Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

tài liệu ôn thi triết học mác lenin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.34 KB, 59 trang )

Tài liệu ôn thi triết học Mác-LêNin
Để tạo điều kiện cho anh chị em trong lớp tiếp cận
với nhiều dạng tài liệu tham khảo, chúng tôi xin đăng
tài liệu ôn thi do bác lớp trưởng Kiều Văn Lành đóng
góp. Đồng thời cũng mong nhận được tài liệu đóng góp
của các thành viên khác. Bài đóng góp gửi vào blog
bằng cách gửi vào ô nhận xét cuối mỗi bài hoặc e-mai:
Chân thành cảm ơn mọi người
đã hợp tác.
Câu 1: Phân tích những điều kiện ra đời của triết
học Mác và nêu những giai đoạn chủ yếu trong
sự hình thành và phát triển của triết học Mác –
Lenin.
1.1. Những điều kiện ra đời của triết học Mác
Triết học Mác, cũng như các hệ thống triết học
trước đó, đều ra đời dựa trên những điều kiện kinh tế-
xã hội nhất định:
1. Điều kiện về kinh tế-xã hội
- Chủ nghĩa tư bản đã bước sang giai đoạn mới
- Triết học Mác ra đời trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản
đã bước sang giai đoạn mới nhờ tác động của cách
mạng công nghiệp, đã tạo ra một lực lượng sản xuất vô
cùng to lớn so với các thời kỳ trước đó.
- Mâu thuẩn xã hội vốn có của nó bộc lộ ngày càng gay
gắt
- Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho những
mâu thuẩn xã hội vốn có của nó bộc lộ ngày càng gay
gắt, nhiều cuộc đấu tranh giai cấp đã nổ ra, đi từ thấp
đến cao, từ tự phát đến tự giác, từ dân sinh đến dân
chủ; giai cấp tư sản không còn là giai cấp cách mạng,
giai cấp vô sản trở thành một lực lượng chính trị lớn


mạnh, là giai cấp tiên tiến nhất, cách mạng nhất.
- Triết học Mác ra đời là tất yếu khách quan
- Từ thực tiển xã hội, nhất là từ thực tiển cách mạng
của giai cấp vô sản đã nảy sinh một yêu cầu mang tính
khách quan là phải được soi sáng bằng một lý luận
khoa học. Sự ra đời của Triết học Mác, là một tất yếu
khách quan, là sự giải đáp về mặt lý luận những vấn đề
thời đại đang đặt ra trên lập trường của giai cấp vô sản.
2. Điều kiện về mặt lý luận và những tiền đề khoa học
tự nhiên
- Sự kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng
nhất của tư duy triết học
- Sự ra đời của Triết học Mác phù hợp với quy luật của
lịch sử tư tưởng nhân loại; là sự kế thừa và phát triển
những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết học
nhân loại, nó được Mác và Anghen sáng tạo ra và được
Lênin phát triển một cách xuất sắc.
- Xây dựng học thuyết triết học mới, trong đó chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau
một cách hữu cơ.
- Các ông vừa phê phán chủ nghĩa duy tâm, vừa đánh
giá cao tư tưởng biện chứng của triết học Heghen, của
Phơbach, cải tạo chúng và xây dựng nên học thuyết
triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ; đó là chủ
nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét giới tự
nhiên, xã hội và tư duy con người.
- Triết học Mác ra đời trong sự tác động qua lại với quá
trình các ông kế thừa và cải tạo học thuyết kinh tế
chính trị Anh và lý luận về Chủ nghĩa xã hội.

- Vai trò quan trọng của những thành tựu khoa học tự
nhiên
- Những thành tựu khoa học tự nhiên có vai trò rất
quan trọng trong sự ra đời của triết học Mác; những
phát minh lớn của khoa học tự nhiên, như: định luật
bảo toàn năng lượng, thuyết tế bào và thuyết tiến hóa
của Đacuyn làm bộc lộ rõ tính hạn chế và bất lực của
phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhận thức thế
giới, đồng thời cung cấp cơ sở khoa học để phát triển tư
duy biện chứng, hình thành phép biện chứng duy vật.
Tóm lại, Triết học Mác cũng như toàn bộ Chủ nghĩa
Mác ra đời như một tất yếu lịch sử, không những vì nó
là sự phản ảnh thực tiển xã hội, nhất là thực tiển cách
mạng của giai cấp vô sản mà còn là sự phát triển hợp
quy luật của lịch sử tư tưởng nhân loại.
1.2. Những giai đoạn chủ yếu trong sự hình thành và
phát triển của triết học Mác
1. Giai đoạn Mác-Ăngghen
a) Quá trình chuyển biến tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăngghen từ chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa dân
chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
cộng sản.
- Bước đầu hoạt động chính trị - xã hội và khoa học của
C.Mác và Ph.Ăngghen.
- Một số tác phẩm chủ yếu:
* Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrit và
triết học tự nhiên của Êpiquya. (C.Mác).
* Những bức thư từ vesphali (bài báo của
Ph.Ăngghen).
* Sêlinh và sự linh báo (Ph.Ăngghtn)

