Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Phân lập đoạn gen mã hóa protein vỏ từ smv (soybean mosaic virus) gây bệnh khảm lá ở đậu tương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 63 trang )

Số hóa bởi trung tâm học liệu


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC



NGUYỄN THỊ HƢƠNG LY




PHÂN LẬP ĐOẠN GEN MÃ HÓA PROTEIN VỎ TỪ SMV
(SOYBEAN MOSAIC VIRUS) GÂY BỆNH KHẢM LÁ Ở
ĐẬU TƢƠNG



Chuyên ngành: Công nghệ sinh học
Mã số: 60.42.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG NGHỆ SINH HỌC




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Chu Hoàng Mậu







Thái Nguyên - 2013


Số hóa bởi trung tâm học liệu
i
LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan những nội dung trình bày trong luận văn này là do tôi
nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của GS.TS Chu Hoàng Mậu và sự giúp đỡ của
các cộng sự trong nhóm nghiên cứu. Các số liệu và kết quả trình bày trong
luận văn đã được sự đồng ý của của cán bộ hướng dẫn và nhóm nghiên cứu,
các tài liệu trích dẫn đều ghi rõ nguồn gốc.


Tác giả




Nguyễn Thị Hƣơng Ly

Số hóa bởi trung tâm học liệu
ii
LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới GS.TS Chu Hoàng Mậu đã

tận tình hướng dẫn, truyền đạt những kiến thức và kinh nghiệm quý báu để tôi
hoàn thành luận văn thạc sĩ Công nghệ sinh học này.
Tôi xin chân thành cảm ơn NCS. Lò Thị Mai Thu, cảm ơn Thạc sĩ
Hoàng Hà và tập thể cán bộ Phòng Công nghệ DNA và Ứng dụng, Phòng
Công nghệ tế bào thực vật, Viện Công nghệ sinh học đã tạo điều kiện và tận
tình giúp đỡ tôi hoàn thành các thí nghiệm trong luận văn.
Tôi xin cảm ơn các thầy cô Bộ môn Di truyền và Sinh học hiện đại,
Khoa Sinh - KTNN, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên; Tôi
xin cảm ơn PGS.TS Nguyễn Vũ Thanh Thanh và các Thầy, Cô trong khoa
Khoa học Sự sống, Trường Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên đã nhiệt
tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới toàn thể gia đình, cảm ơn bạn
bè và đồng nghiệp đã luôn cổ vũ, động viên tôi trong suốt thời gian qua.



Tác giả




Nguyễn Thị Hương Ly
v



NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT




bp
Cặp base
cs
Cộng sự
đtg
Đồng tác giả
DNA
Deoxiribonucleic acid
RNA
Ribonucleic Acid
kb
Kilo base
PCR
Polymerase Chain Reaction
TAE
Tris acetat EDTA
CP
Coat Protein
DEPC
Diethyl pyrocarbonate
RNAi
RNA interference
RNase
Ribonuclease
X-gal
5-brom-4-chloro-3-indolyl-β-D-galactosidase
cDNA
Complementary DNA (DNA bổ sung)
IPTG
Isopropylthio-β-D-galactosidase

SMV
Soybean Mosaic Virus
vi



DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 1.1
Sản xuất đậu tương ở Việt Nam từ 2007 đến 2013
8
Bảng 2.1
Thành phần cho phản ứng tổng hợp cDNA
23
Bảng 2.2
Thành phần của phản ứng PCR nhân gen CP
24
Bảng 2.3
Chu kỳ nhiệt cho phản ứng PCR nhân gen CP
25
Bảng 2.4
Thành phần phản ứng ghép nối gen CP vào vector tách
dòng pBT

27
Bảng 2.5
Thành phần phản ứng colony – PCR


28
Bảng 2.6
Chu trình nhiệt của phản ứng colony – PCR
28
Bảng 2.7
Thành phần hóa chất tách chiết plasmid
29
Bảng 3.1
Trình tự cặp mồi sử dụng trong nghiên cứu
34
Bảng 3.2
Các vị trí sai khác giữa trình tự đoạn gen CP của SMV
dòng SL1 và X63771

40
Bảng 3.3
Các vị trí sai khác giữa trình tự amino acid của CP ở
SMV dòng SL1 và CAA45307

43





vii




DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình
Tên hình
Trang
Hình 1.1
Sơ đồ các gen trong hệ gen của SMV
17
Hình 1.2
Sơ đồ protein vỏ của SMV
18
Hình 1.3
Vùng Poty_coat
18
Hình 2.1
Cấu trúc vecto pBT
26
Hình 3.1
Các mẫu lá đậu tương nghi nhiễm bệnh thu thập ở các
tỉnh Thái Nguyên, Sơn La, Tuyên Quang, Hà Nội
31
Hình 3.2
Kết quả xác định đoạn tương đồng của 96 trình tự gen
CP khi so sánh bằng BLAST trong NCBI
34
Hình 3.3.
Ảnh điện di sản phẩm PCR khuếch đại đoạn gen CP từ
cDNA của SMV
35
Hình 3.4.

Kết quả biến nạp vecto tái tổ hợp vào tế bào khả biến
E.coli DH5
37
Hình 3.5
Hình ảnh điện di sản phẩm colony - PCR từ khuẩn lạc
38
Hình 3.6
Hình ảnh điện di sản phẩm tách plasmid mang gen CP
39
Hình 3.7.
Trình tự đoạn gen CP của SMV phân lập tại tỉnh Sơn
La và trình tự gen CP của dòng virus SMV được đăng
ký GenBank có mã số X63771
41
Hình 3.8
So sánh trình tự amino acid suy diễn từ gen CP phân
lập từ virus SMV dòng SL và trình tự amino acid của
42
viii



vùng Poty-coat của protein có mã số CAA45307 trên
GenBank
Hình 3.9
Sơ đồ hình cây thiết lập dựa trên trình tự gen CP phân
lập từ 20 dòng SMV từ Việt Nam, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Mỹ, Trung Quốc, Canada, Ucraina
43
Hình 3.10

