Tải bản đầy đủ (.docx) (75 trang)

sự phân công lao động theo giới trong gia đình nông thôn hiện nay - trường hợp nghiên cứu tại xã hùng tiến, huyện nam đàn, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (626.29 KB, 75 trang )

Sau quá trình học tập, nghiên cứu và thực tập tại địa phương tôi đã hoàn thành
khóa luận với đề tài “Phân công lao động theo giới trong gia đình nông thôn hiện
nay – Trường hợp nghiên cứu tại xã Hùng Tiến, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An”.
Qua đây tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc đến ban lãnh đạo trường Đại
học Khoa học cũng như ban lãnh đạo khoa Lịch sử đã tạo điều kiện cho chúng tôi
thực hiện chuyến thực tập bổ ích này. Đồng thời tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến cô
giáo Lê Thị Kim Dung, người đã rất nhiệt tình trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ cho tôi
trong quá trình giảng dạy cũng như thực hiện và hoàn thành khóa luận này.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể chính quyền và nhân dân xã Hùng
Tiến, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An đã nhiệt tình đón tiếp và tạo mọi điều kiện tốt
nhất cho chúng tôi trong quá trình thực tập, thực tế tại địa phương.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song do hạn chế về mặt thời gian cũng như về
năng lực nên khóa luận không tránh khỏi những sai sót rất mong thầy, cô đóng góp ý
kiến để khóa luận này có thể hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Huế, ngày 18/5/2014
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Thương
1
1
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội Việt Nam ngày xưa có một thời kỳ dài sống trong chế độ mẫu hệ,
con cái mang họ mẹ, người phụ nữ trong gia đình có quyền quyết định tất cả.
Thời gian dài sau đó nhu cầu hình thành gia đình hạt nhân, do phải đi làm ăn
xa, đặc thù của công việc ngày càng hiện đại, người đàn ông dần chiếm ưu thế
và chế độ phụ hệ hình thành. Qua các giai đoạn lịch sử, do thay đổi về hoàn
cảnh chính trị, sự phát triển của công nghệ hiện đại, vai trò của phụ nữ và nam
giới trong xã hội cũng thay đổi. Người nam giới ngày càng được coi trọng, là
người chủ trong gia đình, được tham gia các công việc cộng đồng, không
ngừng nâng cao địa vị xã hội. Còn người phụ nữ gắn liền với công việc nội trợ,
chăm sóc con cái, sự tiến thân trong xã hội là điều ít được biết đến.Tư tưởng


nho giáo trọng nam khinh nữ phổ biến trong quần chúng nhân dân, người phụ
nữ bị bó hẹp trong “tam tòng tứ đức” có thân phận thấp hèn, không được bình
đẳng với nam giới. Ngày nay, khi đất nước chuyển từ nền kinh tế cơ chế quan
liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã dẫn
đến những thay đổi căn bản trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội kéo theo
sự thay đổi mới tư duy trên mọi lĩnh vực, điều này đã tạo ra sự chuyển đổi về
cơ cấu xã hội và cùng với đó có sự thay đổi của phân công lao động theo giới
trong gia đình.
Nghị quyết hội nghị Trung ương V đã đặt vấn đề gia đình là một tầm quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng văn hóa và phát triển mọi mặt của đất nước. Đó
là “phải giữ gìn phát huy những đạo đức tốt đẹp vốn có của gia đình Việt Nam
nhằm tạo ra một lối sống lành mạnh, coi trọng xây dựng gia đình văn hóa và
xây dựng mối quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội”. Trong
đó mục tiêu quan trọng của Đảng và Nhà nước ta là tăng cường sự tham gia vào
các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội của phụ nữ nhằm nâng cao
vai trò, vị trí của người phụ nữ trong gia đình nói riêng và ngoài xã hội nói
chung.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định đúng vai trò và khả năng của phụ nữ
trong gia đình và ngoài xã hội, Người chỉ ra rằng: “Non song gấm vóc Việt
Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức thêu dệt mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”
[7, tr. 204]. Như vậy, chúng ta có thể thấy được vai trò to lớn của người phụ nữ
2
2
không chỉ trong thời bình mà ngay trong thời chiến mưa bom bão đạn họ cũng
có những đóng góp to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Thông
cảm và bênh vực cho quyền lợi cho người phụ nữ, Người xác định giải phóng
phụ nữ, giành quyền bình đẳng cho phụ nữ là một trong những mục tiêu của
cách mạng: “Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài
người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng Chủ Nghĩa xã hội chỉ một
nửa” [8, tr. 186]. Đây là tư tưởng vừa thể hiện sự kế thừa, vừa phát triển sáng

tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng Xã
hội chủ nghĩa. Tư tưởng đó thể hiện quan điểm nhân đạo thực hiện nam nữ
bình đẳng. Quan điểm “nam, nữ bình quyền” của Đảng và Bác Hồ xác định
ngay trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930.
Trong gia đình nông thôn từ thời xa xưa trong những câu ca dao tục ngữ
đã hàm chứa sự phân công lao động theo giới trong gia đình “Chồng cày vợ
cấy, con trâu đi bừa”. Theo đó, sự phân công lao động theo giới trong gia đình
nông thôn người đàn ông vẫn là trụ cột trong gia đình, đảm nhận những công
việc nặng nhọc, tạo ra của cải vật chất, người phụ nữ làm những công việc nhẹ
nhàng hơn và giáo dục chăm sóc các thành viên trong gia đình. Ngày nay, do
tác động của nền kinh tế cho nên người phụ nữ cũng tham gia vào việc tạo ra
của cải vật chất, họ dùng sức lao động của mình kiếm tiền trang trải cuộc sống
gia đình, họ có thể kiếm thêm thu nhập bằng những công việc gia đình của họ
như chăn nuôi gia súc, Tuy nhiên, những đóng góp của người phụ nữ vẫn
không được công nhận là người tạo ra của cải vật chất cho gia đình mà họ được
coi là người phụ giúp người đàn ông xây dựng kinh tế, những suy nghĩ ấy vẫn
còn mờ nhạt đối với người phụ nữ, đặc biệt là người phụ nữ nông thôn, họ ít có
điều kiện để tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực trong cộng đồng, mà điều này
chỉ giành cho người nam giới. Theo tổ chức lao động Thế giới (ILO) năm 2002,
nền kinh tế thế giới đã bỏ qua 11 tỉ USD từ thu nhập của người phụ nữ do họ
làm những công việc gia đình.
Sự thay đổi về giới làm cho cả nam và nữ tự nhận thức được vai trò của
bản thân mình, tự điều chỉnh và thích nghi với nhau trong cả suy nghĩ và hành
động. Công việc gia đình giờ đây không chỉ là bổn phận của người phụ nữ,
đồng thời việc kiếm tiền nuôi sống gia đình cũng như việc tham gia các quan
3
3
hệ xã hội bên ngoài gia đình không còn là khoảng trời riêng của nam giới.
Người vợ tham gia vào công việc rộng lớn hơn, ngược lại người chồng phải
chia sẻ bổn phận và trách nhiệm đối với công việc nhà, ngay cả trong công việc

