân sách, bệnh viện chưa chòu nhiều áp lực trong việc cải cách quản lý và tiết
kiệm chi phí. Chính vì thế khi chuyển qua hình thức cổ phần hóa buộc bệnh viện
cùng lúc phải đối mặt nhiều vấn đề, điều này khó tránh khỏi tình trạng gây áp
lực tăng giá viện phí từ phía nhà đầu tư.
Thứ ba việc cổ phần hóa bệnh viện Bình Dân chưa được công khai trên
phương tiện đại chúng về quan điểm, mục tiêu cổ phần hóa, về cách thức phân
phối kết quả kinh doanh nhằm hạn chế mục tiêu đầu cơ của giới đầu tư, tranh
thủ sự đồng thuận từ dân chúng, thu hút được nhiều nguồn tài chính từ những
người tâm huyết với bệnh viện, với sự nghiệp y tế mà không phải vì mục tiêu lợi
nhuận hàng đầu.
Như vậy bệnh viện Bình Dân đã không hội đủ 3 điều kiện cơ bản giúp
cho việc cổ phần hóa bệnh viện thành công. Đề án thí điểm cổ phần hóa bệnh
viện Bình Dân chưa đủ thời gian chuẩn bò, vì thế mới gặp phải một làn sóng
phản đối mạnh mẽ từ dư luận. Một khi bổ sung thêm những điều kiện đó chắc
chắn việc cổ phần hóa bệnh viện sẽ mang lại những kết quả tốt đẹp cho toàn xã
hội.

1.3. Quan điểm cổ phần hóa bệnh viện:
1.3.1. Theo quan điểm của Tiến só Nguyễn Đức Hiệp – Bộ bảo tồn và
môi trường, New South Wales, Úc; quan điểm của ông Ronald Henry
Aylife – Giám đốc tốc chức tài chính Merrill Lynch khu vực Đông
Nam Á.
Trang 17
Theo tiến só Nguyễn Đức Hiệp, việc cổ phần hoá có bệnh viện công sẽ
tạo điều kiện cho bệnh viện huy động được nhiều nguồn lực hơn, bệnh viện có
điều kiện để nâng cấp, đầu tư trang thiết bò hiện đại nhưng khi đó bệnh viện vì

mục tiêu lợi nhuận, giá viện phí sẽ tăng, điều này sẽ tác động rất lớn đến toàn
xã hội, đặc biệt là những người nghèo sợ không còn đủ khả năng khám chữa
bệnh, vì thế cần phải hết sức thận trọng. (Nguồn:

15c47e7dd2a71e&pageid=690)

Theo quan điểm của ông Ronald Henry Aylife - Giám đốc tốc chức tài
chính Merrill Lynch khu vực Đông Nam Á - cho rằng việc cổ phần hóa các bệnh
viện công cần có những bước đi cẩn trọng vì đây là vấn đề nhạy cảm, ảnh hưởng
đến an sinh xã hội. Nguồn vốn là động lực thúc đẩy mạnh nhất cho bệnh viện
công nhưng ngân sách nhà nước sẽ không đủ để nâng cấp hết tất cả các bệnh
viện công, vì vậy bệnh viện phải thu hút thêm nguồn vốn từ bên ngoài. Theo
ông thì bệnh viện công sau khi cổ phần hóa vẫn đảm bảo được mục tiêu phúc lợi
xã hội cho dù chi phí chăm sóc sức khẻo của người bệnh có tăng hơn trước
nhưng với dòch vụ tốt hơn, người bệnh sẽ nhanh chóng bình phục hơn và quay trở
lại làm việc nhanh hơn, như vậy tổng lợi ích xã hội sẽ tăng lên. (Nguồn:
News/PrintView.aspx?ID=193188)

