Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VÀ ĐÁNH GIÁ SỰ ĐÓNG GÓP CỦA HTTC VÀO SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (694.31 KB, 31 trang )

HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VÀ SỰ PHÁT TRIỂN
Chuyên đề:
HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
VÀ ĐÁNH GIÁ SỰ ĐÓNG GÓP CỦA HTTC
VÀO SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM
Nhóm 2:
1. Phạm Thị Thanh Duyên
2. Phạm Thị Thu Hà ©
3. Vũ Thị Hằng
4. Vũ Thị Thu Hằng
5. Nguyễn Thị Hảo
6. Đinh Thị Thu Hiền
7. Nguyễn Phương Hoa
8. Vũ Thị Hợp
9. Nguyễn Thanh Hương
10. Nguyễn Đình Tăng
Phần 1: TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG TÀI CHÍNH :
1.1 Định nghĩa về Hệ Thống Tài Chính (HTTT) :
Hệ thống tài chính là tổng thể của các bộ phận khác nhau trong một cơ cấu tài chính, mà ở đó các
quan hệ tài chính hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau nhưng có mối liên hệ tác động lẫn nhau
theo những quy luật nhất định.
1.2 Cấu trúc :
HTTT bao gồm các tụ điểm vốn và bộ phận dẫn vốn, hoạt động nhờ các công cụ tài chính và
cơ sở hạ tầng tài chính.
1.2.1. Các tụ điểm vốn
-Tài chính Doanh nghiệp: Là nơi nguồn tài chính xuất hiện và cũng là nơi thu hút trở lại
quan trọng các nguồn tài chính quan trọng trong nền kinh tế. Nó được gọi là những tế bào có khả
năng tái tạo nguồn tài chính cho xã hội.
-Ngân sách nhà nước: có vai trò to lớn trong việc điều tiết vĩ mô trong nền kinh tế xã hội.
Do đó NSNN có các nguồn vốn được tập trung từ các tụ điểm vốn thông qua các chính sách thu
thích hợp (chủ yếu là từ thuế). Việc cấp phát NSNN cho các mục đích khác nhau sẽ làm tăng


nguồn vốn ở các tụ điểm nhận vốn làm nảy sinh mối quan hệ kinh tế giữa nhà nước với các tổ
chức kinh tế xã hội khác.
-Tài chính Dân cư và Tổ chức xã hội: có tổng quy mô nguồn vốn tiềm tàng rất lớn, phân bố
rải rác, không đồng đều trong hàng triệu tế bào nhỏ của nền kinh tế là các gia đình và các tổ chức
xã hội.
-TC Đối ngoại: Hệ thống TC là hệ thống mở với những quan hệ TC đối ngọai của xu hướng
quốc tế hóa. Đây là bộ phận có nguồn vốn dồi dào, không tập trung vào một tụ điểm nhất định
mà phân tán, đan xen vào các mối quan hệ TC khác. Nó được coi là 1 bộ phận có tính chất tương
đối độc lập của hệ thống TC.
1.2.2. Bộ phận dẫn vốn :bao gồm thị trường Tài chính và các tổ chức Tài chính trung gian
Thị trường tài chính
và Các tổ chức tài
chính trung gian
Tài chính
Doanh nghiệp
Tài chính
Doanh nghiệp
Ngân sách
nhà nước
Ngân sách
nhà nước
TC Gia đình &
Tổ chức XH
TC Gia đình &
Tổ chức XH
Tài chính đối
ngoại
Tài chính đối
ngoại
a. Thị trường tài chính (TTTC): Là kênh dẫn vốn từ người cho vay đến người đi vay thông

qua họat động Tài chính trực tiếp.Chính phủ điều chỉnh TTTC thông qua cơ sở hạ tầng tài chính
và việc kiểm soát các công cụ tài chính.
Có 3 cách phân chia TTTC:
-Thị trường Nợ và Thị trường Vốn cổ phần
-Thị trường cấp 1 và Thị trường cấp 2
-Thị trường tiền tệ và Thị trường vốn
Trong bài này sẽ nghiên cứu TTTC theo 2 khu vực :
 Thị trưòng tiền tệ: thị trường tiền tệ hoạt động chủ yếu là cho vay vốn ngắn hạn
 thị trưòng vốn: Cho vay vốn dài hạn

b. Các tổ chức tài chính trung gian:
Các trung gian tài chính hiện nay ở Việt Nam được chia thành :
b.1-Bảo hiểm: Bao gồm:
BH kinh doanh : BH tài sản, BH con người và các nghiệp vụ BH khác
BH xã hội: BH y tế và BHXH.
Vì các nguồn tài chính trong các quĩ BH luôn có khả năng nhàn rỗi, nên các quĩ BH có thể
tham gia vào quá trình huy động vốn của nền kinh tế .
b.2- Tín dụng Bao gồm:
- NHTM
- Các tổ chức tín dụng phi ngân hàng (CTY tài chính, cho thuê tài chính )
- Các tổ chức hợp tác (quĩ tín dụng, quỹ đầu tư…)
Các tổ chức tài chính trung gian làm cầu nối gián tiếp giữa những người có khả năng cung
ứng tài chính và những người có nhu cầu sử dụng tài chính. Nó đáp ứng được những nhu cầu mà
TTTC không giải quyết được hoặc giải quyết không có hiệu quả

1.2.3. Công cụ tài chính:
Các công cụ tài chính bao gồm các công cụ vay nợ, công cụ mua bán và được mua bán
trong hoạt động TC. Các công cụ của thị trường tiền tệ do có kì hạn thanh toán ngắn nên chịu
mức giao động giá tối thiểu và do đó là loại đầu tư ít chịu rủi ro nhất. Một số loại chủ yếu là: tín
phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, thương phiếu, hối phiếu, giấy chứng nhận tiền gửi, hợp đồng

mua lại, tiền mặt…
Các công cụ của thị trường vốn là công cụ nợ và công cụ cổ phần với kì hạn thanh toán trên
một năm nên dao động giá rộng hơn nhiều so với công cụ tiền tệ và được coi là những đầu tư
thực sự có rủi ro. Một số loại công cụ của thị trường vốn chủ yếu: cổ phiếu, vay thế chấp, trái
khoán, chứng khoán, vay thương mại và vay tiêu dùng…
Một loại công cụ mới được hình thành và đang dần trở nên phổ biến là công cụ tài chính phái
sinh: như công cụ Hợp đồng tương lai, Quyền chọn, Hoán đổi Swap…
1.2.4. Cơ sở hạ tầng Tài Chính: Bao gồm : hệ thống pháp luật, nghị định, thông tư, cơ
chế… của chính phủ dùng để điều chỉnh hoạt động của hệ thống Tài Chính trong một thời kì
tương đối lâu dài. Những thay đổi mang tính chất bước ngoặt trong hệ thống tài chính hầu
như đều bắt nguồn từ những thay đổi lớn của cơ sở hạ tầng tài chính. Nó được định hướng
và khái quát trong chính sách TC quốc gia. Cấu trúc, mục tiêu, đặc điểm, phương tiện thực hiện
và phạm vi tác động của mỗi chính sách TC quốc gia phụ thuộc vào điều kiện, tình hình của từng
nước.
1.3 Hoạt động và Vai trò của Hệ Thống Tài chính:
1.3.1. Hoạt động của HTTC:
Nguồn vốn nằm tiềm tàng tại các tụ điểm vốn. Các bộ phận dẫn vốn thực hiện chức năng
truyền dẫn vốn trong hệ thống Tài chính, đưa vốn từ nơi có đến nơi cần, làm tái tạo nguồn vốn.
Hệ thống Tài chính gồm vô số các thành phần kinh tế có mối liên hệ ràng buộc, hợp thành mạng
lưới đan xen và vận động theo những nguyên tắc, quy luật nhất định dưới sự giám sát của chính
phủ.
1.3.2. Vai trò của hệ thống tài chính:
- Thứ nhất, cung cấp thông tin và tác động đến việc phân bổ vốn đầu tư.
Các trung gian tài chính như ngân hàng, công ty môi giới chứng khoán, quỹ đầu tư có thể cung
cấp các thông tin và cơ hội đầu tư tốt hơn so với các chủ thể cá nhân trong nền kinh tế, do đó các
cá nhân có thể truy nhập các thông tin từ các trung gian tài chính và lựa chọn được các cơ hội
đầu tư có hiệu quả. Như vậy, với khả năng cung cấp các thông tin và cơ hội đầu tư tốt hơn,
các trung gian tài chính đã làm cho việc phân bổ và sử dụng vốn trong nền kinh tế trở nên
hiệu quả, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Thứ hai, giám sát và tác động đến sự điều hành của các hãng:

