-1-
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THẨM ĐỊNH RỦI RO TÀI CHÍNH
TRONG TÍN DỤNG DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Dự án đầu tư và phân loại dự án đầu tư
1.1.1. Khái niệm dự án đầu tư
Ngân hàng thế giới (World Bank) - một định chế tài chính đa quốc gia rất nổi
tiếng trong lĩnh vực tài trợ dự án ở khắp nơi trên thế giới đã đưa ra định nghĩa như
sau về dự án: “Dự án là tổng thể các chính sách, hoạt động và chi phí liên quan với
nhau được hoạch định nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong một thời gian
nhất định”.
Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế (ISO 8402) thì đưa ra định nghĩa: “Dự án là một
quá trình bao gồm các hoạt động được phối hợp thực hiện và quản lý trong một giai đoạn
xác định nhằm đạt được một mục tiêu cụ thể trong điều kiện hạn chế về nguồn lực”.
Ở nước ta hiện nay, theo quy chế quản lý đầu tư và xây dựng do Chính phủ
Việt Nam ban hành thì dự án được hiểu như sau: Dự án là một tập hợp những đề
xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo cơ sở vật chất
nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất
lượng sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định.
Từ các định nghĩa trên đây chúng ta có thể rút ra được các yếu tố cơ bản sau
đây hình thành nên một dự án đầu tư:
- Các chính sách, giải pháp và đề xuất về việc bỏ vốn, chi phí hay nguồn
lực phải được hoạch định, lập kế hoạch, tính toán cụ thể.
- Các mục tiêu mà dự án cần phải đạt được là mục tiêu tăng trưởng, cải
tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ.. và/hoặc lợi ích kinh tế xã hội.
- Dự án phải được hoàn thành trong một khoảng thời gian xác định.
-2-
1.1.2. Các loại hình dự án đầu tư
Tùy theo đối tượng và mục tiêu nghiên cứu người ta phân loại các dự án đầu
tư theo các tiêu thức sau đây:
- Căn cứ vào chủ thể đầu tư: gồm dự án đầu tư trong nước, dự án đầu tư
nước ngoài.
- Căn cứ vào trình tự lập dự án: Dự án tiền khả thi và dự án khả thi.
- Căn cứ vào tính chất của dự án, gồm các loại: dự án độc lập, dự án phụ
thuộc và dự án loại trừ (hay thay thế) lẫn nhau.
- Căn cứ vào mục đích đầu tư, người ta phân loại thành dự án đầu tư mở
rộng; dự án thay thế; dự án phát sinh để đáp ứng các yêu cầu về pháp lý, sức khỏe
và an toàn. Đây là tiêu chí phân loại phổ biến mà chủ đầu tư và các nhà tài trợ quan tâm.
+ Các dự án đầu tư mở rộng: Do hầu hết các sản phẩm hiện có cuối cùng
đều trở thành lỗi thời, tăng trưởng của một doanh nghiệp tùy thuộc vào việc triển
khai và tiếp thị các sản phẩm mới. Điều này đưa đến việc phát sinh các đề xuất đầu
tư vào nghiên cứu phát triển, đầu tư nghiên cứu thị trường, đầu tư tiếp thị thử sản
phẩm và có thể ngay cả đầu tư vào các nhà máy, tài sản và thiết bị mới.
+ Các dự án thay thế: Nếu sản phẩm trở nên lỗi thời theo thời gian thì nhà
máy, tài sản, thiết bị và các quy trình sản xuất cũng vậy. Việc sử dụng thường
xuyên làm hoạt động của các nhà máy lâu năm trở nên tốn kém hơn do chi phí bảo
trì cao hơn và thời gian ngưng việc nhiều hơn. Hơn nữa, việc triển khai các công
nghệ mới làm cho các thiết bị hiện hữu trở nên lỗi thời về mặt kinh tế. Các yếu tố
này tạo nên cơ hội cho các đầu tư tiết giảm chi phí, bao gồm việc thay thế các máy
móc thiết bị cũ kỹ, lỗi thời bằng các máy móc thiết bị mời hơn có năng suất cao
hơn.
+ Các dự án phát sinh để đáp ứng các yêu cầu pháp lý, các tiêu chuẩn sức
khỏe và an toàn: Các dự án này bao gồm các đề xuất đầu tư cho những thiết bị kiểm
soát ô nhiễm, an toàn lao động, bảo vệ môi trường…
-3-
1.2. Thẩm định tín dụng dự án đầu tư
1.2.1. Ý nghĩa và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với dự án đầu tư
Tín dụng là một chức năng cơ bản của ngân hàng, vì vậy trên cơ sở tiếp cận
theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín dụng được hiểu là một giao dịch về
tài sản (tiền tệ hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài
chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó
bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất
định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi
vay cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng với nhau hoặc
giữa các tổ chức tín dụng với các tổ chức kinh tế, cá nhân khác. Đây là hình thức
chủ yếu chiếm vị trí đặc biệt trong nền kinh tế.
a. Ý nghĩa của tín dụng ngân hàng đối với dự án đầu tư
- Trước hết đó là loại đầu tư có hoàn trả trực tiếp, do vậy nó thúc đẩy việc
sử dụng vốn đầu tư tiết kiệm và có hiệu quả.
- Là hình thức đầu tư linh họat có thể xâm nhập vào nhiều ngành nghề với
những quy mô lớn, vừa và nhỏ, do vậy nó cho phép thỏa mãn nhiều nhu cầu đầu tư
xây dựng cơ bản, đổi mới trang thiết bị, thay đổi dây chuyền công nghệ...
- Đầu tư qua tín dụng là đầu tư bằng nguồn vốn tiết kiệm và tích lũy trong
xã hội, vì vậy nó cho phép khai thác và sử dụng triệt để các nguồn vốn trong xã hội
để tận dụng và khai thác các tiềm năng về lao động,
đất đai, tài nguyên thiên nhiên
nhằm phát triển và mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh.
b. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với dự án đầu tư
Tín dụng dự án đầu tư nói riêng và tín dụng nói chung là hình thức cấp tín
dụng góp phần đem lại lợi nhuận cho hoạt động ngân hàng. Ngân hàng cần nhận
thức rõ rằng tín dụng dự án đầu tư là một loại sản phẩm quan trọng cung cấp cho
khách hàng nhằm mục đích đem lại lợi nhuận. Việc nhận thức tín dụng như là một
sản phẩm tiêu thụ nhằm mục đích sinh lợi giúp cho ngân hàng thấy được trách
-4-
nhiệm của mình và nỗ lực phục vụ khách hàng của mình tốt hơn. Vai trò của tín
dụng ngân hàng đối với dự án đầu tư thể hiện ở các yếu tố chủ yếu sau:
- Tài trợ vốn cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp thực hiện các dự án
đầu tư nhằm mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Hiện nay nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn tăng trưởng mạnh, các doanh
nghiệp ra đời theo luật doanh nghiệp ngày càng nhiều, nền kinh tế đang rất cần vốn
cho đầu tư. Phần lớn các doanh nghiệp đang trong tình trạng máy móc thiết bị cũ
kỹ, công nghệ lạc hậu, dẫn đến đầu tư cho chất lượng sản phẩm chưa cao, chất
lượng cạnh tranh kém.
- Giúp các doanh nghiệp mở rộng và phát triển thị trường, tăng cường khả
năng cạnh tranh:
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc trước hết vào chất lượng và
giá cả sản phẩm. Chất lượng và giá cả lại phụ thuộc vào công nghệ, kỹ thuật và
trình độ quản lý. Muốn có được kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến đòi hỏi phải
có vốn lớn. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, các doanh nghiệp phải chủ động lập
dự án đổi mới công nghệ, thiết bị, cải tiến quản lý, nâng cao trình độ chuyên môn...
