Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

TÌM HIỂU VỀ DÂN TỘC CHĂM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (618.3 KB, 10 trang )

DÂN TỘC CHĂM
Người Chăm, còn gọi là người Chàm, người Chiêm Bà, người Chiêm
Thành, người Hời , hiện cư ngụ chủ yếu tại Campuchia, Việt Nam, Malaysia, Thái
Lan và Hoa Kỳ. Dân số tại Việt Nam theo điều tra dân số 1999 là 132.873 người; theo
tài liệu của Ủy ban Dân tộc Chính phủ Việt Nam năm 2008 là khoảng hơn 145.000
người, xếp thứ 14 về số lượng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
1. Lịch sử
Người Chăm là một dân tộc đã từng có một quốc gia độc lập, hùng mạnh trong
lịch sử; có nền văn hóa phát triển, và là hậu duệ của các cư dân nền văn hóa Sa Huỳnh
thời kì đồ sắt. Các cộng đồng người Chăm ở Việt Nam, Campuchia, Malaysia, Hoa
Kì có quan hệ đồng tộc, đồng tôn. Ở Việt Nam người Chăm có mối liên hệ gần gũi
với các dân tộc nói các tiếng cùng thuộc nhóm ngôn ngữ Mã lai-Đa đảo như Gia Rai,
Ê Đê, RaGlai và Chu Ru.
Trước thế kỷ thứ 7 có vương quốc Lâm Ấp từ năm Sơ Bình thứ 3 nhà
Hán (192) đến năm Đại Nghiệp thứ 1 nhà Tùy (605). Sau năm 605, tình hình nước
Chăm Pa không rõ cho đến thế kỷ thứ 8. Các tên gọi khác nhau của vương quốc này
theo văn bia tiếng Phạn và tiếng Chăm cổ là Campanagara, Nagara Campa, Nagar
Cam. Còn sử sách Trung Quốc gọi là Lâm Ấp quốc (phiên âm theo tiếng Bắc Kinh
hiện nay là Lin-yi-guo), Chiêm Bà Quốc, Hoàn Vương Quốc và Chiêm
Thành quốc. Vương quốc này bắt đầu suy tàn từ đầu thế kỷ 15 sau cuộc can thiệp do
quân đội nhà Minh dưới sự chỉ huy của vua Vĩnh Lạc Đế đối với ba triều đài:nhà Hậu
Trần (Đại Việt), nhà Hồ (Đại Ngu) và triều đại Vijaya (Chăm Pa). Sau khi quân đội
nhà Minh rút về, vương quốc Chăm Pa được phục hồi nhưng chia thành 2 tiểu vương
quốc: Tiểu vương quốc Vijaya (Đồ Bàn: 1428-1471) và Tiểu vương quốc Panduranga
(Phan Rang: 1433-1832). Tiểu vương quốc Vijaya bị quân đội Đại Việt tiêu diệt dưới
sự chỉ huy của vua Lê Thánh Tông để thôn tính đất đai vào năm Hồng Đức thứ 2 nhà
Lê tức năm 1471). Năm đó, tiểu vương quốc Panduranga cũng trở thành chư hầu của
Đại Việt. Năm Hiển Tông thứ 2 chúa Nguyễn (năm Chính Hòa thứ 14 nhà Lê tức
năm 1693), Nguyễn Hữu Cảnh đã một lần chinh phục Tiểu vương quốc Panduranga,
đổi tên Chiêm Thành quốc thành Thuận Thành trấn, rồi đổi Thuận Thành trấn thành
Bình Thuận phủ. Nhưng, năm 1694, trong khi Nguyễn Hữu Cảnh tây chinh đánh