- Sự chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa
duy vật biện chứng và từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng
sang chủ nghĩa xã hội khoa học của C.Mác và
Ph.Ăngghen.
- C.Mác làm biên tập viên cho Báo Sông Ranh (từ 1842
– 1843).
- Một số tác phẩm chủ yếu:
* Góp phần phê phán triết học Pháp quyền của Hê
ghen, lời nói đầu (C.Mác, 1943).
* Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị (Ph.
Ăngghen, 1844).
b) Thời kỳ đề xuất những nguyên lý triết học duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử.
- Đây là thời kỳ từ 1844 đến 1848, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã từng bước xây dựng những nguyên lý
triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Một số tácphẩm tiêu biểu của giai đoạn này:
* Bản thảo kinh tế triết học năm 1844 (C.Mác).
* Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh (Ph.Ăngghen,
1845).
* Gia đình thần thánh (C.Mác – Ph.Ăngghen, 1845).
* Luận cương về Phoi ơ bắc (C.Mác, 1945)
* Hệ tư tưởng Đức (C.Mác – Ph.Ăngghen, 1846).
* Sự khốn cùng của triết học (C.Mác, 1847).
* Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (C.Mác –
Ph.Ăngghen, 1848).
c) Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát
triển những quan điểm triết học.
- Đây là giai đoạn đoạn từ 1848 – 1886, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã hoàn chỉnh những tư tưởng triết học

của mình.
- Một số tác phẩm chủ yếu của giai đoạn này:
* Đấu tranh giai cấp ở Pháp (C.Mác, 1850).
* Cách mạng và phản cách mạng ở Đức (Ph.Ăngghen,
1852).
* Ngày mười tám tháng Sương mù của Lui Bônapactơ
(C.Mác, 1852).
* Tư bản (C.Mác, 1867).
* Phê phán cương lĩnh Gôta (C.Mác, 1875).
* Chống Đuy rinh (Ph.Ăngghen, 1878)
* Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước (Ph.Ăngghen, 1884).
* Biện chứng của tự nhiên (Ph.Ăngghen, 1886).
* Lút vích phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ
điển Đức (Ph.Ăngghen, 1886).
2. V.I. Lênin phát triển triết học Mác.
a) Hoàn cảnh lịch sử
- Chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa.
- Những thành tựu của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX.
- Có nhiều khuynh hướng triết học đối lập với triết học
Mác.
b) Nội dung cơ bản của quá trình Lênin phát triển triết
học Mác.
- Giai đoạn 1893 – 1907.
+ Một số tác phẩm chủ yếu:
* Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh
chống những người dân chủ - xã hội ra sao (1894).
* Làm gì (1902)

* Hai sách lược của Đảng dân chủ - xã hội trong cách
mạng dân chủ (1905).
- Giai đoạn từ 1907 đến cách mạng xã hội chủ nghĩa
tháng Mười Nga 1917.
Một số tác phẩm chủ yếu của thời kỳ này:
* Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán (1909).
* Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa
Mác (1913).
* Bút ký triết học (1916).
* Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa
tư bản (1916).
* Nhà nước và cách mạng (1917).
* Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản
(1920).
* Về chính sách kinh tế mới (1921).
* Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu (1922).
3. Thực chất của cuộc cách mạng trong triết học do
C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện, Lênin phát triển.
a) Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng.
b) Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử.
c) Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn.
d) Thống nhất giữa tính khoa học với tính cách mạng.
e) Xác định đúng đắn mối quan hệ giữa triết học với
các khoa học cụ thể.
4. Triết học Mác-Lênin trong thời đại hiện nay.
a) Những biến đổi của thời đại.
b) Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết
học Mác-Lênin trong thời đại hiện nay.

Câu 2: Khái niệm thế giới quan, các hình thức
thế giới quan, bản chất và những nguyên tắc
phương pháp luận của thế giới quan duy vật biện
chứng và việc vận dụng chúng vào sự nghiệp đổi
mới ở nước ta hiện nay?
1. Khái niệm thế giới quan duy vật biện chứng thế giới
quan DVBC là thế giới quan mà cơ sở của nó là duy vật
và cách tiếp cận là biện chứng
Là hệ thống các quan điểm của con người về thế giới, là
hệ thống các phương pháp nhận thức và cải tạo thế
giới, là hệ thống các giá trị để con người đánh giá và
điều chỉnh các hành vi trong hoạt động của mình. Nó
là khoa học về các quy luật chung nhất của sự vận động
phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy về các quy luật
hệ thống.
2. Hình thức thế giới quan duy vật biện chứng (Nội
dung)
Nội dung = Hình thức? Nội dung của phép biện chứng
duy vật bao gồm 2 nguyên lý (nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến và nguyên lý về sự phát triển), 3 quy luật cơ
bản (quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập, quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những
thay đổi về chất và ngược lại, quy luật phủ định của phủ
định) và 6 cặp phạm trù với tính cách là những quy
luật không cơ bản (cái chung và cái riêng; nội dung và
hình thức; nguyên nhân và kết quả; bản chất và hiện
tượng; tất nhiên và ngẫu nhiên; khả năng và hiện thực)
.
3. Bản chất của thế giới quan duy vật biện chứng
Bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng được thể