Điều này chỉ có thể làm được khi có vốn. Nhờ vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng,
các nhà đầu tư, doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn ngân hàng để mở rộng quy
mô sản xuất, đầu tư máy móc thiết bị nhằm tăng năng lực cạnh tranh.
- Giúp các chủ dự án chủ động trong việc huy động và thanh toán vốn:
+ Để huy động vốn thực hiện dự án của mình, các doanh nghiệp có thể tiến
hành kêu gọi góp vốn, liên doanh hoặc phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Tuy nhiên các
hình thức này có các hạn chế:
+ Phải phân chia quyền hạn và lợi ích hoặc công bố thông tin về mình hoặc
đang ở trong điều kiện thị trường không có lợi cho việc phát hành.
+ Các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị hạn chế về khả năng tìm nguồn vốn trên
thị trường tài chính.
+ Thông qua tín dụng ngân hàng, các nhà đầu tư không lo ngại việc phải
thanh toán nợ trong cùng một thời hạn như trái phiếu. Mặt khác, trong quá trình sử
-5-
dụng vốn, các nhà đầu tư có thể chủ động hơn trong việc sử dụng theo tiến độ xây
dựng, sản xuất kinh doanh, vốn chưa sử dụng chưa phải chịu lãi vay, có thể trả nợ
trước hạn và thậm chí không phải bị phạt, có thể thương lượng lại các điều khoản
một cách trực tiếp với người cho vay.
+ Thời hạn của các khoản vay dự án thường ngắn hơn thời hạn của các trái
phiếu, do đó có thể có lợi cho doanh nghiệp ở những thời kỳ lãi suất cao.
+ Đối với vay đầu tư dự án người đi vay không phải tốn chi phí đăng ký,
chi phí bảo lãnh và chi phí bán chứng khoán ra thị trường. Vì vậy trong một số
trường hợp chọn con đường đi vay sẽ có chi phí thấp hơn phát hành trái phiếu.
1.2.2. Vai trò của thẩm định tín dụng dự án đầu tư
Hoạt động tín dụng đa dạng nhưng rủi ro của nó cũng được thể hiện ở nhiều
mặt với nhiều mức độ khác nhau. Riêng về lĩnh vực cho vay đối với các tổ chức
kinh tế được chia thành các khâu liên kết trong dây chuyền tín dụng, từ khâu quyết
định cho vay, giải ngân đến khâu thu nợ. Chất lượng của các khoản tín dụng được
đảm bảo khi quyết định cho vay là đúng đắn, mà một quyết định là đúng đắn khi các
yếu tố liên quan đã được thẩm định đầy đủ rõ ràng.Vì thế thẩm định tín dụng không
chỉ là một khâu trong quá trình hoạt động tín dụng mà còn là điều kiện tiên quyết,
một yếu tố không thể thiếu tính cân nhắc của ngân hàng.
a. Khái niệm
Thẩm định tín dụng dự án đầu tư là việc tổ chức thu thập và xử lý thông tin
một cách khách quan, toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến tính
khả thi của dự án đầu tư làm căn cứ để quyết định cho vay.
b. Vai trò của thẩm định tín dụng dự án đầu tư
Thẩm định tín dụng dự án đầu tư có ý nghĩa quan trọng, được coi là giai
đoạn khởi đầu cho quá trình đầu tư tín dụng. Qua thẩm định có thể đánh giá một
cách khách quan về sự cần thiết, tính khả thi và hiệu quả của dự án, nhờ đó có biện
pháp để quản lý tốt quá trình cho vay, thu nợ nhằm hạn chế các rủi ro, nâng cao
hiệu quả đầu tư tín dụng. Mặt khác, thông qua thẩm định có thể tư vấn cho đơn vị
-6-
vay vốn có phương hướng và biện pháp xử lý các vấn đề liên quan đến dự án một
cách tốt nhất. Giúp các cơ quan quản lý Nhà nước đánh giá được sự cần thiết và tính
phù hợp của dự án đối với quy hoạch phát triển chung của ngành, xác định được
những lợi ích và thiệt hại của dự án khi đi vào hoạt động dựa trên các khía cạnh
công nghệ, vốn, ô nhiễm môi trường và các lợi ích xã hội khác.
c. Mục đích thẩm định tín dụng dự án đầu tư
Đối với doanh nghiệp hay chủ đầu tư, mục đích của việc thẩm định dự án
đầu tư là nhằm đánh giá dự án có khả thi hay không để quyết định đầu tư và huy
động nguồn tài trợ. Còn đối với ngân hàng hay nhà tài trợ thì mục đích của việc
thẩm định tín dụng đầu tư theo dự án là sử dụng các công cụ và kỹ thuật phân tích
nhằm kiểm tra đánh giá mức độ tin cậy và rủi ro của dự án mà khách hàng đề nghị
vay vốn, nhằm phục vụ cho việc ra quyết định tín dụng.
Khác với lập dự án đầu tư, thẩm định tín dụng cố gắng phân tích và hiểu
được tính chất khả thi thực sự của dự án về mặt kinh tế đứng trên góc độ của ngân
hàng. Khi lập dự án, khách hàng do mong muốn được vay vốn, có thể đã thổi phồng
và dẫn đến ước lượng quá lạc quan về hiệu quả kinh tế của dự án. Do vậy, thẩm
định tín dụng cần phải xem xét đánh giá đúng thực chất của dự án. Tuy nhiên không
phải vì thế mà tín dụng ước lượng dự án một cách quá bi quan khiến cho hiệu quả
dự án bị giảm sút đến nỗi quyết định không cho vay.
Mục đích của thẩm định tín dụng là thu thập thông tin và đánh giá lại dự án
nhằm phục vụ cho quyết định cho vay. Do vậy thẩm định tín dụng cần phải đạt
được các mục tiêu sau:
- Đánh giá mức độ tin cậy của dự án đầu tư mà khách hàng đã lập và nộp
cho ngân hàng khi làm thủ tục vay vốn.
- Phân tích và đánh giá được mức độ rủi ro của dự án khi quyết định cho vay.
- Giảm xác suất của hai loại sai lầm khi quyết định cho vay: (1) cho vay
một dự án tồi và (2) từ chối cho vay một dự án tốt.
- Góp phần nâng cao chất lượng tín dụng và giữ cho nợ quá hạn trong
vòng kiểm soát.
-7-
1.2.3. Các quan điểm khi thẩm định dự án đầu tư
Một dự án đầu tư phải được thẩm định đầy đủ các phương diện: Thị trường -
Kỹ thuật - Nhân sự và quản lý - Tài chính - Kinh tế - Xã hội. Từ các phương diện
thẩm định này có thể phân chi thành các quan điểm thẩm định như: Quan điểm tài
chính - Quan điểm kinh tế - Quan điểm phân phối thu nhập và Quan điểm nhu cầu
cơ bản.
Ngoài việc phân chia theo các quan điểm thẩm định như trên, dự án còn có
thể được thẩm định theo các quan điểm của các cá nhân và tổ chức như : Chủ đầu
tư, ngân hàng và các định chế tài chính khác, cơ quan quản lý ngân sách hay quốc gia.
Việc thẩm định dự án theo các quan điểm khác nhau là rất quan trọng vì
chúng cho phép các nhà thẩm định xác định xem các thành viên có liên quan tới dự
án thấy có đáng tài trợ, đáng tham gia hay thực hiện dự án hay không. Nếu kết quả
dự án là hấp dẫn đối với chủ đầu tư nhưng không hấp dẫn đối với các tổ chức tài
chính hay các cơ quan quản lý ngân sách của chính quyền thì dự án có thể gặp khó
khăn trong khâu xét duyệt hoặc tìm nguồn tài trợ. Ngược lại, nếu dự án là có lợi
theo quan điểm của ngân hàng hay của cơ quan quản lý ngân sách nhưng không có
lợi cho chủ đầu tư thì dự án có thể gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện.