Sơ đồ hình cây thiết lập dựa trên trình tự gen CP phân
lập từ 20 dòng SMV từ Việt Nam, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Mỹ, Trung Quốc, Canada, Ucraina
44
Hình 3.11
Sơ đồ hình cây thiết lập dựa trên trình tự amino acid
suy diễn từ gen CP phân lập từ 20 dòng SMV từ Việt
Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Trung Quốc, Canada,
Ucraina
45

1

Số hóa bởi trung tâm học liệu
MỞ ĐẦU
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đậu tƣơng (Glycine max (L.) Merrill) là cây công nghiệp ngắn ngày, có
giá trị kinh tế và hàm lƣợng dinh dƣỡng cao. Một đặc tính quan trọng của cây
đậu tƣơng là có nốt sần ở rễ có khả năng cố định nitơ không khí, vì vậy trồng
đậu tƣơng góp phần cải tạo đất.
Hiện nay, năng suất và sản lƣợng đậu tƣơng ở mức thấp là do nhiều
giống hiện trồng có tính ổn định chƣa cao, sức biến động khá lớn giữa các
miền, các vùng. Khả năng kháng virus và sâu bệnh của các giống đậu tƣơng
đang trồng là rất thấp và chƣa có những dự báo về thời vụ gieo trồng thích
hợp cho từng vùng và chƣa xây dựng quy trình kỹ thuật sản xuất cho từng
vùng sinh thái.
Theo kết quả điều tra về bệnh của Cục Bảo vệ thực vật trên cây trồng, đã
xác định 20 loài bệnh hại, trong đó có các bệnh do nhiễm virus đã gây tổn thất
lớn cho năng suất đậu tƣơng và hiện nay vẫn chƣa có biện pháp hiệu quả để
phòng trừ bệnh do virus. Đậu tƣơng là một trong số các cây trồng dễ bị nhiễm

nhiều loại virus, nhƣ bệnh khảm (Soybean mosaic virus - SMV), bệnh khảm
vàng hại đậu tƣơng (Bean yellow mosaic virus - SYMV), bệnh xoăn lá và một
số bệnh virus trên lá khác. Vì vậy, nghiên cứu tạo cây đậu tƣơng kháng virus
phục vụ công tác chọn tạo giống đậu tƣơng sạch bệnh là rất cần thiết.
Bệnh khảm lá đậu tƣơng do virus SMV gây nên. Virus lan truyền do
rệp, bọ trĩ làm môi giới. Sự lan truyền cây bệnh sang cây khoẻ do rệp muội ở
ngoài đồng vẫn là chủ yếu, bệnh còn truyền qua hạt. Hiện nay các biện pháp
phòng bệnh phổ biến là: Chọn lọc cây sạch bệnh để làm giống; vệ sinh đồng
ruộng, luân canh cây trồng, thu dọn tàn dƣ cây bệnh trên đồng ruộng; diệt trừ
2

Số hóa bởi trung tâm học liệu
côn trùng truyền bệnh. Các biện pháp truyền thống thƣờng phức tạp, tốn thời
gian, hiệu quả không cao và kém bền vững. Biện pháp hiệu quả nhất để phòng
virus là sử dụng giống kháng virus, tuy nhiên, các nguồn kháng bệnh tự nhiên
đối với các loại virus này không nhiều. Do vậy, phƣơng pháp chuyển gen để
tạo cây kháng virus đặc biệt tỏ ra hữu ích đối với các loài thực vật mà trong tự
nhiên khan hiếm nguồn kháng bệnh. Từ những lí do trên chúng tôi tiến hành
đề tài: “Phân lập đoạn gen mã hóa protein vỏ từ SMV (Soybean mosaic
virus) gây bệnh khảm lá ở đậu tương”.
2. MỤC TIÊU ĐỀ TÀI
Phân lập và xác định đƣợc trình tự đoạn gen CP của virus SMV nhằm
tạo nguyên liệu và thu thập thông tin để thiết kế vector mang cấu trúc RNAi
phục vụ nghiên cứu tạo cây đậu tƣơng chuyển gen kháng virus SMV gây bệnh
khảm lá.
3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
3.1. Thu mẫu lá nghi nhiễm virus SMV từ các vùng trồng đậu tƣơng ở một số
địa phƣơng thuộc phía Bắc Việt Nam. Lƣu giữ và bảo quản mẫu theo quy
phạm.
3.2.Tách chiết RNA của virus SMV và tạo cDNA bằng phản ứng phiên mã

ngƣợc. Nhân bản đoạn gen CP của virus SMV.
3.3. Tách dòng và xác định trình tự đoạn gen CP của virus SMV. Phân tích và
so sánh với trình tự đã công bố trên GenBank.
3.4. Phân tích sự đa dạng của một số dòng virus SMV dựa trên trình tự đoạn
gen CP và trình tự amino acid suy diễn.


3

Số hóa bởi trung tâm học liệu
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. CÂY ĐẬU TƢƠNG
1.1.1. Đặc điểm sinh học của cây đậu tƣơng
Cây đậu tƣơng là một trong những loại cây trồng đƣợc biết đến từ rất
sớm. Các bằng chứng về lịch sử, địa lý và khảo cổ học chỉ ra rằng đậu tƣơng
có nguồn gốc từ Trung Quốc. Cây đậu tƣơng đƣợc thuần hóa và trồng làm cây
lƣơng thực ở Trung Quốc và thế kỉ XVII trƣớc công nguyên. Cây đậu tƣơng
đƣợc truyền bá sang Nhật Bản vào khoảng thế kỉ thứ XVIII, du nhập vào
nhiều nƣớc châu Á khác nhƣ : Indonesia, Philippin, Thái Lan, Ấn Độ , Việt
Nam… vài thế kỉ sau đó. Cây đậu tƣơng đƣợc trồng ở châu Âu vào thế kỉ
XVII và ở Hoa Kì vào thế kỉ XVIII [1].
Về phân loại học, cây đậu tƣơng hay đậu nành có tên khoa học là
Glycine max (L.) Merrill (2n=40) thuộc họ đậu (Lengminoceae), họ phụ cánh
bƣớm (Papilionoideae). Về nguồn gốc và phân loại của cây đậu tƣơng đã
đƣợc công bố bởi công trình của Hymowitz và Newell (1981). Đối với cây
đậu tƣơng trồng đƣợc phân biệt theo đặc điểm thực vật học, dựa theo thời
gian sinh trƣởng, thời vụ. Hiện nay, đậu tƣơng đƣợc trồng ở Việt Nam có
nguồn gốc là các giống địa phƣơng và các giống nhập nội.
Đậu tƣơng là loại cây trồng cạn thu hạt, gồm các bộ phận chính: rễ,

thân, cành, lá, hoa, quả và hạt. Rễ đậu tƣơng là loại rễ cọc, gồm rễ cái và các
rễ phụ, trên rễ có nhiều nốt sần chứa vi khuẩn Rhizobium japonicum, có khả
năng cố định đạm của không khí tạo thành đạm dễ tiêu.
4