1.3.2. Theo quan điểm của Tiến só Dương Huy Liệu – Vụ trưỏng Vụ kế
hoạch – Tài chính của Bộ Y tế.
Cổ phần hoá sẽ làm giảm bớt gánh nặng bao cấp, tăng cường hơn nữa tính
tự chủ và tự chòu trách nhiệm, tăng thu nhập và tự chủ chuyên môn cho các bệnh
viện công. Cổ phần hóa chính là một bước trong quá trình đổi mới bệnh viện
công được gắn liền với đổi mới hệ thống chính sách, cơ chế quản lý và tài chính.
Trang 18
Trong số các lựa chọn đổi mới, cổ phần hoá bệnh viện chưa phải là một lựa chọn
tốt nhất, càng không phải là duy nhất nhưng hoàn toàn có thể được coi là một
thử nghiệm trong điều kiện thực tế Việt Nam. (Nguồn:
/2007/5/18/193188.tno)


1.3.3. Theo quan điểm tác giả
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, việc thực hiện cổ phần hoá
bệnh viện công là tạo điều kiện tốt cho hệ thống bệnh viện có điều kiện đầu tư
nâng cấp cơ sở hạ tầng và trang thiết bò, nâng cao chất lượng phục vụ không chỉ
bệnh nhân trong nước mà cho cả bệnh nhân nước ngoài trong môi trường hội
nhập. Khi các bệnh viện công hoạt động như một doanh nghiệp thì giữa các
bệnh viện có sự cạnh tranh và quy luật của cạnh tranh là mang lại lợi ích tốt nhất
cho khách hàng: giá giảm, chất lượng phục vụ tăng. Sở dó hiện nay mọi người
đang lo lắng là sau khi cổ phần hoá, giá viện phí sẽ tăng nhưng thực chất sự tăng
giá viện phí này là do bệnh viện tính đủ các chi phí phát sinh trong khám chữa
bệnh vào viện phí chứ không thể duy trì mức thu viện phí một phần như các
bệnh viện công hiện nay. Theo quan điểm và đònh hướng của Nghò quyết
05/2005/NQ-CP của Chính phủ ngày 18/4/2005 thì các bệnh viện công sẽ tiến tới
tính đủ chi phí khám chữa bệnh vào viện phí. Như vậy xu hướng gia tăng viện
phí tại các bệnh viện công và bệnh viện công sau khi cổ phần hoá là một lẽ tất
nhiên.
Theo kết quả thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đến nay thì
các doanh nghiệp cổ phần hoá hoạt động có hiệu quả, các doanh nghiệp có điều
kiện cạnh tranh bình đẳng, nâng cao chất lượng sản phẩm và dòch vụ, mang lại
lợi ích tốt nhất cho ngưòi tiêu dùng, qua đó còn đóng góp đáng kể vào nguồn thu
ngân sách nhờ vào hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì
Trang 19
thế chúng ta vẫn có thể kỳ vọng vào giá trò tốt đẹp do việc cổ phần hoá bệnh
viện công mang lại cho toàn xã hội.
Với những cơ sở lý luận đã nêu trên, theo tác giả việc cổ phần hóa bệnh
viện công là hoàn toàn có thể thực hiện được trong điều kiện kinh tế nước ta.
Bệnh viện công cổ phần sẽ có chất lượng phục vụ tốt hơn, đội ngũ y bác só điều
trò có trình độ chuyên nghiệp cao, thu hút nhiều bệnh nhân, giải quyết dứt điểm
tình trạng quá tải tại các bệnh viện công, góp phần thực hiện xã hội hóa y tế.