Nói tóm lại, để đảm bảo cho việc phê chuẩn và thực hiện thành công một dự án cần
hấp dẫn đối với tất cả các nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan tới dự án.
Dưới đây là bảng biểu diễn các quan điểm thẩm định của các chủ thể tham
gia vào dự án:
Quan điểm thẩm định Tài chánh
Kinh tế
xã hội
Phân phối
thu nhập
Nhu cầu cơ
bản
Ngân hàng + - + -
Chủ sở hữu + - + -
Cơ quan ngân sách + - + -
Quốc gia - + + +
-8-
Từ các quan điểm thẩm định trên đây cho thấy, thẩm định kinh tế, phân phối
thu nhập và nhu cầu cơ bản là thẩm định theo quan điểm của quốc gia nên các quan
điểm thẩm định này không được chủ đầu tư và ngân hàng quan tầm nhiều lắm.
Ngược lại, chủ đầu tư, ngân hàng và cơ quan quản lý ngân sách quan tâm đến thẩm
định theo quan điểm tài chính. Sau đây ta xem xét cụ thể từng quan điểm thẩm định
nêu trên.
- Quan điểm tổng đầu tư (TIPV – Total Investment Point of View):
Theo quan điểm của tổng đầu tư (mà đại diện là quan điểm của ngân hàng),
xem xét một dự án là nhằm đánh giá sự an toàn của số vốn vay mà dự án có thể cần.
Do đó quan điểm tổng đầu tư là nhằm xác định hiệu quả sinh ra từ toàn bộ số vốn
đầu tư ban đầu thông qua xem xét tới tổng dòng ngân lưu chi cho dự án (kể cả phần
đóng thuế) và tổng dòng ngân lưu thu về (kể cả phần trợ cấp trợ giá). Từ sự phân
tích này các ngân hàng (nhà tài trợ) sẽ xác định được tính khả thi về mặt tài chính,
nhu cầu vay vốn cũng như khả năng trả nợ của dự án. Nói cách khác, quan điểm
tổng đầu tư còn được xem là đại diện cho bất cứ thành viên nào muốn tham gia vào
dự án. Một cách tổng quát, quan điểm tổng đầu tư có thể được diễn tả như sau:
A = Lợi ích tài chính trực tiếp – Chi phí tài chính trực tiếp – Chi phí cơ hội
- Quan điểm của chủ đầu tư (EPV - Equity Investment Point of View):
Theo quan điểm của chủ sở hữu (còn gọi là quan điểm của chủ đầu tư hay
quan điểm của cổ đông), mục đích là xem xét giá trị thu nhập ròng còn lại của dự án
so với những gì họ có được trong trường hợp không thực hiện dự án, hay nói cách
khác là xem xét dòng tiền còn lại có đủ bù đắp được chi phí cơ hội của vốn chủ sở
hữu hay không. Khác với quan điểm tổng đầu tư, quan điểm phân tích của chủ sở
hữu khi tính toán dòng ngân lưu phải tính đến, tức là phải cộng vốn vay ngân hàng
cho dòng ngân lưu vào và khoản trả lãi vay và nợ gốc cho dòng ngân lưu ra. Tổng
quát, dòng tiền theo quan điểm chủ sở hữu có thể diễn tả như sau:
B = A + Vay - Trả nợ gốc và lãi vay
-9-
- Quan điểm của cơ quan quản lý ngân sách (Government Budget Point of
View):
Đối với cơ quan quản lý ngân sách, một dự án ra đời có thể cần được ngân
sách trợ giá hay trợ cấp đối với các sản pẩhm đầu ra hay sử dụng yếu tố đầu vào của
dự án và ngân sách cũng có thể thu được từ dự án các khoản phí và thuế trực tiếp
hay gián tiếp. Do đó, dòng tiền theo quan điểm này có thể diễn tả như sau:
C = Phí, thuế trực tiếp và gián tiếp - Trợ giá, trợ cấp trực tiếp và gián tiếp
- Quan điểm của nền kinh tế (Economic Point of View):
Khi sử dụng phân tích kinh tế để tính toán mức sinh lợi của dự án theo quan
điểm của toàn quốc gia, các nhà phân tích sử dụng “giá cả kinh tế” để xác định giá
trị thực của các yếu tố nhập lượng và xuất lượng của dự án. Những giá cả kinh tế
này có tính đến thuế và trợ cấp. Ngoài ra còn phải tính đến các ngoại tác tích cực và
tiêu cực mà dự án gây ra. Một số dự án thuộc lĩnh vực công như: bệnh viện, trường
học, công viên, cơ sở hạ tầng, đường giao thông miễn phí…, thẩm định dự án về
mặt tài chính có rất ít hoặc không có ý nghĩa mà chủ yếu là thẩm định về mặt kinh
tế. Lợi ích ròng của dự án theo quan điểm nền kinh tế có thể diễn tả như sau:
D = Tổng lợi ích kinh tế - Tổng chi phí kinh tế
- Quan điểm phân phối thu nhập (Social Distribution Point of View):
Theo quan điểm này, nhà thẩm định tính toán lợi ích tài chính ròng mà dự án
mang lại cho những nhóm đối tượng khác nhau khi họ bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc
gián tiếp bởi dự án sau khi đã trừ chi phí cơ hội của họ.
Thẩm định phân phối thu nhập được xây dựng trên cơ sở của thẩm định kinh
tế và tài chính có tính đến các ngoại tác do dự án mang lại làm thay đổi thu nhập
của các đối tượng khác nhau trong xã hội.
- Quan điểm nhu cầu cơ bản (Basic Needs Point of View):
Theo quan điểm này, các nhà thẩm định quy ra một lợi ích ngoại tác khi dự
án tạo ra được một sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ đáng khuyến khích như giáo
dục, y tế hay dinh dưỡng và trong trường hợp đó, nhà thẩm định sẽ cộng thêm một
-10-
khoản tiền thưởng cho mỗi giá trị hàng hóa gia tăng đáp ứng nhu cầu cơ bản của xã
hội. Ngược lại, nếu dự án tạo ra một sản phẩm hay dịch vụ đáng trách cho xã hội
chẳng hạn như thuốc lá thì sẽ quy ra một khoản tiền phạt cho mỗi đơn vị giá trị
hàng hóa gia tăng gây hại cho xã hội.
1.2.4. Các nội dung của thẩm định tín dụng dự án đầu tư
Thẩm định tín dụng nói chung và thẩm định tín dụng đầu tư theo dự án nói
riêng được khái quát qua các nội dung sau:
- Thẩm định tính pháp lý, tư cách của đơn vị vay vốn. Căn cứ thẩm định là
dựa trên cơ sở hồ sơ pháp lý do khách hàng cung cấp, thông qua phỏng vấn, hồ sơ
lưu trữ… Đây là yếu tố mang tính tiền đề khi ra quyết định tín dụng.
- Thẩm định tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của đơn
vị vay vốn. Cơ sở thẩm định là tình hình sản xuất kinh doanh hiện tại của doanh
nghiệp, phân tích tình hình tài chính dựa trên các báo cáo tài chính gồm các nhóm
chỉ tiêu: nhóm chỉ tiêu thanh toán; nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn; nhóm chỉ
tiêu lợi nhuận; nhóm chỉ tiêu cơ cấu tài chính. Đây là yếu tố mang tính tham khảo
khi ra quyết định tín dụng.
- Thẩm định dự án đầu tư. Đây là yếu tố mang tính quyết định khi ra quyết
định tín dụng.
- Thẩm định tài sản đảm bảo. Đây là yếu tố mang tính dự phòng khi ra
quyết định tín dụng.