nội trợ.
Sự phân công lao động hợp lý trong gia đình là một vấn đề mang tính cấp
thiết, thiết thực, không những là chìa khóa để đảm bảo cho sự ổn định bền chặt,
êm ấm của gia đình, tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của cả nam và nữ
về mặt xã hội mà còn giúp cải thiện dần địa vị của mỗi giới, đặc biệt là người
phụ nữ.
Là một xã đang trong quá trình đẩy mạnh phát triển kinh tế, lấy công bằng
xã hội làm trọng tâm, xã Hùng Tiến, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An vẫn còn
tồn tại sự bất bình đẳng trong phân công lao động giữa phụ nữ và nam giới.
Hiện nay, người phụ nữ ở xã Hùng Tiến vẫn còn hạn chế trong việc nâng cao
địa vị ngoài xã hội. Họ vẫn còn phải gắn với công việc nội trợ trong gia đình, ít
có tham gia các công việc cộng đồng, dòng họ, họ bị hạn chế trong việc tiếp
cận, kiểm soát các nguồn lực từ gia đình và cộng đồng mang lại.
Như vậy, chúng ta hãy nghiên cứu có những thay đổi nào trong phân công
lao động giữa phụ nữ và nam giới trong gia đình. Có hay không cơ hội như
nhau trong việc tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực phát triển giữa phụ nữ và
nam giới. Liệu có những đánh giá công bằng công lao động đóng góp trong
việc nuôi sống gia đình.
Với những lý do trên tôi chọn đề tài khóa luận là “Sự phân công lao động
theo giới trong gia đình nông thôn hiện nay - Trường hợp nghiên cứu tại xã
Hùng Tiến, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An”. Qua khảo sát để thấy được quan
niệm, suy nghĩ của người dân nơi đây về vấn đề phân công lao động giữa phụ
nữ và nam giới cũng như tình hình thực tế đang diễn ra trên địa bàn. Từ đó cho
chúng ta thấy có hay không sự bất bình đẳng trong phân công lao động theo
giới trong gia đình nông thôn, có cái nhìn đúng hơn về người phụ nữ trong gia
đình. Từ đây đề ra những biện pháp và khuyến nghị để nâng cao vai trò người
phụ nữ, phát huy hết tiềm năng của người nữ giới góp phần xây dựng một xã
hội ngày càng công bằng, văn minh.
2. Ý nghĩa của đề tài
2.1 Ý nghĩa lý luận

4
4
Nghiên cứu đề tài “Phân công lao động theo giới trong gia đình nông thôn
hiện nay”, qua nghiên cứu tại xã Hùng Tiến, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, sử
dụng những phương pháp đặc thù nhằm làm rõ thực trạng sự phân công lao
động giữa phụ nữ và nam giới trong gia đình hiện nay, quyền quyết định các
công việc trong gia đình giành cho ai. Đồng thời làm rõ một số lý thuyết xã hội
học trong nghiên cứu về các vấn đề thực tiễn của gia đình.
Từ kết quả đạt được từ nghiên cứu, tôi hy vọng đóng góp vào cơ sở lý luận
của các chuyên ngành Xã hội học gia đình, Xã hội học giới,… trong việc khẳng
định tầm quan trọng của nghiên cứu về vai trò giới trong gia đình. Đặc biệt
nhấn mạnh mối tương quan giữa vị trí, vai trò của vợ và chồng trên cơ sở phân
tích, nhìn nhận lý giải các vấn đề phân công lao động trong gia đình.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đất nước đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chất lượng
cuộc sống của người dân được cải thiện đáng kể, kinh tế hộ gia đình phát triển,
vai trò của từng thành viên trong gia đình ngày càng nặng nề hơn. Đặc biệt, đối
với gia đình nông thôn đang trong quá trình xây dựng chương trình nông thôn
mới toàn thể nhân dân đang ra sức thi đua phát triển kinh tế hộ gia đình, vì vậy
trách nhiệm của mỗi cá nhân cũng có sự thay đổi. Người phụ nữ ngày càng
đóng vai trò quan trọng trong việc chăm sóc gia đình và xây dựng quê hương
đất nước. Vì vậy, qua nghiên cứu đề tài “Phân công lao động theo giới trong
gia đình nông thôn hiện nay” trường hợp nghiên cứu tại xã Hùng Tiến, huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, tôi mong muốn góp phần nâng cao nhận thức của các
thành viên trong mỗi gia đình về sự bình đẳng trong phân công lao động, xóa
bỏ đi những suy nghĩ, định kiến không đáng có mà xã hội giành cho những
người phụ nữ, góp phần giải phóng người phụ nữ, giúp họ nâng cao địa vị
ngoài xã hội.
Hy vọng cung cấp những thông tin hữu ích cho các nhà hoạch định chính
sách, những người quan tâm về vấn đề phân công lao động dưới góc độ giới,

xây dựng những chính sách phù hợp, có cái nhìn đúng đắn hơn và có những
giải pháp thiết thực góp phần cải thiện đời sống chị em phụ nữ trong sự nghiệp
đổi mới đất nước.
3. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
5
5
So với các nước trên thế giới, Việt nam có hệ thống luật pháp, chính sách
về bình đẳng giới tương đối đầy đủ và tiến bộ. Việt Nam đã phê chuẩn hầu hết
các Công ước quốc tế liên quan đến bình đẳng giới và quyền của phụ nữ, trong
đó quan trọng nhất là Công ước CEDAW về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt
đối xử đối với phụ nữ,… Trong hệ thống luật pháp đều đề cập trực tiếp hoặc
gián tiếp đến vấn đề bình đẳng giới, tạo điều kiện cho cả phụ nữ và nam giới
cùng phát triển tiến bộ và bình đẳng. Gần đây nhất, năm 2006, Luật bình đẳng
giới đã được Quốc hội thông qua và triển khai trong thực tế, đánh dấu bước
phát triển quan trọng trong nỗ lực phấn đấu vì bình đẳng giới ở Việt Nam.
Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề đang thu hút sự quan tâm và tranh luận
của toàn xã hội nhưng vẫn chưa đạt được sự đồng thuận trong phương hướng
giải quyết như vấn đề phân công lao động theo giới trong gia đình.
Phân công lao động theo giới là một vấn đề mang tính cấp thiết và thu hút
được sự quan tâm của các nhà chức trách, báo giới và các nhà nghiên cứu. Đã
có rất nhiều công trình nghiên cứu về đề tài này rất công phu và giá trị. Những
nghiên cứu ấy đã xây dựng nên những nền móng cơ bản cho sự mở rộng, phát
triển các nghiên cứu về giới sau này. Những đề tài nghiên cứu đó đã có đóng
góp quan trọng làm thay đổi nhận thức và hành vi của con người, thay đổi
những suy nghĩ tiêu cực về vai trò của người phụ nữ trong gia đình, đặc biệt là
gia đình nông thôn.
Những nghiên cứu đầu tiên về vấn đề này chủ yếu là những nghiên cứu xã
hội học về giới. Chúng ta có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau:
Báo cáo: “Đưa vấn đề giới vào phát triển thông qua sự bình đẳng giới về
quyền, nguồn lực và tiếng nói” (Báo cáo nghiên cứu chính sách của ngân hàng