Số hóa bởi trung tâm học liệu
Đậu tƣơng là cây 2 lá mầm, thân thảo. Thân có nhiều lông nhỏ, khi còn
non thân có màu xanh hoặc tím, khi già chuyển mà nâu nhạt. Màu sắc của
thân cây cho ta biết màu của hoa sau này, nếu thân có màu xanh hoa sẽ màu
trắng, thân màu tím hoa sẽ màu tím đỏ, chiều cao của thân từ 0,3 – 1m tùy
theo giống. Thân cây đậu tƣơng hình tròn mang nhiều đốt, thƣờng đứng có
khi bò hay nửa bò. Mỗi thân có từ 8 – 14 đốt, các cành mọc ra từ các đốt trên
thân, đốt đầu tiên của thân chính mang 2 lá mầm, đốt thứ 2 mang 2 lá đơn đối
nhau, từ đốt thứ 3 trở lên mỗi đốt mang 1 lá kép. Mỗi lá kép có 3 lá chét.
Phiến lá có hình dạng khác nhau : trứng, tròn, dài, lƣỡi mác… Hình dạng của
lá thay đổi theo giống, những giống có lá dài và nhỏ chịu hạn tốt nhƣng năng
suất thấp, những giống lá to thƣờng cho năng suất cao hơn nhƣng đồng thời
cũng chịu hạn kém hơn.
Đậu tƣơng là cây tự thụ phấn. Hoa đậu tƣơng đƣợc phát sinh từ nách lá,
đầu cành hoặc đầu thân. Hoa mọc thành chùm, mỗi chùm có 3-5 hoa. Hoa
lƣỡng tính nên đậu tƣơng là cây tự thụ phấn, tỷ lệ giao phấn rất thấp chỉ
chiếm 0,5-1%, hoa có màu tím hay trắng. Thời kì cây ra hoa sớm hay muộn,
thời gian dài hay ngắn tùy thuộc vào giống và thời vụ gieo bởi nó chịu ảnh
hƣởng phối hợp của ánh sáng và nhiệt độ.
Quả đậu tƣơng là loại quả giáp, ngoài vỏ quả thƣờng có lông bao phủ,
vỏ khi quả chín thƣờng có màu vàng hay xám đen. Quả đậu tƣơng thẳng hoặc
hơi cong, dài 2-7cm. Mỗi quả thƣờng có 2-3 hạt. Hạt đậu tƣơng có hình tròn
bầu dục, tròn dài, tròn dẹt, vỏ hạt thƣờng nhẵn có màu vàng nhạt, vàng đậm,
xanh, nâu, đen…đa số hạt màu vàng. Những giống hạt vàng có giá trị thƣơng
phẩm cao. Khối lƣợng 1000 hạt thƣờng dao động từ 100-200g. Hình dạng và

màu sắc của rốn hạt đặc trƣng cho mỗi giống.
5

Số hóa bởi trung tâm học liệu
Bộ rễ đậu tƣơng gồm rễ chính và rễ phụ. Trên rễ có rất nhiều nốt sần,
đó là kết quả của sự cộng sinh giữa vi khuẩn Rhizobium japonicum với rễ. Nốt
sần có thể dài 1cm, đƣờng kính 5-6mm, khi mới hình thành nó có màu trắng
sữa, khi phát triển tốt nhất nốt sần có màu hồng. Nốt sần tập trung nhiều ở
tầng đất có độ sâu từ 0-20cm, có vai trò quan trọng trong việc cố định đạm từ
nitơ không khí, với lƣợng đạm cung cấp cho cây khoảng 30-60kg/ha.
Dựa vào thời gian sinh trƣởng đậu tƣơng đƣợc chia thành các loại: chín
rất sớm: thu hoạch sau 80-90 ngày; chín sớm: thu hoạch sau 90-100 ngày;
chín trung bình: thu hoạch sau 100-110 ngày; chín muộn trung bình: thu
hoạch sau 110-120 ngày; chín muộn: thu hoạch sau 130-140 ngày; chín rất
muộn: thu hoạch sau 140-150 ngày [1] [2].
1.1.2. Giá trị kinh tế của cây đậu tƣơng
Đậu tƣơng là cây trồng cạn ngắn ngày có giá trị kinh tế cao khó có thể
tìm thấy cây trồng nào có tác dụng nhiều mặt nhƣ cây đậu tƣơng. Sản phẩm
của nó làm thức ăn cho ngƣời và gia súc, làm nguyên liệu cho công nghiệp, là
mặt hàng xuất khẩu, ngoài ra cây đậu tƣơng còn có tác dụng cải tạo đất.
Về mặt thực phẩm: Hạt đậu tƣơng có thành phần dinh dƣỡng cao,
protein chiếm khoảng 30 -45 %, thậm chí là 52-56% , 19-25% lipid và 20%
gluxit. Đây là loại hạt duy nhất mà giá trị đƣợc tính đồng thời cả protein và
lipid. Trong các protein của thực vật, protein của đậu tƣơng là loại có phẩm
chất tốt nhất bởi nó có đầy đủ và cân đối các loại amino acid cần thiết. Protein
của đậu tƣơng là loại dễ tiêu hóa và không có thành phần tạo cholesterol.
Lipid của đậu tƣơng chứa tỷ lệ lớn các acid béo chƣa no, có hệ số đồng hóa
lớn (98%), chỉ số iot cao (120-137) có tác dụng phòng chống bƣớu cổ cho
ngƣời, đặc biệt là đối với vùng trung du và miền núi. Hạt đậu tƣơng còn chứa
nhiều loại muối khoáng và có khả năng cung cấp năng lƣợng khá lớn (4710

