Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.85 KB, 25 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Truyền thống và hiện đại là những yếu tố có mặt trong đời sống của mỗi
quốc gia dân tộc, trên mọi lĩnh vực của quá trình phát triển, trong đó có lĩnh vực
văn hóa, cái được xem như nền tảng tinh thần của xã hội. Tuy nhiên, truyền thống
và hiện đại không bao giờ tồn tại một cách tĩnh tại, tách biệt nhau mà chúng luôn
có sự liên hệ, tác động lẫn nhau, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau, tạo thành
sự vận động, phát triển và làm thành diện mạo văn hóa của một dân tộc. Chính vì
vậy mà mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong văn hóa đã trở thành vấn
đề hàng đầu ở mọi quốc gia, đặc biệt là ở những nước đang phát triển, vốn mang
trên mình sức nặng của truyền thống hình thành qua suốt chiều dài của lịch sử và
lại đứng trước một sự nghiệp hiện đại hóa to lớn. Nếu không nhận dạng được một
cách đầy đủ sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá
trình phát triển của văn hóa, chúng ta không thể phát huy đầy đủ vai trò của văn
hóa đối với sự phát triển xã hội. Chính vì tầm quan trọng đó, khi bước vào thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta chủ trương: phải giữ gìn và phát huy những
truyền thống văn hóa tốt đẹp của mình; đồng thời phải biết tiếp thu kế thừa những
yếu tố hiện đại phù hợp với thời đại phát triển hiện nay, phù hợp với sự tiến bộ
chung trên thế giới. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã
viết: “Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt
quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy truyền
thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa của các
dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hóa Việt Nam”
1
.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại là phát huy tối đa
sức mạnh nội sinh của dân tộc, vừa tiến lên văn minh, hiện đại, vừa giữ gìn bản sắc
dân tộc, tạo lập con đường phát triển ổn định và bền vững cho đất nước.
Đối với Cần Thơ, trong quá trình phát triển văn hóa luôn luôn có sự tác động
của sự thống nhất biện chứng giữa truyền thống và hiện đại; trong đó, hiện đại bắt
nguồn từ truyền thống, lấy truyền thống làm nền tảng trên cơ sở chắt lọc, kế thừa


và phát triển truyền thống và truyền thống được bảo tồn, phát triển nâng cao một
cách sinh động và phong phú nhờ tính hiện đại. Nhờ vậy, thành phố Cần Thơ đã
thu được những thành tựu và kinh nghiệm trong quá trình đổi mới nói chung và
lĩnh vực phát triển văn hóa - xã hội nói riêng. Tuy nhiên, còn không ít cấp ủy và
chính quyền các cấp ở Cần Thơ nhận thức chưa đầy đủ vai trò của văn hóa, sự
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 111.
thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển
văn hóa. Từ đó dẫn đến sự phát triển văn hóa chưa đồng bộ và chưa tương xứng
với tăng trưởng kinh tế, thiếu gắn bó với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng;
những tiêu cực xã hội không những chưa được đẩy lùi mà còn có chiều hướng gia
tăng; vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội chưa được chú trọng,
chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa được cải thiện nhiều;
cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, các ngành công nghiệp, dịch vụ có giá trị gia
tăng lớn chưa khai thác đúng mức.
Để “Phấn đấu xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trở thành thành phố
cấp quốc gia văn minh, hiện đại, xanh, sạch, đẹp, xứng đáng là thành phố cửa ngõ
của cả vùng hạ lưu sông Mê Kông; là trung tâm của vùng đồng bằng sông Cửu
Long và của cả nước”, theo Nghị quyết 45-NQ/TW của Bộ Chính trị, việc nhận
thức sâu sắc và đầy đủ hơn nữa vị trí, vai trò của văn hóa, tầm quan trọng của sự
thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển
văn hóa ở Cần Thơ là vấn đề vừa có ý nghĩa cấp thiết, vừa có ý nghĩa lâu dài.
Với mong muốn góp phần giải quyết yêu cầu cấp thiết trên đây, tác giả chọn
đề tài: “Sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá
trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ ” làm luận án tiến sĩ triết học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Từ những năm 70 của thế kỷ XX, ở Liên Xô trước đây đã có những công
trình chuyên khảo về đề tài văn hóa của các nhà lý luận mácxít. Đáng kể là những
công trình lý luận văn hóa như: “Tính kế thừa trong phát triển văn hóa” (1969) của
Bale A.E, Mátxcơva; “Triết học văn hóa (1975) của Migôlatep A.A, Mátxcơva;

“Cơ sở lý luận văn hóa Mác-Lênin” (1976) do Acnônđốp A.I chủ biên, Mátxcơva;
“Một số vấn đề lý luận văn hóa” (1977) của Actanốpxki S.N, Lêningrát; “Những
vấn đề triết học của văn hóa” (1984) của tập thể tác giả, Mátxcơva; “Tính kế thừa
trong sự phát triển văn hóa trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội” (1977) của
Cairan V.I, Mátxcơva;…Bên cạnh những công trình nghiên cứu lớn của các nhà lý
luận mácxít về văn hóa, ở phương Tây đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về
văn hóa với khuynh hướng chung là khẳng định vai trò quan trọng không thể thiếu
của văn hóa truyền thống trong phát triển như: “Tạo dựng nền văn minh mới của
làn sóng thứ ba” (1996) của Alvin Toffler và Heidi Toffler, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội; “Sự va chạm của các nền văn minh” (2003) của Samuel Huntingtong,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Lịch sử văn hóa thế giới” của X. Carpusina và
V. Carpusin (2002), Nxb. Thế giới, Hà Nội.
Ở các nước khu vực Đông Á, đặc biệt là Trung Quốc, từ thời kỳ cải cách đến
nay, đã có nhiều công trình lý luận khoa học nghiên cứu về vai trò của văn hóa dân
tộc trong quá trình toàn cầu hóa như: “Cải cách thể chế văn hóa” (1996) do Khang
Thức Chiêu chủ biên; “Thử bàn về qui luật đặc thù của phát triển văn hóa trong
2
điều kiện kinh tế thị trường” (1997) của Lưu Bôn; “Văn hóa trong sự phát triển tư
bản chủ nghĩa ở khu vực Đông Á” (2000) của Kyong-Dong Kim (Hàn Quốc)…
Ở Việt Nam, sự thống nhất giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình
phát triển văn hóa được Đảng ta đặc biệt quan tâm và đã được thể hiện khá đầy đủ
trong các văn kiện của Đảng. Đồng thời, đã có những công trình được xuất bản
thành sách hay đăng trên các tạp chí lý luận, các cuộc hội thảo khoa học bàn về vai
trò của văn hóa đối với sự phát triển, trong đó phải kể đến những công trình như:
“Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” (1993) của GS.Trần Văn
Giàu, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh; “Truyền thống và hiện đại: vài suy nghĩ và đề xuất”
(2000) của GS. Phan Huy Lê; “Văn hóa và thời đại” (2009) của Nguyễn Chí Tình,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội;“Hiện đại hóa ở Việt Nam” (1997) của Nguyễn Thế
Nghĩa, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; “Văn hóa Việt Nam - truyền thống và hiện
đại” (2000) do Viện Thông tin Khoa học xã hội tổng hợp và giới thiệu; “Tìm hiểu

giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ”
(2001) do GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn, TS. Phạm Văn Đức, TS. Hồ Sĩ Quý
(Đồng chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Giá trị truyền thống và những
thách thức toàn cầu hóa” (2002) do GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn, PGS.TS.
Nguyễn Văn Huyên (Đồng chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội;… Đây là
những công trình của các nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu xoay
quanh vấn đề là làm thế nào để loại bỏ hay kế thừa những truyền thống của văn
hóa dân tộc, vừa giữ gìn được bản sắc, nhưng cũng vừa thể hiện tính hiện đại của
nền văn hóa dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Ở Cần Thơ, vấn đề văn hóa đã được đề cập trong các văn kiện của Đảng và
một số công trình khoa học như: công trình nghiên cứu cấp Bộ của Trường đại học
Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hồ Chí Minh: “Văn hóa Cần Thơ -
Thực trạng và vấn đề giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong sự nghiệp
xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam” (2001) do Thạc sĩ Thái Thị Thu Hương
chủ nhiệm đề tài; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Cần Thơ lần thứ XI,
nhiệm kỳ 2005 - 2010, trong đó có nội dung về “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa”; “Chương trình xây dựng, phát triển văn hóa thông tin đến năm
2010 và định hướng đến năm 2020” (2006) của Ủy ban nhân dân thành phố Cần
Thơ; các báo cáo chuyên đề, báo cáo tổng kết tình hình, thực trạng phát triển văn
hóa ở Cần Thơ các năm 2005, 2006, 2007, 2008, 2009. Những công trình nghiên
cứu và những Nghị quyết, Chương trình, báo cáo này chỉ ra nhiều giải pháp có tính
định hướng cho phát triển văn hóa và sự bảo tồn các giá trị truyền thống văn hóa ở
Cần Thơ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án là từ sự trình bày, phân tích lý luận chung về văn hóa
và những nội dung, đặc điểm của văn hóa ở Cần Thơ, luận án chỉ ra sự thống nhất
3
và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại và đề ra những giải pháp có tính định
hướng trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ.
Để đạt được mục đích đó, luận án phải giải quyết các nhiệm vụ sau:

- Thứ nhất, phân tích những vấn đề lý luận chung về văn hóa và sự thống
nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa.
- Thứ hai, trên cơ sở trình bày, phân tích nội dung, đặc điểm của sự thống
nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa
ở Cần Thơ, luận án đề xuất một số giải pháp phát triển văn hóa ở Cần Thơ trong sự
thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời còn sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích và tổng hợp, diễn dịch và qui nạp,
lôgich và lịch sử, thống kê… để nghiên cứu và trình bày luận án. Luận án được
tiếp cận dưới góc độ triết học văn hóa.
5. Cái mới của luận án
- Cái mới thứ nhất là, trên cơ sở lý luận chung về văn hóa, luận án đã lý giải
và phân tích rõ về sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong
quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ.
- Cái mới thứ hai là, từ sự phân tích thực trạng văn hóa Cần Thơ, luận án đề
xuất một số giải pháp có tính định hướng góp phần vào phát triển văn hóa Cần Thơ
trên cơ sở sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án
Về ý nghĩa khoa học, luận án góp phần luận giải một cách hệ thống và khoa
học về sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình
xây dựng nền văn hóa mới ở Cần Thơ. Trên cơ sở đó, luận án góp phần làm cho
các cấp ủy đảng và chính quyền Cần Thơ nhận thức sâu sắc hơn, đúng đắn hơn về
vai trò của văn hóa trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở Cần Thơ hiện nay.
Về thực tiễn, một số giải pháp có tính định hướng mà luận án đề xuất, có thể
góp phần thiết thực vào giải quyết những vấn đề cơ bản trong quá trình xây dựng
và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Cần Thơ.

Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu và giảng dạy môn Triết học, văn hóa học trong các trường đại
học và cao đẳng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận án được kết cấu thành ba chương, sáu tiết.
4
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA, SỰ THỐNG NHẤT
VÀ MÂU THUẪN GIỮA TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
1.1. LÝ VĂN LUẬN CHUNG VỀ HÓA
1.1.1. Các quan điểm khác nhau về văn hóa
Văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo nên, xuất hiện khá sớm trong xã hội
loài người. Phản ánh những giá trị văn hóa ấy, trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều
quan điểm khác nhau. Ở Trung Quốc, từ “văn hóa” có nguồn gốc từ chữ Hán, quẻ Bí
trong Chu Dịch nói: “Quan sát dáng vẻ con người để giáo hóa thiên hạ” (Quan hồ nhân
văn dĩ hóa thành thiên hạ) trong đó đã đề cập đến hai từ tố “văn” và “hóa”. Trong đó,
“văn” với ý nghĩa là văn vẻ, văn hoa, tốt đẹp; “hóa” là biến đổi, giáo hóa. Tổng hợp lại,
văn hóa có ý nghĩa là làm biến đổi, giáo hóa con người theo hướng tốt đẹp.
Ở phương Tây, quan điểm của nhiều nhà khoa học, nhà nhân loại học, dân tộc học
thể hiện qua các công trình nghiên cứu phần lớn đều thống nhất nhau ở chỗ: từ văn hóa
đều bắt nguồn từ tiếng La-tinh, Cultura bao hàm ý nghĩa trồng trọt, nuôi dưỡng, cư trú,
luyện tập, lưu tâm…Từ đó mà có khái niệm culture (tiếng Anh, tiếng Pháp), kultur (tiếng
Đức), kultura (tiếng Nga). Trong tiếng Anh, Pháp, Đức, Nga hiện nay, từ culture vẫn giữ
lại một số hàm nghĩa ban đầu của tiếng La-tinh. Nhưng văn hóa là một thực thể năng
động, luôn luôn phát triển song song với sự phát triển của văn minh nhân loại, cho nên dần
dần hàm nghĩa của nó được mở rộng và nó được chú ý như một đối tượng khoa học.
Người đầu tiên đưa ra định nghĩa cổ điển về văn hóa thuộc nhà nhân chủng học người

Anh E. Tailor trong cuốn “Văn hóa nguyên thủy” xuất bản năm 1871. Theo E. Tailor, văn
hóa “được cấu thành một thể thống nhất từ kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức,
phong tục, tập quán và mọi khả năng, thói quen khác mà con người có được như một
thành viên xã hội”. Hội nghị quốc tế Mêhicô do UNESCO tổ chức từ ngày 26 tháng 7 đến
06 tháng 8 năm 1982, có trên 100 nước tham dự, với trên 1.000 đại biểu đã chấp nhận một
quan niệm về văn hóa sau đây: “Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét
riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một số xã
hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương,
những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những tập tục
và tín ngưỡng. Chính văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính
văn hóa đã làm cho chúng ta trở thành sinh vật đặc biệt, nhân bản, có lý tính, có óc phê
phán và dấn thân một cách có đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà chúng ta xét đoán được
những giá trị và thực thi những lựa chọn. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự
ý thức được bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên
những công trình vượt trội lên bản thân mình”
2
.
2
. Người đưa tin UNESCO, số 9/1997, tr. 12-13.
5
1.1.2. Quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về văn hóa
Theo quan điểm của C.Mác, văn hóa là cái thể hiện sức mạnh xã hội của hoạt động
lao động sản xuất của con người. Và hoạt động lao động sản xuất của con người - cái thể
hiện năng lực sáng tạo của con người, năng lực tạo ra toàn bộ sự phong phú, đa dạng cho
tồn tại đích thực của con người “giới tự nhiên thứ hai”, giới tự nhiên cho mình “theo quy
luật của cái đẹp”, hình thành mối quan hệ của con người với thế giới tự nhiên xung quanh
và quan hệ của con người với con người trong cộng đồng xã hội - chính là cội nguồn của
văn hóa.
Theo quan điểm của Ph.Ăngghen, để tìm hiểu cội nguồn của văn hóa, phải đặt nó
trong quá trình hình thành loài người. Tư tưởng chủ đạo trong bài viết của ông là “lao

động đã sáng tạo ra bản thân con người”. Nhưng lao động ở đây không chỉ là lao động
chân tay thuần túy mà chủ yếu là lao động sáng tạo. Ph.Ăngghen so sánh phương thức
kiếm sống của loài vượn với lao động của xã hội loài người, “Đàn vượn chỉ biết ăn hết
sạch lương thực sẵn có trong khu vực mà điều kiện địa lý hoặc là sự kháng cự của các đàn
vượn bên cạnh đã hạn định cho chúng”
3
. Nói cách khác, loài vượn không biết tự tạo ra
thức ăn cho mình mà chỉ ăn những thứ có sẵn trong tự nhiên. Ăngghen gọi phương thức
kiếm ăn của loài vượn là “kinh tế cướp đoạt”. Ông nhận định, “Nhưng tất cả những cái đó
vẫn chưa phải là lao động, đúng theo ý nghĩa của nó. Lao động bắt đầu cùng với việc chế
tạo ra công cụ”
4
. Như vậy, chính lao động sáng tạo mới là động lực chính tác động vào
quá trình chuyển biến từ vượn thành người và đó cũng là cội nguồn của văn hóa, hay có
thể nói, lao động sáng tạo là bản chất của văn hóa.
Theo quan điểm của Lênin, văn hóa vô sản không phải bỗng nhiên mà có, nó không
phải do những người tự cho mình là chuyên gia về văn hóa vô sản phát minh ra. Văn hóa
vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà loài người tích
lũy được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn
quan liêu.
1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa
Hồ Chí Minh đưa ra một định nghĩa khá toàn diện về văn hóa: “ Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích cuộc sống, loài người sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về
ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là
văn hóa”
5
.
Tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa,
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “ Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật

3
. C.Mác và Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 647.
4
. Sđd, tr. 648.
5
. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 431.
6
chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng
nước và giữ nước”
6
, “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội”.
Phân tích các cách tiếp cận văn hóa phổ biến hiện nay, có thể rút ra khái niệm văn
hóa, theo quan điểm của tác giả: văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo ra và được con người tích lũy qua quá trình hoạt động
thực tiễn; những giá trị đó đáp ứng được nhu cầu của cả cộng đồng, được cộng đồng
thừa nhận và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Văn hóa là biểu hiện của
trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.
1.2. SỰ THỐNG NHẤT VÀ MÂU THUẪN GIỮA TÍNH TRUYỀN THỐNG
VÀ HIỆN ĐẠI NHƯ MỘT QUY LUẬT PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HÓA
1.2.1. Khái niệm truyền thống trong văn hóa
Truyền thống được hiểu như là tập hợp những tư tưởng và tình cảm, những thói
quen trong tư duy, lối sống và ứng xử của một cộng đồng người nhất định, được hình
thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Do đó, truyền thống bao giờ cũng mang ba đặc trưng cơ bản là: tính cộng đồng, tính ổn
định và tính lưu truyền. Tất nhiên, những đặc trưng đó chỉ có ý nghĩa tương đối, vì bản
thân truyền thống cũng có quá trình hình thành, phát triển và biến đổi. Mỗi khi hoàn cảnh
lịch sử, cơ sở kinh tế - xã hội và hệ tư tưởng thay đổi thì truyền thống cũng có những biến
đổi, vừa có mặt kế thừa, phát triển, có mặt loại bỏ; vừa có sự hình thành những truyền
thống mới.
1.2.2. Khái niệm hiện đại trong văn hóa

Hiện đại, nguyên nghĩa là “thời đại hiện nay” (période contemporaine), cũng được
hiểu là những gì “thuộc thời đại ngày nay”, là “cái đang diễn ra trước mắt, tức là mới”.
Theo nghĩa đó, hiện đại là cái đang diễn ra, cái mới được bổ sung làm cho cái cũ, cái
trước đây biến đổi để phù hợp với thời đại hiện nay. Hiện đại gắn liền với phát triển, tạo
ra những giá trị mới hơn, có phẩm chất tốt hơn của cái quá khứ. Phạm trù hiện đại mang
tính lịch sử, liên quan đến tính thời gian và chất lượng.
1.2.3. Sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong sự
phát triển của văn hóa
Sự thống nhất giữa truyền thống và hiện đại trong sự phát triển của văn hóa,
được biểu hiện:
Thứ nhất, truyền thống là cơ sở, là tiền đề của hiện đại. Truyền thống văn hóa là hệ
thống giá trị văn hóa đã hình thành và luôn được bổ sung để trở thành phẩm chất văn hóa
một dân tộc, và tự thân đã là một khái niệm có tính biện chứng, chuyển tải trong đó nội
hàm là hành vi sáng tạo văn hóa của cộng đồng. Truyền thống văn hóa là bộ mặt vật chất,
tinh thần của một xã hội trong những thời kỳ lịch sử nhất định. Truyền thống và hiện đại
thống nhất hữu cơ trong một chỉnh thể, ở đó, truyền thống văn hóa là nền tảng, tính hiện
đại là sự bổ sung cho nền tảng ấy ngày càng bền vững, và sự thống nhất phải đạt đến mức
6
. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương (khóa VIII), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.6.
7
tính hiện đại gia nhập, trở thành yếu tố của truyền thống văn hóa. Chính vì thế, phát triển
văn hóa trong thời đại mới, chúng ta cần phải dựa trên nền tảng của truyền thống văn hóa,
và truyền thống ấy luôn phải được củng cố, bổ sung phù hợp với yêu cầu của sự phát triển.
Thứ hai là, hiện đại bắt nguồn từ truyền thống trên cơ sở chắt lọc, kế thừa và phát triển
truyền thống. Truyền thống là những kinh nghiệm đấu tranh sinh tồn của một dân tộc đã
được đúc kết thành các giá trị và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Truyền thống
có ý nghĩa vô cùng to lớn; vừa là nguồn sống vừa là nguồn sáng tạo của dân tộc. Nó luôn
tồn tại trong mối quan hệ với hiện tại và tương lai. Còn hiện đại, là cái được bổ sung làm
cho cái cũ, cái trước đây biến đổi để phù hợp với thời đại hiện nay. Hiện đại gắn liền với
phát triển, tạo ra những giá trị mới hơn, có phẩm chất tốt hơn của cái quá khứ. Vì vậy,