Thế Giới, NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội 2001). Báo cáo nhằm mục đích
nâng cao sự hiểu biết về mối quan hệ giữa vấn đề giới, chính sách và sự phát
triển góp phần thúc đẩy sự bình đẳng giới. Báo cáo đề xuất một chiến lược 3
phần để nâng cao sự bình đẳng giới. Báo cáo đề cập đến việc phá vỡ sự phân
công lao động cứng nhắc theo giới thông qua việc tiếp cận các nguồn lực về
kinh tế và chính sách xã hội.
Đề tài nghiên cứu “Phụ nữ và nam giới và cải cách kinh tế nông thôn”
được nghiên cứu bởi trung tâm nghiên cứu phụ nữ và gia đình vào năm 1995.
Đề tài đã đề cập đến sự phân công lao động theo giới trong gia đình nông dân
6
6
trong quá trình chuyển đổi kinh tế cũng như các vấn đề xã hội đặt ra xung
quanh mối quan hệ giữa hiệu quả kinh tế với tính công bằng và sự bình đẳng
giới từ sự phân công lao động đó.
Công trình nghiên cứu của giáo sư Lê Thi “Phụ nữ và bình đẳng giới trong
đổi mới ở Việt Nam” trung tâm nghiên cứu về gia đình và phụ nữ lại khẳng
định mục tiêu của việc nghiên cứu giới nhằm tạo nên sự phát triển tốt đẹp và sự
phân công hợp lý giữa hai giới nam và nữ không chỉ trong lao động sản xuất ở
các nghành nghề mà còn trong các hoạt động tổ chức, xây dựng cuộc sống gia
đình và nuôi dạy con cái. Ở tất cả các hoạt động đều cần đến trí tuệ của cả hai
giới, phù hợp với những đặc điểm và khả năng của họ góp phần tạo nên tính hài
hòa trong từng gia đình.
Ngoài ra còn rất nhiều công trình nghiên cứu có giá trị nói về vai trò của
phụ nữ và nam giới trong gia đình như:
- “ Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trước thềm thế kỷ 21” trung tâm nghiên
cứu giới, gia đình và môi trường trong phát triển, NXB khoa học xã hội
1995.
- “ Nghiên cứu về đào tạo giới ở Việt Nam” NXB khoa học xã hội 1998.
- “Người phụ nữ và gia đình Việt Nam hiện nay” trung tâm nghiên cứu khoa học
về gia đình và phụ nữ, NXB khoa học và xã hội 1991.

Nhìn chung, bức tranh phân công lao động giữa phụ nữ và nam giới được
dựng lên khá rõ nét ở nhiều góc độ và hình thức khác nhau, rất phong phú, đa
dạng. Tuy nhiên, các đề tài này mới chỉ tập trung đến vai trò của người phụ nữ
trong các hoạt động kinh tế chứ chưa làm nổi bật được sự bình đẳng trong phân
công lao động theo của cả hai giới.
Kinh tế hộ gia đình đang ngày càng phát triển, vai trò của phụ nữ và nam
giới cũng thay đổi theo nhịp độ phát triển ấy, vì thế trong các công việc trong
gia đình cũng như ngoài xã hội đều có sự kết hợp, phân chia hài hòa để tạo nên
một môi trường xã hội phát triển bền vững. Trong khóa luận này, người viết cố
gắng phân tích, nhìn nhận vấn đề dưới góc độ quan điểm của phụ nữ và nam
giới trong việc xem xét sự phân công lao động theo giới trong gia đình nông
thôn hiện nay. Nhằm thấy được sự tham gia của cả hai giới trong các công việc
gia đình, tìm ra những ảnh hưởng, nguyên nhân đến sự tham gia các công việc
gia đình của cả hai giới. Giúp chúng ta rút ra kết luận có hay không sự bất bình
7
7
đẳng trong phân chia công việc trong gia đình nông thôn hiện nay. Từ đó đưa
ra những hướng giải quyết hướng tới sự phát triển hài hòa, toàn diện của phụ
nữ và nam giới trong công việc gia đình, và ngoài xã hội.
4. Đối tượng nghiên cứu, khách thể nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Sự phân công lao động theo giới trong các gia đình nông thôn hiện nay.
4.3. Khách thể nghiên cứu
Hộ gia đình tại xã Hùng Tiến, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
4.4. Phạm vi nghiên cứu
- Địa bàn xã Hùng Tiến, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
- Thời gian nghiên cứu: Vấn đề được nghiên cứu năm 2014.
5. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Phân công lao động theo giới trong gia đình nông thôn
hiện nay” tôi mong muốn khảo sát về sự phân chia công việc cụ thể giữa phụ

nữ và nam giới diễn ra như thế nào trong đời sống nông thôn, tìm hiểu những
nhìn nhận của cộng đồng nơi đây về vai trò của người phụ nữ trong gia đình và
sự bình đẳng trong phân công lao động theo giới. Để thấy được có hay không
sự bất bình đẳng trong phân công lao động trong gia đình. Từ đó tuyên truyền
làm thay đổi những suy nghĩ thiếu tích cực để người phụ nữ có cơ hội tiếp cận
với các nguồn lực, lợi ích của gia đình và cộng đồng.
Tìm hiểu những biến đổi vai trò vị thế giữa phụ nữ và nam giới trong gia
đình nông thôn hiện nay, những nguyên nhân làm thay đổi vấn đề bình đẳng
trong phân công lao động theo giới. Giúp cho người phụ nữ được tiếp cận các
lợi ích, nguồn lực bình đẳng như nam giới.
Nhân viên công tác xã hội là một trong những đội ngũ có thể làm hạn chế
vấn đề bất bình đẳng trong phân công lao động theo giới, thông qua tác động
trực tiếp và gián tiếp bằng các phương pháp giáo dục truyền thông. Với vai trò
là nhà Công tác xã hội, những người làm công tác xã hội cần sử dụng những
kiến thức, kỹ năng chuyên ngành làm thay đổi nhận thức, suy nghĩ tiêu cực của
người dân, thổi một làn gió mới với những tư tưởng tiến bộ khi nói về vai trò
của người phụ nữ. Để từ đó, trong tiềm thức của mỗi con người, đặc biệt là
người dân nông thôn họ đều đánh giá cao vai trò, địa vị của người phụ nữ,
không chỉ trong gia đình mà còn ngoài cộng đồng. Nhân viên công tác xã hội
hành động để cân bằng phân công lao động theo giới trong gia đình, phân chia
công việc một cách hợp lý, nhằm tạo điều kiện cho người phụ nữ có cơ hội giải
8
8
phóng bản thân về cả thể chất và tinh thần, có điều kiện tham gia các hoạt động
cộng đồng, tiếp cận với các dịch vụ, nguồn lực và lợi ích mà xã hội mang lại
cho họ, đồng thời khẳng định địa vị của bản thân.
6. Mục tiêu nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên đề tài cần nghiên cứu cần đạt được những mục
tiêu cụ thể sau:
- Đề tài tìm hiểu thực trạng phân công lao động theo giới đang diễn ra trên địa

bàn nghiên cứu, thực trạng này đang đi theo xu hướng tích cực hay là tiêu cực.
Làm rõ thái độ, nhận thức và suy nghĩ của chính người dân nơi đây về phân
công lao động giữa nam và nữ, xem trong từng suy nghĩ của người dân còn tồn
tại những quan niệm lạc hậu nữa hay không, để từ đó cò những phương pháp
làm thay đổi những suy nghĩ tiêu cực ấy theo một hướng tích cực, tốt đẹp hơn.
Sau quá trình nghiên cứu về thực trạng phân công lao động theo giới, đề tài rút
ra được kết luận rằng trên địa bàn còn tồn tại những bất bình đẳng trong phân
công lao động giữa nam và nữ trong gia đình hay không?.
- Từ những thực trạng đang diễn ra đề tài cần nghiên cứu, tìm hiểu những
nguyên nhân trực tiếp và sâu xa nào dẫn đến thực trạng ấy, nguyên nhân có thể
xuất phát từ nhiều khía cạnh khác nhau như từ phía quan niệm, phong tục lạc
hậu còn tồn tại trong địa phương, nguyên nhân cũng có thể xuất phát từ chính
suy nghĩ, nhận thức của từng người dân, hay chính vấn đề kinh tế của gia đình
mang lại,… Vì vậy, đề tài cần tìm hiểu cả nguyên nhân trực tiếp và nguyên
nhân sâu xa của vấn đề. Từ thực trạng và nguyên nhân tìm hiểu được, đề tài sẽ
phân tích những hệ quả có thể xảy ra và ảnh hưởng đến người dân trên địa bàn,
đặc biệt là những người phụ nữ.
- Qua nghiên cứu về thực trạng, nguyên nhân và hệ quả của vấn đề phân công lao
động theo giới trên địa bàn xã Hùng Tiến, đề tài nghiên cứu sẽ phân tích và đưa
ra những giải pháp, hướng giải quyết cho vấn đề, nhằm xóa bỏ bất bình đẳng
trong phân công lao động trong gia đình, cân bằng và thúc đẩy sự phân chia
hợp lý các công việc gia đình và công việc xã hội giữa nam và nữ.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận
Khóa luận đã vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
như một phương pháp luận cho toàn bộ quá trình nghiên cứu.
9
9
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì khi xem xét, đánh
giá mỗi hiện tượng – sự kiện xã hội phải đặt nó trong mối liên hệ phổ biến với