Campuchia, tướng người Chăm tên Ốc Nha Đạt và tướng người Thanh tên A Ban đã
tập hợp được đông đảo lực lượng người Chăm Pa, nổi dậy và tiêu diệt toàn bộ lực
lượng chúa Nguyễn tại đây. Chúa Nguyễn (vua Nguyễn Hiển Tông tức Nguyễn Phúc
Chu) đã bất đắc dĩ cầu hòa với người Chăm Pa và cho phép người Chăm Pa phục hồi
Thuận Thành trấn (Khu Tự trị Chăm Pa). Hòa ước giữa chúa Nguyễn và chúa Chăm
Pa được ghi rõ trong Nghị Định Ngũ Điều vào năm Hiển Tông thứ 21 (năm Vĩnh
Thạnh thứ 8 nhà Lê tức năm 1712) và được duy trì cho đến năm Minh Mạng thứ 13
(1832). Sau cải thổ quy lưu (giải thể khu tự trị) vào năm 1832, một số người Chăm liên
minh với Lê Văn Khôi, nổi dậy để phục hồi Thuận Thành trấn nhưng kết thúc thất bại.
Hậu duệ của chúa Chăm Pa có ông Dụng Gạch, một vị hoàng tử anh hùng, phó chủ
tịch ủy ban hành chính lâm thời huyện Hòa Đa (Bắc Bình ngày nay) phụ trách miền
núi sau Cách mạng tháng Tám.
Chăm Pa thừa kế Lâm Ấp được thành lập sau cuộc nổi dậy của một viên quan
địa phương (quan Công Tao) tên là Khu Liên (Kiu-lien) chống lại chính quyền nhà
Hán năm 192 tại huyện Tượng Lâm, thuộc quận Nhật Nam (ngày nay là Huế). Lãnh
thổ của Chăm Pa ngày nay thuộc thành phố Đà Nẵng và các tỉnh Quảng Bình, Quảng
Trị, Thừa Thiên-Huế,Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh
Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và một số vùng Tây Nguyên. Lâm Ấp chịu ảnh hưởng
lớn của văn hóa và tôn giáo Trung Quốc nhưng sau các cuộc chiến với quốc gia láng
giềng Phù Nam, cũng như sự thôn tính lãnh thổ của quốc gia này vào thế kỷ 4, đã hòa
trộn văn hóa Ấn Độ. Theo văn bia tiếng Phạn tại Mỹ Sơn, vua Chăm Pa và vua
Campuchia đều là hậu duệ của hoàng tử Asvattaman, một anh hùng lưu vong bạc
mệnh trong sử thi Ấn Độ Mahabarata thuộc nhà Kuru. Riêng, các chúa Panduranga thì
thuộc dõng Pandu nên Chăm Pa (Vijaya, thuộc nhà Kuru) và Panduranga (thuộc nhà
Pandu) vốn là 2 quốc gia thù địch với nhau. Sử sách Trung Quốc luôn ghi rõ 2 nước
Chiêm Thành (Chăm Pa) và Tân Đồng Long (Panduranga) là 2 quốc gia riêng.
Lịch sử của vương quốc Chăm Pa là các cuộc xung đột với Trung Quốc, Đại
Việt, Khmer và Mông Cổ, cũng như xung đột nội bộ. Chính là do các cuộc xung đột
này mà Chăm Pa mất dần lãnh thổ vào tay Đại Việt, một quốc gia có tổ chức chính
quyền và quân sự tốt hơn. Chăm Pa trong quá khứ là một nước chư hầu của các triều