1.3. Thẩm định rủi ro tài chính dự án đầu tư
1.3.1. Các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả tài chính dự án đầu tư
Một dự án đầu tư được đánh giá là rất tốt khi dự án đó phải tạo ra được mức
lợi nhuận tuyệt đối - tức khối lượng của cải ròng lớn nhất; có tỷ suất sinh lời cao – ít
nhất phải cao hơn lãi suất vay hoặc tỷ suất sinh lời mong muốn hoặc tỷ suất chiết
khấu bình quân ngành hoặc thị trường; khối lượng và doanh thu hòa vốn thấp và dự
án phải nhanh chóng thu hồi vốn - để hạn chế những rủi ro bất trắc.
-11-
Xuất phát từ suy nghĩ đơn giản và thông thường đó, người ta có những tiêu
chuẩn tương ứng dùng để thẩm định tính hiệu quả của dự án. Có nhiều tiêu chuẩn
khác nhau được dùng để đánh giá kết quả dự kiến của các dự án đầu tư nhưng trên
thực tế có ba chỉ tiêu được sử dụng nhiều nhất trong thẩm định dự án đầu tư đại
diện cho các tiêu chuẩn hiệu quả về mặt tuyệt đối, tương đối và thời gian, đó là các
tiêu chuẩn: hiện giá ròng - NPV; tiêu chuẩn tỷ suất sinh lời nội bộ - IRR và tiêu
chuẩn thời gian hoàn vốn đầu tư.
a. Tiêu chuẩn hiện giá ròng – NPV
- Đây là chỉ tiêu cơ bản dùng để đánh giá hiệu quả của một dự án đầu tư vì
nó thể hiện giá trị tăng thêm mà dự án mang lại cho công ty. NPV là tổng hiện giá
ngân lưu ròng của dự án với suất chiết khấu thích hợp. NPV được sử dụng rộng rãi
trong thẩm định hiệu quả tài chính dự án.
∑
=
+
=
n
t
t
t
r
NCF
NPV
0
)1(
Trong đó:
NCF
t
là ngân lưu ròng năm thứ t;
r là suất chiết khấu của dự án;
n là tuổi thọ của dự án;
- Ý nghĩa của NPV:
+ Với cùng một suất chiết khấu, dự án nào có NPV lớn chứng tỏ dự án đó
có hiệu quả hơn vì nó tạo ra giá trị lớn hơn cho công ty.
+ Một dự án có NPV>0 có nghĩa là dự án có suất sinh lời cao hơn chi phí
cơ hội của vốn (suất sinh lời của dự án cao hơn suất chiết khấu).
+ Một dự án có NPV=0 có nghĩa là dự án có suất sinh lời bằng chi phí cơ
hội của vốn (suất sinh lời của dự án bằng suất chiết khấu).
+ Một dự án có NPV<0 có nghĩa là dự án có suất sinh lời thấp hơn chi phí
cơ hội của vốn (suất sinh lời của dự án nhỏ hơn suất chiết khấu).
Nói chung dự án chỉ đáng đầu tư khi nào có NPV>0 và chỉ khi ấy thu nhập từ
dự án mới đủ trang trải chi phí và mang lại lợi nhuận tăng thêm cho nhà đầu tư.
-12-
Sử dụng chỉ tiêu NPV để quyết định có nên đầu tư dự án hay không nói
chung có các ưu điểm sau: Có tính đến thời giá của tiền tệ; xem xét toàn bộ ngân
lưu của dự án; đơn giản và có tính chất cộng: NPV(A+B) = NPV(A) + NPV(B); có
thể so sánh giữa các dự án có quy mô khác nhau. Tuy nhiên, chỉ tiêu NPV cũng có
nhược điểm là việc tính toán xác định chỉ tiêu này phụ thuộc vào suất chiết khấu, do
đó đòi hỏi phải quyết định tỷ suất chiết khấu phù hợp mới áp dụng tiêu chuẩn này được.
b. Tiêu chuẩn tỷ suất sinh lời nội bộ - IRR
Tỷ suất sinh lời nội bộ là tỷ lệ chiết khấu tại đó giá trị hiện tại của dòng tiền
vào tương đương với dòng tiền ra. Nói cách khác, nó là tỷ lệ chiết khấu sao cho giá
trị hiện tại của thu nhập từ dự án tương đương với giá trị hiện tại của đầu tư và
NPV=0.
∑
=
=
+
=
n
t
t
t
IRR
NCF
NPV
0
0
)1(
IRR chính là tỷ suất sinh lời thực tế của dự án đầu tư. Vì vậy một dự án được
chấp nhận khi tỷ suất sinh lời thực tế của nó (IRR) bằng hoặc cao hơn tỷ suất sinh
lời yêu cầu (suất chiết khấu).
Sử dụng chỉ tiêu IRR để quyết định có nên đầu tư dự án hay không nói chung
có ưu điểm là có tính đến thời giá tiền tệ, có thể tính IRR mà không cần biết suất
chiết khấu, tính đến toàn bộ ngân lưu. Tuy vậy, phương pháp này có nhược điểm là
có thể một dự án có nhiều IRR khi dòng ngân lưu đổi dấu nhiều lần.
Cùng với NPV, chỉ tiêu IRR được sử dụng rộng rãi trong đánh giá hiệu quả
tài chính dự án đầu tư.
c. Tiêu chuẩn thời gian hoàn vốn – PP – Payback Period
Thời gian hoàn vốn là thời gian để ngân lưu tạo ra từ dự án đủ bù đắp chi phí
đầu tư ban đầu. Cơ sở để chấp nhận dự án dựa trên tiêu chuẩn thời gian hoàn vốn là
thời gian hoàn vốn phải thấp hơn hoặc bằng thời gian hoàn vốn yêu cầu hay còn gọi
là ngưỡng thời gian hoàn vốn.
-13-
Có hai phương pháp tính thời gian hoàn vốn là thời gian hoàn vốn không
chiết khấu và thời gian hoàn vốn có chiết khấu.
- Phương pháp thời gian hoàn vốn không chiết khấu.
1
0
+
=
∑
+=
n
n
t
t
NCF
NCF
nPP
Trong đó: n là số năm để ngân lưu tích lũy của dự án <0, nhưng ngân lưu
tích lũy sẽ dương khi đến năm thứ n+1. Ưu điểm của phương pháp này là đơn giản
nhưng nó không xét đến dòng ngân lưu sau thời gian hoàn vốn và không quan tâm
đến giá trị tiền tệ theo thời gian.
Để khắc phục được nhược điểm này người ta thường dùng phương pháp thời
gian hoàn vốn có chiết khấu (DPP – Discount Payback Period). Việc tính toán thời
gian hoàn vốn có chiết khấu cũng giống như phương pháp tính thời gian hoàn vốn
không chiết khấu nhưng dựa trên dòng ngân lưu có chiết khấu.
Một dự án được chọn là dự án mang lại lợi nhuận tuyệt đối - tức khối lượng
của cải ròng lớn nhất (NPV lớn nhất). Tuy nhiên nguồn lực nói chung theo quy luật
ngày một khan hiếm, vì vậy phải xem xét dự án tạo ra lợi nhuận lớn nhất ấy đã phải
sử dụng mức vốn đầu tư là bao nhiêu. Hiệu quả mà dự án mang lại có thật thỏa đáng
hay không khi so sánh với cùng mức vốn đầu tư như vậy nếu đầu tư vào một dự án
khác. Để giải quyết các câu hỏi trên người ta sử dụng chỉ tiêu so sánh tương đối:
Chỉ số lợi nhuận - PI.
d. Chỉ số lợi nhuận (PI – Profibility Index)
Chỉ số lợi nhuận hay còn gọi là tỷ số lợi ích - chi phí (B/C – Benefit-Cost
Ratio) là tỷ số giữa tổng hiện giá của lợi ích ròng chi cho tổng hiện giá của chi phí
đầu tư ròng của dự án.