các hiện tượng – sự kiện khác. Ngoài ra phải có quan điểm toàn diện khi đánh
giá về một vấn đề để tránh cách nhìn phiến diện.
Vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể bằng cách tiếp cận, nghiên cứu, xem
xét vấn đề theo quan điểm tôn trọng giữ gìn và phát huy những nét đẹp, tích
cực của lịch sử, bên cạnh đó xóa bỏ những cái lạc hậu, tiêu cực, không phù hợp
với sự biến đổi và phát triển của xã hội.
Vận dụng cơ sở lý luận và phương pháp luận của xã hội học Mác xít nhằm
giải thích sự vận động, biến đổi và phát triển của việc phân công lao động, nhất
là vấn đề phân công lao động theo giới. Đề tài nghiên cứu vận dụng các lý
thuyết như: Lý thuyết xã hội học về giới, lý thuyết tương tác biểu trưng của
giới, lý thuyết xã hội hoc gia đình, vai trò giới, lý thuyết chức năng giới,…
Bên cạnh đó khóa luận còn vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh về quyền
bình đẳng cho phụ nữ và bình đẳng trong phân công lao động theo giới. Cùng
với đó khóa luận cũng vận dụng những chủ trương, đường lối chính sách của
Đảng và Nhà Nước, những văn kiện đổi mới, về giải phóng phụ nữ được ban
hành, những công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước.
7.2. Phương pháp nghiên cứu
7.2.1. Phương pháp thu thập thông tin
7.2.1.1. Thông tin thứ cấp
Khóa luận sử dụng những báo cáo tổng kết hằng năm của Ủy ban nhân dân
xã Hùng Tiến, báo cáo tổng kết của Hội liên hiệp phụ nữ xã Hùng Tiến. Những
công trình nghiên cứu đã có từ trước như đề tài: Người phụ nữ và gia đình Việt
Nam hiện nay” trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ, NXB
khoa học và xã hội 1991. Những tác phẩm nghiên cứu về phụ nữ và giới của
giáo sư Lê Thi để làm nên khóa luận này.
7.2.1.2. Thông tin sơ cấp
- Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát được sử dụng xuyên suốt quá trình nghiên cứu,
trong quá trình tiến hành thu thập thông tin bằng bảng hỏi, tôi tiến hành quan
10

10
sát để tìm hiểu rõ hơn về thực trạng phân công lao động theo giới trên địa bàn,
từ đó tìm ra nguyên nhân và những ảnh hưởng đến sự phân công lao động theo
giới trong mỗi gia đình, bên cạnh đó còn quan sát được thái độ của người dân
về vấn đề này.
Thông qua sử dụng tri giác trực tiếp, sử dụng những ghi chép mà tôi thu
được những vấn đề xoay quanh đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp phỏng vấn sâu
Đi liền với phương pháp quan sát tôi tiến hành triệt để phương pháp phỏng
vấn sâu. Tôi tiến hành phỏng vấn sâu 5 hộ gia đình (5 nữ và 5 nam), đây là
phương pháp hiệu quả nhất để tôi có thể thu thập thêm nhiều thông tin sơ cấp,
phục vụ cho đề tài nghiên cứu, trong quá trình phỏng vấn những thông tin cụ
thể, chi tiết được chia sẻ bởi người dân ở đây. Qua những quan điểm, suy nghĩ
của người dân về phân công lao động theo giới, giúp tôi thấy được có hay
không còn tồn tại những hủ tục, suy nghĩ tiêu cực của người dân về vấn đề này.
Bên cạnh đó qua phương pháp này mọi thông tin thu thập được từ các phương
pháp khác được kiểm chứng một cách chính xác nhất.
- Phương pháp lắng nghe
Trong quá trình quan sát và phỏng vấn sâu tôi vận dụng phương pháp quan
sát. Tôi lắng nghe có hiệu quả những gì người dân ở đây bày tỏ, lắng nghe
người dân chia sẻ suy nghĩ của mình về vấn đề phân công lao động giữa phụ nữ
và nam giới trong các công việc gia đình, bên cạnh đó còn lắng nghe những
chia sẻ của những người phụ nữ khi họ nhận thấy mình là những người phụ nữ
vẫn đang còn bị những hủ tục lạc hậu kìm kẹp.
- Phương pháp sử dụng biểu mẫu
Tiến hành phân tích những thông tin định tính và thông tin định lượng qua
sử dụng công cụ phân tích biểu mẫu. Công cụ này được tiến hành với một
nhóm nữ gồm 8 thành viên. Mục đích của công cụ phân tích này là lấy ý kiến
của các thành viên về vấn đề phân công lao động trong gia đình. Từ đó có thể
rút ra được có hay không sự bất bình đẳng trong phân công lao động giữa phụ

nữ và nam giới trong gia đình nông thôn hiện nay.
11
11
Sau khi tham gia thảo luận nhóm đã đưa ra những công việc chính trong
gia đình mà họ thường làm, như sau:
12
12
Bảng 1. Bảng phân tích phân chia các công việc giữa phụ nữ và nam giới
trong gia đình nông thôn hiện nay.
Xóm Đông Sơn, Xã Hùng Tiến. Ngày 23/4/2014 Nhóm: Nữ
Người thực hiện
Các công việc chính
Phụ nữ Nam giới Cả hai
1. Công việc nội trợ
Đi chợ
Nấu nướng
Giặt giũ
Dọn dẹp nhà cửa
2. Hoạt động kinh tế
Hoạt động sản xuất
Hoạt động kinh doanh
3. Chăm sóc và giáo dục con cái
Chăm sóc các thành viên trong gia
đình
Giáo dục con cái
4. Công việc dòng họ và cộng đồng
Quyền quyết định các việc lớn
trong gia đình
Đại diện tham gia các công việc
dòng họ