hiện ở việc giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết
học trên quan điểm thực tiễn, ở sự thống nhất hữu cơ
giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng, ở quan
niệm duy vật triệt để và ở tính thực tiễn cách mạng của
nó.
- Giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên
quan điểm thực tiễn
Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa tư duy
và tồn tại. Ở đây mối quan hệ này được hiểu là mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức. Bằng việc đưa quan
điểm thực tiễn vào hoạt động nhận thức, đặc biệt việc
thấy vai trò quyết định của hoạt động sản xuất vật chất
đối với sự tồn tại và sự phát triển của xã hội, các nhà
duy vật biện chứng đã khắc phục được hạn chế của chủ
nghĩa duy vật trước đó để giải quyết thoả đáng các vấn
đề cơ bản của triết học.
- Sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với
phép biện chứng
Trước Mác, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng về
cơ bản bị tách rời nhau. Chủ nghĩa duy vật tuy có chứa
đựng một số tư tưởng biện chứng nhất định, nhưng
nhìn chung phương pháp siêu hình giữ vai trò giữ vai
trò thống trị đặc biệt trong chủ nghĩa duy vật thế kỷ
XVII – XVIII.
Trong khi đó, phép biện chứng lại đạt đến đỉnh cao ở
chủ nghĩa duy tâm với quan niệm về sự phát triển của
“ý niệm tuyệt đối” trong triết học cổ điển Đức. Việc
tách rời giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng
đã không chỉ làm các nhà duy tâm mà ngay cả các nhà
duy vật trước Mác không hiểu về mối liên hệ phổ biến,

về sự thống nhất và nối tiếp nhau của các sự vật hiện
tượng trong thế giới vật chất.
Với việc kế thừa những tư tưởng hợp lý của các học
thuyết trước đó, với việc tổng kết thành tựu các khoa
học của xã hội đương thời, C. Mac và Ăngghen đã giải
thoát thế giới quan duy vật khỏi hạn chế siêu hình và
cứu phép biện chứng khỏi tính chất duy tâm thần bí để
hình thành nên chủ nghĩa duy vật biện chứng với sự
thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép
biện chứng.
- Quan niệm duy vật triệt để (duy vật cả về mặt xã hội)
Chủ nghĩa duy vật trước Mác là chủ nghĩa duy vật
không triệt để. Khẳng định sản xuất vật chất là cơ sở
của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định
quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói
chung, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và coi sự
phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử
- tự nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục
được tính không triệt để của chủ nghĩa duy vật cũ.
- Tính thực tiễn - cách mạng
Tính thực tiễn - cách mạng của chủ nghĩa duy vật biện
chứng trước hết thể hiện ở:
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng là vũ khí lý luận của
giai cấp vô sản
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ giải thích
thế giới mà còn đóng vai trò cải tạo thế giới.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ giải thích
thế giới mà còn đóng vai trò cải tạo thế giới.
4. Những nguyên tắc phương pháp luận của thế giới
quan duy vật biện chứng

Nguyên tắc luận được rút ra để định hướng cho hoạt
động của con người là: Trong hoạt động thực tiễn và
nhận thức, con người phải tôn trọng khách quan đồng
thời phải phát huy tính năng động chủ quan của mình.
4.1. Tôn trọng khách quan: Tôn trọng khách quan là
tôn trọng vai trò quyết định của vật chất. Điều này đòi
hỏi trong nhận thức và hành động con người phải xuất
phát từ thực tế khách quan, lấy khách quan làm cơ sở,
phương tiện cho hành động của mình.
- Một số biểu hiện của việc tôn trọng khách quan:
+ Mục đích, đường lối, chủ trương con người đặt ra
không được xuất phát từ ý muốn chủ quan mà phải
xuất phát từ hiện thực, phản ánh nhu cầu chín muồi và
tính tất yếu của đời sống vật chất trong từng giai đoạn
cụ thể.
+ Tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã
rút ra kết luận mang tính định hướng là: “Mọi đường
lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn
trọng quy luật khách quan”.
- Khi đã có mục đích, đường lối, chủ trương đúng, phải
tổ chức được lực lượng vật chất để thực hiện nó.
4.2. Phát huy tính năng động chủ quan: Phát huy tính
năng động chủ quan là phát huy tính tích cực, năng
động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò của nhân
tố con người trong việc vật chất hoá những tính chất
ấy.
- Một số biểu hiện cơ bản của nó là:
Phải tôn trọng tri thức khoa học, phải làm chủ tri thức
khoa học và truyền bá tri thức khoa học vào quần
chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin định hướng