Ở mức độ nào đó, các cổ đông và các tổ chức tín dụng giám sát và thuyết phục những người
điều hành của các hãng tối đa hoá lợi nhuận, điều này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng nguồn lực của các hãng, tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh và qua
đó tác động đến tăng trưởng kinh tế.
- Thứ ba, giảm thiểu và phân phối rủi ro.
Các giao dịch tài chính luôn luôn ẩn chứa nhiều rủi ro, như rủi ro thanh khoản,rủi ro lãi suất,rủi
ro tỷ giá….Song chúng ta đều phải chấp nhận những rủi ro rất nhạy cảm và phổ biến đó.Nhờ có
Hệ thống tài chính, các trung gian tài chính và các thị trường Tài chính tạo ra các phương
tiện và cách thức cho việc buôn bán, tập trung và đa dạng hoá các rủi ro. Đồng thời các thị
trường vốn cũng góp phần chuyển các công cụ tài chính ngắn hạn thành các khoản đầu tư
dài hạn. Như vậy,rủi ro được chuyển đổi và phân phối giữa một số luợng lớn những người
tiêt kiệm và đầu tư dưới bằng nhiều hình thức và bằng nhiều công cụ tài chính. Cũng bằng cách
này, hệ thống tài chính càng làm thay đổi việc phân bố nguồn lực và tỷ lệ tiết kiệm của nền kinh
tế qua đó tác động đến tăng trưởng kinh tế dài hạn.
- Thứ tư, huy động tiết kiệm, làm tăng dự trữ và khả năng đầu tư của nền kinh tế.
Hệ thống tài chính thu hút được tiết kiệm tư nhân có hiệu quả có khả năng làm tăng
tiết kiệm, tập trung các nguồn vốn và làm bùng nổ tính kinh tế của quy mô, giúp nâng cao
hiệu quả chung cho lao động, cải thiện mức sống và cơ hội đầu tư của người dân ngay cả khi khả
năng thực tế của họ chưa cho phép.
Theo thống kê, chỉ riêng hệ thống Ngân hàng đã huy động 1 lượng vốn lớn cho nền kinh tế,
ước tính hàng năm chiếm khoảng 16-18% GDP, gần 50% vốn đầu tư toàn xã hội,
Tổng số vốn giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2004 đạt gần 27.000 tỷ đồng,
bằng 4% GDP. Trong đó, giá trị cổ phiếu bằng 3.195 tỷ đồng, chiếm 12% tổng giá trị thị trường,
bằng 0,5% GDP.
- Thứ năm, làm cho các giao dịch trong nền kinh tế trở nên dễ dàng.
Càng chuyên môn hoá trong sản xuất kinh doanh sẽ càng cần nhiều giao dịch, tuy nhiên các chi
phí giao dịch thường cao. Hoạt động của hệ thống tài chính sẽ giúp giảm thiểu chi phí mòn
giầy. Nếu các quy định và thoả thuận trong lĩnh vực tài chính làm cho các chi phí giao dịch
trở nên thấp hơn thì sẽ khuyến khích việc chuyên môn hoá và do vậy sẽ nâng cao năng suất
của sản xuất kinh doanh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Phần II: MỘT SỐ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
2.1 Hệ thống tài chính và tăng trưởng kinh tế:
Hệ thống tài chính hoạt động hiệu quả dẫn tới phát triển tài chính theo chiều sâu và
sàng lọc các dự án có hiệu quả, từ đó tăng tiết kiệm và đầu tư , tăng năng suất > tăng
trưởng KTế.
Phát triển tài chính dẫn tới tăng năng suất : Qua quá trình thẩm định, giám sát và sàng lọc,
lựa chọn các đối tượng có nhu cầu sử dụng vốn, các DN kinh doanh hiệu quả sẽ thu hút đc
vốn và phát triển hơn, các DN kém hiệu quả sẽ không thu hút đc nguồn vốn và thất bại.
Điều này làm nâng cao hiệu quả phân bổ vốn, dẫn tới thúc đẩy việc tăng năng suất của các đối
tượng cần vay vốn và cả bản thân các tổ chức trung gian cũng như các thị trường tài chính.
Phát triển tài chính và giảm nghèo:
Phát triển tài chính có thể cải thiện điều kiện sống của người nghèo ngay cả khi họ
chưa có đủ điều kiện,thông qua chính sách hỗ trợ, trợ cấp mà thực hiên vai trò hỗ trợ tăng
trưởng.⇒ Tăng trưởng kinh tế do tài chính thúc đẩy có lợi cho người nghèo
Các thước đo về mức độ phát triển tài chính có tương quan đồng biến (mặc dù yếu)
với tỷ phần của nhóm 20% nghèo nhất trong phân phối thu nhập.
2.2 Một số chỉ tiêu đánh giá
Sự đóng góp cùa HTTC VN đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế được thể hiện
thông qua các chỉ tiêu: tăng trưởng GDP, hệ số ICOR, tỷ lệ lạm phát, tăng trưởng tín dụng và độ
sâu tài chính.
2.2.1 Tốc độ tăng trưởng GDP
GDP bình quân trong giai đoạn 2006-2010 chỉ đạt 7%, thấp hơn khá nhiều so với mục tiêu 7,5-
8% mà kế hoạch đề ra.
 Giai đoạn 2006 – 2007: GDP tăng khá cao lần lượt đạt 8,17% và 8,48% trong hai
năm. Đặc biệt mức tăng trưởng 8,48% năm 2007 là mức tăng cao nhất từ khủng hoảng tài chính
châu Á 1997. Đây được đánh giá là giai đoạn tăng trưởng nóng của nền kinh tế Việt Nam, nhưng
cũng đặt ra cho chính phủ thách thức làm thế nào để giữ cho nền kinh tế không tăng trưởng quá
nóng vì sẽ phải đối mặt với hệ lụy đẩy lạm phát lên cao.
Nguyên nhân nổi bật khiến mức tăng GDP giai đoạn này tăng cao vậy là sự kiện Việt Nam
trở thành thành viên thứ 150 của WTO cùng với việc Mỹ thông qua Quy chế thương mại

bình thường vĩnh viễn với Việt Nam. Nhờ gia nhập WTO, giúp hình thành môi trường kinh
doanh lành mạnh, góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Gia nhập WTO tác động lớn đến lĩnh vực xuất nhập khẩu, dịch vụ và đầu tư. Năm 2007,
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng 21,9% so với năm 2006 và diện mặt hàng xuất khẩu
cũng đa dạng hơn. Hàng dệt may và giày dép trở thành ngành sản xuất có kim ngạch xuất khẩu
lớn nhất. Ngoài ra, việc Hoa Kỳ xóa bỏ hạn ngạch đối hàng xuất khẩu dệt may của Việt Nam đã
làm tăng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này từ 5,83 tỷ USD năm 2006 lên 7,75 tỷ USD năm
2007 và là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao thứ 2 sau dầu thô. Năm 2007, xuất khẩu một số
mặt hàng nói riêng và xuất khẩu không tính dầu thô nói chung có tốc độ tăng trưởng cao hơn
năm 2006 nhờ tiếp cận thị trường thuận lợi hơn sau khi Việt Nam trở thành thành viên WTO.
Dòng FDI tăng đột biến trong hai năm 2006, 2007 phản ánh niềm tin của các nhà đầu tư
nước ngoài vào tiến trình đổi mới cũng như vào triển vọng và tiềm năng phát triền kinh tế
của Việt Nam sau khi gia nhập WTO. Cam kết về cải cách kinh tế trong nước trong Nghị định
thư gia nhập đã góp phần tạo nên làn sóng đầu tư mới vào Việt Nam. Tỷ trọng khu vực doanh
nghiệp có vốn FDI trong tổng kim ngạch xuất khẩu (không tính xuất khẩu dầu thô) đã tăng từ
22,2% năm 2000 lên 36,9% năm 2006 và 39,7% năm 2007. Riêng trong tổng vốn FDI đăng ký
mới năm 2007, nhóm ngành công nghiệp- xây dựng chiếm khoảng 9,0 tỷ USD (42,25%) và
nhóm ngành dịch vụ khoảng 8,5 tỷ USD (39,9%). Mức tăng trưởng đột biến 8,5% năm 2007 có
sự đóng góp không nhỏ của các kết quả tích cực trong lĩnh vự thương mại và đầu tư này.
 Giai đoạn 2008-2010: năm 2007 kinh tế Việt Nam tăng trưởng nóng là vậy, tuy
nhiên do tác động của lạm phát và cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu sau đó, GDP chỉ đạt 6,23%
và 5,32% và 6,78% lần lượt trong 3 năm 2008, 2009 và 2010.
Trước tình hình lạm phát tăng quá cao năm 2007, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn…
chỉnh phủ đã thực hiện các chính sách để chuyển mục tiêu ưu tiên tăng trưởng cao sang ưu
tiên kiềm chế lạm phát như: chính sách tiền tệ thắt chặt, chính sách tài khóa thắt chặt…
cùng với những biện pháp hỗ trợ tăng trưởng GDP như: thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó
khăn cho kinh doanh, thực hiện các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu, thực hiện tốt các giải pháp
đồng bộ khác như hoàn thiện thể chế, tăng cường quản lý và áp dụng các biện pháp thích hợp để
phát triển lành mạnh thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản.
Việc thực hiện một loạt các biện pháp trên đã đạt được mục tiêu là kiềm chế lạm phát trong giai