Đại diện tham gia các công việc
cộng đồng
7.2.1.3. Phương pháp xử lý thông tin
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu này tôi tiến hành thu thập hai loại thông
tin đó là thông tin thứ cấp và thông tin sơ cấp. Thông tin thứ cấp là những
thông tin thu thập được thông qua các báo cáo của Ủy ban nhân dân xã, Hội
phụ nữ xã, những đề tài nghiên cứu trước đây. Thông tin sơ cấp tôi thu thập
được thông qua quá trình thực tế trên địa bàn bằng cách phương pháp như:
phỏng vấn sâu, phương pháp quan sát, phương pháp phân tích biễu mẫu. Sau
13
13
khi thu thập được thông tin tôi tiến hành chọn lọc, phân tích lựa chọn những
thông tin hữu ích, phù hợp hỗ trợ cho việc hoàn thành khóa luận này.
7.2.1.4. Đóng góp của đề tài
Trong khuôn khổ khóa luận này đã làm nổi bật mối quan hệ giữa người
phụ nữ và nam giới thông qua sự phân công lao động theo giới, nhằm làm nổi
bật lên sự bình đẳng hay bất bình đẳng ở một xã thuần nông. Khóa luận đã sử
dụng những phương pháp đặc thù của nghành công tác xã hội, những lý thuyết
xã hội học về giới, xã hội học gia đình cũng như phân tích những khái niệm
liên quan để nhằm làm rõ thực trạng phân công lao động giữa phụ nữ và nam
giới trên địa bàn. Từ đó đưa ra những khuyến nghị nhằm làm thay đổi nhận
thức của người dân nơi đây khi họ còn có những suy nghĩ thiếu tích cực về vấn
đề bình đẳng và giải phóng phụ nữ. Ngoài ra, khóa luận đã vận dụng những lý
thuyết vào thực tiễn cụ thể, tại một địa bàn nghiên cứu cụ thể, kết nối lý thuyết
và thực tiễn nhằm kiểm chứng những lý thuyết đã đưa ra. Với những dẫn chứng
trên khóa luận này sẽ là một đề tài nghiên cứu có những đóng góp mới cho việc
kiểm chứng hệ thống lý thuyết xã hội học về giới, xã hội học gia đình và là tài
liệu quan trọng cho những khóa luận báo cáo chuyên nghành sau này.
Kết quả đạt được của nghiên cứu này sẽ cung cấp cơ sở khoa học cho các
nhà hoạch định chính sách đưa ra những chính sách phù hợp về quyền bình

đẳng giới, những nghiên cứu về giới và xây dựng quyền cho phụ nữ. Bên cạnh
đó đề tài còn làm nền tảng cho những báo cáo, những khóa luận sau này khi
nghiên cứu về giới và sự phân công lao động theo giới.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU, CÁC
KHÁI NIỆM VÀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ
NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về xã Hùng Tiến, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
14
14
1.1.1.1. Vị trí địa lý
Xã Hùng Tiến là 1 trong 24 xã của huyện Nam Đàn, là một xã đồng bằng
cách trung tâm huyện Nam Đàn khoảng 5km về phía Đông Bắc. Xã có phần
ranh giới giáp với các xã Nam Lĩnh, xã Xuân Hòa về phía Bắc. Phía nam giáp
xã Hồng Long và Xuân Lâm. Phía Đông giáp xã Kim Liên. Phía Tây giáp xã
Nam Lộc.
Xã Hùng Tiến tổng diện tích đất tự nhiên là 1032,84 ha. Dân số hơn 8920
nhân khẩu, được phân bố trên 19 xóm, là xã có 3 hợp tác xã dịch vụ sản xuất
nông nghiệp. Có một Đảng bộ gồm 23 chi bộ, với 250 Đảng viên. [1, tr.1]
Xã Hùng Tiến bao gồm 10 điểm dân cư chính sau:
Điểm dân cư số 1: xóm Đồng Văn
Điểm dân cư số 2: gồm xóm Đồng Trung, xóm Trường Cửu
Điểm dân cư số 3: gồm xóm Xuân Lâm, Bình Sơn, Phúc Chỉ
Điểm dân cư số 4: gồm xóm Tiền Tiến, Liên Sơn, Tăng Tiến
Điểm dân cư số 5: gồm xóm Trường Tiến, Trường Sơn
Điểm dân cư số 6: gồm xóm Đông Sơn, Trung Chính
Điểm dân cư số 7: gồm xóm Trang Thọ, Quyết Tiến
Điểm dân cư số 8: gồm xóm Đông Anh, Tân Tiến
Điểm dân cư số 9: gồm xóm Nam Sơn, Đông Lĩnh
Điểm dân cư số 10: gồm các hộ dân cư ven quốc lộ 46 – chợ Vạc. [1, tr.3]

1.1.1.2. Địa hình
Xã Hùng Tiến là xã có đặc điểm địa hình tương đối bằng phẳng, với chủ
yếu là diện tích đồng ruộng, trồng lúa và hoa màu. Xã Hùng Tiến nằm trong
lòng chảo của huyện nên địa hình thấp hơn các xã lân cận, mỗi khi mùa mưa lũ
trên địa bàn xã thường bị ngập úng do nước xung quanh chảy vào và nước nâng
lên từ dòng sông Lam, gây thiệt hại nặng nề cho sản xuất nông nghiệp.
1.1.1.3. Khí hậu
15
15
Xã Hùng Tiến nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng của dãy
Trường Sơn đến hoàn lưu khí quyển nên khí hậu ở đây có sự phân hóa và khác
biệt lớn trong khu vực. Khí hậu được phân chia thành 3 mùa rõ rệt: Mùa khô
nóng vào tháng 5 đến tháng 8; Mùa mưa bão từ tháng 8 đến tháng 11; mùa rét
từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Hướng gió chính ở đây là gió Tây Nam và
Đông Bắc.
- Nhiệt độ trung bình năm từ 23 – 24
o
C, tổng nhiệt năng 8.500 – 87.000
o
C.
- Độ ẩm không khí trong vùng đạt 85 đến 87%, mùa mưa lên đến 90%.
- Hằng năm có 2 mùa gió chính: gió mùa Đông Bắc và gió mùa Tây Nam.
- Mùa mưa bão chủ yếu tập trung từ tháng 8 đến tháng 10, mỗi năm chịu khoảng
1 – 3 cơn bão.
1.1.1.4. Thủy văn
Chảy qua xã Hùng Tiến có sông Lam và kênh sông Lam Trà nên nhìn
chung nguồn nước khá dồi dào, đủ để đáp ứng cho sản xuất và phục vụ cho đời
sống sinh hoạt của nhân dân.
Nhìn chung xã Hùng Tiến có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi để phát triển
kinh tế. Với quỹ đất canh tác lớn, xã mang hình ảnh của một vùng quê thuần

nông. Chạy về phía Bắc của xã là quốc lộ 46 và phía Tây Nam của xã là đường
ven Sông Lam với nhiều chức năng về giao thông thủy lợi và cảnh quan có thể
khôi phục và khai thác du lịch.
Bên cạnh những mặt tích cực, xã còn có những hạn chế nhất định như:
nằm trong vùng thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão lũ trong mùa mưa,
ngoài ra những khu vực lập kế hoạch còn chịu ảnh hưởng của các tai biến thiên
nhiên khác như gió Tây Nam khô nóng,… Vì vây, khi phát triển xây dựng cần
đầu tư khá lớn cho hệ thống hạ tầng kỹ thuật để đảm bảo bền vững.
1.1.1.5. Tài nguyên đất
Xã Hùng Tiến có diện tích đất tự nhiên là 1032.84 ha.
Bảng 2: Diện tích đất sử dụng trên địa bàn xã Hùng Tiến.
Loại đất sử dụng Diện tích (ha)
Đất thổ cư, đất ở <300
Đất nông nghiệp 749
Trong đó: 374,25
16
16
Đất trồng lúa
Đất chuyên màu 156,15
Đất vườn trồng cây lâu năm 146,06
Đất nuôi trồng thủy sản 72,91
Đất nông nghiệp khác 0,4
(Nguồn: báo cáo tổng kết năm 2010 - 2013 của xã Hùng Tiến)
1.1.1.6. Tài nguyên nước
Nguồn nước sinh hoạt và sản xuất trên địa bàn xã được cung cấp bởi nước
của dòng sông Lam và sông Lam Trà. Đây là nguồn nước mặt lớn nhất do
lượng nước của sông Lam quanh năm đầy nước. Phục vụ tốt cho sản xuất của
bà con nơi đây. Hơn nữa, đây là một vùng trũng nên nguồn nước ngầm lớn, đáp
ứng được nhu cầu nước sinh hoạt cho toàn xã.
1.1.2. Điều kiện kinh tế