cho quần chúng hành động.
Như vậy, tôn trọng khách quan, phát huy tính năng
động chủ quan vừa là những ý nghĩa phương pháp luận
cơ bản, vừa là những yêu cầu có tính nguyên tắc trong
hoạt động thực tiễn.
5. Vận dụng thế giới quan duy vật biện chứng vào sự
nghiệp đổi mới của đất nước ta hiện nay
- Ở Việt Nam, trong khoảng 10 năm sau khi thống nhất
đất nước, bên cạnh những thành tựu đạt được chúng ta
nôn nóng, tách rời hiện thực, vi phạm nhiều quy luật
khách quan trong đó quan trọng nhất là quy luật về sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất nên đã phạm một số sai lầm
trong việc xác định mục tiêu, xác định các bước xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo XHCN và quản lý
kinh tế.
- Ngày nay, với quan điểm cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng, chúng ta xác định: “Động lực chủ yếu để
phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở
liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do
Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập
thể và xã hội phát huy mọi tiềm năng và mọi nguồn lực
của các thành kinh tế và của toàn xã hội” cũng chính là
tạo lực lượng vật chất để thực hiện nhiệm vụ cách mạng
trong giai đoạn mới.
- Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của khoa học
trong bối cảnh phức tạp của thế giới hiện nay, đối với
cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta khẳng định
“giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là
quốc sách hàng đầu”. Việc đầu tư có trọng điểm trong

hệ thống giáo dục và nghiên cứu khoa học, việc chủ
trương xã hội hoá giáo dục để “cả nước trở thành một
xã hội học tập”
Câu 3: Trình bày lịch sử của phép biện chứng,
những nội dung cơ bản của phép biện chứng và
sự vận dụng những nguyên tắc phương pháp
luận được rút ra từ sự nghiệp đổi mới ở nước ta
hiện nay
Phương pháp biện chứng là phương pháp:
+ Nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ với
nhau, ảnh hưởng nhau, ràng buộc nhau.
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi,
nằm trong khuynh hướng chung là phát triển. Đây là
quá trình thay đổi về chất của các sự vật, hiện tượng
mà nguồn gốc của sự thay đổi ấy là đấu tranh của các
mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn nội tại của chúng.
Như vậy phương pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm
dẻo, linh hoạt. Nó thừa nhận trong những trường hợp
cần thiết thì bên cạnh cái "hoặc là hoặc là " còn có
cả cái "vừa là vừa là " nữa; thừa nhận một chỉnh thể
trong lúc vừa là nó lại vừa không phải là nó; thừa nhận
cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ nhau lại vừa
gắn bó với nhau.
Phương pháp biện chứng phản ánh hiện thực đúng như
nó tồn tại. Nhờ vậy, phương pháp tư duy biện chứng
trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận
thứcvà cải tạo thế giới.
2. Các giai đoạn phát triển cơ bản của phép biện chứng
Cùng với sự phát triển của tư duy con người, phương
pháp biện chứng đã qua ba giai đoạn phát triển, được

thể hiện trong triết học với ba hình thức lịch sử của nó:
phép biện chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm và
phép biện chứng duy vật.
+ Hình thức thứ nhất là phép biện chứng tự phát thời
cổ đại. Các nhà biện chứng cả phương Đông lẫn
phương Tây thời kỳ này đã thấy các sự vật, hiện tượng
của vũ trụ sinh thành, biến hóa trong những sợi dây
liên hệ vô cùng tận. Tuy nhiên, những gì các nhà biện
chứng hồi đó thấy được chỉ là trực kiến, chưa phải là
kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.
+ Hình thức thứ hai là phép biện chứng duy tâm. Đỉnh
cao của hình thức này được thể hiện trong triết học cổ
điển Đức, người khởi đầu là Cantơ và người hoàn thiện
là Hêghen. Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử phát
triển của tư duy nhân loại, các nhà triết học Đức đã
trình bày một cách có hệ thống những nội dung quan
trọng nhất của phương pháp biện chứng. Song theo họ
biện chứng ở đây bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở
tinh thần, thế giới hiện thực chỉ là sự sao chép ý niệm
nên biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức là
biện chứng duy tâm.
+ Hình thức thứ ba là phép biện chứng duy vật. Phép
biện chứng duy vật được thể hiện trong triết học do
C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, sau đó được V.I.Lênin
phát triển. C.Mác và Ph.Ăngghen đã gạt bỏ tính chất
thần bí, kế thừa những hạt nhân hợp lý trong phép
biện chứng duy tâm để xây dựng phép biện chứng duy
vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến
và về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất.
Câu 5: Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm

toàn diện và quan điểm phát triển? Vận dụng
quan điểm toàn diện và phát triển như thế nào
trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta hiện nay?
1. Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn
- Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn là một trong những nguyên tắc
phương pháp luận cơ bản, quan trọng của phép biện
chứng duy vật. Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện
là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Nguyên tắc toàn
diện đòi hỏi, muốn nhận thức được bản chất của sự vật
hiện tượng chúng ta phải xem xét sự tồn tại củ nó trong
mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, thuộc tính
khác nhau trong tính chỉnh thể của sự vật, hiện tượng
ấy và trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật hiện tượng
đó với sự vật, hiện tượng khác, tránh xem xét phiến
diện một chiều.
- Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét, đánh giá
từng mặt, từng mối liên hệ, và phải nắm được đâu là
mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy định sự vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng. Trong nhận thức,
nguyên tắc toàn diện là yêu cầu tất yếu của phương
pháp tiếp cận khoa học, cho phép tính đến mọi khả
năng của vận động, phát triển có thể có của sự vật, hiện
tượng đang nghiên cứu, nghĩa là cần xem xét sự vật,
hiện tượng trong một chỉnh thể thống nhất với tất cả
các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, cùng
các mối quan hệ của chúng.
- Nguyên tắc toàn diện còn đòi hỏi để nhận thức được
sự vật, hiện tượng chúng ta cần xem xét nó trong mối

liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Mối liên hệ
giữa sự vật, hiện tượng với nhu cầu của con người rất
đa dạng.
- Nguyên tắc toàn diện đối lập với cách nhìn phiến
diện, một chiều; đối lập với chủ nghĩa chiết trung và
thuật ngữ nguỵ biện.
2. Nguyên tắc phát triển trong nhận thức và nhận thức
- Nguyên tắc phát triển cũng là một trong những
nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của
hoạt động nhận thức thực tiễn. Cơ sở lý luận của
nguyên tắc phát triển là nguyên lý về sự phát triển của
phép biện chựng duy vật. Theo đó, sự phát triển là vận
động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển
là trường hợp đặc biệt của sự đặc biệt của sự vận động
và trong sự phát triển sẽ nảy sinh những tính quy định
quy định mới, cao hơn về chất, nhờ đó, làm cho cơ cấu
tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự việc,
hiện tượng cùng chức năng của nó ngày càng hoàn
thiện hơn. Do vậy, để nhận thức được sự tự vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng chúng ta phải thấy
được sự thống nhất giữa sự biến đổi về lượng với sự
biến đổi về chất trong quá trình phát triển, phải chỉ ra
được nguồn gốc và động lực bên trong, nghĩa là tìm ra
và biết cách giải quyết mâu thuẫn, phải xác định xu
hướng phát triển của sự vật, hiện tượng do sự phủ định
biện chứng quy định; coi phủ định là tiền đề cho sự ra
đời của sự vật hiện tượng mới.
- Nguyên tắc phát triển yêu cầu, khi xem xét sự vật,
hiện tượng phải đặt nó trong trạng thái vận động, biến

đổi chuyển hoá để không chỉ nhận thức sự vật, hiện
tượng trong trạng thái hiện tại mà còn thấy được
khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai, nghĩa
là phải phân tích để làm rõ những biến đổi của sự vật,
hiện tượng.
- Nguyên tắc phát triển yêu cầu, phải nhận thức sự
phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển lại có
những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau.
- Nguyên tắc phát triển đòi hỏi trong hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn phải nhạy cảm với cái mới,
sớm phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới hợp quy luật,
tạo điều kiện cho cái mới đó phát triển thay thế cái cũ,
phải chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ …Sự thay thế
cái cũ bằng cái mới diễn ra rất phức tạp bởi cái mới
phải đấu tranh chống lại cái cũ, chiến thắng cái cũ.
- Vận dụng nguyên tắc phát triển vào việc nhận thức về
con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa ở nước
ta có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Câu 6: Phân tích nội dung quy luật mâu thuẫn
của phép biện chứng duy vật? Ý nghĩa của
phương pháp luận cảu quy luật này trong việc
phát hiện và phân tích mâu thuẫn ở nước ta
hiện nay?
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập,
còn gọi là quy luật mâu thuẫn, là hạt nhân của phép
biện chứng, nó vạch ra nguồn gốc bên trong sự vận
động và phát triển của sự vật hiện tượng.
1. Khái niệm