6

Số hóa bởi trung tâm học liệu
kcal/kg), cho nên ngƣời ta đã chế biến hạt đậu tƣơng thành hơn 600 loại sản
phẩm có giá trị dinh dƣỡng khác nhau. Mặt khác, sử dụng protein và lipid của
đậu tƣơng còn có tác dụng phòng chữa bệnh đái tháo đƣờng, béo phì, huyết áp
cao, chảy máu não…
Về mặt công nghiệp : Những sản phẩm của đậu tƣơng là nguyên liệu
cho nhiều ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, công nghiệp ép dầu, công
nghiệp sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp nguyên liệu từ đậu tƣơng. Về xuất
khẩu, đậu tƣơng là mặt hàng nông sản có giá trị ổn định trên thị trƣờng thế
giới. Lƣợng hạt đậu tƣơng xuất khẩu hàng năm là 24-26 triệu tấn hạt/năm và
2-4 triệu tấn dầu/năm. Từ sau đại chiến thế giới lần II, đậu tƣơng giữ vị trí
hàng đầu trên thị trƣờng nông sản thế giới.
Trong chăn nuôi : Đậu tƣơng là nguồn thức ăn rất cần thiết cho gia
súc, 1kg hạt đậu tƣơng tƣơng đƣơng với 1,38 đơn vị thức ăn. Cùng với thân
và lá, các chất hữu cơ này làm thay đổi tính chất vật lý, hóa và làm tăng độ
phì nhiêu cho đất. Trong hệ thống thâm canh, trồng đậu tƣơng có tác dụng
làm cho cây trồng vụ sau phát triển tốt hơn, góp phần phá vỡ chu kì sâu bệnh,
chống nạn ô nhiễm do lạm dụng phân bón hóa học và thuốc trừ sâu. Cây đậu
tƣơng có thể trồng trên nhiều loại đất, nhiều vụ trong năm, có thể xen canh,
gối vụ… rất thuận lợi cho việc phát triển đậu tƣơng để khai thác lợi thế của
vùng khí hậu nhiệt đới. [1]
1.1.3. Tình hình sản xuất đậu tƣơng ở thế giới và Việt Nam
Việt Nam là nƣớc nông nghiệp nhiệt đới trồng đậu tƣơng với 3 mục
đích giải quyết vấn đề thiếu protein cho ngƣời và gia súc, xuất khẩu và cải tạo
đất. Cả nƣớc hình thành 6 vùng trồng đậu tƣơng : Nam Bộ, miền núi Bắc Bộ,
đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng ven biển miền
Trung và Tây Nguyên. Tuy nhiên, sản lƣợng đậu tƣơng ở trong nƣớc vẫn thấp
7


Số hóa bởi trung tâm học liệu
và phải nhập khẩu từ các nƣớc khác để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và làm thức
ăn cho gia súc.
Tại Việt Nam, cây đậu tƣơng cũng giữ vai trò rất quan trọng trong cơ
cấu cây trồng ở nhiều địa phƣơng hiện nay với sản lƣợng trung bình từ 2001-
2009 là 239,1 nghìn tấn. Theo thống kê năm 2009 cho thấy cây đậu tƣơng
đƣợc canh tác có hệ thống trên diện tích là 146,2 nghìn ha ở 28 tỉnh thành trải
đều từ Bắc vào Nam, nhƣng tập trung chủ yếu vẫn là ở miền Bắc với sản
lƣợng của cả nƣớc là 213,6 nghìn tấn [1], [61]. Trong khu vực ASEAN, năng
suất đậu tƣơng của Việt Nam đứng thứ 3 trong số 6 nƣớc trồng đậu tƣơng là
Lào, Campuchia, Myanmar, Philipines, Thái Lan và Việt Nam. Khi so sánh số
liệu trên với năng suất của các trung tâm sản xuất đậu tƣơng của thế giới là
Argentina, Brazil và Hoa Kì thì khá thấp [61]. Do không đáp ứng đủ nhu cầu
trong nƣớc nên Việt Nam vẫn phải nhập khẩu đậu tƣơng với số lƣợng lớn từ
các quốc gia khác đặc biệt là Hoa Kì.
Bên cạnh những yếu tố nhƣ kĩ thuật canh tác chƣa cao, ảnh hƣởng của
sâu bệnh thì yếu tố hạn hán hay không chủ động đƣợc nguồn nƣớc trong quá
trình canh tác cây đậu tƣơng là một trong những nguyên nhân chính làm cho
năng suất, sản lƣợng đậu tƣơng của nƣớc ta rất thấp. Tình trạng hạn hán trầm
trọng ảnh hƣởng không nhỏ đến tình hình sản xuất đậu tƣơng không chỉ ở
Việt Nam mà ngay cả ở những nƣớc sản xuất đậu tƣơng hàng đầu trên thế
giới nhƣ Argentina. Thống kê cho thấy ở vụ mùa năm 2009 sản lƣợng đậu
tƣơng ở Argentina giảm so với cùng thời điểm của năm 2008 là 11,7 triệu tấn.
Ở Việt Nam, tình hình thiếu nƣớc trầm trọng tại các địa phƣơng làm cho sản
lƣợng đậu tƣơng của năm 2009 giảm xuống chỉ còn 213,6 nghìn tấn so với
năm 2007 là 275,2 nghìn tấn và năm 2008 là 267,6 nghìn tấn [61] . Đậu tƣơng
là cây trồng thuộc nhóm cây có khả năng chịu hạn kém. Chính vì vậy, nghiên
8


Số hóa bởi trung tâm học liệu
cứu tạo giống đậu tƣơng có khả năng sống trong điều kiện bất lợi về nƣớc ta
đang là hƣớng nghiên cứu rất đƣợc quan tâm của các nhà chọn giống [1].
Trong những năm gần đây do ảnh hƣởng của biến đổi khí hậu toàn cầu
cũng nhƣ ảnh hƣởng của bệnh hại cây đã làm ảnh hƣởng tới tình hình phát
triển cây đậu tƣơng ở Việt Nam. Từ năm 2007 đến nay, diện tích trồng đậu
tƣơng có sự biến động và có xu hƣớng tăng vào năm 2012, 2013, nhƣng năng
suất và sản lƣợng đậu tƣơng gần nhƣ không tăng đáng kể (Bảng 1.1).
Bảng 1.1. Sản xuất đậu tƣơng ở Việt Nam từ 2007 đến 2013