Điều kiện phát triển kinh tế của xã Hùng Tiến được thể hiện qua tốc độ
tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Về tốc độ tăng trưởng kinh tế của xã:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế theo giá trị sản xuất bình quân trên đầu người
giai đoạn 2010 - 2013 là 9,4%. Năm 2013, tốc độ tăng trưởng đạt 10,6%.
Tổng giá trị sản xuất năm 2013 đạt 57095 triệu đồng đạt 65,7% .
Nhìn chung tốc độ tăng trưởng kinh tế của xã Hùng Tiến tăng đều vào các
năm, chất lượng cuộc sống trên địa bàn dần được cải thiện. Tuy nhiên kết quả
đạt được vẫn đang còn chậm.
- Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Biểu đồ 1: Biểu đồ thể hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã Hùng Tiến giai
đoạn 2010 - 2013.
Tỷ lệ: %
(Nguồn: Báo cáo tổng kết chi tiết của UBND xã Hùng Tiến, huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An, giai đoạn 2010 – 2013)
17
17
Nhìn vào biểu đồ chúng ta có thể thấy cơ cấu kinh tế ngành có sự chuyển
dịch đúng hướng, ngành nông lâm, thủy sản giảm dần, công nghiệp – xây dựng
và dịch vụ thương mại phát triển tăng dần trong những năm qua.
Thực trạng phát triển các nghành kinh tế
Thực trạng phát triển ngành kinh tế của xã Hùng Tiến được đánh giá qua
sự phát triển của ngành nông nghiệp, ngành công nghiệp, thủ công nghiệp và
dịch vụ.
- Đối với ngành nông nghiệp
Tổng diện tích gieo trồng cả năm là 1531 ha, đạt 95,7% kế hoạch, hệ số
vòng quay của đất đạt 2,6 lần.
Trong đó diện tích một số cây trồng như sau:
Cây lúa: 759,4 ha đạt năng suất bình quân 42,8 tạ/ha. Sản lượng 4119,2
tấn, so với kế hoạch đạt 90,8%.

Cây ngô: 315,4 ha đạt năng suất bình quân 42,8 tạ/ha. Sản lượng 1.350.7
tấn, so với kế hoạch đạt 97,9%.
Cây lạc: 84 ha đạt năng suất bình quân 5.56 tạ/ha. Sản lượng 147 tấn, so
với kế hoạch đạt 90.8%. [1,tr.5]
Ngành chăn nuôi
Tổng đàn trâu bò có: 1.669 con. So với kế hoạch đạt 79.5%.
Tổng đàn lợn có: 3.552 con. So với kế hoạch đạt 65.6%.
Tổng đàn gia cầm: 50.025 con. So với kế hoạch đạt 76.25%. [1,tr.5]
Ngành chăn nuôi của xã phát triển tương đối khá. Giá trị sản xuất ngành
chăn nuôi đạt hơn 8 tỷ đồng/ năm. Chiếm 36.6% tỷ trọng ngành nông nghiệp.
Trên địa bàn toàn xã có hơn 30 tiểu trang trại chăn nuôi kết hợp với gia súc, gia
cầm, cá. Đây cũng chính là ngành mang lại thu nhập chủ yếu của người dân sau
ngành trồng trọt.
- Ngành công nghiệp, thủ công nghiệp và dịch vụ.
Do đặc điểm nền kinh tế của xã chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, Hùng
Tiến không có làng nghề thủ công nghiệp nên Công nghiệp và Dịch vụ của xã
phát triển theo hướng đa ngành đa nghề; các ngành nghề Công nghiệp – Thủ
công nghiệp chủ yếu là sản xuất gạch nung, hàn xì gia công cửa sắt, mộc, xay
18
18
xát,…; ngành nghề dịch vụ chủ yếu là kinh doanh xây dựng, vận tải, vật liệu
xây dựng, vật tư nông nghiệp và buôn bán tạp hóa,…
Tổng toàn xã có 164 lao động tham gia sản xuất ngành nghề tiểu thủ công
nghiệp và 345 lao động hoạt động trong ngành dịch vụ thương mại.
Giá trị sản xuất ngành tiểu thủ công nghiệp năm 2010 là 4.83 tỷ đồng.
Giá trị sản xuất thương mại là 11.29 tỷ đồng. [1,tr.7]
Nền kinh tế của xã hiện nay vẫn chủ yếu là sản xuất nông nghiệp với tỷ
trọng chiếm khá cao, do vậy đời sống nhận dân còn gặp nhiều khó khăn, thu
nhập běnh quân đầu người còn thấp. Trong những năm tiếp theo xã cần đẩy
mạnh phát triển dịch vụ thương mại và tiểu thủ công nghiệp, là những ngành

sản xuất mang lại giá trị kinh tế cao.
1.1.3. Điều kiện văn hóa - xã hội
Xã Hùng Tiến có truyền thống lịch sử lâu đời. Các thế hệ kế tiếp nhau phát
huy truyền thống tốt đẹp, cần cù, thông minh sáng tạo xây dựng quê hương đất
nước giàu mạnh. Địa bàn xã đang đẩy mạnh phong trào xây dựng nông thôn
mới, nhân dân phấn khởi phấn đấu đạt 19 tiêu chí của chương trình nông thôn
mới, nhằm thay đổi diện mạo thôn xóm, phát triển kinh tế hộ gia đình, nâng cao
chất lượng cuộc sống.
Phong trào văn hóa, xã hội của xã phát triển mạng mẽ. Những ngày lễ xã
đều tổ chức những chương trình giao lưu văn nghệ, thể dục thể thao giữa các
thôn với nhau. Xã Hùng Tiến đều tham gia nhiệt tình những phong trào cấp
trên đề ra và đạt những kết quả cao.
Xã đã thực hiện thành công chương trình “Toàn Dân Đoàn Kết Xây Dựng
Đời Sống Văn Hóa”. Số gia đình đạt tiêu chuẩn văn hóa ngày càng tăng. Tiêu
chuẩn gia đình văn hóa là tiêu chí cơn bản để các gia đình phấn đấu.
Chương trình khuyến học của xã ngày càng mạnh, hằng năm đều có hàng
chục em học sinh thi đậu vào các trường đại học, cao đẳng. Toàn xã có 3 cấp
học: cấp mầm non, cấp tiểu học và trung học cơ sở. Tỷ lệ các cháu vào nhà trẻ
là 94% số trẻ trong độ tuổi. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS là 99,8%. Số học
sinh đậu vào các trường đại học là 68 em, cao đẳng 70 em. Trung học chuyên
nghiệp là 40 em (năm 1013). Hệ thống phòng học kiên cố hóa, đạt tiêu chuẩn
xanh – sạch – đẹp. Cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng cơ bản.
19
19
1.1.4. Điều kiện dân cư
Tổng số hộ toàn xã là 2.182 hộ với số nhân khẩu là 8594 người chiếm
5.71% dân số toàn huyện. Gồm 19 thôn, dân cư sống theo cụm, dân cư toàn xã
là dân tộc kinh. Cơ cấu dân số trẻ với 2094 người từ đủ 16 tuổi trở xuống và
6500 người từ 16 tuổi trở lên. Nguồn lao động dồi dào, dân số trong độ tuổi lao
động là 5417 người. Dân cư xã Hùng Tiến được hình thành trong quá trình phát