1.4. Kinh nghiệm quản lý bệnh viện của các nước
1.4.1. Indonexia
Tại Indonexia, kế hoạch y tế đến năm 2010 là thực hiện quá trình tư hữu
hóa bệnh viện công mới có thể đáp ứng tốt nhu cầu chăm sóc sức khoẻ ngày
càng gia tăng do việc gia tăng dân số và tuổi thọ bình quân. Chính phủ
Indonexia thúc đẩy quá trình tư hữu hóa như là một công cụ nhằm đạt được mục
tiêu phân bổ và chuyên nghiệp hóa trong công tác chăm sóc sức khỏe. Tuy
nhiên, quá trình tư hữu hóa các bệnh viện công tại Indonexia vẫn tồn tại ý kiến
phản đối vì cho rằng lợi ích của việc tư hữu hóa vẫn thuộc về người giàu và có
thể làm tồi tệ hơn khoảng cách giàu nghèo trong chăm sóc sức khỏe. Ở
Indonexia, tỷ lệ tử vong của người nghèo cao gấp 3 lần so với người giàu. Hơn
nữa, tại Indonexia các bệnh viện tư có mức chi phí khám chữa bệnh cao, không
có các dòch vụ y tế hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận nên người dân Indonexia
tìm đến các dòch vụ y tế rẻ hơn tại các nước lân cận như Thái Lan, Malaixia,
Singapore.
Hệ thống y tế tại Indonexia đang phụ thuộc khá nhiều vào đầu tư tư nhân.
Đến năm 2005, ở Indonexia khu vực y tế tư nhân chiếm 49,8% vốn đầu tư (tương
ứng 629 bệnh viện), khu vực y tế công chiếm 50,2% nguồn vốn đầu tư cho y tế
Trang 20
(tương ứng có 635 bệnh viện). (Nguồn: Ministry of Health, Frost and Sullivan).
Khu vực y tế tư nhân cung ứng chất lượng phục vụ tốt hơn và chi phí chăm sóc y
tế cao hơn khu vực y tế nhà nước. Bộ y tế kiểm soát hoạt động các tổ chức y tế
tư nhân nhằm đảm bảo chất lượng và trách nhiệm thông qua các quy đònh và
việc cấp phép. Cùng với việc phân cấp quản lý trong công tác chăm sóc sức
khẻo, Bộ y tế Indonexia trao bớt quyền hạn và trách nhiệm cho chính quyền đòa
phương trong việc ưu tiên chăm sóc người nghèo. Bộ y tế chòu trách nhiệm hoạt
động của toàn hệ thống y tế trong việc lập kế hoạch, xây dựng quy đònh và thực
hiện các hoạt động hỗ trợ. Vì vậy Bộ y tế Indonexia phải tạo ra một môi trường
nhằm khuyến khích phát triển y tế tư nhân, không có sự can thiệp quá sâu từ
phía Chính phủ.

Sự thành công của y tế Indonexia sẽ là sự phối hợp chặc chẽ giữa tư nhân
và nhà nước thông qua việc hỗ trợ và thúc đẩy.

1.4.2. Thái Lan
Tại Thái Lan, bệnh viện công vẫn chiếm đa số về số lượng (đặc biệt là ở
các vùng ngoài Bangkok và đô thò), bệnh viện tư nhân có số lượng ít hơn nhưng
chiếm nhiều thò phần hơn do họ có thể cung cấp dòch vụ tốt hơn. Bệnh viện tư ở
Thái Lan có nhân viên y tế chất lượng cao, nhiều bác só và chuyên gia được đào
tạo tại nước ngoài. Nhiều bệnh viện tư tạo dựng uy tín bằng cách liên kết với
các Trường và các Viện đào tạo y tế hàng đầu thế giới ở Châu Âu và Hoa Kỳ.
Chính sự cạnh tranh khốc liệt trong lónh vực y tế tư nhân đã khiến các bệnh viện
này phải cam kết nhằm đảm bảo các tiêu chuẩn trong khám chữa bệnh. Thái
Lan đang có uy tín về các dòch vụ y tế chất lượng cao và chữa trò trực tiếp nhờ
chi phí thấp. Theo thống kê của WHO thì chi phí điều trò tại Thái Lan chỉ bằng
Trang 21
khoảng 1/10 so với chi phí điều trò tại Hoa Kỳ (Nguồn: Data collected from 30
privat hospital by departmwnt of Export Promotion, Ministry of Commerce).
Bộ y tế Thái Lan tiếp tục khuyến khích hệ thống y tế tư nhân nhằm đáp
ứng tốt nhu cầu khám chữa bệnh theo dòch vụ ngày càng tăng trong nước và các
nước trong khu vực. Bộ y tế Thái Lan đã phát động chiến dòch từ năm 2004
nhằm xây dựng Thái Lan trở thành “Trung tâm du lòch y tế tại Châu Á” và là
“Thủ đô dòch vụ y tế tại Châu Á”.