2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013*
Diện tích
(1000ha)
190,1
192,1
146,2
197,8
173,6
200
230
Năng suất
(tấn/ha)
1,45
1,39

1,46
0,02
1,46
1,5
1,52
Tổng sản lƣợng
cả năm (tấn)
275,5
267,6
213,6
296,9
254,2
300
350
Nguồn: Tổng cục thống kê *số liệu dự báo
1.2. BỆNH VIRUS HẠI CÂY TRỒNG
1.2.1. Tình hình bệnh virus hại cây trồng
Cây trồng rất dễ bị tổn thƣơng do tác hại của sâu bệnh, cỏ dại và đặc
biệt là các loại bệnh do virus gây nên. Vì thế, để đạt năng suất và chất lƣợng
cây trồng tốt chúng ta cần có cách phòng trừ hiệu quả những loại dịch bệnh
này. Theo phƣơng pháp truyền thống chúng ta phòng trừ bệnh cho cây trồng
9

Số hóa bởi trung tâm học liệu
bằng cách phun trực tiếp hóa chất lên thân, lá cây. Tuy nhiên, biện pháp này
không mang tính lâu dài và triệt để, đặc biệt đối với các bệnh do virus gây
nên, mặt khác, nó còn gây hại cho vi sinh vật có ích. Cho đến nay, chúng ta đã
biết đến rất nhiều loại bệnh ở cây trồng do virus gây nên. Virus hại thực vật
đƣợc phát hiện cuối thế kỉ XIX do nhiều nhà bác học nhƣ Mayer (1886),
Ivanopski (1892), Baijerinck (1898), Loeffler và Frosh (1898) [5]. Đến đầu

thế kỉ XX, các virus gây bệnh cho thực vật lần lƣợt đƣợc phát hiện nhƣ virus
khảm dƣa chuột, virus khảm thuốc lá, virus khảm khoai tây, virus xoăn lá
khoai tây, xoăn lá cà chua… Nhƣng mãi tới năm 1939, khi Pfankuch và
Ryska sử dụng kĩ thuật hiển vi điện tử quan sát thấy virus khảm thuốc lá thì
việc nghiên cứu và phát triển nhóm nguyên nhân gây bệnh này mới diễn ra
nhanh chóng và thu đƣợc nhiều thành tựu to lớn [4], [5].
Bệnh do virus không chỉ làm giảm năng suất cây trồng mà còn là một
trong những nguyên nhân gây thoái hóa giống cây trồng [5]. Virus có thể gây
thiệt hại nặng nề và nhanh chóng ngay trong vụ trồng đối với cây ngắn ngày,
nhƣ virus gây bệnh lúa vàng lụi, bệnh xoăn lá cà chua, bệnh virus khoai tây,
virus hại táo, lê, đào, nho… Bệnh virus hại lúa và sắn đã từng hủy diệt hàng
chục vạn ha ở châu Á và châu Phi chỉ trong thời gian chƣa tới 30 ngày. Ở Việt
Nam, trong thập niên 60, bệnh vàng lá cam quýt đã hủy diệt nhiều vƣờn cam
ở hầu hết các tỉnh trong cả nƣớc; cây bông, hồ tiêu, ca cao đều bị bệnh vàng lá
gây hại, các loại cây nhƣ thuốc lá, khoai tây, cà chua, các cây họ đậu, các cây
ăn quả đều bị nhiễm bệnh bệnh do virus gây nên [5].
Không chỉ gây ra hiện tƣợng chết ngay hay từ từ ở cây trồng, virus còn
ảnh hƣởng xấu đến phẩm chất cũng nhƣ năng suất của các sản phẩm do cây
trồng mang lại. Virus còn nguy hiểm ở chỗ nó kí sinh bắt buộc trong tế bào
cây kí chủ. Vì vậy, khi tế bào non phát triển mạnh thì virus cũng phát triển rất
10

Số hóa bởi trung tâm học liệu
mạnh, tạo ra những hiệu ứng rất điển hình trên cây non hoặc những bộ phận
non của cây.
Ngoài cây lƣơng thực, cây công nghiệp, cây ăn quả… virus còn gây hại
đối với các loại cây thuốc, cây cảnh… Có thể nói, virus là một loại dịch nguy
hiểm phá hoại hầu hết các loại cây trồng. Virus gây bệnh không những làm
giảm năng suất cây trồng mà còn làm giảm phẩm chất của sản phẩm. Vì thế,
bệnh do virus gây ra là loại bệnh gây hại toàn diện và rất nguy hiểm cho

ngành trồng trọt ở nƣớc ta cũng nhƣ trên thế giới [5].
1.2.2. Bệnh do virus ở cây đậu tƣơng
Bệnh trên cây đậu tƣơng xuất hiện là do nhiều nguyên nhân nhƣ : bệnh
do sâu, do vi khuẩn hoặc virus… trong đó bệnh do virus thƣờng gây thiệt hại
nặng nhất. Bệnh khảm lá đậu tƣơng do virus SMV gây nên là một trong
những bệnh quan trọng nhất ở nhiều nơi trên thế giới. Mức độ của bệnh tùy
thuộc vào giống và khí hậu. Ở nhiệt độ cao, bệnh không biểu hiện triệu chứng
bệnh ra ngoài. Bệnh đƣợc ghi nhận đầu tiên ở Mỹ vào những năm đầu của
thập niên 90. Bệnh hiện diện ở khắp các vùng trồng đậu nành trên thế giới.
Khi bệnh xuất hiện sớm sẽ dẫn đến thất thu nặng.
Ở đồng bằng sông Cửu Long, từ vụ đông xuân 1979-1980, bệnh do
virus tỏ ra khá phổ biến. Bệnh do virus có thể xuất hiện khá sớm (vào 4 tuần
sau khi gieo) và gây thiệt hại nặng ở những ruộng không đƣợc trị bệnh kịp
thời.
Lá bị mất màu, loang lổ giống nhƣ tấm khảm. Lá nhỏ lại, phát triển
không đều, bìa lá cong xuống làm lá biến dạng. Phiến lá bị xếp nếp nhăn
nhúm, có màu loang lổ xanh nhạt và xanh đậm và thƣờng dày hơn lá bình
thƣờng. Dọc gân lá, mô tế bào nổi rộp lên những mụn màu xanh đậm. Cây lùn
do các lóng thân phát triển kém. Quả và hạt phát triển chậm lại, nhất là các
11