triển tự nhiên mang dáng dấp dân cư nông nghiệp. Đến nay xã đã hình thành
được 10 điểm dân cư, phân bố chủ yếu cư trú theo quốc lộ 46, các trục giao
thông liên xã và đường ven sông Lam. Trên địa bàn xã không có những trại lẻ
hay hộ lẻ nằm riêng rẽ mà quy tập lại thành những cụm dân cư tập trung, thuận
lợi cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp và kinh doanh dịch vụ. Nhà ở khu vực
dân cư được đảm bảo, có khoảng 95% nhà ở kiên cố, bán kiên cố, còn lại có
5% nhà tạm, nhà xuống cấp cần tu sửa, nâng cấp hoặc xây dựng lại. Xã Hùng
Tiến là một xã tương đối đông dân cư nhưng chủ yếu là dân nông thôn, nghành
nghề chính là nông nghiệp, một bộ phận dân cư làm kinh doanh và các dịch vụ
thương mại.
1.2. Các khái niệm liên quan
1.2.1. Khái niệm giới
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, “giới” là một thuật ngữ để chỉ vai
trò xã hội, hành vi ứng cử xã hội và những kỳ vọng liên quan đến nam và nữ.
Phụ nữ và nam giới khác nhau về mặt sinh học – nhưng mọi văn hóa đều lý giải
và qui định chi tiết những khác biệt sinh học vốn có đó thành một hệ thống
những kỳ vọng xã hội về những hành vi và hoạt động được coi là thích hợp.
Tuy những kỳ vọng trong các xã hội khác nhau thì không giống nhau nhưng
vẫn có điểm tương đồng nổi bật.
Theo Xã hội học về giới và phát triển thì giới là khái niệm dùng để chỉ
những đặc trưng xã hội của nam và nữ. Các đặc điểm của giới là:
- Một phần vẫn còn bị quy định bởi các yếu tố, tiền đề sinh học của giới tính.
- Không mang tính di truyền, bẩm sinh mà mang tính tập nhiễm. Tức là được
quy định bởi điều kiện sống của cá nhân và xã hội, được hình thành và phát
triển thông qua hàng loạt các cơ chế bắt chước, học tập,…
20
20
- Có tính biến thiên, tức là có thể thay thế đổi được dưới tác động của các yếu tố
bên trong và bên ngoài, đặc biệt là điều kiện xã hội.
- Mang tính đa dạng, phong phú cả về nội dung và hình thức và tính chất.

Khái niệm giới chỉ mối quan hệ và tương tác giữa địa vị xã hội của phụ nữ
và nam giới trong bối cảnh xã hội cụ thể. Khi nói đến giới là nói đến các điều
kiện và yếu tố xã hội quy định vị trí và hành vi xã hội của mỗi giới trong một
hoàn cảnh xã hội cụ thể. Khác với giới tính, giới là sản phẩm của xã hội, do học
hỏi mà có. Giới thay đổi theo thời gian qua các giai đoạn, thang giá trị thay đổi,
mô hình ứng xử giới thay đổi. Sự khác biệt về giới nam và nữ là khác nhau tùy
thuộc vào mỗi quốc gia dân tộc và các điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội –
văn hóa cụ thể. Vì hệ giá trị ở mỗi quốc gia là khác nhau nên nó có tác động
đến sự học hỏi giữa con gái và con trai.
1.2.2. Khái niệm bình đẳng giới
“Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau; được tạo
điều kiện và cơ hội để phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng
đồng, của gia đình và thụ hưởng của sự phát triển đó”. [11, tr.2]
Bình đẳng giới là môi trường cho cả nữ và nam giới được hưởng vị trí
ngang nhau, họ có cơ hội bình đẳng để phát triển đầy đủ tiềm năng của mình
nhằm cống hiến cho sự phát triển quốc gia và được hưởng lợi từ kết quả đó.
Việc đối xử như nhau, cơ hội phát triển như nhau nhưng không đem lại kết quả
như nhau giữa phụ nữ và nam giới. Vì vậy, bình đẳng giới cần được hiểu là sự
đối xử ngang quyền giữa phụ nữ và nam giới có những đặc điểm giống nhau và
khác nhau của mỗi giới, và được điều chỉnh bởi các chính sách đối với từng
giới một cách hợp lý. Nếu như cả phụ nữ và nam giới có điều kiện bình đẳng để
phát huy hết khả năng và thực hiện các mong muốn của mình. Cả hai giới có
điều kiện bình đẳng tham gia đóng góp và hưởng thụ từ các nguồn lực của xã
hội và quá trình phát triển. Mỗi giới đều được hưởng tự do và chất lượng cuộc
sống bình đẳng, nếu những tiêu chí này không được xác lập có nghĩa là trong
xã hội đang tồn tại bất bình đẳng.
Bình đẳng giới theo yêu cầu của xã hội hiện nay còn phải gắn với quan
điểm phát triển, sự tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Nó đòi hỏi một sự
21
21

chuyển biến đồng bộ của tất cả thành phần, mọi lứa tuổi, nhưng trước hết đối
với nam giới trong hàng loạt vấn đề: từ nhận thức đến thái độ ứng xử xã hội và
hành vi cụ thể trong mối quan hệ với phái nữ.
Muốn đạt được bình đẳng giới thì một trong những điều kiện quan trong là
nam và nữ được bình đẳng với nhau trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, trong đó lĩnh vực kinh tế, lao động và việc làm giữ vai trò cốt yếu.
1.2.3. Khái niệm gia đình
“Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các
thành viên của nó gắn bó với nhau bởi mối quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết
thống hoặc quan hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách nhiệm đạo
đức với nhau nhằm đáp ứng nhu cầu riêng của các thành viên cũng như để
thực hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người.” [13, tr.310]
1.2.4. Khái niệm lao động
“Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật
chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và
hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước.” [3. Tr.1]
C.Mác chỉ ra rằng: Lao động là một điều kiện tồn tại của con người không
phụ thuộc vào bất kỳ hình thái xã hội nào, là một sự tất yếu tự nhiên vĩnh cửu
làm môi giới cho sự trao đổi chất giữa con người với tự nhiên, tức là cho bản
thân sự sống của con người. Con người phải vận dụng sức lực tiềm tàng trong
cơ thể mình, sử dụng công cụ lao động để tác động vào tự nhiên một cách có
mục đích, ý thức nhằm biến đổi những vật thể của tự nhiên cho phù hợp với
nhu cầu của mình. Vì vậy, trong bất cứ nền sản xuất nào, kể cả nền sản xuất
hiện đại, lao động bao giờ cũng là yếu tố cơ bản, điều kiện không thể thiếu của
sự tồn tại và phát triển của đời sống xã hội loài người, là sự tất yếu vĩnh viễn,
một điều kiện chung của sự trao đổi chất giữa con người với tự nhiên.
Trong những điều kiện lịch sử nhất định và cho đến nay lao động là
phương tiện để sinh sống, là nguồn gốc chân chính của thu nhập đảm bảo sự
tồn tại và phát triển của mỗi thành viên và xã hội loài người. Do vậy, ở các
22