a. Đối lập, mặt đối lập là phạm trù triết học dùng để chỉ
những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính,
những khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại
một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy;
chính những mặt đối lập này nằm trong sự liên hệ tác
động qua lại với nhau tạo thành mâu thuẫn biện
chứng.
b. Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là sự nương tựa
vào nhau, đòi hỏi có nhau của các mặt đối lập, sự tồn
tại của mặt này là tiền đề cho sự tồn tại của mặt kia;
chúng luôn tác động qua lại và đấu tranh lẫn nhau
theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau gữa các
mặt đối lập.
2. Nội dung quy luật
Trong mỗi sự vật hiện tượng hay quá trình nào đó luôn
chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập
nhau tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân
mình; sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát
triển, dẫn tới sự mất đi của cái cũ và nhường chỗ cho sự
ra đời của cái mới.
3. Phân tích nội dung quy luật
a. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và mang tính
phổ biến, là nguồn gốc của sự vận động và phát triển
Những nhà triết học theo quan điểm siêu hình phủ
nhận mâu thuẫn bên trong của sự vật hiện tượng, chỉ
thừa nhận có sự đối kháng, sự xung đột bên ngoài giữa
các sự vật hiện tượng với nhau, nhưng không cho đó là
có tính quy luật.
Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng, mọi sự vật

hiện tượng trong thế giới đều tồn tại mâu thuẫn bên
trong; mỗi sự vật hiện tượng đều là một thể thống nhất
giữa các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập
nhau, những mặt đối lập nhau nhưng lại ràng buộc
nhau nên nó tạo thành mâu thuẫn.
Mâu thuẫn chẳng những là hiện tượng khách quan mà
còn là hiện tượng phổ biến; mâu thuẫn tồn tại khách
quan trong thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy con
người; tồn tại phổ biến chẳng những ở mọi sự vật hiện
tượng mà còn phổ biến trong suốt quá trình vận động
và phát triển của chúng; mâu thuẫn này mất đi thì
mâu thuẫn khác lại được hình thành.
b. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Khái niệm “thống nhất” trong quy luật mâu thuẫn có
nghĩa là 2 mặt đối lập liên hệ nhau, ràng buộc nhau và
quy định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề để
tồn tại và phát triển. (ví dụ: đồng hóa và dị hóa, giai
cấp vô sản và giai cấp tư sản trong xã hội tư bản chủ
nghĩa)
Khái niện “thống nhất” trong quy luật mâu thuẫn còn
đồng nghĩa với khái niệm “đồng nhất”, đó là sự thừa
nhận những khuynh hướng mâu thuẫn, bài trừ lẫn
nhau trong tất cả các hiện tượng, các quá trình của tự
nhiên, xã hội và tư duy; song “đồng nhất” còn có ý
nghĩa khác, đó là sự chuyễn hóa lẫn nhau giữa các mặt
đối lập; và như vậy sự “đồng nhất” là không tách rời với
sự khác nhau và đối lập, (ví dụ liên hệ: một vật vừa là
nó vừa không phải là nó; quan điểm này hoàn toàn đối
lập với quan điểm siêu hình, phiến diện, xem sự vật
mang tính đồng nhất thuần túy không có đối lập,

không có sự chuyển hóa.
Trong một mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối
lập không thể tách rời sự đấu tranh bài trừ nhau, phủ
định nhau giữa chúng; hình thức đấu tranh được thể
hiện trong thế giới vật chất là rất đa dạng, từ thấp đến
cao, từ đơn giản tới phức tạp (ví dụ: trong thế giới tự
nhiên chỉ là những tác động ảnh hưởng lẫn nhau, trong
xã hội đó là những xung đột gay gắt, quyết liệt bằng
bạo lực cách mạng mới có thể giải quyết căn bản các
mâu thuẫn)
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là một quá trình
phức tạp, bao gồm nhiều giai đoạn với những đặc điểm
riêng của nó; khi mới xuất hiện, mâu thuẫn thường
được biểu hiện ở sự khác nhau của 2 mặt có khuynh
hướng trái ngược nhau; trong quá trình phát triển của
mâu thuẫn, sự khác nhau đó biến thành sự đối lập, khi
2 mặt đối lập xung đột nhau gay gắt, nếu có điều kiện
chín muồi sẽ chuyễn hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được
giải quyết; kết quả là sự thống nhất giữa 2 mặt đối lập
cũ bị phá hũy, sự thống nhất của 2 mặt đối lập mới
được hình thành cùng mới mâu thuẫn mới.
Bất cứ sự thống nhất của các mặt đối lập cụ thể nào
cũng đều có tính chất tạm thời tương đối, nghĩa là nó
tồn tại trong trạng thái đứng im tương đối của sự vật
hiện tượng; còn sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là có
tính chất tuyệt đối, nghĩa là nó phá vỡ sự ổn định dẫn
đến sự chuyển hóa về chất của các sự vật hiện tượng,
làm cho vật chất luôn vận động và phát triển.
3. Các loại mâu thuẫn
mâu thuẫn trong tự nhiên, xã hội và tư duy tồn tại rất