đại phong kiến Trung Quốc và Đại Việt nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa và sự
toàn vẹn lãnh thổ. Người Chăm Pa là những chiến binh giỏi đã sử dụng địa hình đồi
núi để chiếm ưu thế. Năm Hồng Đức thứ 2 nhà Lê (1471), Tiểu vương quốc Vijaya
chịu tổn thất nặng nề trong cuộc chiến với Đại Việt dưới triều đại vua Lê Thánh Tông.
Khoảng 60.000 quân Chăm Pa bị giết và 30.000 bị bắt làm tù binh. Ngược lại, Tiểu
vương quốc Panduranga tiếp tục phát triển dưới sự bảo trợ của chúa Nguyễn và vua
Gia Long (Nguyễn Thế Tổ) trong các vùng thung lũng Phan Rang, Phan Rí và Phan
Thiết. Tuy nhiên vua Minh Mạng đã không quan tâm Chăm Pa như vua cha nữa và thủ
tiêu cơ chế tự trị của Thuận Thành trấn vào năm Minh Mạng thứ 13 nhà Nguyễn
(1832).
2. Phân bố dân cư
Trên lãnh thổ Việt Nam có khoảng 145.235 người Chăm sinh sống, sống rải rác ở
các tỉnh phía Nam như Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình
Thuận, Đồng Nai,Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, An Giang, Do đặc điểm cư
trú, tính chất tôn giáo và sắc thái văn hóa mang tính vùng miền, người Chăm ở Việt
Nam được chia thành 3 nhóm cộng đồng chính là: Chăm H'roi, Chăm Ninh Thuận -
Bình Thuận, và Chăm Nam Bộ.
- Chăm H'roi bao gồm những người Chăm sống rải rác ở miền núi các tỉnh Phú
Yên, Bình Định; tổng số khoảng 20.500 người. Người Chăm Hroi có nguồn gốc từ
những người Chăm cổ là một bộ phận của cộng đồng Chăm Việt Nam và từ lâu được
gọi là Chăm Hroi. Người Chăm Hroi theo tín ngưỡng dân gian chịu ảnh hưởng từ đạo
Bàlamôn.
- Chăm Ninh Thuận - Bình Thuận hay Đông Chăm gồm những người Chăm cư
trú ở Ninh Thuận, Bình Thuận, có tên gọi là Campaduraga; tổng số khoảng 98.000
người (Ninh Thuận: 66.000; Bình Thuận: 32.000), đây là nhóm cộng đồng Chăm
lớn nhất chiếm khoảng 67,60% tổng số người Chăm ở Việt Nam. Người Chăm
Ninh Thuận-Bình Thuận có hai nhóm chính phân theo tín ngưỡng là Chăm Ahiêr
(Chăm Bàlamôn) và Chăm Awal (Chăm Bàni). Ngoài ra còn có một nhóm nhỏ
người Chăm Bàni đã cải sang theo Hồi giáo chính thống vào thập niên 1960 do tiếp
xúc với người Chăm Nam Bộ.

- Chăm Nam Bộ hay Tây Chăm bao gồm những người Chăm sinh sống chủ yếu ở
An Giang, thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh; tổng số khoảng 26.700 người. Cộng
đồng này đến từ Campuchia, và có nguồn gốc xa hơn nữa lại từ Nam Trung Bộ
Việt Nam như hai cộng đồng trên. Sự hình thành nhóm Chăm Nam Bộ khởi đầu từ
năm 1819, khi vị tướng triều Nguyễn Thoại Ngọc Hầu bắt đầu huy động sức người
để đào kênh Vĩnh Tế, đã có nhiều người Chăm từ Campuchia được tuyển mộ, sau
khi con kênh được đào xong họ được thưởng công và cấp đất sinh sống tại đây nên
còn được gọi là Chăm Châu Đốc. Sau đó tiếp tục có thêm người Chăm từ
Campuchia tới, cũng như nhiều người Chăm Châu Đốc tới sống ở các tỉnh Nam Bộ
khác. Trong nhóm người Chăm này có một thành phần là người gốc Malaysia được
gọi Chăm Chà-và (liên hệ tới đảo Java, do không phân biệt được người Java tới từ
Indonesia và người Mã lai nên hai nhóm này được gọi chung là Java). Người
Chăm Nam Bộ theo Hồi giáo chính thống nên còn được gọi là Chăm Islam.
Cộng đồng Chăm ở Campuchia, Malaysia và Thái Lan có nguồn gốc từ miền
Trung Việt Nam, di cư khỏi vùng đất cũ của mình do sự Nam tiến của Đại Việt cách
đây nhiều thế kỷ. Đa số họ theo Hồi giáo Sunni và có tiếp xúc chặt chẽ với người
Malaysia và Indonesia do có cùng tôn giáo và ngôn ngữ cùng thuộc nhóm Mã lai- Đa
đảo. Ở Campuchia, do tôn giáo của mình mà người Chăm còn được gọi là Khmer
Islam; một vài người đã tới Nam Bộ Việt Nam và hình thành nhóm Chăm thứ ba như
đã nói ở trên.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Chăm ở Việt Nam có dân số
161.729 người, cư trú tại 56 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Chăm cư trú tập
trung tại các tỉnh: Ninh Thuận (67.274 người, chiếm 41,6% tổng số người Chăm tại
Việt Nam), Bình Thuận (34.690 người, chiếm 21,4% tổng số người Chăm tại Việt
Nam), Phú Yên(19.945 người), An Giang (14.209 người), thành phố Hồ Chí
Minh (7.819 người), Bình Định (5.336 người), Đồng Nai (3.887 người), Tây
Ninh (3.250 người)
3. Tín ngưỡng tôn giáo
Tôn giáo đầu tiên của Chămpa là 1 dạng của Ấn giáo Shaivite, tới từ Ấn Độ qua
đường biển. Khi các thương gia Ả Rập dừng chân ở miền duyên hải Trung bộ Việt