đoạn này hơn so với năm 2007. Tuy nhiên cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ
Mỹ, , đã tác động đến hầu hết các nền kinh tế trên thế giới trong đó có Việt Nam. Hơn nữa
trong giai đoạn này Việt Nam còn chịu tác động của lạm phát dẫn đến việc vừa phải kiềm
chế lạm phát vừa phải chống đỡ để thoát khỏi khủng hoảng.
sức tàn phá của cuộc khủng hoảng ở hầu hết các nước thể hiện đầu tiên và rõ nét nhất ở
Việt Nam hoạt động xuất khẩu lại là lĩnh vực chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất. Đây là hoạt
động đóng góp khoảng 60% vào tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam. Kim ngạch xuất
khẩu năm 2008 đạt gần 63 tỷ USD, vẫn tăng trên 29,5% so với năm 2007 là do Việt Nam bị ảnh
hưởng chậm hơn một nhịp so với các nền kinh tế khác trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu năm
2009 đạt 56,5 tỷ USD giảm 9,9% so với năm 2008 kéo mức tăng trưởng GDP năm 2009 giảm
còn 5,32% so với mức 6,23% năm 2008. Mặc dù đến cuối năm 2009 nền kinh tế thế giới nói
chung và kinh tế Việt Nam nói riêng đã cơ bản thoát khỏi khủng hoảng nhưng vẫn chưa khắc
phục được hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng này để lại, nên tốc độ tăng trưởng GDP năm
2010 cũng chỉ đạt được mức 6,78% thấp hơn nhiều so với năm 2007.
Đánh giá tốc độ tăng trưởng GDP ở Việt Nam
Theo thống kê của Trading Economics, Việt Nam hiện có tốc độ lạm phát cao thứ 2 thế giới sau
Venezuela và có tốc độ tăng trưởng cao thứ 16 trên thế giới, sau một lọat các cỗ máy kinh tế
quen thuộc như Singapore, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia…
Với số liệu được cập nhật tới cuối tháng 06 năm nay, Trading Economics cung cấp thông tin chi
tiết về quy mô GDP, lạm phát, lãi suất, thất nghiệp, tăng trưởng GDP, tỷ lệ nợ công trên GDP, tỷ
lệ thâm hụt ngân sách trên GDP… cho khoảng 80 nền kinh tế lớn nhất trên thế giới. Việt Nam
cũng nằm trong danh sách này.
Nguồn: Trading Economics
Về tốc độ tăng trưởng kinh tế, Việt Nam chỉ đứng thứ 16 với mức tăng trưởng 5,67% so với cùng
kỳ năm trước. Tốc độ tăng trưởng GDP ngoạn mục nhất do Singapore nắm giữ với con số
22,50%. Mặc dù tăng trưởng với hai con số như vậy, lạm phát ở Singapore chỉ có 4,5%. Trung
Quốc giữ vị trí thứ 2 về tăng trưởng GDP với con số 9,5% trong khi lạm phát ở nước này đang ở
mức 6,4%.
Trong nhiều năm qua, mục tiêu tăng trưởng kinh tế vẫn được coi là mục tiêu số một của
Việt Nam.

Nhìn chung, đánh giá về mặt lượng, cho đến nay, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng với mức độ
khá cao và đạt được những thành tựu đáng tự hào về tăng GDP trên bình quân đầu người, giảm
tỷ lệ nghèo đói, cải thiện chất lượng cuộc sống, tăng năng suất lao động, ổn định kinh tế vĩ mô,
đổi mới thể chế, Tuy nhiên, nếu nhìn nhận một cách tổng quát, khách quan thì chất lượng tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam còn chưa tốt, thể hiện cụ thể như sau:
- Hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào cho tăng trưởng kinh tế còn thấp. Tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu nghiêng về chiều rộng hơn là chiều sâu, nghĩa là tỷ trọng tác
động của 2 nhân tố vốn và lao động gấp nhiều lần tác động của khoa học - công nghệ tới tăng
trưởng. Ngay cả khi phát triển theo chiều rộng, yếu tố chủ yếu đóng góp vào tăng trưởng GDP lại
là vốn, mà Việt Nam bị thiếu vốn, đang phải đi vay rất nhiều (vừa vay, vừa hoàn trả vốn, với số
lãi mà ngân sách phải trả hằng năm chiếm gần 15% tổng chi ngân sách). Trong khi đó, việc sử
dụng vốn đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế thấp thể hiện rõ qua sự tăng nhanh của hệ số ICOR (đo
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư).
Lao động là yếu tố dồi dào nhất của Việt Nam, hiện lại đang có xu hướng dư thừa bởi số người
đến độ tuổi bổ sung vào đội quân lao động hằng năm vẫn khá lớn (hơn 1 triệu người). Tuy nhiên,
yếu tố này đã không được sử dụng hiệu quả để tạo ra tăng trưởng GDP lớn hơn. Nguồn nhân lực
của nước ta đã không được sử dụng hết, thậm chí lãng phí. Cụ thể là:
+ Tỷ lệ thất nghiệp tuy có giảm nhưng vẫn ở mức cao.
+ Tỷ lệ lao động được đào tạo (tốt nghiệp đại học, cao đẳng và dạy nghề) không có việc làm
hoặc việc làm không đúng chuyên môn còn rất lớn, gây lãng phí rất nhiều về chi phí đào tạo của
gia đình và xã hội, dẫn đến cơ cấu lao động mất cân đối, thừa thầy thiếu thợ. Nhiều lao động trẻ
được đào tạo, có trình độ kỹ thuật, có sức khỏe vẫn bị thất nghiệp. Ngoài ra, chương trình đào
tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Học sinh học lý thuyết nhiều, nhưng khả
năng vận dụng thực tiễn rất yếu. Học sinh chuyên các ngành khoa học cơ bản không được
khuyến khích nên thiếu hụt nghiêm trọng. Như vậy, nguồn lực năng động nhất, cũng là lợi thế
phát triển quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững của Việt Nam đang bị lãng phí rất lớn, khó
phục vụ hiệu quả cho tăng trưởng kinh tế. Vì thế, năng suất lao động của Việt Nam hiện rất thấp
so với các nước trong khu vực.
- Chất lượng tăng trưởng kinh tế còn thấp thể hiện cả ở yếu tố đầu ra. Trong cơ chế thị trường,
đầu ra - tiêu thụ sản phẩm - có ý nghĩa quyết định quá trình tái sản xuất xã hội. Đầu ra quan trọng