đa dạng; tính đa dạng được quy định bởi đặc điểm của
các mặt đối lập, điều kiện thực hiện sự tác động qua lại
giữa các mặt đối lập, bởi trình độ tổ chức của hệ thống
mà trong đó mâu thuẫn tồn tại.
Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập, người ta phân
loại thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên
ngoài; trong đó, mâu thuẫn bên trong là sự tác động
qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của
cùng một sự vật hiện tượng; mâu thuẫn bên ngoài là
mâu thuẫn diễn ra trong mối liên hệ với sự vật, hiện
tượng khác (ví dụ: đồng hóa-dị hóa: bên trong; cơ thể-
môi trường: bên ngoài); cách phân loại này chỉ mang
tính tương đối, các mâu thuẫn tác động lẫn nhau và
mâu thuẫn bên trong giữ vai trò quyết định trực tiếp
đến sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng (ví
dụ: chính sách đối nội-đối ngoại).
Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của
toàn bộ sự vật hiện tượng, người ta phân loại thành
mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản; mâu
thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự
vật hiện tượng, quy định sự phát triển ở tất cả các giai
đoạn của sự vật hiện tượng, nó tồn tại trong suốt quá
trình tồn tại của sự vật hiện tượng; mâu thuẫn không
cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện
nào đó của sự vật, nó quy định sự vận động và phát
triển một mặt nào đó của sự vật (liên hệ: mâu thuẫn
giữa lực lượcng sản xuất với quan hệ sản xuất trong xã
hội tư bản chủ nghĩa).
Căn cứ vào vai trò mâu thuẫn được chia thành mâu
thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu; mâu thuẫn chủ

yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu trong một giai đoạn
phát triển nhất định của sự vật hiện tượng, giải quyết
nó tạo điều kiện giải quyết các mâu thuẫn thứ yếu;
phân biệt mâu thuẫn chủ yếu với mâu thuẫn thứ yếu
chỉ mang tính tương đối, trong cùng một sự vật trong
điều kiện này là mâu thuẫn thứ yếu, trong điều kiện
khác lại là mâu thuẫn chủ yếu.
Căn cứ vào tính chất các lợi ích đối lập trong xã hội,
người ta phân chia thành mâu thuẫn đối kháng và mâu
thuẫn không đối kháng; mâu thuẫn đối kháng là mâu
thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người,
những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau
(ví dụ); mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa
những lực lượng, những khuynh hướng xã hội có đối
lập về lợi ích những mang tính cục bộ, tạm thời (ví dụ:
mâu thuẫn trong các bộ phận công nhân, giữa thành
thị-nông thôn). Phân biệt được các loại mâu thuẫn
trên sẽ góp phần xác định chính xác phương pháp giải
quyết phù hợp: bằng bạo lực cách mạng hay bằng giáo
dục thuyết phục.
4. Ý nghĩa phương pháp luận
Phải thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn, yêu
cầu này đòi hỏi chúng ta phải biết phân tích các mặt
đối lập của mâu thuẫn, nắm được bản chất của sự vật,
khuynh hướng vận động và phát triển của chúng.
Hoạt động thực tiển nhằm biến đổi sự vật là quá trình
giải quyết mâu thuẫn của nó, muốn vậy phải xác định
đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn, tìm ra
phương thức, phương tiện và lực lượng có khả năng giải
quyết mâu thuẫn; không nên giải quyết mâu thuẫn

một cách vội vàng khi chưa đủ điều kiện.
Mâu thuẫn phải được giải quyết bằng con đường đấu
tranh dưới nhiều hình thức khác nhau, tuỳ loại mâu
thuẫn mà có phương pháp giải quyết cụ thể.
Câu 7: Phân tích nội dung quy luật từ những
thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
và ngược lại? Ý nghĩa phương pháp luận của quy
luật này trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam hiện nay?
1. Nội dung cơ bản của quy luật lượng-chất:
- Vị trí quy luật: là một trong 3 quy luật cơ bản của
phép biện chứng duy vật nói lên cách thức của quá
trình vận động phát triển của sự vật hiện tượng.
- Khái niệm cơ bản:
+ Chất: là khái niệm dùng để chỉ tính quy định vốn có
của các sự vật hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của
các thuộc tính, đặc trưng làm cho nó là nó và khác với
những cái khác.
> Chất của sự vật bộc lộ ra thông qua các thuộc tính về
chất của nó, cả chất và thuộc tính về chất đều là khách
quan vốn có của sự vật nhưng bộc lộ ra thông qua mối
quan hệ qua lại.
> Chất của hệ thống có liên quan nội tại với chất của
các bộ phận cấu thành và phương thức liên kết giữa
chúng.
+ Lượng: là khái niệm dùng để chỉ tính qui đinh vốn có
của các sự vật về lượng, nó biểu thị quy mô tồn tại của
sự vật, quảng tính của sự vật, số lượng các bộ phận,
thuộc tính của sự vật.
> Lượng là mặt khách quan vốn có của sự vật.

> Lượng của sự vật bộc lộ ra thông qua các thuộc tính
về lượng, thuộc tính về lượng cũng bộc lộ ra thông qua
mối quan hệ.
- Mối quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về lượng và
thay đổi về chất:
+ Lượng đổi dẫn đến chất đổi
> Mọi sự vật đều có mặt chất và mặt lượng của nó, khi
sự vật vận động và phát triển, cả hai mặt chất và lượng
đều biến đổi theo. Sự thay đổi lượng có thể diễn ra
trong một khoảng nhất định mà chưa làm thay đổi căn
bản về chất của sự vật.
> Độ: là khái niệm dùng để chỉ sự thống nhất giữa chất
và lượng, đó là khoảng thưòi gian giới hạn mà trong
giới hạn đó lượng thay đổi nhưng chất chưa thay đổi về
cơ bản.
> Điểm nút: là điểm giới hạn trong sự thay đổi về
lượng mà sự thay đổi về lượng đạt tới đó sẽ dẫn đến sự
thay đổi căn bản về chất của sự vật.
> Nhảy vọt: là khái niệm dùng để chỉ 1 giai đoạn trong
qúa trình vận động và phát triển ở đó sự thay đổi về
lượng đang dẫn tới sự thay đổi căn bản về chất của sự
vật.
+ Chất mới ra đời tác động trở lại tới sự thay đổi về
lượng: làm thay đổi quy mô tồn tại của sự vật, thay đổi
nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật đó.
2. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Nhận thức: để có tri thức đầy đủ về sự vật, phải có
nhận thức cả mặt lượng và mặt chất của nó, khi đạt tới
tri thức về sự thống nhất giữa lượng và chất ta sẽ có tri
thức hoàn chỉnh về sự vật đó.

- Thực tiễn: cần chống hai chủ quan sai lầm là tuyệt đối
hoá qúa trình thay đổi về chất hay tuyệt đối hoá quá
trình thay đổi về lượng.
Câu 8: Phân tích nội dung quy luật phủ định
của phủ định? Ý nghĩa phương pháp luận của
quy luật này trong việc xây dựng nền văn hóa
mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta
hiện nay?
1. Nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định:
- Phủ định: là khái niệm dùng để chỉ sự mất đi của sự
vật này và ra đời sự vật khác.
- Phủ định biện chứng: Là quá trình khách quan, tự
thân, là quá trình kế thừa cái tích cực đã đạt được từ
cái cũ, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời
của sự vật hiện tượng mới cao hơn tiến bộ hơn. (là loại
phủ định tạo ra điều kiện và tiền đề cho sự phát triển).
- Đặc điểm của phủ định biện chứng:
+ Phủ định biện chứng là loại phủ định mang tính
khách quan:
> Sự phủ định ấy do mâu thuẫn nội tại của sự vật ấy tự
quy định.
> Nhân tố phủ định là sản phẩm phát triển của chính
sự vật, do đó quá trình phủ định biện chứng là quá
trình tự thân phủ định, tự thân phát triển.
> Phương thức phủ định sự vật do bản thân sự vật tự
quy định.
+ Phủ định biện chứng là loại phủ định mang tính kế
thừa.
- Phủ định của phủ định – hình thức xoáy chôn ốc của
quá trình phát triển: Sự phát triển biện chứng là sự

thống nhất giữa tiến lên và lặp lại do đó nó không quy
trở lại đúng điểm xuất phát mà quay trở lại trên một cơ
sở mới cao hơn.
2. Ý nghĩa trong quá trình đổi mới ở nước ta
* Đặc điểm của phủ định trong đời sống xã hội:
- Phủ định trong xã hội là hình thức và kết quả hoạt
động của con người do vậy ngoài những đặ trưng mà
mọi phủ định biện chứng đều có thì phủ định biện
chứng trong xã hội có 2 đặc điểm riêng:
+ Quan điểm biện chứng và siêu hình về sự phủ định:
> Quan điểm siêu hình về phủ định trong xã hội xuất
hiện khi xác định không đúng đối tượng, thời điểm,
phương thức phủ định.
> Tuyệt đối hoá mặt loại bỏ hoặc mặt giữ lại.
+Phủ định xã hội diễn ra bằng cơ chế khác căn bản với
phủ định trong tự nhiên.
* Vì vậy, phương pháp luận rút ra từ quy luật phủ định
của phủ định có ý nghĩa:
- Cho ta cơ sở lý luận để hiểu sự ra đời của các mới, cái
mới ra đời từ cái cũ, kế thừa những mặt tích cực của cái
cũ do vậy cần chống thái độ phủ định sách trơn.
- Phải phát hiện và quý trọng cái mới, phải biết sàng
lọc giữ lấy những cái tích cực có giá trị của cái cũ.
- Chống lại thái độ bảo thủ, khư khư giữ những cái cản
trở bước tiến của lịch sử
Câu 9: Quan niệm của triết học Mác – Lênin về
thực tiễn, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn? Ý nghĩa phương pháp luận của quan
niệm này trong việc đổi mới tư duy lý luận và
nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở

×