không nên tuyệt đối hóa truyền thống, vì nếu tuyệt đối hóa, lý tưởng hóa các giá trị truyền
thống sẽ dẫn đến ý thức phục cổ, cản trở công cuộc đổi mới và sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Trái lại, không nên phủ định truyền thống, nếu phủ định truyền
thống sẽ dẫn đến xu hướng hiện đại hóa bằng con đường ngoại nhập, đánh mất bản sắc
dân tộc, tự hủy hoại sức mạnh nội sinh, làm mất tính bền vững và ổn định của sự phát
triển. Thứ ba là, truyền thống được bảo tồn, phát triển một cách sinh động và phong phú
nhờ tính hiện đại. Trải qua hàng nghìn năm xây dựng, bảo vệ đất nước, dân tộc Việt Nam
đã tạo lập cho mình một di sản truyền thống tinh thần rất phong phú, đa dạng, đó là tinh
thần yêu nước; truyền thống đoàn kết vì đại nghĩa dân tộc; truyền thống lao động cần cù,
sáng tạo, tính thích nghi và hội nhập để tồn tại và phát triển, lối ứng xử mềm dẻo; tính
cộng đồng kết hợp với tinh thần nhân ái, truyền thống khoan dung…; trong các giá trị
truyền thống văn hóa đó, những cái tiến bộ, phù hợp luôn được bảo tồn, phát triển nâng
cao sinh động, phong phú. Còn những truyền thống lạc hậu, lỗi thời, không phù hợp với
yêu cầu phát triển của xã hội và thời đại cần được loại bỏ.
Sự mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong sự phát triển của văn hóa,
được biểu hiện trên những mặt cơ bản sau:
Một là, tính ổn định của truyền thống và một số yếu tố lạc hậu, bảo thủ của truyền
thống trở thành lực cản của hiện đại. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, nhân dân ta đã từng bước xây dựng lối sống mới phù hợp với sự phát triển của xã
hội công nghiệp, nhưng vẫn giữ gìn và phát huy được các giá trị tốt đẹp trong lối sống cổ
truyền của dân tộc. Tuy nhiên, trong lối sống vẫn còn một số hạn chế, đó là tư tưởng tiểu
nông sản xuất nhỏ, tính bảo thủ, mê tín dị đoan, tâm lý bè phái, cục bộ, chủ nghĩa kinh
nghiệm, chủ nghĩa bình quân, thói quan liêu, gia trưởng , không còn phù hợp với thời đại
ngày nay cần khắc phục, nhằm xây dựng lối sống mới văn minh, hiện đại. Hai là, trong
quá trình phát triển có những yếu tố của hiện đại không phù hợp, mâu thuẫn, xung đột với
truyền thống. Quá trình toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế mang lại cho nhân dân ta khá nhiều
cái mới, cái hiện đại từ phương Tây; đồng thời, nó cũng tạo ra những giá trị truyền thống,
về lối sống cá nhân và dân tộc. Biểu hiện rõ nét nhất là các giá trị văn hóa ngoại lai mà họ
cho là "mới”, "hiện đại". Một bộ phận trong giới trẻ chạy theo thứ văn hoá và lối sống
8

thực dụng, thích chạy theo các mốt thời trang kiểu Tây, không phù hợp với thị hiếu thẩm
mỹ của dân tộc; ít hoặc không quan tâm đến lý tưởng chính trị xã hội; thích lối sống sòng
phẳng hơn là nghĩa tình Đó là những biểu hiện xa rời lối sống truyền thống của dân tộc,
xa rời bản sắc dân tộc, chạy theo lối sống lai căng ngoại nhập vốn rất xa lạ với dân tộc ta.
Kết luận chương 1
Văn hóa là hoạt động sáng tạo và là hệ thống các giá trị do chính con người tạo ra
trong mỗi thời đại lịch sử. Văn hóa chỉ dùng để nói về những gì tốt đẹp, đúng đắn, hướng
tới phát triển và hoàn thiện nhân tính. Truyền thống và hiện đại có mối quan hệ biện
chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó, truyền thống là cơ sở, là tiền đề của
hiện đại, còn hiện đại là sự kế thừa, phát triển nâng cao truyền thống. Vì vậy, việc xây
dựng quan niệm mới về giá trị, đổi mới nhận thức về giá trị văn hóa truyền thống, chú
trọng giáo dục văn hóa, đặc biệt là giáo dục giá trị để hướng dẫn dư luận và thực hành
trong lối sống, trong đời sống văn hóa là một đòi hỏi bức xúc, cần thiết.
Chương 2
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ MỐI QUAN HỆ
BIỆN CHỨNG GIỮA TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI
TRONG SỰ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở CẦN THƠ
2.1. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở CẦN THƠ, CÁC LOẠI
HÌNH VĂN HÓA CHỦ YẾU VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NÓ
2.1.1. Những điều kiện hình thành và phát triển của văn hóa ở Cần Thơ
Thành phố Cần Thơ nằm ở trung tâm đồng bằng sông Cửu Long, giữa một mạng
lưới sông ngòi kênh rạch. Cần Thơ tiếp giáp với 5 tỉnh: phía bắc giáp An Giang và đông
bắc giáp Đồng Tháp, phía nam giáp Hậu Giang, phía tây giáp Kiên Giang, phía đông giáp
Vĩnh Long. Diện tích: 1.401,6 km². Dân số: 1.139,9 nghìn người (năm 2006), gồm các
dân tộc Việt, Khmer, Hoa, Chăm Đơn vị hành chính: 5 quận: Ninh Kiều, Bình Thủy,
Cái Răng, Ô Môn, Thốt Nốt và 4 huyện: Phong Điền, Cờ Đỏ, Thới Lai, Vĩnh Thạnh. Về
tôn giáo, Cần Thơ có nhiều nét đặc sắc, độc đáo của văn hoá đồng bằng Nam Bộ được kết
hợp hài hoà các sắc thái văn hoá truyền thống của người Việt, Khmer, Hoa Hầu hết
người Việt, người Hoa theo đạo Phật (người Khmer theo phái Nam Tông). Phần còn lại
theo đạo Công giáo (Thiên Chúa và Tin Lành); một số khác theo đạo Cao Đài.

2.1.2. Qúa trình phát triển và các loại hình văn hóa ở Cần Thơ
Về quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ có thể chia làm ba giai đoạn như sau:
Giai đoạn khai hoang mở đất: cư dân ở các vùng, miền khác nhau, các dân tộc khác nhau
(Kinh, Khmer, Hoa, Chăm) lưu tụ về đây để khai mở đất đai, thành lập thôn ấp đầu tiên
trên vùng đất Trấn Giang này, với hành trang có sẵn trong mình là những điệu hát, câu hò,
những phong tục, truyền thống văn hóa từ miền Bắc, miền Trung mang vào, hình thành
9
nên nền nông nghiệp lúa nước. Từ những đặc điểm văn hóa, những phong tục tập quán,
lối sống của các vùng, miền khác nhau đó kết hợp với điều kiện sống, những phong tục
tập quán, sinh hoạt văn hóa của vùng đất mới, tạo ra sự vun hợp của nền văn minh sông
nước, miệt vườn. Các nghi lễ cúng đình, thờ cúng Thần nông, các vị tiền hiền, hậu hiền có
công với dân, với nước; những phong tục, tập quán: cưới xin, ma chay, cùng với nó là các
làn điệu dân ca, hò vè, đờn ca tài tử mang đặc điểm văn hóa sông nước ca ngợi tấm lòng
nhân hậu, nghĩa khí kiên trung, yêu quê hương đất nước, tôn trọng lẽ phải cũng dần dần
xuất hiện; các phương thức sinh hoạt, tinh thần lao động cần cù với tính cách táo bạo,
phóng khoáng, thực tế, trọng tình nghĩa, đã tạo nên sự thống nhất và đa dạng của văn hóa
Cần Thơ. Các tài danh tiêu biểu được nhân dân yêu thích của giai đoạn này là Bùi Hữu
Nghĩa, Phan Văn Trị (cử Trị), Lê Quang Chiểu, Nguyễn Thần Hiến, Mộc Quán - Nguyễn
Trọng Quyền Giai đoạn kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ giải phóng dân tộc: giai
đoạn này các loại hình văn hóa, nghệ thuật, những phong tục, tập quán, những giá trị văn
hóa truyền thống, lễ hội của giai đoạn đoạn trước được phát huy, hình thành nên các loại
hình văn hóa mới mang tính chất cách mạng, lòng yêu nước, tinh thần bất khuất của dân
tộc, tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, tinh thần táo bạo trong chiến đấu và sản xuất.
Đồng thời, đã xuất hiện các loại hình văn hóa lớn, đầu tiên phải kể đến là Đoàn văn công
giải phóng, đội thông tin tuyên truyền lưu động, cùng với các loại hình văn hóa đó là
những là điệu ca dao, dân ca kháng chiến, chập cải lương, tấu hài… ca ngợi lòng yêu
nước, tinh thần chiến đấu anh dũng của quân và dân Cần Thơ, động viên nhân dân tay
súng, tay cày vừa chiến đấu đánh đuổi ngoại xâm, vừa sản xuất xây dựng quê hương đất
nước; đồng thời góp phần ngăn chặn những loại văn hóa phẩm đồi trụy, những tệ nạn xã
hội. Bên cạnh những loại hình văn mới, ở Cần Thơ đã hình thành các khu di tích lịch sử -