I
PV
PI =
Chỉ tiêu PI cũng có những ưu nhược điểm như chỉ tiêu NPV. Tuy nhiên chỉ
tiêu NPV là số đo tuyệt đối của lợi nhuận hay của cải gia tăng từ dự án, trong khi PI
là số đo tương đối biểu thị lợi nhuận tạo ra trên một đồng vốn đầu tư.
-14-
1.3.2. Rủi ro tài chính và sự cần thiết phải phân tích rủi ro tài chính trong
tín dụng dự án đầu tư
a. Rủi ro tài chính trong tín dụng dự án đầu tư
Rủi ro là một sự không chắc chắn hay một tình trạng bất ổn và được định
nghĩa như là sự khác biệt giữa giá trị thực tế và giá trị kỳ vọng khi đánh giá một chỉ
tiêu nào đó. Giá trị kỳ vọng chính là giá trị trung bình có trọng số của một biến nào
đó, chính là xác suất xảy ra giá trị của biến đó. Nói đến rủi ro tức là nói đến quan hệ
giữa giá trị của một biến nào đó so với kỳ vọng của nó.
Như vậy, rủi ro đối với các chỉ tiêu của dự án đầu tư (như là NPV, IRR...)
chính là sự sai biệt của giá trị thực tế so với giá trị kỳ vọng của các chỉ tiêu này. Với
cách tiếp cận đó chúng ta có thể thấy rằng việc thẩm định rủi ro các chỉ tiêu tài
chính của dự án đầu tư cần thiết phải tính đến sự biến động của các biến rủi ro ảnh
hưởng dẫn đến sự sai biệt giữa giá trị kỳ vọng và giá trị thực tế của các chỉ tiêu tài
chính của dự án. Đây chính là mấu chốt của việc đánh giá mức độ rủi ro tài chính
của dự án.
Có nhiều biến rủi ro ảnh hưởng ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của dự án,
trong đó các biến thường tác động nhiều nhất là sự thay đổi của giá bán, sản lượng
tiêu thụ, thay đổi giá cả nguyên vật liệu, yếu tố lạm phát, tỷ giá hối đoái, công suất
hoạt động...
b. Sự cần thiết phải thẩm định rủi ro tài chính dự án đầu tư
Người ta thường nói: “có một điều chắc chắn là không có gì chắc chắn cả”.
Mặc dù trước khi ra quyết định cho vay, ngân hàng đã tiến hành thẩm định các yếu
tố kỹ càng và khoa học, nhưng khả năng thu hồi vốn của dự án còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác nữa và chẳng ai biết chắc được chuyện gì sẽ xảy ra cho đến khi
nó thực sự xảy ra. Vì thế quyết định tín dụng dự án đầu tư là một quyết định rủi ro.
Chúng ta không thể loại bỏ được rủi ro nhưng có thể phân tích, đánh giá mức độ rủi
ro nhằm kiểm soát và hạn chế được rủi ro.
-15-
Thẩm định rủi ro tài chính dự án đầu tư bắt đầu từ việc nhận định các yếu tố
rủi ro, phân tích rủi ro cho đến dự báo các yếu tố rủi ro ảnh hưởng đến hiệu quả tài
chính dự án, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp phù hợp để quản lý và hạn chế rủi
ro. Việc phân tích rủi ro tài chính dự án sẽ giúp cho công tác thẩm định nhận biết
các dự án xấu, hiệu quả không chắc chắn. Qua phân tích rủi ro sẽ xác định mức độ
chắc chắn về hoạt động của dự án, tạo cơ sở cho việc quản lý rủi ro bằng cách phân
tán, chia sẻ rủi ro thông qua các yếu tố tính toán của hợp đồng trong quá trình thực
hiện đầu tư và vận hành dự án.
Thị trường vốn ngày càng phát triển đa dạng sẽ giúp cho các ngân hàng dễ
quản lý các rủi ro này hơn. Sự phát triển các thị trường phái sinh như hoán đổi, kỳ
hạn, quyền chọn và tương lai cho phép các ngân hàng sắp xếp đưa ra các chiến lược tự
bảo hiểm để giảm thiểu những thay đổi không thể đoán được ở các thị trường tài chính.
1.3.3. Các phương pháp phân tích rủi ro
Phân tích rủi ro tài chính dự án đầu tư có thể dựa trên các phương pháp:
a. Phương pháp phân tích độ nhạy
- Nội dung: Phân tích độ nhạy là xem xét mức độ nhạy cảm của các kết
quả khi có sự thay đổi giá trị của một hay một số tham số đầu vào. Nếu biến nào
thay đổi mà không ảnh hưởng đến kết quả thì các biến này không được dùng trong
phân tích rủi ro. Phân tích độ nhạy giúp người ra quyết định trả lời câu hỏi “cái gì
xảy ra nếu như… ", giúp đánh giá được các biến số quan trọng, đó là biến số có ảnh
hưởng nhiều đến kết quả và sự thay đổi của biến số có nhiều tác động đến kết quả.
Phân tích độ nhạy gồm hai loại:
+ Phân tích độ nhạy một chiều: Phân tích sự thay đổi của một biến rủi ro
ảnh hưởng đến kết quả dự án. Ví dụ như phân tích mức độ nhạy cảm của mức biến
động của giá bán sản phẩm đến chỉ tiêu NPV của dự án.
+ Phân tích độ nhạy hai chiều: Phân tích sự thay đổi của hai biến rủi ro
cùng lúc để đánh giá mức độ ảnh hưởng đến kết quả dự án. Ví dụ như phân tích
-16-
đồng thời sự biến động của chi phí nguyên vật liệu và giá bán ảnh hưởng đến chi
tiêu NPV hay IRR của dự án.
- Ưu và nhược điểm của phương pháp phân tích độ nhạy:
Ưu điểm của phương pháp này là đơn giản và dễ dàng áp dụng. Về kỹ thuật
phân tích, nhờ có Microsoft Excel, những người thường xuyên sử dụng bảng tính
như trong thẩm định dự án dễ dàng sử dụng kỹ thuật này bằng lệnh Table trong
thanh công cụ Data.
Tuy nhiên nhược điểm lớn nhất của phân tích độ nhạy là chỉ xem xét từng
tham số trong khi kết quả lại chịu tác động của nhiều tham số cùng một lúc và
không trình bày được xác suất xuất hiện của các tham số và xác suất xảy ra của các
kết quả. Phân tích độ nhạy là loại phân tích “tất định” ở trạng thái tĩnh. Mỗi lần thử
chỉ xem xét sự thay đổi của một biến (đối với phân tích độ nhạy hai chiều là hai
biến) và giả định các biến còn lại là không đổi. Tuy nhiên trong thực tế rất khó xảy
ra trường hợp lý tưởng như vậy. Do đó nó không đưa ra một quy tắc rõ ràng giúp
các nhà thẩm định đưa ra quyết định chấp nhận hay loại bỏ dự án. Phân tích độ nhạy
chỉ giúp “xem và hình dung” mà không đưa ra một kết quả rằng dự án có đáng được
thực hiện hay không về mặt tài chính để làm cơ sở ra quyết định tín dụng. Điều này
đòi hỏi phải có một mô hình phân tích sự thay đổi đồng thời của nhiều tham số.
b. Phương pháp phân tích tình huống (Scenario Analysis):
- Nội dung: Phân tình huống hay còn gọi là phân tích kịch bản giúp xem
xét sự thay đổi dòng ngân lưu của một tổ hợp các biến có mối tương quan nhau.