22
quốc gia cũng như ở nước ta, vấn đề lao động luôn luôn được coi trọng trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hoạt động lao động sản xuất là hoạt động gắn liền với con người và xã hội
loài người. Từ xa xưa con người đã biết làm lụng, tìm kiếm thế giới xung
quanh những sản phẩm để phục vụ nhu cầu cho bản thân měnh. Khi xă hội phát
triển, những hoạt động sản xuất nói chung ấy được phân chia thành những
ngành nghề cụ thể khác nhau. Mỗi người tham gia lao động sản xuất với một
việc làm cụ thể nhằm tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân, gia đình và đóng góp
cho xã hội. Từ đó cho thấy lao động có sự liên quan chặt chẽ với vấn đề việc
làm.
1.2.5. Khái niệm phân công lao động theo giới
Theo quan niệm Xã hội học do August Comte khởi xướng cho rằng: Phân
công lao động là sự chuyên môn hóa nhiệm vụ lao động nhằm thực hiện chức
năng ổn định và phát triển xã hội, cùng có mối quan hệ gắn bó giữa các cá nhân
và trật tự xã hội. Phân công lao động không đơn thuần là sự chuyên môn hóa
lao động mà thực chất là quá trình gắn liền với sự phân hóa xã hội, phân tầng
xã hội và bất bình đẳng xã hội.
Phân công lao động trong gia đình là sự đảm nhiệm các công việc gia đình
của vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình nhằm thực hiện những
chức năng của gia đình trong chăm sóc sức khỏe, giáo dục,… đảm bảo cho sự
tồn tại và phát triển ổn định của gia đình. Phân công lao động nam – nữ là yếu
tố hình thành vai trò giới trong gia đình và xã hội. Phụ nữ có vai trò biểu đạt
tình cảm, nam giới có vai trò nhiệm vụ tạo ra thu nhập. Theo thuyết chức năng,
lao động của phụ nữ còn có chức năng tình cảm và lao động của nam giới có
chức năng tư duy và hành động giải quyết nhiệm vụ. Điều quan trọng là sự
phân công lao động theo giới không đơn thuần dựa vào sự khác biệt về các đặc
điểm sinh học giữa nam và nữ mà luôn gắn liền với thói quen, suy nghĩ và quan
điểm vị trí, vai trò của người phụ nữ trong xã hội.
Sự khác biệt giữa nam và nữ dẫn đến sự phân công lao động nam – nữ

trong xã hội và gia đình. Phân công lao động theo giới như Mác và Ănghen đã
23
23
nhận xét trong tác phẩm “Nguồn gốc gia đình chế độ tư hữu và Nhà nước”: Sự
phân công lao động là hoàn toàn có tính chất tự nhiên, chỉ tồn tại giữa nam và
nữ, lúc đầu chỉ có sự phân công lao động chuyển thành sự phân chia phạm vi
hoạt động theo giới một cách tự nhiên và đã dẫn đến sự sở hữu có tính đặc
trưng theo giới, mỗi giới làm chủ trong lĩnh vực hoạt động riêng của mình.
Trong xã hội, sự phân công lao động theo giới biểu hiện qua sự phân chia khu
vực lao động nghề nghiệp. Mặt khác, sự phân công lao động theo giới còn thể
hiện trong cách tổ chức đời sống gia đình.
Hơn nữa, phân công lao động theo giới không đơn thuần là dựa vào sự
khác biệt về mặt sinh học giữa nam và nữ mà luôn gắn liền với thói quen, suy
nghĩ và quan niệm về vị trí, vai trò của người phụ nữ trong xã hội nhằm bao
biện cho tư tưởng “trọng nam khinh nữ”.
1.2.6. Khái niệm vai trò giới
Vai trò giới là khái niệm được sử dụng như là cách thức tổ chức hành vi
của con người trong một ý nghĩa tổng thể. Nó ứng xử như một cơ chế để hiểu
được những cách thức mà ở đó những trông đợi của xã hội, những hành động
được phản ánh, những khuôn mẫu chung về những hành vi được trông đợi.
Trong bối cảnh về sự hiểu biết các quan hệ giới sẽ dẫn tới sự xác định các vai
trò của phụ nữ và nam giới. Những vai trò này hướng dẫn các hành vi của cả
hai giới được xem như là phù hợp với những mong đợi của xã hội. Khi nói đến
giới là nói đến các điều kiện và yếu tố xã hội quy định vị trí và hành vi xã hội
của mỗi giới trong một hoàn cảnh cụ thể. Chính vì được quy định bởi yếu tố xã
hội cho nên vị trí, vai trò và hành vi của giới không phải là bất biến mà luôn
thay đổi khi các điều kiện quy định thay đổi.
1.3. Vai trò của người phụ nữ và nam giới trong gia đình nông thôn hiện nay
1.3.1. Vai trò của người phụ nữ
Từ bao đời nay, vai trò của người phụ nữ trong gia đình vô cùng quan

trọng và không thể thay thế được, người phụ nữ có tác động đến hầu hết các
thành viên còn lại trong gia đình và trong các lĩnh vực kinh tế của gia đình. Vai
trò ấy càng quan trong hơn đối với những gia đình nông thôn, cuộc sống đang
còn nhiều khó khăn.
24
24
Phụ nữ nông thôn là những người phụ nữ sinh sống và làm việc ở nông
thôn. Trong cơ cấu dân số, gần 80% dân tộc Việt Nam sống ở nông thôn, phụ
nữ nông thôn là một cộng đồng người phong phú và đa dạng gồm những dân
tộc, tôn giáo, lứa tuổi, ngành nghề, trình độ học vấn khác nhau và sinh sống ở
những vùng nông thôn khác nhau. Họ hoạt động ở mọi ngành nghề, kể cả
những ngành nghề độc hại và nặng nhọc. Theo thống kê, lao động nữ nông
thôn chiếm 58,02% lực lượng lao động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp,
và họ hiện nay đang sản xuất ra 60% sản phẩm nông nghiệp. Phụ nữ nông thôn
Việt Nam là một trong hai chủ thể kinh tế quan trọng mang lại thu nhập cho hộ
gia đình. Tuy nhiên, nằm trong những vai trò chung của người phụ nữ thì người
phụ nữ nông thôn cũng có những vai trò, vị trí nhất định trong gia đình.
Người phụ nữ là người chăm sóc con cái trong gia đình. Những đứa con từ
khi sinh ra đến khi trưởng thành lập gia đình đều có bàn tay chăm sóc của mẹ.
Người mẹ dành hết yêu thương cho con chỉ mong con mau lớn nên người, vì
thế con cái dành thời gian nhiều cho mẹ hơn là người cha. Lúc còn nhỏ chúng
được mẹ cho bú, tắm giặt, cho ăn dặm, chăm sóc chúng khi chúng đau ôm, lớn
lên người mẹ vừa là người giáo dục chúng, vừa như là người bạn lắng nghe
chúng nói. Qua năm tháng chúng lĩnh hội hết tất cả những đức tính từ người
mẹ, hình thành nên nhân cách của trẻ. Ngoài vai trò chăm sóc, giáo dục con cái
thì người phụ nữ còn đóng vai trò lớn trong việc chăm sóc các thành viên còn
lại trong gia đình. Nếu trong gia đình có người già, người phụ nữ hằng ngày
vẫn chăm bón, phụng dưỡng chạ mẹ, và riêng người chồng cũng cần có sự
chăm sóc của người vợ, từ cơm nước hằng ngày cho đến những lúc ốm đau.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng vai trò của người phụ nữ trong việc chăm

sóc con cái và các thành viên trong gia đình là vô cùng quan trọng, đặc biệt là
đối với gia đình nông thôn thì chúng ta có thể thấy được vai trò người phụ nữ
càng rõ nét hơn. Người phụ nữ nông thôn cần phải bỏ ra rất nhiều thời gian cho
những công việc trên, bởi vì họ nhận được rất ít sự trợ giúp từ người khác. Như
các gia đình ở thành phố thì có thể thuê bảo mẫu, hay người giúp việc làm thay
những công việc này, nhưng đối với phụ nữ nông thôn thì không, thứ nhất là do
kinh tế không đủ để có thể làm việc ấy, lý do thứ hai là họ không được phép
làm như vậy, làm vậy thì họ đã vứt bỏ thiên chức của một người vợ, người mẹ
25
25

×