Số hóa bởi trung tâm học liệu
quả ở phần trên của cây. Qủa chín chậm, hạt nhỏ, vỏ hạt bị đổi thành màu nâu
nhạt và đậm không đều. Triệu chứng bệnh đƣợc biểu hiện rõ ở 18,5
0
C. Trên
29,5
0
C triệu chứng bệnh sẽ ở dạng tiềm ẩn.
1.2.3. Ứng dụng kỹ thuật RNAi trong nghiên cứu tạo cây chuyển gen

kháng virus
Cây trồng có tính kháng khác nhau với các loại virus khác nhau và có
thể là vật chủ hoặc không là vật chủ của những loại virus xác định. Virus có
thể xâm nhập vào cây chủ, lan truyền, gây bệnh làm cây chủ giảm hay mất
khả năng sinh trƣởng, phát triển và sinh sản. Trong quá trình tiến hóa, virus
dần hình thành những cơ chế tự bảo vệ khỏi tính kháng tự nhiên của vật chủ,
dễ dàng xâm nhập và gây bệnh [3].
Thực vật có thể kháng các chủng virus gây bệnh nếu trƣớc đó lây
nhiễm chúng với các virus cùng loại. Với cây chuyển gen, chúng cũng tạo ra
tính kháng tích cực và hiệu quả đối với virus. Có lẽ protein vỏ của virus đóng
vai trò quyết định tính kháng của virus, bởi vì khi gen CP của nhiều loại virus
RNA đƣợc biểu hiện trong cây (cũng không nhất thiết phải có sự biểu hiện
gen mã hóa protein vỏ ở mức độ cao) thì tính kháng với virus biểu hiện. Có
nhiều cách giải thích về tính kháng của cây chuyển gen. Theo Baulcombe
(1996), tính kháng của cây chuyển gen có đƣợc là nhờ yếu tố gây bệnh PDR
(pathogen – derived resistance). Cơ chế gây bệnh của PDR có thể thông qua
RNA sợi đôi cũng nhƣ sợi đơn ngắn. Năm 1998, Fire và Mello đã đƣa ra thuật
ngữ “RNA interference” (RNAi) để giải thích tính kháng của cây chuyển gen
đối với virus thông qua RNA sợi đôi. RNAi là một quá trình bất hoạt gen đòi
hỏi sự tham gia chủ động của bộ máy nội bào. Đầu tiên, enzyme ribonuclease
Dicer gắn vào cắt các phân tử RNA sợi đôi thành những đoạn sợi đôi ngắn
(21-23 cặp bazơ) với 2 bazơ thymin ở cuối đầu dính sợi đơn của mỗi đoạn,
12

Số hóa bởi trung tâm học liệu
các đoạn này đƣợc gọi là các RNA ức chế nhỏ. Dƣới tác động của enzyme
helicase, các RNA này bị phân tách và bị gắn kết vào một phức hợp đa
protein. Sau đó, các RNA ức chế nhỏ gắn với các mRNA đích, làm giảm
lƣợng khuôn mRNA cho quá trình dịch mã dẫn tới ức chế sự biểu hiện của
gen tƣơng ứng [15], [16]. Tính kháng của cây chuyển gen đối với virus thông

qua RNA sợi đơn cũng đƣợc dựa trên nguyên tắc bổ sung giữa RNA của virus
với RNA do gen chuyển sao mã ra. Gen của virus chuyển vào cây sẽ sử dụng
bộ máy nội bào của cây chuyển gen để sao mã ra RNA, các RNA này sẽ bắt
cặp bổ sung với RNA genome của virus khi virus xâp nhập vào tế bào cây chủ
và tạo ra đoạn RNA sợi đôi. Ngay lập tức RNA sợi đôi này sẽ bị các RNase
nhận biết là các biến dị và sẽ thủy phân chúng. Nhƣ thế, virus không thể thực
hiện quá trình nhân lên trong tế bào.
RNAi là một hiện tƣợng phổ biến xảy ra ở sinh vật nhân chuẩn và đóng
vai trò quan trọng trong nhiều quá trình sinh học nhƣ điều hoà sự phát triển, tổ
chức lại nhiễm sắc thể và đặc biệt là quá trình kháng virus [20],[28].
Gần đây, RNAi đƣợc xem là một kỹ thuật hiện đại và hữu hiệu chống
lại các bệnh do virus gây ra ở thực vật. Năm 2004, Baulcombe đã công bố cơ
chế hoạt động của siRNA và coi đó là một cơ chế quan trọng trong việc kháng
lại virus ở thực vật [16]. Nguyễn Thị Hải Yến (2012) đã sử dụng kỹ thuật
RNAi thành công tạo cây cà chua chuyển gen kháng virus khảm vàng lá cà
chua [14].
Các bƣớc chính trong kỹ thuật này bao gồm: (1) Thiết kế các vector
chuyển gen mang cấu trúc RNAi, (2) Biến nạp vector chuyển mang cấu trúc
RNAi vào cây thông qua vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens làm bất hoạt
các mRNA của virus gây bệnh, (3) Sàng lọc các cây chuyển gen mang cấu
trúc RNAi và kiểm tra tính kháng virus của các cây chuyển gen.
13