1.4.3. Trung Quốc
Hoạt động dòch vụ y tế tại Trung Quốc đã trở thành một ngành công
nghiệp y tế phát triển nhanh nhất trên thế giới. Trong thập kỷ qua, hoạt động
này đã đạt được mức độ tăng trưởng hàng năm kỷ lục ở mức 16%, Trung Quốc
hy vọng sẽ trở thành một trong năm thò trường dòch vụ y tế lớn nhất thế giới vào
năm 2010. Hầu hết các bệnh viện lớn ở các đô thò Trung Quốc là thuộc sở hữu
Nhà nước. Không như ở Hoa Kỳ và nhiều quốc gia phát triển khác, Trung Quốc

hiện không có hệ thống bệnh viện xuyên quốc gia.
Hiện nay tại Trung Quốc các bệnh viện công chiếm đa số, bệnh viện tư
chỉ có ở một vài chuyên khoa. Có đến 89% các bệnh viện tại Trung Quốc là các
tổ chức phi lợi nhuận. Ở Trung Quốc ngoài bệnh viện công hoạt động phi lợi
nhuận còn có một số bệnh viện tư có vốn đầu tư nước ngoài cũng hoạt động
không vì mục tiêu lợi nhuận. (Nguồn: Theo tài liệu hội thảo y tế ngày
17/05/2007). Các bệnh viện tư được Chính phủ hỗ trợ thông qua chính sách
khuyến khích đầu tư, nhất là hoạt động ở các loại dòch vụ y tế không được bảo
hiểm thanh toán, nhằm giảm bớt tình trạng quá tải tại bệnh viện công và cung
ứng thêm những dòch vụ chăm sóc đặc biệt của tầng lớp dân chúng có thu nhập
cao.
Trang 22

1.4.4. Đức
Đến năm 2005 tại Đức bệnh viện công vẫn chiếm ưu thế (712 bệnh viện),
ngoài ra còn có hệ thống bệnh viện hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận (647
bệnh viện) và bệnh viện tư nhân (620 bệnh viện). Cấu trúc sỡ hữu bệnh viện tại
Đức như sau:







Nguồn: Theo tài liệu hội thảo ngày 28/09/2007 tại Sở Y tế về Hệ thống y tế tại
Đức và khả năng ứng dụng tại Việt Nam
Như vậy trong hệ thống bệnh viện công ở Đức có bệnh viện công hoạt
động theo luật bệnh viện tư, khi đó bệnh viện hoạt động như một doanh nghiệp
có mục tiêu lợi nhuận. Chính phủ Đức quy đònh mức phí khám chữa bệnh tại các

bệnh viện công được tính đủ các khoản chi phí khám chữa bệnh cho bệnh nhân
và mức phí này được áp dụng chung cho các bệnh viện công cho dù hoạt động
theo luật nào. Khái niệm phi lợi nhuận tại các bệnh viện phi lợi nhuận ở Đức
được hiểu là các nhà đầu tư chỉ duy trì ở mức lợi nhuận thấp bằng mức lãi suất
tiền gửi ngân hàng, và các nhà đầu tư thường là các quỹ hưu bổng, quỹ an sinh,
quỹ khuyến học,…
Theo số liệu từ Cục thống kê Liên bang của Đức thì tình hình tài chính
trong hệ thống y tế Đức trong năm 2005 như sau:
Bệnh viện không vì mục
tiêu lợi nhuận
Bệnh viện công
Bệnh viện tư nhân
Hoạt động theo luật
bệnh viện công
Hoạt động theo
luật bệnh viện tư
Trang 23

Bảng 1.1: Cơ cấu chi phí khám chữa bệnh tại nước Cộng hòa liên bang Đức
Nguồn thu vào: 239,4 tỷ DEM Nơi nhận chi ra: 239,4 tỷ DEM
- Bảo hiểm y tế bắc buộc : 57%
- Bảo hiểm y tế tự nguyện: 9%
- Người sử dụng lao động : 4%
- Bảo hiểm chăm sóc sức khỏe bắt buộc: 7%
- Bảo hiểm hưu trí bắt buộc 1%
- Bảo hiểm tai nạn bắt buộc 2%
- Chính quyền chi trả 6%
- Tư nhân tự chi trả 14%
- Bệnh viện 26%
- Thuốc 15%

- Y cụ và thiết bò 12%
- Bác só: 15%
- Nha só 6%
- Y tá – điều dưỡng 8%
- Chi khác 18%
Nguồn: Cục thống kê Liên bang của Đức
Hệ thống bảo hiểm tại Đức phát triển rất tốt, hơn 80 % chi phí khám chữa
bệnh là do bảo hiểm y tế trả, Chính phủ chi trả 6% chi phí, và chỉ có 14% chi
phí do người dân trực tiếp chi trả.