nhất trong nền kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới là xuất khẩu hàng hóa. Mặc dù xuất khẩu của
Việt Nam có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm tới 50% GDP của cả nước (cao thứ 6 trong
khu vực ASEAN, thứ 9 ở châu Á và thứ 17 trên thế giới), nhưng cơ cấu xuất khẩu của chúng ta
đang đối mặt với nhiều vấn đề. Hàng nguyên liệu, hàng thô, hàng sơ chế, hàng gia công hiện vẫn
chiếm tỷ trọng khá cao, do đó khả năng thu ngoại tệ chưa khai thác hết. Trong tổng kim ngạch
xuất khẩu, kim ngạch của các mặt hàng này chiếm tới 3/4, chủ yếu là do sự tăng nhanh về lượng
của các mặt hàng than đá, dầu thô, cà phê, hạt tiêu, điều, chè và sự tăng nhanh về giá của các mặt
hàng dầu thô, than đá, gạo, cao su, hạt điều, lạc,
Trong khi đó, vài năm gần đây, kim ngạch nhập khẩu lẫn tỷ lệ nhập siêu tăng nhanh. Năm 2007
thâm hụt cán cân thương mại đã lên đến trên 10 tỉ USD, tăng hơn 140% so với cùng kỳ năm
trước. Điều đáng lưu ý là, nhập siêu tập trung chủ yếu vào khu vực kinh tế trong nước, chứng tỏ
Việt Nam chưa tận dụng được thời cơ, chậm khắc phục thách thức do cắt giảm thuế nhập khẩu
theo lộ trình hội nhập đã cam kết. Bên cạnh đó, nhiều mặt hàng của chúng ta chưa có thương
hiệu riêng hoặc phải dùng thương hiệu của nước khác khi xuất khẩu, nên không tạo ra được giá
cả cạnh tranh với hàng hóa cùng loại của các nước trong khu vực và trên thế giới.
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm và lạc hậu. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn chủ yếu
tập trung ở một số ngành và sản phẩm truyền thống, có công nghệ không cao như dệt may, thủy
sản, nông sản chưa qua chế biến, Trong những năm gần đây, tuy tăng trưởng kinh tế nhanh hơn
những năm 90, nhưng tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến trong GDP còn thấp. Công
nghiệp khai thác vẫn chiếm một tỷ trọng khá ổn định trong GDP. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ
nông nghiệp sang công nghiệp chậm là một yếu điểm của Việt Nam so với một số nước trong
khu vực, nhất là so với Trung Quốc - nước có xuất phát điểm và thời gian bắt đầu mở cửa tương
đối gần với Việt Nam. Nếu nước ta tiếp tục mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào những lợi thế
so sánh tĩnh (nguồn tài nguyên thô, lao động rẻ chưa có kỹ năng) như hiện nay, thì khó có thể
duy trì được tăng trưởng cao trong dài hạn, nhất là trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa ngày
càng sâu rộng.
+ Chênh lệch giàu nghèo có xu hướng gia tăng. Mặc dù Việt Nam đạt nhiều thành công trong
công tác chống đói nghèo, nhưng tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam ở các vùng Tây Nguyên, vùng
núi phía Bắc và vùng duyên hải Bắc Trung Bộ vẫn còn cao. Ngoài ra, khoảng cách giàu nghèo
ngày càng doãng rộng đồng thời với quá trình giảm nghèo.

+ Tài nguyên môi trường chưa được khai thác hiệu quả, ô nhiễm môi trường gia tăng. Đến nay,
đầu tư vào các nguồn tài nguyên, nhất là tài nguyên rừng đang được Chính phủ quan tâm thực
hiện trong các chương trình mục tiêu quốc gia, đặc biệt là Chương trình trồng 5 triệu ha rừng.
Tuy nhiên, trong thời kỳ 10 năm (1990 - 2000), diện tích rừng trồng mới tăng trung bình
0,5%/năm, nhưng tỷ lệ diện tích rừng bị cháy và phá rừng cũng rất cao, tập trung ở một số tỉnh
nghèo, sản xuất nông nghiệp dựa chủ yếu vào tài nguyên rừng như Lai Châu, Quảng Trị, Hiệu
quả sử dụng năng lượng đã tăng lên đáng kể, nhưng vẫn còn thấp. Lượng đi-ô-xít cac-bon thải ra
tính trên đầu người tăng gấp đôi trong thời kỳ đổi mới. Tại một số thành phố và trung tâm công
nghiệp, ô nhiễm môi trường nước, không khí và chất thải công nghiệp đã vượt quá mức cho
phép. Vấn đề khai thác tài nguyên, đầu tư vào tài sản môi trường và vấn đề ô nhiễm môi trường
đang đe dọa sự phát triển bền vững của Việt Nam.
+ Năng lực cạnh tranh quốc gia thấp và khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực có xu
hướng tăng. Việt Nam hiện đang ở trong tình trạng năng lực cạnh tranh thấp và có xu hướng tụt
hạng so với thời kỳ trước năm 1996. Vào năm 2003, Việt Nam đứng thứ 60 trên thế giới về năng
lực cạnh tranh, tăng 5 bậc so với năm 2002, nhưng giảm 7 bậc so với thứ hạng 53 của năm 2000
và giảm 21 bậc so với thứ hạng năm 1998. Năm 2006, Việt Nam xếp thứ 77/125 quốc gia, tụt 3
hạng so với năm 2005. Xét theo từng tiêu chí, tình hình cụ thể như sau: thể chế kinh tế xếp thứ
74; kết cấu hạ tầng xếp thứ 83; kinh tế vĩ mô xếp thứ 53; giáo dục phổ thông và y tế xếp thứ 56;
giáo dục đại học xếp thứ 90; hiệu quả của cơ chế thị trường xếp thứ 73; công nghệ xếp thứ 85
Nếu so sánh năng lực cạnh tranh của Việt Nam với một số nước ASEAN, thì Xin-ga-po xếp thứ
26, Thái Lan xếp thứ 35, In-đô-nê-xi-a xếp thứ 50, Phi-lip-pin xếp thứ 71, Cam-pu-chia xếp thứ
103. Như vậy, Việt Nam chỉ xếp trên Cam-pu-chia. Các nước Lào, Bru-nây, Mi-an-ma chưa
được xếp hạng về năng lực cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh thấp và có xu hướng tụt bậc này cho
thấy, Việt Nam đang đứng trước rất nhiều nguy cơ có thể bị tụt hậu so với các nước trong khu
vực và trên thế giới./.
2.2.2 Hệ số ICOR
- Khái niệm: ICOR là một chỉ số cho biết muốn có thêm một đơn vị sản lượng trong một
thời kỳ nhất định cần phải bỏ ra thêm bao nhiêu đơn vị vốn đầu tư trong kỳ đó.
- Cách tính: Hệ số ICOR phản ánh quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và đầu tư
Hệ số ICOR (k) được xác định theo công thức:

k = DK/DY
Trong đó:
-
DK là mức thay đổi vốn sản xuất: DK = K
t
– K
t-1
-
DY là mức thay đổi về kết quả sản xuất: DY = Y
t
– Y
t-1
,
-
t chỉ năm nghiên cứu và t - 1 chỉ năm nghiên cứu liền kề trước đó.
-
Phân tích chỉ tiêu hệ số ICOR của Việt Nam:
Đầu tư đóng vai trò hết sức quan trọng và không thể thiếu trong một quốc gia, đặc biệt đối với
các nước đang phát triển như Việt Nam. Giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ vận
động và chuyển hoá. Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thường theo chiều thuận, nghĩa là
đầu tư lớn thì tăng trưởng cao. Tuy nhiên cũng có những trường hợp diễn biến theo chiều
ngược lại, đầu tư lớn mà không hiệu quả, hoặc lỗ nhiều. Có những trường hợp đầu tư chưa đem
lại hiệu quả ngay như đầu tư vào các dự án trung và dài hạn, đầu tư vào cơ sở hạ tầng.
-
Các chuyên gia vẫn thường sử dụng hệ số ICOR để đo lường hiệu quả đầu tư. Cách tính
đơn giản nhất của hệ số ICOR là lấy tỷ lệ vốn đầu tư chia cho tăng trưởng GDP. Qua phép tính
này, chúng ta biết được, để tăng 1 đồng GDP thì cần phải đầu tư bao nhiêu đồng.
-
Hệ số ICOR Việt Nam:
(Nguồn: TCTK & Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư )

Hệ số ICOR của Việt Nam tăng đều từ 3,5 trong thời kỳ 1991-1995 lên đến 7,14 lần trong hai
năm 2009 – 2010. Dù đầu tư cao như vậy nhưng tốc độ tăng trưởng chỉ ở ngưỡng 6 – 8,5%.
ICOR càng cao đồng nghĩa với hiệu quả đầu tư trong nền kinh tế thấp. Chất lượng tăng trưởng
thấp kéo dài là tiền đề gây nên lạm phát, khủng hoảng và suy thoái kinh tế.
-
Chỉ số ICOR của Việt Nam so với các nước trong khu vực:
(Nguồn: Tính toán từ số liệu thống kê của IMF và World Bank)
-
So với tỉ lệ 2,7 của Đài Loan trong thời kỳ 1961-1980, 3 là của Hàn Quốc trong thời kỳ
1961- 1980, của Indonesia trong thời kỳ 1981-1995 là 3,7 và của Trung Quốc trong giai đoạn
2000-2008 là 4, có thể thấy hệ số ICOR của VN cao hơn so với các nước trong khu vực, đồng
thời tạo một khoảng cách rất xa so với khuyến cáo của NH thế giới về hệ số ICOR “an toàn” đối
với một nước đang phát triển là 3.0
-
ICOR xác định mức độ sử dụng vốn trong nền kinh tế. Những quốc gia thiết bị máy móc
cho nền công nghệ tân tiến sử dụng nhiều vốn thì ICOR trong giai đoạn đầu tư cao. Những nước
sử dụng nhiều lao động không cần nhiều vốn như Việt Nam thì ICOR thấp.
-
Đầu tư khu vực nhà nước hiệu quả thấp
(Nguồn: TTTK & Bộ kế hoạch và đầu tư )
-
Từ 2006-2010 trung bình hàng năm đầu tư công chiếm 43,3% vốn đầu tư toàn xã hội nhưng
chỉ đóng góp được 35,81% GDP, trong khi khu vực kinh tế ngoài nhà nước tạo ra được 46,21%
GDP nhưng đầu tư chỉ với tỉ lệ 37,1% mỗi năm. Hệ số ICOR của Việt Nam tuy đã cao nhưng hệ
số này ở khu vực kinh tế nhà nước cao gấp rưỡi hệ số ICOR của cả nước. Nếu hệ số ICOR trong
năm 2009 của Việt Nam là 8 thì hệ số của khu vực kinh tế nhà nước là 12.2.
-
Đầu tư còn dàn trải, thi công lại kéo dài, nhiều công trình dở dang. Ngoài lý do trên, tình
trạng thi công kéo dài còn do các khâu qui hoạch, đấu thầu làm chưa tốt, khâu đền bù, giải phóng
mặt bằng còn kéo dài Kết quả vốn đầu tư thì lớn, nhưng tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh

tế thì ít.
-
Tình trạng thất thoát trong đầu tư còn lớn, nên cùng một lượng vốn đầu tư, nhưng số tiền
trực tiếp vào công trình ít hơn, ảnh hưởng đến khối lượng và chất lượng công trình, vì thế mà
kinh tế cũng tăng trưởng chậm.
Hiệu quả đầu tư của khu vực FDI thấp
-
Lâu nay hầu hết các nhà kinh tế đều nói đến thành phần kinh tế nhà nước hiệu quả kém
nhất, nhưng qua tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê cập nhật mới nhất (tháng 6-2011)
cho thấy khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mới là khu vực hiệu quả kém nhất (xem
bảng 2).
2.2.2 Hệ số CPI và Tỷ lệ lạm phát
- Khái niệm: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là chỉ số tính theo phần trăm để phản ánh mức thay đổi
tương đối của giá hàng tiêu dùng theo thời gian. Sở dĩ chỉ là thay đổi tương đối vì chỉ số này chỉ
dựa vào một giỏ hàng hóa đại diện cho toàn bộ hàng tiêu dùng.
- Cách tính: Lựa chọn thời kỳ gốc để là m cơ sở so sánh rồi tính chỉ số giá tiêu dùng công thức:

- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)/Lạm phát ở Việt Nam
Ở nước ta, CPI là chỉ tiêu phổ biến để phản ánh biến động về giá cả chung qua thời gian, cũng là
để đánh giá tỷ lệ lạm phát. Lạm phát là một trong những chỉ báo vĩ mô quan trọng nhất và được
thường xuyên sử dụng trong các phân tích kinh tế.
Theo thống kê của Tổng cục Thống kê, nhìn chung lạm phát của nước ta từ 2004 đến nay luôn ở
mức khá cao:
Năm 2006 2007 2008 2009 2010
Tăng trưởng GDP (%) 8.17 8.48 6.23 5.32 6.78
Mức tăng CPI (%) 6.6 12.63 19.89 6.52 11.75
Tỷ lệ lạm phát (%) 7.5 8.3 23 6.9 9.19
Có thể chia lạm phát ra làm 4 giai đoạn khác nhau tương ứng với chính sách tiền tệ/tài khóa mở
rộng hay thắt chặt sách tiền tệ:
Giai đoạn 1 (từ trước cho đến nửa đầu năm 2007): Chính sách tiền tệ được nới lỏng quá mức

khiến cung tiền trong lưu thông tăng vọt. Đồng thời chính sách tài khoá cũng mở rộng theo. Tuy
nhiên, tình trạng nhập khẩu lạm phát và hiệu quả đầu tư thấp trở nên rất rõ trong thời kỳ này,
chứng tỏ nền kinh tế không hấp thụ được nguồn cung tiền lớn và một phần đáng kể nguồn vốn
được chuyển sang đầu tư vào các lĩnh vực không sản xuất và tiêu dùng.
(từ nửa cuối 2007 đến nửa đầu 2008) là giai đoạn thắt chặt tiền tệ. Biện pháp chính sách của các
cơ quan quản lý là kiểm soát lạm phát thông qua việc điều hành và kiểm soát tăng tổng phương
tiện thanh toán; tín hiệu rõ nhất cho chính sách này là việc nâng lãi suất cơ bản lên 14%/năm.
Tuy nhiên, trong khi chính sách tiền tệ được thắt chặt thì hoạt động tài khoá vẫn không có
dấu hiệu co lại, thậm chí tiếp tục tăng khiến cho áp lực lạm phát và lãi suất không giảm đi.
Do vậy, xu hướng leo thang của lạm phát vẫn tiếp tục và đã trở thành đỉnh điểm tới gần 23% cho
năm 2008 - mức kỷ lục về lạm phát trong nền kinh tế trong nhiều năm qua.
Giai đoạn 2 (từ nửa cuối 2008 đến cuối năm 2009): chính sách nới lỏng trở lại cả tiền tệ và tài
khoá. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, lãi suất cơ bản đã được giảm xuống một nửa (còn
7%/năm từ đầu 2009) và Chính phủ chủ trương thực hiện 3 gói kích cầu: (i) Hỗ trợ 4% lãi suất
CPI
t
=
Chi phí để mua giỏ hàng hoá thời kỳ t
x100
Chi phí để mua giỏ hàng hoá kỳ cơ sở
cho các khoản vay sản xuất và lưu thông hàng hoá, (ii) Hỗ trợ 4% lãi suất cho các khoản vay đầu
tư mới cho phát triển sản xuất kinh doanh, cơ sở hạ tầng; (iii) Hỗ trợ 100% lãi suất cho các
khoản vay mua sắm máy móc, thiết bị cơ khí phục vụ sản xuất và chế biến nông nghiệp. Lạm
phát năm 2009 đã được khống chế và giảm mạnh xuống chỉ còn 6,88% và vẫn đạt được chỉ
tiêu tăng trưởng GDP dù ở mức thấp, 5,32%.
Giai đoạn 4 từ cuối năm 2009 đến nay diễn ra việc thu hẹp chính sách tiền tệ. Lãi suất cơ bản
tăng, cơ quan quản lý còn tiếp tục điều chỉnh kỳ hạn và khối lượng bơm tiền qua nghiệp vụ thị
trường mở (bắt đầu thực hiện từ giữa tháng 10/2010) để kiểm soát và hạn chế bớt dòng tiền đổ
vào nền kinh tế. Đây rõ ràng là các biện pháp nhằm thu hẹp tiền tệ để hướng tới mục tiêu kiềm
chế lạm phát khi mà chỉ báo này (CPI) đã tăng lên tới trên 9% năm 2010. Mặc dù đã chấm dứt

các biện pháp nới lỏng tiền tệ-tài khoá từ giai đoạn trước và thực hiện thu hẹp tiền tệ,
nhưng do tăng trưởng tín dụng vẫn cao (29,81% tính đến 31/12/2010, vượt quá mục tiêu
25%), đồng thời tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán năm 2010 cũng ở mức cao so với
tăng trưởng GDP (25,3% so với 6,78%) và một số nguyên nhân khác, nên chỉ số lạm phát vẫn
tăng và đã vượt lên gần mức hai con số.
Có thể thấy rằng lạm phát tại Việt Nam hiện nay chỉ là hậu quả từ những bất ổn nội tại nền kinh
tế trong những năm qua, đặc biệt trong giai đoạn 2006-2010 và là hệ quả tất yếu của việc mất cân
đối trong nền kinh tế vĩ mô. Ở giới hạn của chuyên đề, chúng tôi chỉ xin phép nêu ra những
nguyên nhân bắt nguồn từ hệ thống tài chính của Việt Nam cụ thể là: tốc độ tăng cung tiền lệch
xa tăng trưởng GDP. Cung tiền chính là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho lạm
phát ở Việt Nam trở nên “vượt trội” so với các nước trong khu vực. Tăng trưởng cung tiền M2
luôn duy trì ở mức khoảng 30% kể từ năm 2004, đặc biệt tăng vọt lên khoảng 50% vào năm
2007. Đây chính là 1 trong những nguyên nhân quan trọng làm lạm phát năm 2007 tăng 8.3%
cao nhất trong 10 năm trước đó, trong khi tốc độ tăng trưởng GDP chỉ đạt mức 8,48%. Mức tăng
cung tiền năm 2007 quá cao là hệ quả tất yếu làm tỷ lệ lạm phát năm 2008 tăng đến mức kỷ lục
19,89%.
Tuy nhiên các cơ quan chức năng vẫn luôn thể hiện sự chậm trễ và thiếu nhất quán trong việc
điều hành cung tiền ở Việt Nam. Ví như tại những tháng đầu năm 2008, khi lạm phát tăng liên
tiếp và tăng mạnh thì các nhà hoạch định chính sách tiền tệ lại loay hoay giữa việc hút tiền về
thông qua bán trái phiếu và tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, với việc bơm tiền ra trước để đáp ứng
thanh khoản của các ngân hàng thương mại và mua vào ngoại tệ nhằm duy trì tỷ giá. Nhưng
những hành động này chỉ khiến các doanh nghiệp và các cá nhân trong nền kinh tế gặp khó khăn
trong công tác dự báo và lập kế hoạch sản xuất kinh doanh và đẩy kỳ vọng lạm phát lên cao.
Thứ hai, tốc độ tăng trưởng tín dụng quá cao nhưng chất lượng thấp. Trong giai đoạn 2007
-2009 tốc độ tăng trưởng tín dụng trung bình đạt mức 25 – 30%, đặc biệt năm 2009 khi Chính
phủ thực hiện gói kích cầu trị giá gần 8 tỷ USD để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính - tiền
tệ trên thế giới, trong đó nổi bật là chương trình cho vay hỗ trợ lãi suất 4% trị giá 17.000 tỷ VNĐ
(1 tỷ USD), thì chỉ riêng gói Hỗ trợ lãi suất này đã đưa hơn 400.000 tỷ VNĐ vào lưu thông. Đầu
tư của toàn xã hội cũng duy trì mức trên 40% GDP trong giai đoạn 2005-2009. Mặc dù có tốc độ
tăng trưởng tín dụng và đầu tư toàn xã hội ở mức khá cao so với nhiều quốc giá khác tuy nhiên