Phân tích tình huống dựa trên quan điểm các biến có tương quan lẫn nhau và biến
động theo chiều hướng thuận lợi hay bất lợi cho dự án. Theo đó một tập hợp của
nhiều biến rủi ro được chọn do được đánh giá là mang nhiều rủi ro nhất và được sắp
đặt theo các tình huống: lạc quan, trung bình và bi quan. Mục đích là xem xét kết
quả của dự án trong các tình huống tốt nhất (ví dụ giá bán cao nhất, chi phí thấp
nhất, lạm phát thấp nhất…), trường hợp trung bình, trường hợp xấu nhất (giá bán
thấp nhất, chi phí cao nhất, lạm phát cao nhất…). Như vậy, muốn có kết quả cho
mỗi tình huống ta phải tiến hành tính toán lại kết quả dự án theo các dữ liệu của
-17-
từng kịch bản. Về kỹ thuật phân tích tình huống, nhờ có Microsoft Excel, người
thẩm định dự án dễ dàng sử dụng kỹ thuật này bằng lệnh Scenario trong thanh công
cụ Tools.
- Nhược điểm: Phân tích kịch bản cũng là dạng phân tích tất định, nó có
hạn chế là không thể xác định được cho tất cả các trường hợp kết hợp lẫn nhau giữa
các yếu tố. Để khắc phục các nhược điểm của hai phương pháp nêu trên, người ta đã
xây dựng phương pháp phân tích thứ ba, đó là phương pháp phân tích mô phỏng.
c. Phân tích rủi ro theo phương pháp mô phỏng Monte Carlo
Mô phỏng là xây dựng những mô hình mà mỗi mô hình là một ý niệm hoặc
một đại biểu của một hệ thống thực (một ý tưởng thực hay một đối tượng nghiên
cứu thực). Tiến hành thử nghiệm trên các mô hình đó để đạt tới sự hiểu biết rõ ràng
về hành vi của hệ thống hoặc trợ giúp để giải quyết những vấn đề ra quyết định.
Ngoài mô hình tất định (deterministic) là mô hình mà ở đó, mọi dữ liệu đã
được biết hoặc giả định là đã biết một cách chắc chắn (như các mô hình quy họach
tuyến tính – Liner programming Models) còn có mô hình xác suất (probabilistic) là
mô hình có vài dữ liệu được mô tả bởi các phân phối xác suất (probability
distribution), mang tính ngẫu nhiên.
Mô phỏng được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như sản xuất, quân
sự, nghiên cứu vũ trụ…ví dụ như việc chạy thử một hệ thống máy móc thiết bị,
cuộc tập trận hay một trò chơi quay số ở sòng bạc Monte Carlo.
Phương pháp phân tích mô phỏng Monte Carlo, còn gọi là phương pháp thử
nghiệm thống kê (Method of Statistics), là một phương pháp phân tích mô tả hiện
tượng có chứa yếu tố ngẫu nhiên (trong dự án đầu tư là các biến rủi ro ảnh hưởng
đến kết quả dự án) nhằm tìm ra lời giải đúng. Phương pháp phân tích mô phỏng
Monte Carlo xuất phát từ mong muốn tìm ra quy luật để chiến thắng trong trò chơi
ở sòng bạc Monte Carlo. Mỗi lần đặt tiền nhận một kết quả và ghi nhận lại (sẽ có
một tổ hợp của các giả định và các kết quả) để tìm ra một chiến lược chơi và đi đến
chiến thắng.
-18-
Phân tích mô phỏng được ứng dụng trong lĩnh vực tài chính là sự mở rộng tự
nhiên của phương pháp phân tích độ nhạy và phân tích tình huống. Thực chất của
phương pháp phân tích mô phỏng Monte Carlo là lấy một cách ngẫu nhiên các giá
trị có thể có của các biến ngẫu nhiên ở đầu vào và tính ra một kết quả thực nghiệm
của đại lượng cần phân tích. Quá trình đó lặp lại nhiều lần để có một tập hợp của
các kết quả thử nghiệm, tính toán thống kê các kết quả đó để có các đặc trưng thống
kê cần thiết của kết quả cần phân tích.
Với sự phát triển của máy tính, mô phỏng được thực hiện nhanh chóng và
chính xác nhiều bài toán phức tạp trong kinh tế cũng như nhiều lĩnh vực nghiên cứu
khác. Crystal Ball là một điển hình. Đó là một phần mềm mô phỏng đầy sức mạnh,
tạo sự nhanh chóng và thuận lợi trong việc thực hiện các bảng tính và tiến hành các
phân tích rủi ro theo mô hình xác suất. Hàng chục ngàn lần mô phỏng chỉ được thực
hiện trong vài mươi giây đồng hồ.
d. Kỹ thuật phân tích mô phỏng theo phương pháp Monte Carlo
Kỹ thuật phân tích mô phỏng theo phương pháp Monte Carlo được thực hiện
thông qua chương trình Crystal Ball. Đây là một trong những chương trình dự báo
và phân tích rủi ro thân thiện với người sử dụng theo xu hướng sử dụng đồ thị, giúp
loại trừ yếu tố bất định khi ra quyết định, được xây dựng và vận hành trên nền tảng
của Microsoft Excel - một công cụ phân tích quen thuộc với những nhà thẩm định
tài chính. Thông qua sức mạnh mô phỏng, Crystal Ball đã trở thành công cụ hiệu
quả trong tay những người ra quyết định, giúp cho chủ đầu tư và nhà tài trợ có thể
trả lời câu hỏi như: khả năng đạt mức lợi nhuận kỳ vọng là bao nhiêu, làm thế nào
để gia tăng lợi nhuận của dự án, rủi ro (về mặt tài chính) của dự án là gì, khả năng
dự án kết thúc đúng thời hạn là bao nhiêu…
Khi chạy mô phỏng, Crystal Ball sử dụng phương pháp Monte Carlo để phát
ra các số ngẫu nhiên cho các biến rủi ro (Crystal Ball gọi là các ô giả thiết –
Assumption cells), tuân theo các khả năng của đời sống thực. Mỗi tập số ngẫu nhiên
mô phỏng chỉ một kịch bản “cái gì - nếu” cho mô hình bảng tính. Khi chạy mô
phỏng, đối với mỗi kịch bản, mô hình sẽ tính toán lại và các kết quả được hiển thị
-19-
động trong một đồ thị dự báo dễ hiểu của các biến kết quả (Crystal ball gọi là ô dự
báo – Forecast cells). Đây là một quá trình lặp cho đến khi hoặc đã đạt đến tiêu
chuẩn dừng hoặc mô phỏng được dừng bằng tay. Đồ thị dự báo cuối cùng phản ánh
tính không chắc chắn được kết hợp của các ô giả thiết trên kết quả mô hình.
- Các ưu điểm khi sử dụng phương pháp mô phỏng Monte Carlo trong
phân tích rủi ro dự án:
+ Mô phỏng Monte Carlo cho phép phân tích cùng một lúc rất nhiều các
biến rủi ro và mối tương quan giữa chúng ảnh hưởng đến kết quả phân tích để đưa
bài toán đến gần với thế giới thực hơn.
+ Phân tích độ nhạy và thể hiện bằng đồ thị độ nhạy trong quá trình chạy
mô phỏng, giúp dễ dàng dự báo và đánh giá được độ mạnh của các biến rủi ro ảnh
hưởng đến kết quả dự án như thế nào nhằm đưa ra giải pháp quản lý rủi ro thích hợp.
+ Sử dụng quá trình mô phỏng Monte Carlo, Crystal Ball mô tả các kết quả
trong đồ thị dự báo và trình bày toàn bộ các kết quả có thể có cũng như khả năng
đạt được mỗi kết quả, giúp cho người ra quyết định có cái nhìn toàn diện hơn về kết
quả cần phân tích.