Nam trên đường tới Trung Hoa, Hồi giáo (Islam) bắt đầu ảnh hưởng tới văn hóa của
người Chăm.
Không rõ chính xác khi nào Hồi giáo tới Champa nhưng các di chỉ ngôi mộ có
niên đại vào thế kỷ 11 đã được phát hiện. Nhìn chung người ta cho rằng Hồi giáo tới
Đông Dương nhiều sau khi đã tới Trung Quốc trong suốt thời kì nhà Đường (618–
907), và các nhà buôn Ả rập trong vùng đã tiếp xúc trực tiếp với người Chăm chứ
không phải với các dân tộc khác. Điều này có thể giải thích tại sao chỉ có người Chăm
theo Hồi giáo một cách truyền thống trong vùng Đông Dương.
Đa số người Chăm, đặc biệt là ở Campuchia, theo Hồi giáo và duy trì các trụ
cột của nó bao gồm cả cầu nguyện năm lần một ngày, ăn chay trong tháng Ramadan và
thực hiện hành hương hại đến thánh địa Mecca. Từ nhiều năm nay, các đại diện từ
Campuchia đã tham gia vào cuộc thi quốc tế ngâm thơ Kinh Qur'an tại Kuala Lumpur.
Các cộng đồng người Hồi giáo Chăm ở Campuchia điều hành các trường học tôn giáo,
và được đứng đầu bởi một Mufti. Tuy nhiên, một nhóm nhỏ người Chăm, tự gọi mình
Kaum Jumaat, theo một sự thích nghi thần học Hồi giáo được địa phương hóa, theo đó
họ cầu nguyện chỉ vào thứ Sáu và tổ chức Ramadan chỉ trong ba ngày. Tuy vậy, trong
những năm gần đây, một số thành viên của nhóm này đã tham gia vào cộng đồng
Chăm Hồi giáo lớn hơn trong các thực hành tôn giáo. Một trong những yếu tố dẫn đến
sự thay đổi này là ảnh hưởng từ các thành viên trong gia đình của họ đã ra nước ngoài
để nghiên cứu về Hồi giáo.
Có khoảng 60.000 người Chăm theo Ấn giáo (Hinduism) và ngày nay không có
một hệ thống đẳng cấp nghiêm ngặt, dù trước đó họ có thể đã được chia thành đẳng
cấp Nagavamshi Kshatriya

cùng với 1 thiểu số đẳng cấp Brahmin có vai vế
[5]
. Các đền
Hindu được gọi là Bimong trong tiếng Chăm nhưng cũng thường được gọi là Tháp.
Các thầy tế lễ được chia thành 3 cấp, cấp bậc cao nhất được gọi là Po Adhia hay Po
Sá, tiếp theo là Po Tapáh và thấp nhất là Po Paséh.