văn hóa lớn như: Khu căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ, Hội linh Cổ Tự, Chùa Ông, Nam Nhã
Đường…; ngoài ra còn có di tích kiến trúc nghệ thuật: Long Quang Cổ Tự, được lưu
truyền đến ngày nay. Giai đoạn này xuất hiện các văn hóa lớn như: Lưu Hữu Phước, Võ
Trọng Cảnh, nhóm Tao đàn Bát tiên Tây Đô (gồm Lãng Ba, Dương Chi, Như Phong)
7
.
Giai đoạn hòa bình, thống nhất đất nước: bước vào giai đoạn cải tạo và xây dựng đất, văn
hóa Cần Thơ có bước phát triển mới: xây dựng đời sống văn hóa mới gắn với nội dung
mới, truyền thống văn hóa tiếp tục phát triển nhưng nó được bổ sung nâng lên phù hợp với
nhiệm vụ mới, gắn với quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ; giáo dục đạo đức mới, lý
tưởng sống, quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin; duy trì các giá trị truyền thống về phong tục
tập quán, lễ hội, cưới xin và các quan hệ ứng xử với những đức tính tốt đẹp, nhưng vẫn
giữ được thuần phong mỹ tục với tính thật thà, chất phác, trọng tình nghĩa…; các làn điệu
ca dao, dân ca, hò vè cũng được nâng lên về chất để phản ánh chân thật đời sống của
người dân, ca ngợi quê hương đất nước trong thời kỳ đổi mới; phát triển các hình thức văn
hóa mới: đoàn văn công giải phóng trước đây đã nâng lên thành Đoàn Cải lương Tây Đô,
phong trào đờn ca tài tử đã phát triển rộng khắp mọi nơi ở Cần Thơ; các đội thông tin
7
. Địa Chí Cần Thơ, (2002), tr. 541-544.
10
tuyên truyền tiếp tục được duy trì, phát triển; các thuyền văn hóa được thành lập, các khu
văn hóa, nhà văn hóa được xây dựng… hoạt động hiệu quả; phong trào toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư đi vào chiều sâu, góp phần xây dựng nếp sống mới
và hình thành nhân cách người Cần Thơ “Trí tuệ - năng động - nhân ái - hào hiệp - thanh
lịch”; các di tích lịch sử - văn hóa, bảo tàng tiếp tục được trùng tu phát triển, được Bộ Văn
hóa thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia như: mộ nhà thơ yêu nước
Phan Văn Trị, mộ cụ Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa, đền thờ Bác Hồ Tuy nhiên, trong quá
trình hội nhập quốc tế văn hóa ở Cần Thơ không sao tránh khỏi ảnh hưởng của văn hóa
tiêu cực như: quan điểm về lối sống lệch lạc, thực dụng, phai nhạt lý tưởng, lễ nghi, tiệc
tùng linh đình, làm xói mòn văn hóa truyền thống. Trước tình hình đó, một mặt Đảng bộ

và nhân dân Cần Thơ tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa, giá trị văn hóa của nhân loại;
mặt khác phải biết giữ gìn, bảo tồn những đặc điểm giá trị riêng có của vùng đất Cần Thơ,
góp phần vào việc thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Giai đoạn này xuất
hiện những nhà văn hóa, với những tác phẩm tiêu biểu như: “Giáp hạt”, Tập truyện của
Hoàng Hà; “Nắng mùa xuân”, Văn của nhiều tác giả; “Nhìn xa”, Thơ của Nguyễn Bá;
“Nhớ lại cái Tết năm ấy”, Hồi ký của Nguyễn Thanh Bình
8
.
Về các loại hình văn hóa - nghệ thuật ở Cần Thơ: Văn học dân gian, được nhân
dân sáng tác từ khi đặt chân đến đây khai thác vùng đất mới này đến nay suốt mấy thế kỷ
qua và ngay từ ban đầu đã mang sẵn trong mình cái vốn văn hóa ngàn đời của dân tộc. Họ
đã thuộc nằm lòng những điệu hát hò, những chuyện cổ tích, truyền thuyết, giai thoại… từ
miền Bắc và miền Trung mang vào bổ sung cho văn hóa địa phương không ngừng phát
triển. Văn hóa - nghệ thuật không thể tách rời văn hóa quần chúng và văn hóa chuyên
nghiệp, cũng như không thể tách rời nghệ thuật dân gian và nghệ thuật đỉnh cao. Văn học
- nghệ thuật bao gồm các loại hình như: dân ca, hò, sân khấu (đặc biệt đờn ca tài tử và cải
lương là loại hình nghệ thuật được nhiều người ưa thích nhất). Sân khấu, trước khi nói đến
các loại hình nghệ thuật sân khấu chính thống như hát bội, cải lương, kịch nói trên đất Cần
Thơ, không thể không nói tới nhạc lễ, nhạc tài tử là hai loại hình nghệ thuật tiền thân của
sân khấu hát bội và cải lương đã từng thịnh hành ở vùng đất trung tâm đồng bằng sông
Cửu Long này. Bên cạnh các loại hình văn hóa - nghệ thuật đặc sắc, còn có các loại hình
nghệ thuật như: Nhạc, múa, họa, nhiếp ảnh, điện ảnh, v.v… và các hoạt động văn hóa:
triển lãm, bảo tàng, thư viện, thông tin, tuyên truyền, báo chí… đã góp phần tạo nên giá trị
văn hoá chuẩn mực của người dân Cần Thơ. Giá trị văn hóa đó là: giá trị đạo đức, chính
trị, xã hội, thẩm mỹ… đáp ứng nhu cầu cơ bản của cả cộng đồng, được cộng đồng thừa
nhận như một lý tưởng, một khát vọng vươn tới. Lễ hội Cần Thơ có nền tảng chung là lễ
nghi nông nghiệp của cư dân trồng lúa nước. Các trò diễn xướng phổ biến trong lễ hội ở
Cần Thơ là hát bội (mang tính chính thống) và một số loại hình diễn xướng dân gian khác
như múa bóng rỗi, múa mâm vàng… gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Lễ hội
tiêu biểu của người Việt ở Cần Thơ là cúng đình, trong năm đình có 2 kỳ lễ hội lớn được

8
. Dư địa chí Cần Thơ (2002), tr. 545-548.
11
tổ chức long trọng: Lễ Hạ điền: Cúng đất đai bắt đầu vụ mùa mới (rằm tháng 4 Âm lịch).
Lễ Thượng điền: Tạ ơn và cúng ruộng đồng nghỉ ngơi (rằm tháng chạp Âm lịch). Tục đón
Xuân của Cần Thơ cũng rất hấp dẫn. Người ta thường chuẩn bị đón Tết rất sớm. Mỗi gia
đình nông dân thường có tráng bánh tráng, gói bánh tét, quếch bánh phồng để ăn tết.
Trong ngày Tết, cành mai là không thể thiếu trong mỗi gia đình ở miền Nam nói chung và
Cần Thơ nói riêng. Ngày Tết thường có nhiều trò vui đặc biệt như: đá gà, đá cá lia thia…
Những lễ tục phiền toái, lãng phí, xa hoa, tốn kém thời giờ và tiền của hay mang tính chất
mê tính dị đoan theo thời gian đều được nhân dân tự giác loại bỏ. Về phong tục tập quán,
người Cần Thơ coi trọng việc cưới xin. Trong đời sống tinh thần của người Việt (Kinh)
nói chung, người Cần Thơ nói riêng thì cưới là chuyện hệ trọng trong cuộc đời của mỗi
con người. Dân gian Cần Thơ cũng có câu: “Mua trâu, cưới vợ, làm nhà, Trong ba việc
ấy thật là khó thay”. Cưới là một phong tục có nghi lễ mang đậm nét bản sắc văn hoá
vùng miền tốn kém và phức tạp. Tuy vậy, do những đặc điểm lịch sử, địa lý riêng, người
Cần Thơ đã giản lược nghi thức theo hướng nghiêm trang nhưng tiện lợi, đã làm cách tân
các nghi thức cưới xin theo hướng hết sức tiến bộ.
2.1.3. Những đặc điểm cơ bản của văn hóa Cần Thơ
Văn hóa Cần Thơ có nhiều đặc điểm, tổng hợp lại có ba đặc điểm chủ yếu: (1) Đặc
điểm thứ nhất của văn hóa Cần Thơ là, văn hóa sông nước và văn minh miệt vườn. Nét
độc đáo tự nhiên và kiến trúc đô thị của Cần Thơ là mạng lưới kênh rạch. Kênh rạch cũng
là "đường phố", nó mang vẻ đẹp của một đô thị lớn từng được mệnh danh là Tây Đô. Cho
nên các loại hình văn hóa ở Cần Thơ đều mang nặng dấu ấn, đặc điểm của vùng sông
nước và miệt vườn. (2) Đặc điểm thứ hai của văn hóa Cần Thơ là, tính phong phú và đa
dạng . Các dân tộc Kinh, Hoa, Khmer sống ở Cần Thơ đều có những giá trị và sắc thái
văn hóa riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa
Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc là cơ sở để giữ vững sự bình đẳng và phát huy
tính đa dạng văn hóa của các dân tộc anh em. (3) Đặc điểm thứ ba của Văn hóa Cần Thơ
là, văn hóa mang hơi thở của đời sống thực tiễn sinh động, giản dị, phóng khoáng, trọng

tình nghĩa, được biểu hiện qua các phương thức sinh hoạt: từ các công trình kiến trúc, các
tác phẩm văn học - nghệ thuật, cho đến các phong tục, tập quán, lễ hội và các sinh hoạt tôn
giáo. Điều đó được thể hiện ở chỗ, các loại hình và giá trị văn hóa Cần Thơ là phản ánh
đời sống thực tiễn sinh động của cư dân và vùng đất Cần Thơ; đến lượt mình, các loại
hình và các giá trị văn hóa Cần Thơ lại tác động trở lại, góp phần nâng cao nhận thức, tình
cảm của con người, định hướng các tầng lớp nhân dân thực hiện nếp sống văn minh, ý
thức trách nhiệm đối với xã hội, cộng đồng không ngừng được nâng lên, tình làng nghĩa
xóm được bồi đắp, có ý thức giúp đỡ nhau trong cuộc sống, hình thành nên tính cách
phóng khoáng, giản dị, “trọng nghĩa khinh tài”… của người Cần Thơ nói riêng và miền
Tây nói chung.
2.2. QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI
TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở CẦN THƠ
12
2.2.1. Sự thống nhất giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển
văn hóa ở Cần Thơ
Hiện đại bắt nguồn từ truyền thống, lấy truyền thống làm nền tảng để chắt lọc,
kế thừa và phát triển của văn hóa ở Cần Thơ được thể hiện trên các mặt:
Trước hết là lòng yêu nước. Lòng yêu nước là truyền thống tốt đẹp của nhân dân cả
nước nói chung và Cần Thơ nói riêng. Nó được bắt nguồn từ truyền thống qua mấy ngàn
năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Điều này được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ
xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một
làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm
tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Lịch sử ta có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ
tinh thần yêu nước của dân ta"
9
. Rõ ràng là Hồ Chí Minh cũng chứng minh quan điểm:
Hiện đại bắt nguồn từ truyền thống trên cơ sở bảo tồn, kế thừa, phát huy truyền thống. Nó
bắt nguồn từ lịch sử Bà Trưng, Bà Triệu… đến Nguyền Huệ - Quang Trung. Rồi đến
những thắng lợi vang dội của các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Truyền thống