tăng trưởng GDP của Việt Nam trong giai đoạn này chỉ trung bình ở mức 6 – 7%.
Tóm lại, có thể thấy CPI/lạm phát là một chỉ tiêu đánh giá sức khỏe hệ thống tài chính: CPI/lạm
phát quá cao/thấp tương ứng do tổng phương tiện thanh toán (M2) trong nền kinh tế quá cao
(như năm 2007)/quá thấp. CPI/lạm phát ở mức độ vừa phải (như năm 2009) do tổng phương tiện
thanh toán phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế.
2.2.3 Tốc độ tăng trưởng tín dụng
Tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt Nam cũng luôn ở mức cao so với các nước
trong khu vực. Trong giai đoạn 2007 - 2010, tín dụng bình quân tăng 30,6%/năm. Hệ số dư nợ
. tín dụng/GDP của Việt Nam đã tăng từ 40% năm 2000, lên mức 116,14% năm 2010 (gần 3
lần). Ở Trung Quốc, hệ số này tăng 1,23 lần, Thái Lan và Malaysia hầu như không tăng. Chính
việc tăng trưởng tín dụng nhanh là nguyên nhân dẫn đến M2 tăng cao. Mặc dù tăng trưởng
tín dụng đã giúp tăng mức đầu tư trên GDP từ 29,8% trung bình giai đoạn 1991-2000, lên
40,7% trung bình giai đoạn 2001 - 2010, nhưng không phải toàn bộ lượng tín dụng tăng lên này
được đưa vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh nhằm tăng năng lực sản xuất của nền
kinh tế.
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Aug-11
M2 24.5 21.1 24 20.6 23.6 29.7 43.7 20.3 27.5 29.8 9.16
TTTD 23.2 30.4 28 26.2 20.5 24.8 53.9 23.4 37.5 31.2 8.885
GDP 9 11.3 14.5 16.6 17.3 16.1 17.4 29.8 11.7 19.4 25.07
Tốc độ tăng trưởng tiền tệ, tín dụng của Việt Nam thời kỳ 2001-2011
(So với tháng 12 năm trước) Đơn vị: %
(Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Nhìn trên biểu đồ chúng ta có thể nhận thấy được rằng tốc động tăng trưởng tín dụng của Việt
Nam vẫn luôn ở mức cao. Điều này là do chúng ta vẫn đang theo đuổi mục tiêu tăng trưởng. Đặc
biệt là giai đoạn năm 2007, tốc độ tăng trưởng tín dụng đạt trên 50%. Nguyên nhân của việc tăng
trưởng nóng này là do thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán là một nguồn hút vốn
lớn, đặc biệt là thị trường bất động sản. Các ngân hàng mở rộng việc cho vay để đầu tư bất động
sản. Việc tăng trưởng nóng này đã đẩy lạm phát lên cao. Bước sang năm 2008, chúng ta phải
thực hiện thắt chặt tiền tệ để nhằm hạn chế lạm phát chính vì vậy điều này làm cho tốc độ tăng
trưởng tín dụng giảm đáng kể. Tuy nhiên, sang năm 2009, tình hình kinh tế thế giới bước vào

khủng hoảng, các nước trên thế giới phải bơm tiền vào để cứu nền kinh tế của nước mình. Việt
Nam cũng không nằm ngoài quy luât, chúng ta đã áp dụng hỗ trợ lãi suất để thúc đẩy sản xuất,
phát triển kinh tế nên tốc độ tăng trưởng tín dụng cũng tăng theo. Tuy nhiên đây không phải là
một giải pháp mang tính chất lâu dài vì việc tăng trưởng luôn đi kèm lạm phát. Vì vậy, theo đuổi
mục tiêu kiềm chế lạm phát Việt Nam đang từng bước thắt chặt chính sách tiền và mục tiêu của
Việt Nam là cố gắng duy trì tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức 20%
Một thực tế cho thấy rằng, tuy tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt Nam luôn ở mức cao nhưng
không phải tất cả nguồn vốn được đầu tư cho sản xuất kinh doanh nên đã dẫn đến một thực trạng
là nợ xấu tăng cao trong nhưng năm vừa qua. Tình trạng phát triển quá nóng của thị trường bất
động sản, thị trường chứng khoán, tình trạng đô la hóa, vàng hóa nghiêm trọng, khiến cho một
lượng vốn lớn của xã hội không được đầu tư trực tiếp cho sản xuất hàng hóa để cân đối với với
nguồn tiền; đồng thời gây ra những cơn sốt giá và lan tỏa sang giá các mặt hàng khác, góp phần
làm tăng lạm phát. Nợ xấu của các ngân hàng gia tăng bên cạnh nguyên nhân chung là khó khăn
của nền kinh tế. Nếu nói yếu tố khách quan thì nguyên nhân đầu tiên chính là do các ngân hàng
tự gây nên. Nói đúng hơn, đây là sự trả giá của chính các ngân hàng trong việc kiểm soát cho
vay.
Mặc dù Ngân hàng Nhà nước đang yêu cầu rút tỷ lệ tín dụng phi sản xuất, trong đó chủ yếu là
bất động sản, về. Tuy nhiên, với tình hình thị trường khó khăn như hiện nay thì khả năng nợ xấu
trong bất động sẽ còn tăng lên. Nguy cơ nợ xấu gia tăng sẽ bộc lộ rõ hơn trong các tháng cuối
năm.
Bên cạnh đó, nợ xấu - ngoài tác động của tình hình kinh tế vĩ mô nói chung thì phía doanh
nghiệp và ngân hàng đều có phần trách nhiệm. Khi kinh tế khó khăn, doanh nghiệp làm ăn bế tắc
trước khủng hoảng và lạm phát, chi phí vào tăng, đầu ra khó. Trong đó, một trong những khó
khăn đẩy doanh nghiệp đến đường cùng chính là sự gia tăng của lãi suất cho vay từ phía ngân
hàng.
Các ngân hàng đẩy mạnh lãi suất huy động một cách vô lối và đưa lãi suất cho vay lên mức 20-
25%. Khó khăn với thị trường chung, doanh nghiệp không có được sự hỗ trợ nào mà còn bị bồi
thêm chi phí vốn tăng cao nên sản xuất càng bế tắc. Đã có hàng ngàn doanh nghiệp phá sản và
hàng chục ngàn doanh nghiệp khác suy giảm sản xuất, hàng loạt doanh nghiệp tạm đóng cửa hay
cầm chừng chờ thời Tất nhiên, khi doanh nghiệp không hoạt động, không có lợi nhuận thì