Người Chăm ở Việt Nam về mặt tín ngưỡng có 3 nhóm chính: Chăm
Bàlamôn ở Ninh Thuận-Bình Thuận theo Bàlamôn giáo (Ấn giáo) dung hợp với tín
ngưỡng dân gian; Chăm Bàni ở Ninh Thuận-Bình Thuận theo Hồi giáo Bàni, là 1
dạng Hồi giáo đã bị bản địa hóa sâu đậm; và Chăm Islam ở An Giang và Nam Bộ
theo Hồi giáo chính thống, dòng Sunni phái Shafi'i, họ tiếp tục duy trì mối liên hệ gắn
bó với thế giới Hồi giáo bên ngoài, chủ yếu thông qua Hồi giáo ở Đông Nam Á
như Malaysia. Ngoài ra, cộng đồng Chăm H'roi ở miền núi theo tín ngưỡng dân gian
cũng có thể xếp vào nhóm thứ nhất. Tại tỉnh Ninh Thuận, nơi có nhiều người Chăm ở
Việt Nam cư trú, có khoảng 44.000 người Chăm Balamôn và gần 31.000 người Chăm
Bani. Trong số 34 làng Chăm ở Ninh Thuận, có 23 làng Balamôn và 11 làng Bani
[6]
.
Tại tỉnh Bình Thuận, nơi có 4 làng toàn người Chăm và 9 làng hỗn hợp thì có gần
25.000 người Chăm Balamôn và khoảng 10.000 người Chăm Bani
[7]
.
4. Đặc điểm kinh tế
Chăm là một dân tộc có nhiều ngành nghề truyền thống lâu đời như thêu, dệt,
làm đồ gốm, làm gạch, chế tạo công cụ sản xuất, buôn bán, đóng thuyền, đánh cá, điêu
khắc đặc biệt là nghề trồng lúa nước được người Chăm phát triển từ rất sớm và luôn
có những cải tiến về giống và thủy lợi.
Người Chăm sống ở đồng bằng, có truyền thống sản xuất lúa nước là chính. Kỹ
thuật thâm canh lúa nước bằng các biện pháp giống, phân bón, thủy lợi khá thành thạo.
Hai nghề thủ công nổi tiếng là đồ gốm và dệt vải sợi bông. Trước kia, người Chăm
không trồng cây trong làng vì cho rằng cây sẽ là nơi cư trú của ma quỉ.
5. Hôn nhân, nhà cửa
Chế độ mẫu hệ và tín ngưỡng nữ thần vẫn tồn tại ở người Chăm. Đàn ông lo
việc ngoài nhà, đàn bà lo việc trong gia đình và gia phả. Phong tục Chăm qui định con
theo họ mẹ, họ bên mẹ được xem là gần (họ nội). Nhà gái cưới chồng cho con. Con
trai ở rể nhà vợ, đến khi chết đi nhà vợ có trách nhiệm thờ cúng đến hết tang, sau đó