ấy được biểu hiện sinh động ở mỗi thời đại khác nhau, gắn với điều kiện, nhiệm vụ lịch sử
xã hội khác nhau. Đó là sự thống nhất giữa truyền thống và hiện đại trong văn hóa.
Ngày nay, lòng yêu nước của người dân Cần Thơ được nâng cao lên tầm hiện đại,
được phát huy cao độ trong việc chung sức, chung lòng xây dựng quê hương, đất nước,
quyết tâm đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên văn minh, hiện đại.
Bên cạnh lòng yêu nước, tinh thần lao động cần cù, sáng tạo cũng là truyền thống
tốt đẹp của người Cần Thơ. Kế thừa đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động của ông cha
từ thuở xa xưa, những người nông dân đã dần dần chinh phục được vùng đất đầy khắc
nghiệt với rừng rậm, đầm lầy và nhiều thú dữ. Họ đã biến vùng đất hoang hoá trước đó trở
thành một vùng đất phì nhiêu, màu mở với ruộng vườn tươi tốt và những vụ mùa bội thu.
Ngày nay, tinh thần lao động cần cù, sáng tạo , được nâng lên tầm cao mới - hiện
đại, được thể hiện trong học tập, nghiên cứu và trong lao động sản xuất, luôn chịu khó tìm
tòi, học hỏi, áp dụng một cách sáng tạo các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất;
năng động sáng tạo những mô hình làm ăn mới đem lại những lợi ích thiết thực và hiệu
quả kinh tế cao.
Cùng với lòng yêu nước; tinh thần lao động cần cù, sáng tạo; đoàn kết là một
truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta nói chung và người Cần Thơ nói riêng. Truyền
thống này không ngừng phát triển trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Nhờ phát huy được
tinh thần đoàn kết toàn dân tộc mà nhân dân Cần Thơ đã giành được hết thắng lợi này tới
thắng lợi khác trong quá trình hình thành và phát triển, góp phần to lớn vào sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, truyền thống
đoàn kết dân tộc được nâng lên tầm hiện đại, biểu hiện qua việc người người, nhà nhà
9
. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, tr. 171.
13
tham gia tích cực vào các phong trào hành động cách mạng ở địa phương, góp phần vào
việc xây dựng thành phố Cần Thơ - trung tâm của vùng đồng bằng sông Cửu Long; đồng
thời, nó được mở rộng ra đoàn kết quốc tế.
Truyền thống văn hóa ở Cần Thơ được bảo tồn, phát triển nâng cao một cách
sinh động và phong phú nhờ tính hiện đại, được biểu hiện trên các mặt như sau:

Thứ nhất, hành vi ứng xử văn hóa trước đây của người Cần Thơ nặng về lễ giáo
phong kiến, gia trưởng. Ngày nay, hành vi ứng xử truyền thống trước đây như tôn kính
đối với ông, bà, cha mẹ, lễ phép đối với mọi người, kính trên nhường dưới, giúp đỡ những
người hoạn nạn, có hoàn cảnh khó khăn vẫn được bảo tồn nhưng không còn gò bó, gượng
ép, vừa phù hợp với văn hóa, đạo đức truyền thống của Việt Nam, vừa phù hợp với chuẩn
mực của xã hội hiện đại. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận dân cư, nhất là giới trẻ có những
hành vi ứng xử thiếu văn hóa; thiếu ý chí phấn đấu, sống buông thả, sa đà vào các tệ nạn
xã hội. Vì vậy, việc giáo dục hành vi ứng xử văn hóa cần được quan tâm đúng mức.
Thứ hai, nghệ thuật sân khấu cải lương. Cải lương hiện nay có sự kế thừa cải lương
trước đây, nó đổi mới, phong phú nhờ tính hiện đại. Trong quá trình phát triển, các bài bản
cải lương đã được bổ sung thêm từ nguồn dân ca, hò, lý Nam bộ; từ chỗ chỉ có ca cổ phát
triển lên thành tân cổ giao duyên. Và khi tiếp cận, giao lưu với sân khấu kịch hát Quảng
Đông (Trung Quốc) và tân nhạc của phương Tây, cải lương cũng đã chọn lọc một số bài
bản, dân tộc hóa để làm giàu thêm vốn âm nhạc sẵn có. Cùng lúc bổ sung thêm các bài
bản, dàn nhạc dân tộc của cải lương đã biết cách tiếp nhận các nhạc cụ hiện đại. Nội dung
từ tuồng tích đơn thuần, mang tính nhân bản và giá trị nhân đạo hàm chứa trong hình
tượng những nhân vật điển hình cần cù và giàu đức hy sinh, nhân ái, vị tha với bà con,
đồng bào và quyết liệt, khẳng khái, dũng mãnh trước kẻ thù giai cấp và kẻ thù dân tộc ;
ngày nay nội dung tuồng tích gắn với việc tuyên truyền, giáo dục đường lối, chủ trương
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đã làm cho sắc điệu cải lương thêm gần gũi với cuộc
sống đương đại. Chính việc đáp ứng kịp thời những yêu cầu mới phát sinh từ hiện thực
cuộc sống đã là động lực thúc đẩy việc phát triển, nâng cao trình độ sáng tạo của các nghệ
sĩ và đương nhiên, mặt bằng thẩm mỹ của nghệ thuật cải lương cũng ngày càng được nâng
cao hơn.
Thứ ba, đờn ca tài tử, ngay từ những ngày đầu mới hình thành, các buổi ca nhạc tài
tử thường được tổ chức trong những đám tiệc: cưới, giỗ, mừng thọ,… khi khuya về, vắng
khách, lúc công việc đám tiệc bộn bề tạm xong chờ sáng là đám đờn ca lại trỗi lên phục vụ
mọi người; hoặc sau những ngày lao động đồng áng mệt nhọc, tối lại, họ tụ họp nhau đờn
ca bên tách trà, chung rượu.
Nếu như trước đây, nội dung của bài ca tài tử được sáng tác nhằm động viên tinh

thần yêu nước, chí quật cường, truyền thống lịch sử oai hùng, gương chiến đấu dũng cảm
quên mình, hy sinh của đồng bào chiến sĩ; lên án bọn ngoại xâm, vạch mặt bọn tay sai bán
nước; thì ngày nay, loại hình đờn ca tài tử được hiện đại hóa, thông qua những bài bản
đờn cả tài tử nhằm tuyên truyền, giáo dục người dân chấp hành tốt đường lối, chủ trương
14
của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, ca ngợi tình yêu quê hương, đất nước,
tuyên dương những gương người tốt, việc tốt, phát động các phong trào hành động cách
mạng ở địa phương; đồng thời phê phán, lên án những cái xấu, cái tiêu cực trong đời sống
xã hội, hướng con người đến giá trị chân - thiện - mỹ.
Thứ tư, chợ nổi được hình thành khá lâu đời, nét độc đáo và đặc điểm chính của chợ
nổi Cái Răng, thành phố Cần Thơ là chuyên buôn bán các loại trái cây, đặc sản của vùng
đồng bằng sông Cửu Long. Trải qua biết bao biến cố lịch sử của vùng đất Cần Thơ, chợ
nổi không những không mất đi mà luôn đổi mới để thích nghi và tồn tại. Ngày nay, kinh tế
- xã hội thành phố Cần Thơ không ngừng phát triển, trở thành thành phố loại I trực thuộc
Trung ương, chợ nổi cũng đã chuyển hướng hoạt động theo hướng hiện đại; vì vậy chợ
nổi Cái Răng không chỉ là một trong những điểm tham quan lý tưởng, mà còn là một nét
văn hóa rất đặc sắc của Cần Thơ, thu hút rất nhiều du khách, đặc biệt là khách nước ngoài.
Thứ năm, làng nghề truyền thống cũng là nét văn hóa độc đáo của Cần Thơ. Hiện
nay, Cần Thơ có hàng chục làng nghề nổi tiếng, với hàng vạn lao động có tay nghề cao,
trong đó có rất nhiều người được xem là nghệ nhân. Sản phẩm làm ra không chỉ tiêu thụ
nội địa, mà đã được khẳng định thị phần trên các thị trường quốc tế. Vì vậy, Nhà nước cần
có một tầm nhìn chiến lược về làng nghề để có sự đầu tư đúng mức về trang thiết bị, cải
tiến kỹ thuật, “thổi hồn” cho những sản phẩm thủ công mỹ nghệ ở các làng nghề ngày
càng đa dạng về mẫu mã, phong phú về tạo hình, đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong
nước và quốc tế; đồng thời phải có thương hiệu của những sản phẩm để vừa phát triển
làng nghề gắn với phát triển du lịch; khuyến khích sự hợp tác giữa các vùng, giữa các
nghệ nhân.
2 2.2. Sự mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển
văn hóa ở Cần Thơ
Sự tụt hậu về nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với

vai trò của văn hóa, làm cản trở sự phát triển của cái mới, cái hiện đại
Hiện nay, còn không ít cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên, trong đó có cả
cán bộ lãnh đạo của thành phố Cần Thơ chưa nhận thức đúng vai trò của văn hóa, chưa
thấy hết tầm quan trọng của sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại
trong quá trình phát triển văn hóa, cho rằng văn hóa là lĩnh vực đứng ngoài kinh tế, văn
hóa là lĩnh vực không sinh lợi; chưa thật sự coi trọng các giá trị văn hóa, chưa thấy tính
cấp bách của công tác văn hóa trong toàn bộ sự nghiệp đổi mới đất nước; công tác văn hóa
còn xếp vào vị trí thứ yếu và chưa thật sự gắn kết hữu cơ với các nhiệm vụ phát triển kinh
tế, củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng, chỉnh đốn Đảng trên từng địa bàn. Từ đó làm
cản trở sự phát triển của cái mới, cái hiện đại, cản trở sự phát triển của thành phố, dẫn đến
sự phát triển của văn hóa chưa đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Vì vây,
Đảng bộ và nhân Cần Thơ cần đổi mới nhận thức về văn hóa, nhận thức đúng đắn vị trí,
vai trò, tầm quan trọng của văn hóa, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện
đại trong quá trình phát triển văn hóa, đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Có như vậy
15
các cấp lãnh đạo của thành phố Cần Thơ mới đủ sức hoạch định đúng đắn đường lối chiến
lược phát triển thành phố, đề ra mục tiêu, phương hướng phát triển văn hóa phù hợp với
tình hình thực tế của địa phương. Đồng thời, phải biến những nhận thức đó thành hành
động cụ thể của các cấp lãnh đạo thành phố Cần Thơ, đưa nội dung văn hóa (phương
hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển văn hóa) vào nghị quyết các kỳ đại hội
đảng bộ các cấp; chương trình, kế hoạch phát triển văn hóa hàng năm; đầu tư đúng mức
cho phát triển văn hóa. Có như vậy, mới bảo đảm cho thành phố Cần Thơ phát triển nhanh
và bền vững.
Mâu thuẫn giữa bộ máy tổ chức, quản lý và các thiết chế văn hóa cũ với yêu cầu
phát triển nền văn hóa mới ở Cần Thơ
Một số mô hình, nội dung, phương thức hoạt động văn hóa và phong trào xây dựng
đời sống văn hóa truyền thống hàng chục năm qua ở Cần Thơ sẽ không còn phù hợp, đòi
hỏi phải có sự sáng tạo, chuyển đổi nhịp nhàng với trào lưu mới của một thành phố công
nghiệp, thương mại, dịch vụ tiến dần đến sự hội nhập vào nếp sống văn minh đô thị, đời
sống thị dân, công nhân, trí thức, doanh nhân. Nhưng khi người dân hòa nhịp được với đời