Số hóa bởi trung tâm học liệu
Để thiết kế vector mang cấu trúc RNAi trong kỹ thuật chuyển gen
kháng virus, công việc đầu tiên là việc thu thập và kiểm tra mẫu cây nhiễm
virus từ các vùng sinh thái khác nhau. Kiểm tra sự có mặt của virus từ các
mẫu thu đƣợc bằng phƣơng pháp sinh học phân tử. Bƣớc tiếp theo tiến hành
phân lập gen hoặc một số vùng gen khác trong hệ gen của virus trên cơ sở thu
thập thông tin về genome của virus, đặc biệt những thông tin của gen CP và

một số gen trong hệ gen của virus, thiết kế các cặp mồi để nhân gen CP và
một số gen khác, tách dòng và xác định trình tự nucleotide của gen đích. Trên
cơ sở phân tích so sánh trình tự gen của các dòng virus, chọn vùng bảo thủ
(khoảng 400bp) để thiết kế vector mang cấu trúc RNAi để chuyển vào đối
tƣơng thực vật. Phân tích cây chuyển gen và đánh giá tính kháng của các dòng
cây chuyển gen, tuyển chọn dòng cây chuyển gen kháng bệnh do virus gây
bệnh [14].
Ngoài ứng dụng tạo cây chuyển gen kháng virus bằng kỹ thuật RNAi,
kỹ thuật RNAi có thể giúp cho việc nghiên cứu chức năng của gen trong hệ
gen thực vật. Điều này đã mở ra triển vọng sử dụng các thƣ viện siRNA để
nhận biết và phân tích sự biểu hiện của hàng loạt các gen liên quan đến các
bệnh của thực vật. Thƣ viện các nhân tố RNAi có thể đƣợc xem nhƣ là một
công cụ hữu hiệu để phân tích chức năng hệ gen cây trồng. Xây dựng thƣ viện
RNAi của tất cả các bệnh virus trên một đối tƣợng cây trồng cụ thể sẽ góp
phần phục vụ cho việc sàng lọc các biểu hiện bệnh virus [53].
Ứng dụng công nghệ RNAi trong việc tạo cây chuyển gen kháng virus
là một lĩnh vực rất mới mẻ và đƣợc cả thế giới quan tâm. Việc tạo cây chuyển
gen kháng virus đã mở ra một triển vọng mới trong tạo thực phẩm sạch và an
toàn cho môi trƣờng. Đã có nhiều công trình trên thế giới tập trung nghiên
cứu và thu đƣợc các kết quả khả quan.
14

Số hóa bởi trung tâm học liệu
Tính hiệu quả của kỹ thuật RNAi trong việc tạo cây trồng chuyển gen
mã hoá protein của virus (CP, Rep ) có khả năng kháng lại chính virus đó đã
đƣợc chứng minh bằng thực tế. Nhiều giống cây trồng kháng virus đã tạo ra
bằng kỹ thuật này đó là kháng PVY(Potato Virus Y) [42] [49] [56], BYDV-
PAV (barley yellow dwarf virus-PAV) [54], CMV (Cucumber mosaic virus)
[34], PPV (plum pox potyvirus) [43], TMV (Tobacco Mosaic Virus) [33],
CGMMV (Cucumber green mottle mosaic virus) [44]… Trong những nghiên

cứu này, cấu trúc RNAi có chứa trình tự gen của virus lặp lại đảo chiều
thƣờng đƣợc sử dụng để chuyển vào cây và sẽ đƣợc biểu hiện thành RNA sợi
đôi dạng kẹp tóc (hairpin RNA, hpRNA) trong cây chuyển gen từ đó kích
thích cơ chế RNAi hoạt động khi có sự xâm nhập của virus vào cây. Ngƣời ta
đã nhận thấy rằng khi vùng đệm của hpRNA đƣợc lặp lại với một trình tự
intron (ihpRNA) thì kết quả ihpRNA tạo ra sự câm gen là cao nhất [49], [57].
Năm 2007, Bonfim và cộng sự đã tạo ra đƣợc một dòng cây đậu chuyển gen
kháng virus BGMV (Bean golden mosaic virus) với tính kháng lên đến 93%
[49]. Cũng năm 2007, Shinichiro Kamachi và cộng sự đã công bố kết quả tạo
ra đƣợc một số dòng thuốc lá chuyển gen CP trong cấu trúc ihpRNA có khả
năng kháng cao virus CGMMV đến thế hệ T2 (12/14 số cây kiểm tra) và
những siRNA đã đƣợc phát hiện trong những dòng cây chuyển gen này. Nhìn
chung hầu hết các cây chuyển gen làm chậm sự tích lũy virus hoặc làm giảm
nhẹ các triệu chứng bệnh [49].
Ở Việt Nam, nghiên cứu tạo cây chuyển gen kháng virus mới chỉ đang
đƣợc bắt đầu. Từ việc tổng kết các công trình nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật
RNAi trong thực tiễn, Đỗ Năng Vịnh (2007) đã khẳng định RNAi là một kỹ
thuật mạnh mẽ và có triển vọng to lớn trong việc ứng dụng tạo cây chuyển
gen kháng virus và là kỹ thuật có thể chủ động tạo ra các giống cây trồng
kháng các bệnh do virus gây ra ở thực vật [8]. Sự kết hợp kỹ thuật chuyển gen
15

Số hóa bởi trung tâm học liệu
và RNAi sẽ là biện pháp công nghệ sinh học có hiệu quả trong việc cải thiện
và tăng cƣờng khả năng kháng virus ở cây trồng.
Việc phân lập các gen thành phần của virus làm vật liệu cho thiết kế
vector chuyển gen để chuyển vào thực vật tạo cây chuyển gen kháng virus tại
Việt Nam là rất cần thiết. Chu Hoàng Hà và đtg (2004) [6] đã phân tích tính
đa dạng trên cơ sở so sánh trình tự gen mã hoá protein vỏ (CP) của các dòng
virus gây bệnh đốm vòng đu đủ của Việt Nam. Tiếp đến là nghiên cứu sự đa