Qua việc nghiên cứu kinh nghiệm quản lý y tế của các nước trong khu vực
và phương tây, những cơ sở pháp lý cho việc thực hiện cổ phần hóa, những mâu
thuẩn nội tại giữa nhu cầu muốn phục vụ và năng lực đáp ứng, những vướng mắc
khi thực hiện cổ phần hóa bệnh viện Bình Dân đã cho thấy việc thực hiện cổ
phần hóa bệnh viện công là có thể thực hiện được. Việc thực hiện cổ phần hóa
bệnh viện phải theo một lộ trình có đònh hướng từ phía Chính phủ, qua đó mới
giúp các đơn vò chuẩn bò đủ các điều kiện cần thiết khi tiến hành cổ phần hóa.
Trong đó có những điều kiện liên quan đến tình hình hoạt động tại đơn vò, tình
hình tài chính của đơn vò. Chính vì thế chúng ta cùng nhau nghiên cứu thực trạng
Trang 24
hoạt động tại các bệnh viện công trong giai đoạn 5 năn gần đây, từ năm 2002
đến năm 2006
























Trang 25
Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TẠI CÁC BỆNH VIỆN CÔNG
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Tình hình khám chữa bệnh tại các bệnh viện công trên đòa bàn thành
phố Hồ Chí Minh
2.1.1. Mạng lưới bệnh viện ở thành phố Hồ Chí Minh
Theo mức độ chuyên sâu trong điều trò và mức độ đầu tư, bệnh viện được
chia làm 2 loại: bệnh viện đa khoa và bệnh viện chuyên khoa. Từ số liệu thống
kê của Sở y tế thành phố Hồ Chí Minh cho biết sôá lượng bệnh viện công trên
đòa bàn (trực thuộc Sở y tế quản lý) không có sự biến động suốt thời gian 5 năm
nghiên cứu từ 2002-2006, bao gồm 25 bệnh viện, trong đó có 8 bệnh viện đa
khoa và 17 bệnh viện chuyên khoa. Mạng lưới hệ thống các bệnh viện trên đòa
bàn thành phố Hồ Chí Minh gồm có các bệnh viện công trực thuộc Trung ương
quản lý, bệnh viện công thuộc Sở y tế quản lý, bệnh viện công thuộc các chuyên
ngành đặc thù, và bệnh viện tư nhân hoạt động theo luật doanh nghiệp (xem phụ

lục số 01).
Trong thời gian từ năm 2002-2006 có một số bệnh viện công được đầu tư
tăng thêm số lượng giường bệnh từ các khu dòch vụ mới được xây dựng như
Bệnh viện Từ Dũ, bệnh viện Bình Dân, bệnh viện Mắt. Tại thành phố Hồ Chí
Minh, hệ thống các bệnh viện không phải chỉ đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh
của nhân dân trên đòa bàn Thành phố mà còn cho các đòa phương lân cận, đặc
biệt là khi mức sống ngày càng tăng và hệ thống giao thông tốt hơn.
Từ năm 2000 đến nay, có nhiều bệnh viện tư nhân mới thành lập, bổ sung
vào hệ thống bệnh viện công, đáp ứng kòp thời nhu cầu khám chữa bệnh ngày
càng gia tăng, giải quyết bớt phần quá tải cho hệ thống bệnh viện công. Đến
năm 2006, số lượng bệnh viện tư nhân đã tăng lên 23 bệnh viện, trong đó có 12
bệnh viện đa khoa và 11 bệnh viện chuyên khoa. Có nhiều bệnh viện đa khoa tư

×