mang hài cốt về trả lại cho dòng họ nhà trai tiếp tục thờ. Chỉ con gái được thừa kế tài
sản, người con gái út được thừa kế nhà tự để thờ cúng ông bà và phải nuôi dưỡng cha
mẹ già.
Nhà ở của người Chăm là một quần thể nhà trong một khuôn viên (bây giờ do việc
quy họach phân lô đất theo kiểu nhà liên kế hẹp nên việc phát triển nhà theo quần thể
trong một khuôn viên dần không còn nữa). Mối quan hệ của các nhà trong quần thể
này đã thể hiện quá trình tan vỡ của hình thái gia đình lớn mẫu hệ để trở thành các gia
đình nhỏ.
Bộ khung nhà của người Chăm ở Bình Thuận khá đơn giản. Vì cột cơ bản là vì ba
cột (kèo được liên kết với cột hoặc không có vì kèo thì dùng tường thay thế kèo).
Nếu là vì năm cột thì có thêm xà ngang đầu gác lên cây đòn tay cái nơi hai đầu cột
con. Từ các kiểu vì này dần xuất hiện cây kèo và trở thành vì kèo.
Mặt trước nhà quay về hướng Nam hoặc hướng Tây. Gian giữ là trung tâm (người
Chăm gọi là sang-yơ), phía phải là phòng ngủ của bố mẹ, bên trái là kho, sau là
phòng ngủ của con cái. Mặt trước có một hiên ở giữa nhà.
Nhà bếp được xây dựng riêng biệt với nhà chính và ở phía Tây nhà chính, trong
nhà bếp có khu bếp, khu chứa nước uống và kho chất đốt (củi, than, v.v.).
Nhà người Chăm ở miền Nam lại rất khác.
Nhà người Chăm ở An Giang: cách tổ chức mặt bằng sinh hoạt còn phảng phất cái
hình đồ sộ của nhà sang yơ ở Bình Thuận.
Nhà người Chăm ở Châu Đốc: khuôn viên của nhà Chăm Châu Đốc không còn
nhiều nhà mà chỉ có nhà chính và nhà phụ kết hợp thành hình thước thợ. Chuồng
trâu bò và lợn được làm xa nhà ở.
Nhà ở là nhà sàn, chân rất cao để phòng ngập lụt. Cách bố trí trên mặt bằng sinh
hoạt hoàn toàn khác với nhà ở Bình Thuận cũng như ở An Giang.
6. Trang phục
- Trang phục nam
Trang phục cổ truyền: Đàn ông lớn tuổi thường để tóc dài, quấn khăn. Đó là
loại khăn màu trắng có dệt thêu hoa văn màu nhạt (vànghoặc bạc), ở hai đầu khăn có
các tua vải. Khăn đội theo lối chữ nhân. Những vị có chức sắc (tôn giáo), hai đầu khăn

có hoa văn màu vàng, tua vải màu đỏ, quấn thả ra hai mang tai. Nam mặc áo có cánh
xếp chéo và cài dây phía bên hông (thắt lưng), thường là áo màu trắng, trong là quần
soọc, ngoài quấn váy xếp.
- Trang phục nữ
Về cơ bản, phụ nữ các nhóm Chăm thường đội khăn. Cách hoặc là phủ trên mái
tóc hoặc quấn gọn trên đầu, hoặc quấn theo lối chữ nhân, hoặc với loại khăn to quàng
từ đầu rồi phủ kín vai. Khăn đội đầu chủ yếu là màu trắng, có loại được trang trí hoa
văn theo lối viền các mép khăn (khăn to), nhóm Chăm Hroi thì đội khăn màu chàm. Lễ
phục thường có chiếc khăn vắt vai ngoài chiếc áo dài màu trắng. Đó là chiếc khăn dài
tới 23 m vắt qua vai chéo xuống hông, được dệt thêu hoa văn cẩn thận với các màu đỏ,
trắng, vàng của các mô tip trong bố cục của dải băng.
Nữ mặc áo cổ tròn cài nút phía trước ngực xuống đến bụng, quấn váy xếp (khi
làm lễ) hoặc mặc váy ống (thông thường), đầu quấn khăn không ràng buộc về màu sắc.
Nhóm Khánh Hòa và một số nơi, phụ nữ mặc quần bên trong áo dài. Nhóm
Chăm Hroi mặc váy quấn (hở) có miếng đáp sau váy.
Nhóm Quảng Ngãi mặc áo cánh xẻ ngực, cổ đeo vòng và các chuỗi hạt cườm.
Trang phục Chăm, vì có nhóm cơ bản là theo đạo Hồi nên cả nam và nữ lễ phục
thiên về màu trắng. Có thể thấy đặc điểm trang phục là lối tạo hình áo (khá điển hình)
là lối khoét cổ và can thân và nách từ một miếng vải khổ hẹp (hoặc can với áo dài)
thẳng ở giữa làm trung tâm áo cho cả áo ngắn và áo dài. Mặt khác có thể thấy ở đây
duy nhất là tộc còn thấy nam giới mặc váy ở nước ta với lối mang trang phục và phong
cách thẩm mỹ riêng.

×