dạng trong trình tự gen CP của virus gây bệnh xoăn vàng lá cà chua [13], của
virus gây bệnh đốm của cây đu đủ [6], của virus Y ở cây khoai tây [9]. Ứng
dụng kỹ thuật RNAi để tạo cây trồng kháng virus đã và đang đƣợc tiến hành
nghiên cứu ở một số phòng thí nghiệm và thu đƣợc thành công nhất định.
Nhóm nghiên cứu do Lê Trần Bình và Chu Hoàng Hà thuộc Phòng thí nghiệm
Công nghệ tế bào thực vật, Viện công nghệ Sinh học, Viện Khoa học và Công
nghệ Việt Nam là một trong những đơn vị đi đầu và thành công trong việc
ứng dụng công nghệ RNAi để tạo cây trồng kháng virus và một số cây trồng
kháng virus đã đƣợc tạo ra bằng kỹ thuật này [6], [7]. Thành công đầu tiên có
thể kể đến là thuốc lá chuyển gen kháng CMV (Cucumber mosaic virus) và
TMV (Tobacco mosaic virus). Những dòng thuốc lá chuyển đoạn gen ghép
nối mang đồng thời gen CP của TMV và CMV đã cho thấy hiệu quả kháng
lên tới 60% đối với hai chủng virus này. Các cây biểu hiện khả năng kháng
cao sau 3 lần lây nhiễm đồng thời 2 chủng virus đã cho thấy khả năng kháng
bệnh đƣợc duy trì cho thế hệ [11]. Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật RNAi trong
tạo giống cây trồng chuyển gen kháng bệnh virus đã thiết kế thành công 6 cấu
trúc RNAi, tạo đƣợc vài trăm dòng thuốc lá chuyển gen K326 ở thế hệ T0
mang cấu trúc RNAi có khả năng kháng virus CMV là 70,9% (100/141), PVY
là 84,1% (58/69), TMV là 74,5% (70/94) và đồng thời hai loại virus TMV và
CMV là 70,8% (34/48) [11]. Tiếp đến là đu đủ kháng bệnh đốm vòng do virus
16

Số hóa bởi trung tâm học liệu
PRSV (Papaya ringspot virus). Kết quả ban đầu cho thấy, trong số 45 dòng
đu đủ chuyển gen đƣợc chọn tạo, có 34/45 dòng có khả năng kháng hoàn toàn
với virus đốm vòng. Dù trồng trong môi trƣờng nhiễm bệnh nhƣng các cây đu
đủ chuyển gen vẫn phát triển mạnh, cho quả đều, đẹp, năng suất cao (Chu
Hoàng Hà, 2011) [7], tạo đƣợc dòng cà chua kháng virus TYLCV bằng kỹ
thuật RNAi [10], [12].
Tuy nhiên, các nhóm tác giả cũng cho thấy, tỷ lệ kháng bệnh của các

dòng cây chuyển gen phụ thuộc nhiều vào đoạn gen đƣợc lựa chọn để thiết kế
vector chuyển gen. Cấu trúc vector chứa nhiều gen quan trọng của TYLCV có
khả năng kháng cao hơn cấu trúc vector chứa đơn gen virus [10],[12],[14].
Điều này phụ thuộc vào một số gen virus có khả năng ức chế con đƣờng hoạt
động của RNAi. Ngoài ra còn một số loại cây trồng khác cũng đang đƣợc tiến
hành nghiên cứu chuyển gen để tạo dòng cây kháng bệnh virus nhƣ cam,
quýt, dƣa hấu…
1.3. VIRUS SMV VÀ HỆ GEN CỦA SMV
Soybean Mosaic Virus (SMV) thuộc Chi Potyvirus, họ Potyviridae, là
một trong những loại virus gây bệnh quan trọng nhất ở cây đậu tƣơng
(Glycine max [L.] Merrill.) và bệnh khảm lá đậu tƣơng do SMV gây ra gặp ở
hầu hết các quốc gia trên thế giới. SMV có thể gây ra thiệt hại đáng kể về sản
lƣợng, làm suy giảm năng suất đậu tƣơng tới 40% khi các cây bị nhiễm hoặc
trƣớc khi ra hoa và 91% hạt đậu có vết lốm đốm; ở một số trƣờng hợp có thể
gây thiệt hại lên tới 94% tổng sản lƣợng. Sau khi nhiễm SMV, đậu tƣơng sẽ
giảm năng suất và chất lƣợng hạt. Họ Potyviridae có số lƣợng lớn nhất trong
số các loại virus thực vật đƣợc biết đến.
Các hạt SMV dài khoảng 750 nm, có đƣờng kính là 11-15 nm, và bao
gồm protein vỏ bố trí đối xứng xoắn ốc xung quanh sợi RNA có khoảng gần
17

Số hóa bởi trung tâm học liệu
10.000 bp. Hệ gen của SMV gồm các gen mã hóa cho 3066 amino acid, gồm
10 chuỗi polypeptid: P1 proteinase (P1), Helper component proteinase (HC-
pro), Protein P3 (P3), 6 kDa protein 1(6K1), Cytoplasmic inclusion protein
(CI), 6 kDa protein 2 (6K2), Viral genome-linked protein (VPg), Nuclear
inclusion protein A (NIa), Nuclear inclusion protein B (NIb), Capsid protein
(CP) (Hình 1.1).

Hình 1.1. Sơ đồ các gen trong hệ gen của SMV


Won-Seok Lim và đtg (2003) đã phân tích trình tự nucleotide hoàn
chỉnh của RNA genome của SMV chủng G5 (SMV-G5) và G7H (SMV-G7H)
và so sánh với trình tự của các chủng SMV khác. Mỗi RNA virus SMV dài
9588 nucleotide (chƣa kể đuôi poly A), chứa một khung đọc mở (ORF) mã
hóa cho một polyprotein mà sau đó đƣợc phân cắt thành 10 protein chức
năng. So sánh trình tự amino acid của 2 chủng này với các chủng SMV khác
cho thấy có tỉ lệ lớn trình tự amino acid tƣơng đồng. Hệ số tƣơng đồng về
trình tự nucleotide và trình tự amino acid suy diễn giữa chủng SMV-G5 và
SMV-G7H là 99%. Trình tự nucleotide hoàn chỉnh của các chủng này có thể
cung cấp những gợi ý để xác định các yếu tố quyết định đến triệu chứng bệnh
khảm lá ở cây đậu tƣơng, từ đó có các biện pháp hiệu quả để phòng trừ SMV
cho đậu tƣơng.
Gen CP là gen đặc trƣng nhất trong họ potyvirus. Protein vỏ (CP) do
gen CP mã hóa đƣợc chia thành ba phần: đầu N, vùng cốt lõi và đầu C. Gen
18

Số hóa bởi trung tâm học liệu
CP dài 807 bp, trong đó vùng mã hóa dài 804 bp [62]. Protein của gen CP bao
gồm 267 amino acid, trong đó vùng Poty-coat bắt đầu từ amino acid thứ 33
đến amino acid 264 đƣợc thể hiện ở hình 1.2 và hình 1.3 [62].


Hình 1.2. Sơ đồ protein CP của SMV



Hình 1.3. Vùng Poty_coat của CP


×