không có khả năng thanh toán nợ ngân hàng. Và những khoản vay của họ lần lượt được thành
các khoản nợ xấu.
Bên cạnh đó, một yếu tố dài hạn cần đề cập đến là trong thời gian qua, với áp lực tăng vốn, nhiều
ngân hàng tìm mọi cách để tăng trưởng nhanh, đặc biệt là đã nới lỏng các tiêu chuẩn cho vay để
đảm bảo hiệu quả trên đồng vốn. Song, hậu quả lại dẫn đến các khoản nợ xấu tăng nhanh. Trước
đây, khi kinh tế ổn định, điều này không bộc lộ nhưng đến khi kinh tế khó khăn, hệ quả này mới
càng thể hiện rõ.
Chính vì thế, theo nhiều nhiều chuyên gia ngân hàng, trước bối cảnh tình hình kinh tế vĩ mô còn
khó khăn, lạm phát cao, trong khi các ngân hàng chỉ huy động được nguồn tiết kiệm ngắn hạn,
nên việc thận trọng trong phát triển tín dụng là hết sức cần thiết để tránh nguy cơ rủi ro. Vấn đề
đặt ra lúc này là chất lượng tín dụng lên hàng đầu, giữ tốc độ tăng trưởng tín dụng bền vững dù
dung lượng tăng trưởng tín dụng còn cao để đảm bảo chất lượng.
Trước thực trạng này, trong ngắn hạn chúng ta cần kiên định điều hành chính sách tiền tệ và
chính sách tài khóa chặt chẽ
để giảm tổng cầu của nền kinh tế, ổn định giá trị đồng Việt Nam.
Kiểm
soát tổng phương tiện thanh toán tăng 15 - 16%, tăng trưởng tín dụng
dưới 20% và sẽ
hiệu quả hơn nếu đạt được mức tăng trưởng tín dụng
khoảng 16%. Cần chú trọng điều phối
hợp lý lượng tiền tín dụng, tránh
tình trạng lượng tín dụng cuối năm tăng cao đột biến.
2.2.4. Chỉ tiêu độ sâu tài chính
a. Độ sâu tài chính là gì?
Để đánh giá sự phát triển của Hệ thống Tài chính một quốc gia, ngoài những chỉ tiêu như tăng
trưởng kinh tế, chỉ số lạm phát, tăng trưởng tín dụng, một chỉ tiêu khác thường xuyên được sử
dụng chính là Độ sâu tài chính.
Độ sâu tài chính được đo lường bằng tỷ lệ phần trăm giữa các khối lượng tiền tệ M1, M2, M3
hay L với GDP của quốc gia đó, tuy nhiên M2/GDP là chỉ tiêu thường xuyên được sử dụng nhất
vì M2 là lượng tiền cung ứng quan trọng và có tính lỏng hợp lý. Vì vậy, từ đây chúng ta có thể

thống nhất độ sâu tài chính đồng nhất với M2/GDP.
Như chúng ta đã biết, một cách đơn giản nhất khối tiền tệ M2 được đo lường bằng:
- Tiền đang lưu hành, gồm toàn bộ tiền mặt do NHTW phát hành đang lưu hành ngoài hệ thống
ngân hàng;
- Tiền gửi không kỳ hạn ở Ngân hàng thương mại, là tiền gửi mà chủ sở hữu nó có thể phát hành
séc để thanh toán tiền mua hàng hay dịch vụ;
- Tiền gửi tiết kiệm ở các Ngân hàng Thương mại.
Như vậy, độ sâu tài chính thể hiện mức độ đóng góp của hệ thống tài chính vào tổng sản phẩm
trong nước của một quốc gia. Hệ thống tài chính là phương tiện để phát triển kinh tế, khi hệ
thống tài chính phát triển sẽ dẫn đến sự gia tăng về tiết kiệm và đầu tư cho nền kinh tế. Vì vậy
thông qua chỉ tiêu độ sâu tài chính ta cũng có thể nhìn thấy được phần nào mức độ đóng góp của
hệ thống tài chính vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Từ đó, kết hợp với những chỉ tiêu
khác ta có thể đánh giá được mức độ phát triển của Hệ thống tài chính tại mỗi quốc gia.
Có thể nhìn M2/GDP theo 2 giác độ:
- lưu lượng tiền tệ trong hệ thống tài chính đóng góp vào GDP;
- Số cung tiền cần để tạo ra 1 đồng GDP
b. Bằng chứng về mối quan hệ giữa độ sâu tài chính và phát triển kinh tế.
M2/GDP và tiết kiệm quốc dân
%GDP bình quân 1961-2010
Hệ thống tài chính phát triển, đi cùng với đó là tỷ lệ tiết kiệm quốc dân cao, là cơ sở quan trọng
nhất cho đầu tư phát triển kinh tế. Qua nghiên cứu và lấy số liệu bình quân của 183 nước trên thế
giới trong giai đoạn từ 1961 đến 2010 ta nhận thấy có sự phân biệt khá rõ ràng về tốc độ tăng
trưởng kinh tế giữa nhóm các nước có độ sâu tài chính thấp (<25%) với nhóm các nước có độ
sâu tài chính cao hơn. Tuy nhiên khi độ sâu tài chính đã đạt mức trung bình (>50% GDP) thì tốc
độ tăng trưởng kinh tế không còn quá khác biệt. Điều này có thể được giải thích bằng tính hiệu
quả kinh tế giảm dần theo quy mô. Theo đó, tốc độ kinh tế sẽ tăng với tốc độ chậm dần khi quy
mô ngày càng lớn và điều đó dẫn đến giả thuyết về hiệu ứng đuổi kịp của các nền kinh tế. Một
nền kinh tế đã đạt tới quy mô lớn rất khó tăng trưởng cao vì các nguồn lực đã dần bị bão hòa,
ngược lại nhóm các nước đang phát triển có tỷ lệ tăng trưởng nhanh vì nguồn lực tăng trưởng
còn khá dư giả, đặc biệt là những nguồn tiền nóng đầu tư từ bên ngoài.

GDP bình quân giai đoạn 1961-2010 (đơn vị: tỷ USD)
GDP bình quân đầu người 1961-2010 (đơn vị: USD)
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Worldbank, đơn vị USD
Nếu như ở tốc độ tăng trưởng kinh tế, sự khác biệt về độ sâu tài chính tác động tới tăng trưởng là
không quá rõ ràng thì khi xét tới quy mô bình quân của nền kinh tế và mức sống bình quân của
nhóm các nước có độ sâu tài chính khác nhau là rất rõ nét. Nhóm 20 nước có độ sâu tài chính
trung bình >100% (không có Mỹ và Trung Quốc) có quy mô lớn gấp 20 lần nhóm 53 nước có độ
sâu tài chính trung bình dưới 25%. Thu nhập bình quân đầu người ở những quốc gia có độ sâu tài
chính trung bình lớn cũng cao hơn khoảng 12 lần so với nhóm có độ sâu tài chính kém
Phần 3: ĐÁNH GIÁ SỰ ĐÓNG GÓP CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
Cùng với sự mở cửa và tăng cường hội nhập, giao lưu với nền kinh tế quốc tế, Hệ thống Tài
chính Việt Nam ngày càng hoàn thiện và đóng góp nhiều hơn vào sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế. Bên cạnh đó cũng còn tồn tại không ít những bất cập cần được khắc phục. Cụ thể:
3.1 Số lượng trung gian tài chính không ngừng lớn mạnh, giúp tăng cường tiết kiệm
và HTTC ngày càng khẳng định vai trò dẫn vốn của mình với nền kinh tế.
Năm 1986 đánh dấu sự thay đổi về căn bản trong hệ thống ngân hàng Việt nam với sự ra đời của
2 pháp lệnh về Ngân hàng là Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng,
hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính. Từ chỗ chỉ có 4 NHTM nhà nước ban đầu, nay Việt
Nam đã có một số lượng đáng kể các ngân hàng thương mại và các công ty tài chính phi ngân
hàng. Cụ thể Việt Nam hiện có 5 NHTM nhà nước, 38 NHTM cổ phần, 13 ngân hàng 100% vốn
nước ngoài và 13 ngân hàng liên doanh. Cùng với đó là 5 công ty bảo hiểm nhân thọ, 25 công ty
bảo hiểm phi nhân thọ, trên 200 công ty tài chính lớn nhỏ và 102 công ty chứng khoán. Các
trung gian tài chính không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chiều sâu, quy mô hoạt động của
các trung gian tài chính không ngừng gia tăng qua thời gian
Tăng trưởng tổng tài sản, tiền gửi và cho vay của các NHTM (đơn vị: tỷ đồng)
2007 2008 2009 2010 2011f
Total assets 1,410,221.40 1,747,335.40 2,411,322.85 2,893,587.42 3,472,304.91
Client loans 1,067,730.00 1,339,260.00 1,848,178.80 2,217,814.56 2,661,377.47
Client deposits 1,100,392.90 1,341,142.80 1,528,902.79 1,697,082.10 1,917,702.77
Nguồn: Ngân hàng nhà nước