- Các bước xây dựng mô phỏng Monte Carlo:
+ Bước 1: Xây dựng mô hình toán học. Trong phân tích tài chính dự án đó
là xây dựng các bảng tính thẩm định dự án từ bảng thông số đầu vào cho đến bảng
kết quả ngân lưu dự án. Đây là bước quan trọng nhất trong quá trình thực hiện mô
phỏng, bởi vì việc xác định giá trị các thông số kỹ thuật chính xác hay không sẽ ảnh
hưởng đến kết quả toàn bộ mô hình, còn kỹ thuật tính toán được máy tính giải quyết
một cách đơn giản.
+ Bước 2: Xác định các ô giả thiết (hay còn gọi là biến nhạy cảm và
không chắc chắn hay biến rủi ro – Define Assumption) có ảnh hưởng đến kết quả
cần phân tích. Các biến nhạy cảm và không chắc chắn chẳng hạn như chi phí
nguyên vật liệu, chi phí nhân công, công suất máy móc thiết bị, giá bán, tỷ lệ lạm
phát…Các biến này được khai báo ở bảng thông số. Các ô giả thiết ô dữ kiện ban
đầu nên phải là ô không chứa các công thức tính toán.
-20-
+ Bước 3: Định nghĩa các ô giả thiết.
Bước này gồm hai nội dung:
•
Xác định các phân phối xác suất cho các biến nhạy cảm. Các phân phối
xác suất thông thường nhất là phân phối xác suất chuẩn; phân phối xác suất tam
giác; phân phối xác suất đều và phân phối xác suất bậc thang. Crystal Ball liệt kê tối
đa 17 loại phân phối xác xuất trong bảng phân phối xác xuất.
•
Xác định các tham số (miền các lựa chọn) cho phân phối xác suất của
các biến này. Việc xác định các tham số của phân phối xác suất của biến rủi ro
thông qua dãy dữ liệu lịch sử của biến đó. Chẳng hạn, để xác định 2 tham số là độ
lệch chuẩn và giá trị trung bình của phân phối xác xuất chuẩn của biến lạm phát,
Crystal Ball căn cứ vào dãy dữ liệu quá khứ của tỷ lệ lạm phát để tính toán và gắn
các tham số này cho phân phối xác suất được lựa chọn.
+ Bước 4: Xác định và định nghĩa tương quan giữa các biến (Correlated
Assumption). Việc xác định và định nghĩa các biến có tương quan gồm hai nội dung
là xác định các biến có tương quan đồng biến hay nghịch biến và xác định độ mạnh
của tương quan (hệ số tương quan). Trong Crystal Ball, các giả thiết thường được
tính độc lập nhau. Crystal Ball phát ra các số ngẫu nhiên đối với mỗi giả thiết mà
không quan tâm đến việc các số ngẫu nhiên được phát ra sao đối với các giả thiết
khác. Tuy nhiên tình trạng phụ thuộc nhau thường xảy ra giữa các biến trong hệ
thống được mô hình hóa. Tính năng các giả thiết có tương quan trong Crystal Ball
cho phép sử dụng các hệ số tương quan để định nghĩa sự phụ thuộc giữa các giả
thiết. Crystal Ball sau đó sẽ dùng các hệ số tương quan để sắp xếp lại các số được
phát ra ngẫu nhiên để tạo ra các tương quan mong muốn. Giá trị của hệ số tương
quan nằm trong khoảng từ -1 đến 0 đối với tương quan nghịch biến và từ 0 đến +1
đối với tương quan đồng biến.
+ Bước 5: Xác định các ô dự báo (Define Forecast). Các ô dự báo thường
chứa công thức tham chiếu đến một hoặc nhiều ô giả thiết. Các ô dự báo phối hợp
các giá trị trong các ô giả thiết để tạo ra kết quả mong muốn. Định nghĩa một ô dự
báo nghĩa là gán một tên cho một dự báo, xác định đơn vị của trị số dự báo, chọn
-21-
kích thước của hiển thị dự báo và chỉ định rằng có muốn thấy cửa sổ đồ thị dự báo
hay không trong khi mô phỏng đang chạy. Ví dụ xác định các ô dự báo như NPV,
IRR trong bảng lưu chuyển tiền tệ là các kết quả cần phân tích của dự án.
Crystal Ball cho phép giới hạn thực tế bao gồm tổng cộng khoảng 1.000 giả
thiết, dự báo và tương quan phối hợp cho mỗi bảng tính, nghĩa là A + F + C < 1.000
(Asumptions + Forecast + Correlated <1.000).
+ Bước 6: Chạy mô hình mô phỏng. Crystal Ball sử dụng kỹ thuật mô phỏng
Monte Carlo để dự báo một dãy toàn bộ các kết quả mà có thể xảy ra trong trường
hợp đã định nghĩa trong mô hình bảng tính. Kỹ thuật này bao gồm phát ra các số
ngẫu nhiên cho các biến giả thiết, tức là thực hiện một chuỗi phân tích cho nhiều tổ
hợp giá trị tham số khác nhau. Trong khi mô phỏng đang chạy, Crystal Ball hiển thị
các kết quả giả thiết này trong một đồ thị dự báo để cho thấy dãy toàn thể các kết
quả có thể có. Khi chạy mô phỏng ta có thể dừng, tiếp tục hoặc tái lập mô phỏng bất
kỳ lúc nào. Trước khi chạy mô phỏng ta xác định số lần thử tối đa cho mỗi lần mô
phỏng, chẳng hạn 1.000; 10.000 hay 100.000 lần thử… tùy theo tốc độ của máy
tính. Số lần thử càng lớn độ chính xác của kết quả phân tích sẽ càng cao.
+ Bước 7: Phân tích các kết quả, tức là phân tích các giá trị thống kê và
các phân phối xác suất. Sau khi chạy mô phỏng, Crystal Ball sẽ tạo ra các kết quả sau:
•
Tạo đồ thị dự báo cho mỗi ô dự báo bằng cách sử dụng các phân phối tần
số. Một phân phối tần số cho thấy con số hay tần số các giá trị xảy ra trong một
khoảng nhóm cho trước. Đồ thị biểu diễn các kết quả dự báo cho thấy cách thức các
kết quả dự báo được phân phối và khả năng đạt được một kết quả cho trước. Cụ thể,
đồ thị dự báo biểu diễn một khoảng hiển thị bao gồm tất cả các giá trị cách giá trị
trung bình một khoảng bằng 2,6 lần độ lệch chuẩn (xấp xỉ 99% các giá trị dự báo)
và biểu diễn khoảng chắc chắn cho dự báo là khả năng đạt được các giá trị dự báo
trong một khoảng xác định nào đó.
•
Đồ thị độ nhạy (Sensitivity Chart): Crystal Ball sẽ xếp hạng các giả thiết
theo mức độ ảnh hưởng của chúng đến kết quả phân tích thông qua đồ thị độ nhạy.
Đồ thị độ nhạy giúp nhanh chóng và dễ dàng đánh giá mức độ ảnh hưởng của các ô
-22-
giả thiết lên một ô dự báo bất kỳ nào đó. Đồ thị độ nhạy sẽ biểu diễn các hạng này
bằng đồ thị cột và chỉ ra rằng giả thiết nào là quan trọng nhất và ít quan trọng nhất
đối với kết quả phân tích.
Crystal Ball tính độ nhạy bằng cách tính thứ tự hệ số tương quan hạng giữa
các giả thiết và các dự báo với nhau trong khi đang chạy mô phỏng. Hệ số tương
quan cung cấp một đại lượng có nghĩa để đo mức độ các giả thiết và dự báo thay đổi
cùng nhau. Nếu một giả thiết và một dự báo có tương quan cao có nghĩa là giả thiết
đó có ảnh hưởng lớn đến dự báo thông qua cả độ không chắn chắn và độ nhạy mô
hình của nó. Hệ số dương chỉ ra rằng giả thiết tăng sẽ liên quan đến dự báo tăng, hệ
số âm diễn tả điều ngược lại. Hệ số tương quan có trị số tuyệt đối càng lớn thì mối
quan hệ càng mạnh. Trên cơ sở đó ta có thể đánh giá được mức độ ảnh hưởng của
các biến nhạy cảm đến kết quả cần phân tích để có thể đưa ra giải pháp quản lý rủi
ro thích hợp.