sống đô thị, một số yếu tố của hiện đại như: quan niệm, lối sống, giao tiếp không phù hợp
với truyền thống, mâu thuẫn, xung đột với truyền thống. Do đó, những mâu thuẫn giữa
truyền thống và hiện đại trong gia đình và cộng đồng ở Cần Thơ là những vấn đề bức xúc
cần giải quyết.
Khi Việt Nam gia nhập WTO, ngành văn hóa thông tin vừa có thêm những điều
kiện thuận lợi mới, vừa phải đối phó với những thách thức, khó khăn mới. Làm thế
nào để văn hóa cũng sẵn sàng hội nhập và theo kịp bước phát triển của kinh tế, nếu
không sự phát triển sẽ mất cân đối, đất nước sẽ không theo kịp đà phát triển chung
của các nước trên thế giới.
Theo Chương trình phát triển văn hóa đến năm 2015 của thành phố Cần Thơ, dự
báo tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực của ngành văn hóa thông tin hiện nay và khả năng
trong một tương lai gần khó đáp ứng nhu cầu phát triển sự nghiệp văn hóa của thành phố.
Đáng chú ý là sự thiếu hụt các dạng loại cán bộ, nhất là đạo diễn giỏi, tác giả có tầm cỡ,
chuyên gia có tầm nhìn, có tư duy mới, có năng lực tổ chức thực hiện, có trình độ phát
hiện và tổng kết thực tiễn.
Hệ thống thiết chế văn hóa của thành phố còn nhiều bất cập, sau khi chia tách tỉnh
Cần Thơ thành tỉnh Hậu Giang và thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương; nhiều quận,
huyện mới ra đời nhưng thành phố chưa xây dựng kịp thời cơ sở vật chất, trang thiết bị.
Dự án “trung tâm văn hóa Tây Đô”, bao gồm cả các cơ sở mới như thư viện, nhà hát… đã
triển khai nhưng chưa thể bảo đảm thời gian nào sẽ xây dựng, hoàn thành. Trong khi đó,
thực tế tình hình đang đòi hỏi phải nhanh chóng mở rộng các hoạt động, đáp ứng nhu cầu
xã hội.
16
Mâu thuẫn giữa một số phong tục tập quán và các hình thức sinh hoạt văn hóa
tinh thần (lễ hội, tôn giáo…) lạc hậu, lỗi thời với yêu cầu phát triển mới của nền văn
hóa ở Cần Thơ
Trong quá trình phát triển văn hóa, nhiều giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp được
bảo tồn, phát triển, Cần Thơ còn những yếu tố truyền thống văn hóa lạc hậu, cản trở sự
phát triển cần khắc phục. Đó là những tập tục, nhiều yếu tố lạc hậu, phản tiến bộ; tục lệ
cưới xin, ăn uống linh đình đang quay trở lại với nhiều mức độ khác nhau; hủ tục về ma

chay còn tồn tại khá nặng nề ở một số nơi. Trong lĩnh vực văn hóa tín ngưỡng - tôn giáo
cũng đang bị lợi dụng, làm cho nạn mê tín dị đoan tăng lên; niềm tin và đạo lý bị xói mòn.
Quan hệ gia đình vốn được đặc trưng bởi quan hệ tình cảm, trực tiếp nay đã và đang có xu
hướng trở thành quan hệ gián tiếp và lỏng lẻo hơn. Bên cạnh những tác động tích cực như
nâng cao đời sống sinh hoạt gia đình, giảm bớt gánh nặng cho người phụ nữ và tạo được
sự độc lập, tự chủ mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình thì sự eo hẹp về thời
gian, sự phát triển của các loại hình dịch vụ xã hội đang đe dọa những giá trị truyền thống
và ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của gia đình. Như vậy, rõ ràng quá trình công
nghiệp hóa - đô thị hóa không chỉ đơn thuần là quá trình tăng trưởng về lượng mà cả một
sự thay đổi về chất đang diễn ra và tác động trực tiếp và gián tiếp đến đời sống sinh hoạt
gia đình. Rõ ràng là Cần Thơ có rất nhiều mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong
lĩnh vực văn hóa cần giải quyết.
Kết luận chương 2
Cần Thơ là vùng đất mới so với các vùng khác, nhưng Cần Thơ đã trải qua một
thời kỳ tồn tại và phát triển đã để lại cho người dân ở đây những di sản văn hóa vô
cùng quý giá, với những đặc điểm cơ bản là văn hóa sông nước, văn minh miệt vườn;
văn hóa Cần Thơ thống nhất mà đa dạng; trong đức tính và văn hóa giao tiếp người
dân Cần Thơ có tính phóng khoáng, khoan dung, cộng đồng, chất phác, giản dị, thực
tế, trọng tình nghĩa. Trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ luôn luôn có sự tác
động, thống nhất giữa truyền thống và hiện đại như một quy luật phát triển của văn
hóa. Đồng thời, văn hóa ở Cần Thơ cũng bộc lộ sự mâu thuẫn giữa truyền thống và
hiện đại, biểu hiện trên các mặt: sự tụt hậu về nhận thức của một bộ phận cán bộ,
đảng viên và nhân dân đối với vai trò của văn hóa, làm cản trở sự phát triển của cái
mới, cái hiện đại; các biểu hiện của phong tục, tập quán lạc hậu, lỗi thời làm cản trở
sự phát triển xã hội mới; các biểu hiện về mặt sinh hoạt văn hóa tinh thần (lễ hội, tôn
giáo…) không chuyển đổi kịp yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần
khắc phục trong quá trình xây dựng nền văn hóa mới ở Cần Thơ.
Chương 3
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
Ở CẦN THƠ TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

17
3.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
VÀ THỰC TRẠNG VĂN HÓA Ở CẦN THƠ
3.1.1. Khái quát những đặc điểm chủ yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Cần Thơ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta
nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập của nhân dân, tạo
tiền đề để giải quyết các vấn đề chính trị và xã hội của đất nước, đưa nước ta tiến lên văn
minh, hiện đại, đến năm 2020 phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
hiện đại. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Cần Thơ được thể hiện trên các mặt
như sau:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Cần Thơ là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý kinh tế, từ sử dụng lao động
thủ công sang lao động bằng máy móc, tạo ra năng suất lao động xã hội cao
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Cần Thơ được tiến hành đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực: nông nghiệp, nông thôn, công
nghiệp, dịch vụ, quản lý kinh tế, xã hội. Quá trình đó đã làm chuyển đổi căn bản, toàn diện
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động
thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và
tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Kinh tế nông nghiệp,
nông thôn phát triển và đang từng bước chuyển dịch nhanh theo hướng nông nghiệp công
nghệ cao, hình thành vùng nguyên liệu sản xuất hàng hóa chất lượng cao. Đã có gần 60%
diện tích đất nông nghiệp chuyển đổi cơ cấu sản xuất; tỷ lệ áp dụng cơ giới hóa trong nông
nghiệp ngày càng tăng, việc ứng dụng công nghệ sinh học, kỹ thuật canh tác tiến bộ…đã
góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa. Sản xuất
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề nông thôn không ngừng phát triển. Các
doanh nghiệp đã đầu tư trang thiết bị hiện đại, cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản
phẩm, nhiều sản phẩm đủ sức cạnh tranh thị trường trong và ngoài nước. Trong lĩnh vực
dịch vụ, Cần Thơ đã từng bước hình thành các loại dịch vụ cao cấp như: tài chính ngân

hàng, bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin, du lịch, thị trường bất động sản…Nhờ
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa mà đến nay nền kinh tế Cần Thơ có bước phát
triển vượt bậc: tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trên 15% năm. Thu nhập bình quân đầu
người 36,82 triệu đồng (theo giá thực tế), tương đương 1.959 USD, tăng 1.575 USD so
với năm 2005
10
.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Cần Thơ với mục đích xây dựng Cần Thơ
thành thành phố trung tâm của vùng đồng bằng sông Cửu Long
Những năm gần đây, nhất là từ khi trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, Cần
Thơ tăng tốc xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị, với nhiều công trình, dự án chiến lược của
10
Trích Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Cần Thơ lầ thứ XII, nhiệm kỳ 2005-2010.
18
thành phố và Trung ương đầu tư trên địa bàn đã đưa vào sử dụng như: sân bay Cần Thơ
(giai đoạn I), cầu Cần Thơ, Quốc lộ IA, Trung tâm điện lực Ô Môn, khu đô thị mới Nam
Cần thơ, xây dựng bến cảng nước sâu Cái Cui, khu công nghiệp Hưng Phú I, II, đại lộ
Nam sông Hậu dự án nâng cấp đô thị giai đoạn I…Một số công trình, dự án quan trọng
khác đang trong quá trình hoàn tất như: nâng cấp trường đại học Cần Thơ thành trường
đại học trọng điểm quốc gia; nâng cấp, xây dựng Trung tâm kỹ thuật - ứng dụng công
nghệ; nâng cấp, xây dựng phòng thí nghiệm công nghệ sinh học; nâng cấp, mở rộng cụm
cảng Cần Thơ; đầu tư xây dựng nhà máy lọc dầu công suất 02 triệu tấn/năm; dự án thoát
nước và xử lý nước thải với công nghệ tiên tiến để xử lý các chất thải đô thị (nước thải, rác
thải sinh hoạt, rác thải y tế…) và các chất thải công nghiệp để hạn chế đến mức thấp nhất
sự ô nhiễm môi trường, nhất là nguồn nước sông Hậu, bảo đảm mọi điều kiện để Cần Thơ
phát triển bền vững. Đây là tiền đề tốt đẹp cho tương lai, khẳng định tính chất “trung tâm
khu vực”.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thúc đẩy cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
tích cực
Cơ cấu kinh tế của Cần Thơ đã chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại

hóa một cách rõ rệt. Khu vực I: 17,05% của năm 2006, giảm xuống còn 10,71% năm
2010; khu vực II: 39,03% của năm 2006, tăng lên 44,03% năm 2010 và khu vực III:
43,92% của năm 2006, tăng lên 45,26% năm 2010
11
.
Cơ cấu kinh tế phát triển, kéo theo kết cấu xã hội biến đổi, tầng lớp trung nông, tiểu
chủ phát triển, đã trở thành lực lượng trung tâm ở nông thôn và động lực thúc đẩy sự
chuyển dịch nền kinh tế. Quan hệ sản xuất được đổi mới một cách cơ bản theo hướng xây
dựng nền nông nghiệp hàng hóa với nhiều thành phần kinh tế tham gia, phát huy mạnh mẽ
vai trò của kinh tế hộ; đổi mới kinh tế hợp tác và hợp tác xã; doanh nghiệp nhà nước chi
phối những khâu then chốt; doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh trong tất cả các lĩnh
vực, góp phần phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Hệ thống chính trị ở cơ sở từng bước
được tăng cường, dân chủ ở nông thôn được mở rộng và phát huy tốt hơn; an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
Kinh tế và đời sống phát triển, xã hội nông thôn không ngừng đổi mới, đời sống
tinh thần của nhân dân từng bước được nâng lên. Đến nay, thành phố Cần Thơ có gần
100% số hộ có máy nghe nhìn; 100% xã, phường, thị trấn có mạng lưới điện quốc gia đến
trung tâm xã và 99,6% hộ nông dân sử dụng điện của mạng lưới quốc gia. Trường học,
trạm xá ngày một khang trang hơn, bảo đảm cho trẻ em trong độ tuổi đến trường; công tác
khám chữa bệnh, phòng chống dịch bệnh ngày một tốt hơn. Giải quyết việc làm, giảm
nghèo, thực hiện các chính sách an sinh xã hội đạt kết quả tích cực: giải quyết việc làm
tăng bình quân 10,8%/năm, đào tạo nghề tăng bình quân 3,3%/năm, nâng tỷ lệ lao động
được đào tạo nghề năm 2010 lên 42%; giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 10,46% năm 2005 xuống
11
. Trích Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Cần Thơ lần thứ XII, nhiệm kỳ 2010-2015. Khu vực I:
nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản; khu vực II: công nghiệp - xây dựng; khu vực III: thương mại - dịch vụ.
19
còn 4,7% vào năm 2010 (trên 16.500 hộ). Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, hỗ trợ các gia
đình chính sách,… được quan tâm thực hiện. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời

sống văn hóa tiếp tục phát triển và đi vào chiều sâu; đến năm 2010, toàn thành phố có
38/85 xã, phường, thị trấn và 88% hộ gia đình đạt tiêu chuẩn văn hóa
12
. Phong trào thể dục
thể thao quần chúng phát triển đều khắp trên địa bàn thành phố; tỷ lệ người tham gia tập
luyện thể thao thường xuyên đạt 24,2% dân số
13
. Đời sống kinh tế và dân trí phát triển
từng bước tạo công bằng và tiến bộ xã hội và là cơ sở vững chắc cho sự ổn định chính trị.
3.1.2. Thực trạng văn hóa ở Cần Thơ
Về trình độ dân trí, những năm gần đây, trình độ dân trí của người dân Cần Thơ
được nâng lên một bước đáng kể. Cần Thơ đã hoàn thành phổ cập trung học cơ sở, phấn
đấu đến 2010 hoàn thành phổ cập trung học phổ thông. Chủ trương xã hội hoá giáo dục -
đào tạo đạt kết quả bước đầu, biểu hiện rõ nhất là trong vận động học sinh đến trường,
chống bỏ học, khuyến khích tài năng, hỗ trợ kinh phí cho học sinh có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn. Tuy nhiên, một bộ phận người dân Cần Thơ chưa nhận thức đúng vị trí, vai trò
của giáo dục, chưa quan tâm đến việc học của con em mình, từ đó dẫn đến mặt bằng dân
trí của thành phố còn thấp.
Xây dựng con người mới, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục
được khẳng định là nền tảng tư tưởng của toàn xã hội. Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần tự
hào dân tộc được phát huy. Ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, chủ động vươn lên lập
thân, lập nghiệp, phấn đấu đưa bản thân, quê hương Cần Thơ từng bước thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu được phát triển trong đại đa số quần chúng. Tính năng động và tính tích cực
xã hội của các công dân, năng lực cá nhân được khuyến khích phát triển. Tinh thần đổi
mới, sáng tạo, dám nghĩ dám làm ngày càng thể hiện rõ hơn trong sản xuất, kinh doanh,
nhất là trong thế hệ trẻ. Tuy nhiên, việc giáo dục lý tưởng, lẽ sống cho thanh niên chưa
thường xuyên, hiệu quả hạn chế. Xu hướng thực dụng, chạy theo lối sống hưởng thụ có
chiều hướng gia tăng đang tác động tiêu cực đến đạo đức, lối sống của một bộ phận cán
bộ và nhân dân Cần Thơ.
Về văn hóa pháp luật, một điều không thể phủ nhận, ngày nay đời sống của các

tầng lớp nhân dân Cần Thơ đang được nâng cao, đi cùng với nó là sự nâng lên của trình
độ tri thức, nhận thức nói chung và nhận thức pháp luật nói riêng. Nhân dân ngày càng
quan tâm hơn đến pháp luật, ý thức chấp hành, thực hiện pháp luật có những tiến bộ rõ rệt.
Đây là nét đẹp văn hóa của người dân Cần Thơ. Tuy vậy, một bộ phận không nhỏ nhân
dân trình độ nhận thức pháp luật kém, số người vi phạm pháp luật (hình sự, dân sự, hành
chính) ở Cần Thơ có chiều hướng gia tăng, với các mức độ nặng nhẹ khác nhau, như các
vụ tranh chấp đất đai, kiện tụng, buôn lậu, trốn thuế, giết người… đặc biệt là các vụ vi
phạm luật giao thông.
Về đạo đức, dân tộc Việt Nam nói chung và nhân dân Cần Thơ nói riêng có rất
nhiều truyền thống đạo đức tốt đẹp, thể hiện đầy đủ quan hệ giữa con người với con
12
. Trích Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Cần Thơ lần thứ XII, nhiệm kỳ 2010-2015.
13
. Theo báo cáo tổng kết công tác năm 2010 của thành ủy Cần Thơ.
20
người, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, ngoài những truyền thống đạo đức tốt đẹp cần kế thừa, những
chuẩn mực đạo đức của con người Cần Thơ đã được xác định và bổ sung theo những nội
dung mới phù hợp theo 5 nhóm giá trị: về nhận thức tư tưởng chính trị; tự hoàn thiện bản
thân; quan hệ với người khác; quan hệ với công việc; có ý thức và trách nhiệm trong xây
dựng môi trường tự nhiên, văn hóa, xă hội. Tuy nhiên, thực trạng đạo đức xã hội còn
nhiều vấn đề đáng quan tâm như: đạo đức y tế, đạo đức giáo dục xuống cấp; nạn tham
nhũng, thái độ quan liêu, cửa quyền của cán bộ, công chức trong một số cơ quan, tổ chức
vẫn còn xảy ra; hành xử thô bạo giữa người với người, bạo lực học đường, các giá trị
thiêng liêng bị xâm hại; và các mối quan hệ xã hội, nhất là tình bạn, tình đồng chí diễn
biến theo chiều hướng xấu.
Về văn hóa môi trường, được xem xét đánh giá ở hai góc độ: môi trường tự nhiên
và môi trường văn hóa - xã hội.
Về môi trường tự nhiên, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng nhưng chưa có
giải pháp hữu hiệu bảo vệ môi trường đã dẫn đến cư dân Cần Thơ phải đối mặt với tình

trạng rác thải, khí thải và nguồn nước bị ô nhiễm nghiêm trọng. Sức khỏe của người dân,
đặc biệt là phụ nữ và trẻ em bị xâm hại. Các giải pháp bảo vệ môi trường an toàn, hiệu quả
đang được các ngành, các cấp của thành phố Cần Thơ tập trung hướng tới mục tiêu vì con
người, vì ngày mai. Tuy nhiên, chất lượng các thành phần môi trường nhất là môi trường
nước mặt chưa được cải thiện. Tiến độ triển khai các dự án đầu tư về môi trường nhất là
các dự án xây dựng hạ tầng cơ sở kỹ thuật như thoát nước và xử lý nước thải, chưa đáp
ứng kịp thời nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Về môi trường văn hóa - xã hội, công tác xây dựng đời sống văn hóa ở Cần Thơ
tiếp tục được đẩy mạnh, gắn chặt với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa” theo hướng nâng cao chất lượng, đang ngày càng phát huy hiệu quả trong
việc góp phần cải thiện, nâng cao đời sống vật chất lẫn tinh thần cho nhân dân. Tuy nhiên,
môi trường văn hóa của Cần Thơ ở nhiều nơi tiếp tục bị xuống cấp nghiêm trọng, nhất là
sự gia tăng của mại dâm, ma tuý, cờ bạc, tội phạm, tai nạn giao thông. Những tiêu cực
trong hoạt động âm nhạc, phim ảnh, mỹ thuật, kiến trúc, quảng cáo, thi người đẹp…gây
bức xúc trong dư luận.
Việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể ở Cần Thơ có
bước tiến đáng kể. Công tác kiểm kê di tích, sưu tầm văn hóa phi vật thể, xây dựng luật
pháp, thực hiện các chương trình chống xuống cấp di tích đã được các cơ quan trong
thành phố quan tâm thực hiện. Việc xã hội hóa công tác bảo tồn và phát huy các di sản
văn hóa đạt được bước tiến về cả quy mô, chất lượng và hiệu quả. Tuy nhiên, công tác
phát hiện, bảo tồn, phát huy và khai thác giá trị các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể
còn hạn chế do thiếu kinh phí và cơ chế quản lý phù hợp, phát sinh nhiều tiêu cực trong
trùng tu, tôn tạo. Một số di sản văn hóa vật thể tiếp tục bị xâm phạm, lấn chiếm, đánh cắp,
làm hư hại khá nặng nề, nhiều di sản không còn khả năng khôi phục.
21
3.2. QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở CẦN THƠ TRONG THỜI KỲ
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
3.2.1. Quan điểm và phương hướng chung trong việc phát triển văn hóa ở Cần
Thơ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Phương hướng xây dựng nền văn hóa mới trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế ở Cần Thơ là: xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn,
dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã
hội, trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Kế thừa và phát huy những
truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa
văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm
giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao…
3.2.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm kết hợp hài hòa giữa truyền thống và
hiện đại trong việc phát triển văn hóa ở Cần Thơ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa
Để văn hóa Cần Thơ phát triển hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, phát huy tính
tích cực, khắc phục những hạn chế, tồn tại của văn hóa, cần có những định hướng phát
triển và giải pháp: (1) Trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ, nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu là tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, làm chuyển biến căn bản
tâm lý, lối sống của mọi tầng lớp nhân dân (kể cả cán bộ, đảng viên) sống trong một tỉnh
thuần nông qua nhiều thế hệ sớm thích nghi với đời sống đô thị; làm chuyển đổi căn bản
về nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là cán bộ quản lý về vai trò của văn
hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa
tương ứng và khai thác có hiệu quả hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa đó; đồng
thời đầu tư xây dựng, cải tạo nâng cấp một số công trình văn hóa, nghệ thuật hiện đại. Đưa
cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi vào chiều sâu có tính
thiết thực và hiệu quả. (2) Chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, nâng cao dân
trí để nhân dân hưởng thụ và sáng tạo các giá trị văn hóa. Nâng cao chất lượng, hiệu quả
nhiệm vụ xây dựng con người Cần Thơ theo 5 đức tính được xác định trong Nghị quyết
Trung ương 5 (khoá VIII) và những chuẩn mực giá trị của con người Cần Thơ đương đại:
“Trí tuệ, năng động, nhân ái, hào hiệp, thanh lịch”
14
. Tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ
giáo dục về chủ nghĩa xã hội, lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, nhằm nâng cao bản

lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực, trí tuệ người Cần Thơ và đời sống văn hóa lành
mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể nhân dân và trong từng cá nhân, gia đình, thôn xóm, đơn vị, tổ chức cơ sở ở Cần
Thơ. Thường xuyên nâng cao trình độ phổ cập văn hóa đáp ứng nhu cầu văn hóa ngày
càng cao và đa dạng của các tầng lớp nhân dân ở Cần Thơ; đi đôi với nhiệm vụ đào tạo,
14
. Nghị quyết 45-NQ/TW của Bộ Chính trị “Về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước”.
22
bồi dưỡng các tài năng văn hóa, nhất là đội ngũ đạo diễn, nhà văn giỏi. Giáo dục truyền
thống cho thế hệ trẻ, trước hết phải coi trọng giáo dục ngay từ gia đình. (3) Trong phát
triển kinh tế - xã hội ở Cần Thơ, cần bảo đảm sự phát triển cân đối cả ba lĩnh vực: kinh tế,
xây dựng đảng và văn hóa; trong đó, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng
đảng là then chốt và văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, tạo nên sự phát triển đồng bộ
của các lĩnh vực này chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và
bền vững của thành phố Cần Thơ. Gắn chặt nhiệm vụ xây dựng văn hóa với nhiệm vụ xây
dựng, chỉnh đốn Đảng thông qua cuộc vận động lớn: Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh, đặc biệt là tinh thần đoàn kết nội bộ, phải giữ gìn sự đoàn kết trong
Đảng như giữ gìn con người của mắt mình, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân,
mọi hiện tượng bè phái, cơ hội, làm mất đoàn kết trong đảng để Đảng bộ Cần Thơ thật sự
trong sạch, vững mạnh, là “đạo đức”, là “văn minh”. (4) Bảo tồn, phát huy giá trị các di
sản văn hóa, trong quá trình mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa, cùng
với việc tập trung xây dựng những giá trị mới của văn hóa đương đại ở Cần Thơ, cần tiếp
tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của truyền thống văn
hóa dân tộc và tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, bắt kịp sự phát triển của
thời đại. Tiếp tục trùng tu, tôn tạo các di tích cách mạng, lịch sử, văn hóa, danh thắng
trọng điểm. Thường xuyên giáo dục, nâng cao ý nghĩa lịch sử và văn hóa truyền thống của
dân tộc và của quê hương đối với mọi người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ ở Cần Thơ. (5) Phát
triển nền văn học, nghệ thuật Cần Thơ hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc, thể hiện chân thật
đời sống nhân dân, lịch sử vùng đất Cần Thơ và công cuộc đổi mới ở Cần Thơ với thái độ

cổ vũ cái đúng, cái đẹp, đồng thời lên án cái xấu, cái ác. Thực hiện nghiêm túc và đầy đủ
các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, đồng thời xây dựng và thực hiện các chính
sách, chế độ có tính đặc thù, chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần của văn nghệ sĩ, nghệ
nhân dân gian nhằm tạo điều kiện thuận lợi và động viên văn nghệ sĩ, nghệ nhân dân gian
sáng tạo nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, góp
phần xây dựng nền văn hóa và con người Cần Thơ.
Kết luận chương 3
Trong những năm qua, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Cần Thơ đạt được
nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực: nền kinh tế duy trì được tốc độ tăng trưởng
khá cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng. Văn hóa - xã hội chuyển biến tích cực,
an sinh xã hội được đảm bảo, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, công tác xóa
đói giảm nghèo đạt kết quả khá tốt. Tuy nhiên phát triển văn hóa - xã hội chưa tương xứng
với tăng trưởng kinh tế; đời sống văn hóa cơ sở yếu kém, thiếu chiều sâu, chậm triển khai
vận động thực hiện tiêu chí về người Cần Thơ theo tinh thần Nghị quyết 45-NQ/TW của
Bộ Chính trị. Để khắc phục những hạn chế, yếu kém đó, Đảng bộ thành phố Cần Thơ cần
tiếp tục tập trung đầu tư xây dựng và phát triển nền văn hóa đậm đà bản sắc của vùng
đồng bằng sông nước, văn hóa miệt vườn, bằng các giải pháp: đẩy mạnh phát triển kinh
23
tế, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, trên cơ sở đó xây dựng các thiết chế văn
hóa từ thành phố đến cơ sở; tăng cường công tác giáo dục lý luận chính trị, làm chuyển
đổi nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vai trò của văn hóa; nâng cao trình độ
dân trí để nhân dân hưởng thụ và sáng tạo những giá trị văn hóa; bảo tồn, phát huy các
truyền thống văn hóa mang bản sắc riêng của vùng đất Cần Thơ qua quan điểm nhận thức,
lối sống, phong tục, tập quán, văn học nhệ thuật, kiến trúc, lễ hội…, bảo đảm sự gắn kết
giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với
không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng
bộ của ba lĩnh vực này là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền
vững của thành phố Cần Thơ.
KẾT LUẬN CHUNG
Trong tiến trình lịch sử, nhất là trong thời kỳ đổi mới, cùng với việc phát triển kinh

tế, xã hội, Cần Thơ đặc biệt quan tâm đến phát triển văn hóa; trong đó, việc kết hợp biện
chứng giữa truyền thống và hiện đại luôn được chú trọng và được xem như một quy luật
phát triển của văn hóa, được biểu hiện trên hai luận điểm: hiện đại bắt nguồn từ truyền
thống, lấy truyền thống làm nền tảng để kế thừa, phát triển văn hóa và truyền thống văn
hóa được bảo tồn, phát triển nâng cao sinh động, phong phú qua tính hiện đại. Nhờ sự kết
hợp biện chứng giữa truyền thống và hiện đại mà văn hóa Cần Thơ đã đạt được những
thành tích rất đáng tự hào. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã đạt được, văn hóa
Cần Thơ còn nhiều mặt hạn chế, yếu kém: sự tụt hậu về nhận thức của một bộ phận cán
bộ, đảng viên và nhân dân đối với vai trò của văn hóa, làm cản trở sự phát triển của cái
mới, cái hiện đại; các biểu hiện của phong tục, tập quán lạc hậu, lỗi thời làm cản trở sự
phát triển xã hội mới; các biểu hiện về mặt sinh hoạt văn hóa tinh thần (lễ hội, tôn giáo…)
không chuyển đổi kịp yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để khắc phục
những yếu tố truyền thống văn hóa lạc hậu, cản trở sự phát triển văn hóa, Cần Thơ cần có
những định hướng tích cực: xây dựng nền văn hóa thể hiện đậm đà bản sắc của vùng đồng
bằng sông nước, văn minh miệt vườn, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng các
giá trị và sắc thái văn hóa riêng của dân tộc Kinh, Khmer, Hoa…, thấm nhuần sâu sắc tinh
thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ
đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Và thực hiện đồng
bộ các giải pháp: tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ nâng cao dân trí, xây dựng tư tưởng,
đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội. Xây dựng đời sống văn hóa
mới, đi đôi với nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng các tài năng văn hóa, nhất là đội ngũ đạo
diễn, diễn viên giỏi; khuyến khích văn nghệ sĩ sáng tạo được nhiều công trình văn hoá
nghệ thuật tiêu biểu có giá trị cao.
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
24
1. Nguyễn Văn Dựa (2008), Văn hóa Cần Thơ và vai trò của nó đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội, Luận văn thạc sĩ Triết học.
2. PGS.TS. Trịnh Doãn Chính, Nguyễn Văn Dựa (2006), Một số vấn đề
chính sách dân tộc đối với đồng bào Khmer đồng bằng sông Cửu Long, Kỷ yếu

Hội thảo đồng bằng sông Cửu Long: Thực trạng và giải pháp để trở thành vùng
trọng điểm phát triển kinh tế, giai đoạn 2006-2010. Trường đại học KHXH&NV
thuộc Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, tr. 202-212, Nxb. Đại học Quốc gia
TP.Hồ Chí Minh.
3. PGS.TS. Doãn Chính, ThS. Nguyễn Văn Dựa (2009), Về giải pháp xóa
đói, giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc Khmer Tây Nam bộ, Tạp chí Khoa học
Chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện
Chính trị - Hành chính khu vực II, tr. 31-37.
4. Nguyễn Văn Dựa (2010), Sự thống nhất giữa truyền thống và hiện đại
trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ, Tạp chí Khoa học xã hội, số 5
(141), tr. 8, 9, 10, 11, 12, 21 .
5. Nguyễn Văn Dựa (2008), 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4
(khóa VII) về công tác thanh niên ở tỉnh Vĩnh Long, Tạp chí Văn phòng cấp ủy,
Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, số 6 (3/2008), tr. 24-25.
6. Nguyễn Văn Dựa (2009), Thực trạng công tác thủy lợi vùng đồng bằng
sông Cửu Long giai đoạn 2006-2010 và định hướng 2020, Tạp chí Văn phòng
cấp ủy, Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, số 16-17 (1-2/2009),
tr. 57-59.
7. Nguyễn Văn Dựa (2010), Những tiến bộ của công tác phụ nữ ở thành
phố Cần Thơ và một số vấn đề cần tập trung giải quyết, Tạp chí Văn phòng cấp
ủy, Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, số 36 (9/2010), tr. 36, 37,
38, 46.
25

×