Sự phát triển của mạng lưới các trung gian tài chính góp phần tăng cường lưu thông tài chính,
khai thông nguồn vốn cho nền kinh tế quốc dân. Thông qua hệ thống này, các nguồn lực tài
chính được huy động mạnh mẽ, từ chỗ chỉ chiếm khoảng trên 10% GDP những năm 90 nay đã
tăng lên trên 300% với giá trị khiêm tốn . Việc cho vay của các ngân hàng cũng từ đó tăng
trưởng mạnh mẽ, những năm 90, tỷ lệ này cũng trên 10% nhưng nay đã đóng góp trên 400% của
GDP (biểu đồ). Đặc biệt, ta cũng nhận thấy rõ sự tăng trưởng diễn ra mạnh mẽ sau thời điểm
Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, chỉ trong khoảng thời gian 4 năm tỷ trọng
đã đạt bằng 10 năm trước đó. Lưu lượng tiền chảy qua hệ thống tài chính có con số khiêm tốn
khoảng 600 nghìn tỷ vào năm 2006 đã tăng lên đáng kể khoảng 2 triệu tỷ vào năm 2010.
Tỷ trọng tiền gửi và tín dụng Việt Nam (%GDP)
Nguồn: ADB
So sánh với tỷ trọng tiền gửi và tín dụng trong GDP của một số nước vào năm 2010 dễ thấy tỷ
trọng này của Việt Nam cao hơn khá nhiều. Điều đó không chứng tỏ dòng vốn chảy qua hệ thống
NHTM của các quốc gia này kém hơn chúng ta, mà chúng ta có thể hiểu rằng để tạo ra một
đồng GDP, Việt Nam cần nhiều vốn từ hệ thống ngân hàng hơn, điều này thống nhất với
nhận định về hệ số ICOR của Việt Nam.
Vietnam Japan Thailand Singapore Korea China
Tín dụng (%GDP) 487.58 237.67 239.72 85.73 181.75 147.57
Tiền gửi (%GDP) 320.87 212.08 162.50 142.52 141.58 -
Nguồn: ADB
3.2 Thị trường chứng khoán ra đời tạo ra một kênh huy động vốn quan trọng
Manh nha từ những năm 1994, nhưng phải đến tận 28/07/2000 Thị trường chứng khoán Việt
Nam mới chính thức bước vào hoạt động với sự ra đời của Sở GDCK TP. Hồ Chí Minh. Từ số
lượng niêm yết ban đầu chỉ có 2 mã chứng khoán là SAM của công ty cổ phần Cáp và vật liệu
viễn thông và REE của công ty cổ phần cơ điện lạnh, đến nay đã có 301 mã chứng khoán, 5
chứng chỉ quỹ niêm yết tại Sở GDCK Hồ Chí Minh và 396 mã chứng khoán niêm yết tại Sở
GDCK Hà Nội.
Giá trị vốn hóa thị trường HSX và HNX
Giá trị giao dịch thị trường chứng khoán Việt Nam (nghìn tỷ đồng)
Năm 2006 2007 2008 2009 2010 Nov-11

HSX 323.079 684.388 114.028 401.158 335.525 110.182
HNX - - - 140.340 241.695 89.880
Nguồn: HSX, HNX
Vai trò quan trọng nhất của Thị trường chứng khoán đối với sự phát triển kinh tế chính là kênh
huy động vốn trực tiếp cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Những năm 2006 - 2007,
cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế, thị trường chứng khoán Việt Nam bùng nổ
với tốc độ chóng mặt, thậm chí trở thành kênh hút vốn chính của các Doanh nghiệp, hàng loạt
các cuộc IPO thành công của các doanh nghiệp lớn nhỏ đã chứng minh cho điều đó.
Từ 2008 trở lại đây, sự suy thoái kinh tế đã phần nào cản trở việc huy động vốn của các doanh
nghiệp trên thị trường chứng khoán, nhưng bên cạnh các việc huy động vốn qua Ngân hàng thì
việc huy động vốn qua TTCK sẽ là một kênh huy động có nhiều lợi thế đối với các doanh nghiệp
trong tương lai gần.
IPO qua TTCK Việt Nam
2006 2007 2008 2009 2010
HSX 150 18.434 7.381 568 3.628
HNX 14.847 7.746 1.547 5.580 1.330
3.3 Tỷ lệ tiết kiệm quốc dân tăng và tỷ trọng sử dụng tiền mặt trong lưu thông giảm.
Sự lớn mạnh của hệ thống tài chính Việt Nam còn được biểu hiện rất rõ nét qua những số liệu
thống kê về tỷ lệ tiết kiệm quốc dân và tỷ lệ sử dụng tiền mặt trong lưu thông của nền kinh tế.
Số liệu của World Bank và ADB chỉ ra rằng tỷ lệ tiết kiệm quốc dân đã tăng lên đáng kể, sánh
ngang hàng với những nền kinh tế hàng đầu. Điều này phản ánh phần thu nhập đã được dành
nhiều hơn cho tiết kiệm, đây là nguồn lực quan trọng cho tái đầu tư và phát triển kinh tế.
Huy động tài chính trong dân cư tăng và tỷ lệ sử dụng tiền mặt trong thanh toán đã giảm đi rõ rệt.
Số liệu tổng hợp từ Worldbank và ADB cho thấy tỷ trọng sử dụng tiền mặt (tiền mặt trong lưu
thông trên cung tiền M1) trong lưu thông của Việt Nam đã giảm đi rất nhiều trong giai đoạn vừa
qua, từ một nước giao dịch chủ yếu bằng tiền mặt, lên đến 57,1% vào năm 1993 nay chúng ta đã
giảm xuống chỉ còn khoảng trên 14%, đây là tỷ lệ không chênh lệch nhiều so với các nước có
nền tài chính phát triển trên thế giới. Và như chúng ta đã biết chỉ tiêu này có tác động tích cực
đến số nhân tiền và từ đó tác động đến hiệu quả của chính sách tiền tệ.
Tỷ lệ tiết kiệm quốc dân và tỷ trọng sử dụng tiền mặt của Việt Nam

Nguồn: Worldbank
Tỷ lệ tiết kiệm quốc dân và tỷ lệ sử dụng tiền mặt của một số nước năm 2009
Countries Vietnam Japan Korea Malaysia China
Savings (%GDP) 27.8 20.8 29.8 36.0 52.0
Cu/M1 (%) 14.9 15.2 8.2 21.1 16.7
Nguồn: Worldbank, ADB
3.4 HTTC giúp nền kinh tế đạt được mục tiêu tăng trưởng
Với chính sách theo đuổi mục tiêu tăng trưởng, Việt Nam liên tục duy trì tốc độ tăng cung ứng
tiền tệ và tốc độ tăng trưởng tín dụng trên 2 con số, với chính sách đó mục tiêu tăng trưởng của
Việt nam đã phần nào đạt được khi tốc độ tăng trung bình đạt 7,3% giai đoạn 2000-2011.
3.5 Độ sâu tài chính tốt nhưng tốc độ tăng cung tiền lớn hơn tăng GDP và gây áp lực
lên lạm phát
Hệ thống tài chính ngày càng đóng góp vai trò quan trọng của mình cho sự tăng trưởng kinh tế,
điều đó được thể hiện thông qua chỉ tiêu M2/GDP ngày càng lớn và lần đầu tiên M2/GDP vượt
ngưỡng 100% vào năm 2009. Như vậy Việt Nam đã gia nhập nhóm những nước có độ sâu tài
chính lớn, đi cùng với đó là quy mô GDP và thu nhập đầu người tăng dần qua các năm, đây là
một tín hiệu đáng mừng.
Tuy nhiên, chưa thể nói Việt Nam có một hệ thống tài chính phát triển bởi lẽ một hệ thống tài
chính tốt, suy cho cùng phải là một hệ thống đóng góp cho sự tăng trưởng và mang lại cho người
dân một chất lượng cuộc sống tốt. Thực tê Việt Nam chúng ta vẫn nằm trong nhóm những nước
có quy mô GDP thấp, đặc biệt thu nhập trên đầu người của nước ta năm 2010 chỉ là 1191
USD/người, vẫn nằm ở nhóm những nước kém phát triển.
GDP, thu nhập đầu người và độ sâu tài chính của Việt Nam
Độ sâu tài chính, quy mô GDP và GDP đầu người Việt Nam thời hậu WTO
Năm 2007 2008 2009 2010
M2/GDP (%) 91.59 93.18 103.24 110.78
GDP (USD) 71,111,309,691.06 90,273,764,945.75 97,146,622,927.77 103,571,787,096.10
GDP per capita (USD) 844.34 1,060.52 1,129.29 1,191.35
Nguồn: worldbank
Độ sâu tài chính không ngừng gia tăng qua các năm là một tín hiệu đáng mừng cho nền kinh tế.

Tuy nhiên, sở dĩ chất lượng của tăng trưởng lại chưa cao bởi lẽ M2/GDP của Việt Nam vẫn chủ

×