•
Đồ thị phủ (Overlay Chart): Cho phép xem xét các tính chất tương đối của
các dự báo trong cùng một đồ thị. Đồ thị phủ tập hợp các số liệu tần suất từ các dự
báo được lựa chọn vào cùng một chỗ để có thể rút ra các nhận xét về sự khác nhau
hay giống nhau giữa chúng.
•
Đồ thị xu hướng (Trend Chart): Cho phép xem khoảng chắc chắn của tất
cả các dự báo trên một đồ thị duy nhất, tóm tắt và hiển thị thông tin từ nhiều dự báo,
giúp dễ dàng phát hiện và phân tích các xu hướng có thể tồn tại giữa các dự báo có
liên quan nhau.
•
Báo cáo (Report): Crystal Ball cho phép tạo một báo cáo sau khi chạy mô
phỏng bằng cách diễn giải gồm các hạng mục: đồ thị phủ, đồ thị xu hướng, đồ thị độ
nhạy, tổng kết dự báo, thông kê, đồ thị dự báo, các thông số giả thiết, đồ thị giả
thiết, phân vị, đếm tần suất.
Một cách tổng quát, ở góc độ ngân hàng với tư cách là trung gian trong mối
quan hệ giữa chủ thể cần vốn cho đầu tư và chủ thể nhàn rỗi vốn, thẩm định tín
dụng dự án đầu tư là khâu cốt lõi trong cả quá trình tài trợ dự án đầu tư nhằm đánh
-23-
giá và nhận diện các rủi ro nhằm đưa ra các giải pháp quản lý và kiểm soát rủi ro,
trong đó thẩm định hiệu quả tài chính của dự án được xem là khâu tổng hợp của tất
cả các nội dung thẩm định liên quan đến dự án. Tuy nhiên việc thẩm định hiệu quả
tài chính của một dự án đầu tư không chỉ dừng lại ở việc đánh giá các chỉ tiêu hiệu
quả tài chính một cách cứng nhắc trong trạng thái tĩnh và không quan tâm đến sự
tác động qua lại lẫn nhau giữa các yếu tố rủi ro liên quan đến kết quả cần thẩm định
mà phải xem xét ở trạng thái luôn biến đổi của các yếu tố rủi ro và trong mối quan
hệ tương tác lẫn nhau giữa chúng có khả năng ảnh hưởng đến kết quả của dự án.
Nói đến dự án tức là nói đến những gì hình thành trong tương lai được xây
dựng trên những thông tin có được trong quá khứ và hiện tại, mà một điều chắc
chắn trong tương lai đó là không có gì chắc chắn cả. Do vậy việc phân tích và lượng
hóa các rủi ro trong tương lai ảnh hưởng đến hiệu quả của dự án là vấn đề hết sức
quan trọng mà các tổ chức tín dụng cần phải quan tâm nhằm đưa ra các giải pháp
hạn chế rủi ro trước khi đưa ra các quyết định tín dụng. Phương pháp phân tích mô
phỏng Monte Carlo là một trong những kỹ thuật hiện đại đáp ứng được yêu cầu này.
-24-
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH RỦI RO
TÀI CHÍNH TRONG TÍN DỤNG DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
2.1. Khái quát công tác thẩm định tín dụng dự án đầu tư tại các ngân
hàng thương mại Việt Nam
2.1.1. Sơ lược quá trình phát triển của công tác thẩm định tín dụng dự
án đầu tư tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Trước đây trong nền kinh tế tập trung bao cấp, hệ thống ngân hàng Việt Nam
là ngân hàng một cấp và cho đến cuối năm 1987 vẫn chưa có ngân hàng thương
mại. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng huy động và chức năng cho vay,
việc cho vay còn theo cơ chế ban cho, các đơn vị vay vốn chủ yếu là thành phần
kinh tế quốc doanh.
Đặc biệt, trong lĩnh vực cho vay đối với các công trình xây dựng cơ bản, các
dự án đầu tư thì việc cho vay của ngân hàng thực hiện theo kế hoạch được duyệt,
ngân hàng ít quan tâm đến tính khả thi cũng như hiệu quả của dự án.
Mặt khác, việc cho vay trung dài hạn đối với các dự án đầu tư để cải tiến kỹ
thuật, mở rộng sản xuất, ngân hàng cũng chưa có những quy định hoặc những
hướng dẫn cụ thể về phương pháp, kỹ thuật thẩm định dự án đầu tư. Do vậy công
tác thẩm định để cho vay đối với các dự án đầu tư còn sơ sài và chưa thống nhất.
Các nội dung thẩm định chỉ nêu chung chung về sự cần thiết của dự án đầu tư cùng
với một số chỉ tiêu tính toán hiệu quả kinh tế so sánh trước và sau khi đầu tư.
Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, công tác thẩm định
tín dụng đầu tư theo dự án tại các ngân hàng thương mại đã có một bước chuyển
đáng kể. Các dự án đầu tư đã dần dần được phân tích, thẩm định trên nhiều nội
dung quan trọng như yếu tố về thị trường, kinh tế xã hội, kỹ thuật và tài chính…
-25-
Trong thời gian này, các tài liệu về khoa học thẩm định dự án đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam bắt đầu được phổ biến.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và mức độ cạnh tranh giữa các ngân
hàng thương mại ngày càng cao, đòi hỏi tính hiệu quả của dự án khi vay vốn, công
tác thẩm định tín dụng dự án đầu tư ngày càng hoàn chỉnh, khoa học hơn, từng bước
đã tiến dần đến hòa nhập với thế giới về kỹ thuật thẩm định. Việc tính toán các chỉ
tiêu thẩm định đã quan tâm đến vấn đề giá trị thời gian của tiền tệ, quan tâm đến các
chỉ tiêu đánh giá về khả năng cạnh tranh, khả năng tiêu thụ, đã phân tích được vòng
đời của dự án thay vì áp đặt lịch trả nợ vay của ngân hàng.
2.1.2. Những tác động đến hoạt động tín dụng dự án đầu tư của các ngân
hàng thương mại Việt Nam
Có thể khái quát các thời cơ và thách thức hiện nay đối với hoạt động tín
dụng nói chung và tín dụng dự án đầu tư đối với các ngân hàng thương mại Việt
Nam nói riêng như sau:
- Chính sách ưu tiên đẩy mạnh xuất khẩu của Chính phủ:
Để triển khai định hướng này, vừa qua Chính phủ đã thực thi hàng loạt các
giải pháp như giảm thuế xuất khẩu; hỗ trợ lãi suất sau đầu tư…và mới đây nhất là
việc thành lập quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu. Theo đó trong hàng loạt các mặt hàng
truyền thống chiếm tỷ trọng vay lớn của các ngân hàng thương mại trong thời gian
qua như gạo, thủy sản, cà phê, hạt điều, cao su, may mặc, giày da… thì nhiều mặt
hàng được nằm trong danh mục được vay vốn ưu đãi giờ đây được chuyển cho quỹ
hỗ trợ phát triển thực hiện. Như vậy định hướng ưu tiên đẩy mạnh xuất khẩu của
chính phủ một mặt có tác động thuận lợi đến hoạt động đầu tư của các ngân hàng
trong lĩnh vực xuất khẩu, đồng thời cũng là một thách thức lớn vì các ngân hàng
thương mại sẽ phải đối mặt với việc chuyển dời vốn của các doanh nghiệp xuất
khẩu lớn sang quỹ hỗ trợ phát triển, thị phần cho vay của các ngân hàng thương mại
chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng.