Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm tại Công ty Cổ phần chè Quân Chu, Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (831.87 KB, 94 trang )



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH


TRẦN THANH TUẤN


MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN PHẨM TẠI
CÔNG TY CỔ PHẦN CHÈ QUÂN CHU, THÁI NGUYÊN



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP











Thái Nguyên, năm 2012


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN


TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH


TRẦN THANH TUẤN

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN PHẨM TẠI
CÔNG TY CỔ PHẦN CHÈ QUÂN CHU, THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

Chuyên ngành: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
Mã số: 60.31.10
Người hướng dẫn khoa học: TIẾN SĨ. NGUYỄN DUY LỢI









Thái Nguyên, năm 2012
1

PHẦN ĐẶT VẤN ĐỀ


1. Tính cấp thiết của đề tài

Sau khi hội nhập với kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều
cơ hội giao lưu, hợp tác, tranh thủ công nghệ và vốn để mở rộng thị trường.
Bên cạnh đó cũng đòi hỏi các thành phần kinh tế, các ngành phải đề ra chiến
lược phát triển nhằm tăng khả năng cạnh tranh đối với sản phẩm hàng hoá của
mình so với sản phẩm khác trong nước cũng như trên thế giới.
Trong những năm gần đây, hội nhập kinh tế quốc tế cũng là vấn đề đang
được Đảng, Nhà nước và các doanh nghiệp rất quan tâm, hoạt động thương
mại quốc tế này đã trở thành hoạt động không thể thiếu của nền kinh tế Việt
Nam. Một trong những lợi thế kinh tế của nước ta là hoạt động sản xuất và
kinh doanh các sản phẩm nông nghiệp, trong đó việc sản xuất và kinh doanh
sản phẩm chè là một loại hình sản xuất đang thu hút được sự quan tâm của thị
trường thế giới. Hiện nay, ngành chè của nước ta tuy gặp nhiều khó khăn
nhưng vẫn là một ngành chủ chốt của nông nghiệp Việt Nam và đang tìm mọi
biện pháp để dần hội nhập với nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đòi hỏi các doanh nghiệp chè phải nâng
cao năng lực của mình thì mới có thể đứng vững được trong cuộc cạnh tranh
của thị trường trong nước cũng như trên thế giới.
Công ty cổ phần chè Quân Chu - Thái Nguyên là một doanh nghiệp sản
xuất và chế biến chè hàng năm luôn nằm trong tốp những doanh nghiệp có
tổng sản lượng tiêu thụ lớn của tỉnh Thái Nguyên, đồng thời với hoạt động
xuất khẩu luôn chiếm tỷ trọng lớn trên tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, do đó
có thể thấy sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp này phụ thuộc rất lớn vào
việc thu hút, mở rộng hoạt động tiêu thụ sản phẩm và chú trọng tới xuất khẩu.
Để làm được điều này thì việc đầu tư cho sản xuất, nâng cao thúc đẩy năng
lực cạnh tranh của sản phẩm để làm sâu rộng hơn thị trường của doanh nghiệp,
2

khẳng định vai trò và vị thế của sản phẩm chè Quân Chu - Thái Nguyên là
một việc làm vô cùng quan trọng và rất cần thiết.
Chính với những lý do trên mà tôi đã chọn đề tài: “Một số giải pháp

nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm tại Công ty cổ phần Chè Quân
Chu, Thái Nguyên” để nghiên cứu và hy vọng sẽ giúp công ty có những
biện pháp cơ bản để có thể khắc phục những khó khăn, phát huy những lợi
thế của mình để có thể nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm chè trong hội
nhập kinh tế.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Khái quát những vấn đề cơ bản về hoạt động sản xuất, kinh doanh chè,
từ đó đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm chè nước ta nói chung và của
công ty cổ phần chè Quân Chu - Thái Nguyên nói riêng trong thời gian qua.
- Phân tích những thuận lợi và khó khăn của quá trình sản xuất, kinh
doanh sản phẩm của doanh nghiệp để từ đó đề xuất phương hướng và giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm chè trong thời gian tới.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu.
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài: những chiến lược, định hướng sản
xuất kinh doanh của Công ty và các chiến lược cạnh tranh đưa sản phẩm vào
thị trường.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn
đề lí luận và thực tiễn liên quan đến năng lực cạnh tranh sản phẩm chè của
công ty cổ phần chè Quân Chu - Thái Nguyên trên cơ sở các số liệu liên quan
đến tình hình sản xuất, kinh doanh của công ty từ năm 2009 đến 2011.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Đề tài được thực hiện và hoàn thành trên cơ sở vận dụng phương pháp
nghiên cứu cơ bản như:
- Phương pháp phân tích kinh tế
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu
3

- Phương pháp tổng hợp dữ liệu và thống kê kinh tế
5. Những đóng góp khoa học của đề tài.

- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến năng lực cạnh
tranh sản phẩm của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập sâu kinh tế quốc tế.
- Đánh giá và phân tích các số liệu thực tiễn sản xuất, kinh doanh để
đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm ở Công ty Cổ phần chè Quân Chu.
- Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm tại
Công ty Cổ phần chè Quân Chu.
6. Cấu trúc của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và mục lục tài liệu tham khảo, kết cấu của
đề tài được chia làm 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Chương 3: Thực trạng năng lực cạnh tranh sản phẩm của công ty cổ
phần chè Quân Chu
Chương 4: Một số giải pháp cơ bản nâng cao năng lực cạnh tranh sản
phẩm của công ty cổ phần chè Quân Chu












4

CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIẾN
VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM

1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.1.1. Khái niệm
Thuật ngữ “hội nhập quốc tế” trong tiếng Việt có nguồn gốc dịch từ
tiếng nước ngoài (tiếng Anh là “international integration”, tiếng Pháp là
“intégration internationale”). Đây là một khái niệm được sử dụng chủ yếu
trong các lĩnh vực chính trị học quốc tế và kinh tế quốc tế, ra đời từ khoảng
giữa thế kỷ trước ở châu Âu, trong bối cảnh những người theo trường phái thể
chế chủ trương thúc đẩy sự hợp tác và liên kết giữa các cựu thù (Đức-Pháp)
nhằm tránh nguy cơ tái diễn chiến tranh thế giới thông qua việc xây dựng
Cộng đồng châu Âu.
Trên thực tế cho đến nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm
“hội nhập quốc tế”. Nhìn chung, có ba cách tiếp cận chủ yếu sau:
Cách tiếp cận thứ nhất, thuộc về trường phái theo chủ nghĩa liên bang,
cho rằng hội nhập (integration) là một sản phẩm cuối cùng hơn là một quá
trình. Sản phẩm đó là sự hình thành một Nhà nước liên bang kiểu như Hoa Kỳ
hay Thụy Sỹ. Để đánh giá sự liên kết, những người theo trường phái này quan
tâm chủ yếu tới các khía cạnh luật định và thể chế.
Cách tiếp cận thứ hai, với Karl W. Deutsch là trụ cột, xem hội nhập
trước hết là sự liên kết các quốc gia thông qua phát triển các luồng giao lưu
như thương mại, đầu tư, thư tín, thông tin, du lịch, di trú, văn hóa… từ đó
hình thành dần các cộng đồng an ninh (security community). Theo Deutsch,
có hai loại cộng đồng an ninh: loại cộng đồng an ninh hợp nhất như kiểu Hoa
Kỳ, và loại cộng đồng an ninh đa nguyên như kiểu Tây Âu. Như vậy, cách
5

tiếp cận thứ hai này xem xét hội nhập vừa là một quá trình vừa là một sản

phẩm cuối cùng.
Cách tiếp cận thứ ba xem xét hội nhập dưới góc độ là hiện tượng/hành vi
các nước mở rộng và làm sâu sắc hóa quan hệ hợp tác với nhau trên cơ sở
phân công lao động quốc tế có chủ đích, dựa vào lợi thế của mỗi nước và mục
tiêu theo đuổi.
Cách tiếp cận thứ nhất có nhiều hạn chế vì nó không đặt hiện tượng hội
nhập trong quá trình phát triển mà chỉ nhìn nhận hiện tượng này (chủ yếu về
khía cạnh luật định và thể chế) trong trạng thái tĩnh cuối cùng gắn với mô
hình Nhà nước liên bang. Cách tiếp cận này khó áp dụng để phân tích và giải
thích thực tiễn của quá trình hội nhập diễn ra với nhiều hình thức và mức độ
khác nhau như hiện nay trên thế giới. Không phải bất cứ sự hội nhập nào cũng
dẫn đến một Nhà nước liên bang. Cách tiếp cận thứ hai có điểm mạnh là nhìn
nhận hiện tượng hội nhập vừa trong quá trình tiến triển vừa trong trạng thái
tĩnh cuối cùng, đồng thời đưa ra được những nội dung khá cụ thể và sát thực
tiễn của quá trình hội nhập, góp phần phân tích và giải thích nhiều vấn đề của
hiện tượng này. Cách tiếp cận thứ ba tập trung vào hành vi của hiện tượng,
không quan tâm xem xét góc độ thể chế cũng như kết quả cuối cùng của hội
nhập, do vậy, thiếu tính toàn diện và hạn chế trong khả năng giải thích bản
chất của quá trình hội nhập.
Ở Việt Nam, thuật ngữ „hội nhập kinh tế quốc tế” bắt đầu được sử dụng
từ khoảng giữa thập niên 1990 cùng với quá trình Việt Nam gia nhập
ASEAN, tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các thể chế
kinh tế quốc tế khác. Những năm gần đây, cụm từ “hội nhập quốc tế” (thậm
chí nói ngắn gọn là “hội nhập”) được sử dụng ngày càng phổ biến hơn và với
hàm nghĩa rộng hơn hội nhập kinh tế quốc tế. Có một thực tiễn đáng lưu ý là
trước khi thuật ngữ “hội nhập kinh tế quốc tế” được đưa vào sử dụng, trong
tiếng Việt đã xuất hiện các cụm từ “liên kết kinh tế quốc tế” và “nhất thể hóa
kinh tế quốc tế”. Cả ba thuật ngữ này thực ra được sử dụng để chỉ cùng một
6


khái niệm mà tiếng Anh gọi là “international economic integration”. Sự khác
biệt giữa chúng chủ yếu là cách dùng với hàm ý chính trị và lịch sử khác
nhau. Thuật ngữ “nhất thể hóa kinh tế quốc tế” được sử dụng chủ yếu trong
bối cảnh hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa trong khuôn khổ Hội đồng
Tương trợ kinh tế (SEV) những năm 1970-1980.
Thuật ngữ “liên kết kinh tế quốc tế” được sử dụng khá nhiều khi nói về
hiện tượng phát triển các quan hệ kinh tế trên cơ sở tự do hóa mậu dịch giữa
các nước không phải là xã hội chủ nghĩa trong những thập niên sau Chiến
tranh thế giới II, đặc biệt là trong khuôn khổ các tổ chức kinh tế khu vực như
Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EC), Liên minh châu Âu (EU), Hiệp hội Mậu
dịch tự do châu Âu (EFTA), Thị trường chung Trung Mỹ (CACM), Cộng
đồng Caribê và Thị trường chung (CARICOM), Khu vực Mậu dịch tự do Bắc
Mỹ (NAFTA), v.v Trong thực tiễn sử dụng ở Việt Nam hiện nay, các thuật
ngữ “liên kết quốc tế” và “hội nhập quốc tế” có thể thay thế nhau và hầu như
không có sự khác biệt về ý nghĩa.
Mặc dầu vậy, cho đến nay vẫn không có một định nghĩa nào về khái
niệm “hội nhập quốc tế” giành được sự nhất trí hoàn toàn trong giới học thuật
và cả giới làm chính sách ở Việt Nam. Từ các định nghĩa khác nhau nổi lên
hai cách hiểu chính. Thứ nhất, cách hiểu hẹp coi “hội nhập quốc tế” là sự
tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực. Thứ hai, cách hiểu rộng, coi
“hội nhập quốc tế” là sự mở cửa và tham gia vào mọi mặt của đời sống quốc
tế, đối lập với tình trạng đóng cửa, cô lập hoặc ít giao lưu quốc tế. Với tư duy
theo cách này, không ít người thậm chí đã đánh đồng hội nhập với hợp tác
quốc tế. Cả hai cách hiểu trên về khái niệm “hội nhập quốc tế” đều không đầy
đủ và thiếu chính xác.
Chủ thể của hội nhập quốc tế trước hết là các quốc gia, chủ thể chính của
quan hệ quốc tế có đủ thẩm quyền và năng lực đàm phán, ký kết và thực hiện
các cam kết quốc tế. Bên cạnh chủ thể chính này, các chủ thể khác cùng hợp
thành lực lượng tổng hợp tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.
7


1.1.1.2. Đặc điểm của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
trong lĩnh vực kinh doanh nông sản
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là một quá trình diễn ra từ thấp
đến cao, từ bộ phận đến toàn thể. Quá trình vận hành này theo đúng thông
lệ và tập quán quốc tế. Việt Nam cũng có nhiều điểm tương đồng với các
nước trong khu vực về xuất phát điểm và điều kiện phát triển. Ví dụ như
điều kiện phát triển các sản phẩm nông nghiệp giống nhau; cơ cấu kinh tế
còn lạc hậu, đều thực hiện chiến lược công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu,
cạnh tranh nhau trong thu hút đầu tư và công nghệ nước ngoài, Tính chất
tương đồng này sẽ làm tăng mức độ gay gắt của tình trạng cạnh tranh để xuất
khẩu nông sản giữa các nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế có sự chênh lệch khá lớn về trình độ phát triển.
Việt Nam cần khai thác các lợi thế so sánh, xác định rõ những mặt hàng bổ
sung cho nhau và xây dựng mặt hàng nông nghiệp mũi nhọn trong thương mại
quốc tế để cạnh tranh hiệu quả với các nước trong khu vực.
Hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra trong điều kiện nền kinh tế thế giới
bước vào giai đoạn toàn cầu hoá, xu hướng tự do hoá thương mại được đề cao
và cạnh tranh quốc tế rất gay gắt. Tuy vậy, thương mại quốc tế nông
nghiệp vẫn được coi là lĩnh vực nhạy cảm. Xuất nhập khẩu nông sản vẫn
được các quốc gia bảo vệ bằng các hàng rào phi thuế quan, cho nên bán phá
giá, trợ cấp xuất khẩu, trả đũa thương mại vẫn xảy ra ngay trước mắt và trong
tương lai. Việt Nam cần cố gắng khai thác những điểm chưa hoàn chỉnh này
trong cam kết quốc tế để tạo ra lợi ích cho mình.
Hội nhập kinh tế quốc là xu hướng tất yếu, có tính quy luật. Việt Nam
có những đặc điểm riêng của mình và nếu nhìn từ góc độ kinh doanh nông
sản thì thấy tuy thương mại quốc tế nông nghiệp là mũi nhọn để phát triển
nhưng còn lắm thách thức và bất cập. Việc nắm bắt quy luật và tình hình riêng
để vận động, phát triển phù hợp với xu hướng của thương mại quốc tế nông
nghiệp trên thế giới là việc nên làm.

8

Trong lĩnh vực kinh doanh nông sản, Việt Nam hiện mới chỉ có thể xuất
khẩu một số loại nông sản như gạo, ngô, điều, cao su, cà phê, chè, và thế
mạnh của nông sản Việt Nam tập trung ở những mặt hàng đó. Đó cũng
chính là thành quả lao động của người nông dân Việt Nam trong sản xuất
nông nghiệp. Nhưng ở Việt Nam, người ta không thấy việc xuất khẩu các
hàng hoá là nguyên liệu hay vật tư, máy móc, thiết bị cho nông nghiệp. Vì
thế, người dân Việt Nam thường phải bán cái mình có chứ thật hiếm khi
được đem bán cái mà thị trường cần. Sự chật vật của nông sản Việt Nam trong
các thị trường tiêu thụ xuất phát từ đó. Cụ thể như sau:
+ Danh mục các nông sản xuất khẩu đơn điệu. Sự đơn điệu này đặc
biệt tập trung ở danh mục các sản phẩm có độ chế biến sâu (hầu như không
có). Nông sản xuất khẩu của Việt Nam sau bao năm mở cửa rồi mà vẫn ở
dạng thô hoặc ít qua chế biến. Theo đánh giá UNDP thì việc phát triển
kém của ngành công nghiệp chế biến ở Việt Nam do hàng loạt các trở ngại
như: Hệ thống vận tải yếu kém đã cản trở vận chuyển đường dài các nguyên
liệu và thành phẩm; Các xí nghiệp chế biến ở xa nơi cung cấp nguyên liệu
hoặc không có những vùng nguyên liệu tập trung, đảm bảo công suất thiết kế;
Công nghệ chế biến lạc hậu, lạm dụng hoá chất bảo quản, sự thiếu vệ sinh,
tồn dư các chất độc hại trong sản phẩm; Vật liệu bao bì chưa tốt gây tổn thất
lớn trong chế biến và làm giảm chất lượng sản phẩm; Trình độ quản lý non
kém, còn thiếu thốn nghiêm trọng về vốn, kỹ thuật và thông tin thị trường;
Thu nhập thấp của người tiêu dùng trong nước cũng làm hạn chế tiêu thụ các
sản phẩm nông nghiệp chế biến.
+ Các nông phẩm có tốc độ tăng xuất khẩu cao của Việt Nam lại chính
là những sản phẩm có tốc độ giảm xuất khẩu của thế giới và ngược lại, suốt
10 năm qua. Điều này phản ánh rất rõ khả năng phản ứng và thích nghi rất hạn
chế, rất thụ động với nhu cầu thị trường thế giới cả trong sản xuất, chế biến
và xúc tiến kinh doanh thương mại.

9

+ Phương pháp marketting nông sản Việt Nam vẫn theo kiểu truyền
thống, tức là chào bán rồi đưa ra thị trường những sản phẩm ta có, ta làm ra,
đồng nghĩa với đó là những sản phẩm có quy mô sản xuất lớn, dễ khai thác.
1.1.2. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm
1.1.2.1. Khái niệm
Cạnh tranh là hiện tượng tự nhiên, là mâu thuẫn quan hệ giữa các cá thể
có chung một môi trường sống khi cùng quan tâm tới một đối tượng nào đó.
Trong hoạt động kinh tế, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế
(nhà sản xuất, người tiêu dùng) nhằm giành lấy những vị thế lợi hơn trong sản
xuất, tiêu thụ hay tiêu dùng hàng hóa để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.
Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những nhà sản xuất với nhau hoặc có thể xảy ra
giữa người sản xuất với người tiêu dùng khi người sản xuất muốn bán hàng
hóa với giá cao, người tiêu dùng lại muốn mua được với giá thấp. Cạnh tranh
mang lại nhiều lợi ích, đặc biệt cho người tiêu dùng. Người sản xuất phải tìm
mọi cách để làm ra sản phẩm có chất lượng hơn, đẹp hơn, có chi phí sản xuất
rẻ hơn, có tỷ lệ tri thức khoa học, công nghệ cao hơn để đáp ứng nhu cầu, thị
hiếu của khách hàng. Cạnh tranh làm cho người sản xuất năng động hơn, nhạy
bén hơn, nắm bắt tốt hơn nhu cầu của khách hàng, thường xuyên cải tiến kỹ
thuật, áp dụng những tiến bộ, những nghiên cứu mới nhất vào sản xuất; hoàn
thiện cách thức tổ chức sản xuất, quản lý sản xuất để nâng cao năng xuất, chất
lượng và hiệu quả kinh tế.
Năng lực cạnh tranh là khả năng dành chiến thắng trong sự ganh đua
giữa các chủ thể trong cùng một môi trường và khi cùng quan tâm tới một đối
tượng. Trên giác độ kinh tế, năng lực cạnh tranh được xem xét ở các góc độ
khác nhau như năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh doanh
nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Năng lực cạnh tranh quốc gia là khả năng nâng cao mức sống một cách
nhanh và bền vững, tức là đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao và ồn định,

được đo lường bằng mức độ thay đổi trong thu nhập bình quân đầu người qua
các năm. Theo cách tiếp cận này, trình độ và chất lượng hoạt động của doanh
nghiệp là một yếu tố quan trọng quyết định đến năng lực cạnh tranh quốc gia.
10

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp theo cách đơn giản nhất có thể
hiểu là “khả năng nắm giữ thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận
được, vì vậy khi thị phần tăng lên cho thấy năng lực cạnh tranh được nâng
cao”. Trong quản trị chiến lược, năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp là
khả năng của một doanh nghiệp đạt được tỷ suất lợi nhuận nhưng lại không
giúp nhiều cho việc phân tích các yếu tố tạo nên năng lực cạnh tranh, đặc biệt
là trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế.
Năng lực cạnh tranh của một sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ nào đó trên
thị trường trong nước và quốc tế là sự thể hiện tính ưu việt hay tính hơn hẳn
của nó cả về định tính và định lượng với các chỉ tiêu như: chất lượng sản
phẩm, thương hiệu, mức độ vệ sinh công nghiệp hay vệ sinh thực phẩm; khối
lượng và sự ổn định chất lượng của sản phẩm; kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm;
môi trường thương mại, mức độ giao dịch và uy tín của sản phẩm trên thị
trường; sự ổn định về môi trường kinh tế vĩ mô và chính sách thương mại như
thuế, tỷ giá, tín dụng, đầu tư, mức độ bảo hộ… và cuối cùng là chỉ tiêu về giá
thành và giá cả sản xuất.
Nói cách khác, cạnh tranh giữa các sản phẩm trên một thị trường là quá
trình thể hiện khả năng hấp dẫn tiêu dùng của các sản phẩm đối với khách
hàng trên một thị trường cụ thể và trong một thời gian nhất định. Năng lực
cạnh tranh của sản phẩm có thể gắn với một doanh nghiệp, một quốc gia cụ
thể hoặc xét chung cho tất cả các quốc gia, các doanh nghiệp.
Trong hoạt động thương mại quốc tế ngày nay, nhất là để đẩy mạnh công
tác xuất khẩu, chúng ta phải có nhiều biện pháp để nâng cao cạnh tranh của
các hàng hoá. Khả năng cạnh tranh của một số hàng hoá được hiểu là khả
năng chiếm lĩnh thị trường, giữ vững và phát triển thị trường hàng hoá đó.

Từ quan điểm này cho ta thấy rằng một số hàng hoá được thị trường
chấp thuận càng nhiều thì khả năng cạnh tranh của hàng hoá đó càng cao. Sự
chiếm lĩnh, giữ vững và phát triển thị trường của một hàng hoá là do những
ưu điểm của nó được thể hiện ở nhãn hiệu, giá thành, chất lượng, số lượng
11

Tuỳ từng loại hàng hoá mà ta xem xét tới các yếu tố này. Có thể một hàng
hoá có giá thành rẻ (do tiền công lao động thấp) nhưng chưa chắc đã được người
tiêu dùng chấp nhận vì chất lượng và sự phù hợp của nó không cao.
Đối với một doanh nghiệp hoặc một ngành, một sản phẩm, năng lực
cạnh tranh gắn với mục tiêu duy trì sụ tồn tại và thu được lợi nhuận trên thị
trường (nội địa và quốc tế), nó được thể hiện cụ thể bằng lợi thế cạnh tranh
của sản phẩm. Giữa năng lược cạnh tranh quốc gia và năng lực cạnh tranh sản
phẩm có mối quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau.
1.1.2.2. Một số nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm
a. Lợi thế so sánh
Sự hình thành cụm ngành là một bước phát triển chuyển từ lợi thế so
sánh sang lợi thế cạnh tranh. Quốc gia nào cũng có lợi thế so sánh trong một
số lĩnh vực nào nào đó. Ở thứ bậc thấp nhất của trình độ nhận thức là biết
khai thác nó, ở mức cao hơn là trình độ tư duy biến chuyển nó thành lợi thế
cạnh tranh quốc gia. Ở cấp vi mô là chiến lược cạnh tranh của các công ty, ở
cấp quốc gia, đó là thể chế để phát triển. Trong môi trường cạnh tranh mạnh,
các công ty khi xác lập được vị thế của mình trong nước thì họ có khả năng
cạnh tranh trên thị trường thế giới.
b.Năng suất
Năng suất là yếu tố then chốt quyết định khả năng cạnh tranh và sự tồn
tại lâu dài của một doanh nghiệp, là cơ sở để nâng cao thu nhập, tạo môi
trường và điều kiện làm việc tốt cho người lao động.
Đối với quốc gia, năng suất giúp nâng cao chất lượng tăng trưởng nền
kinh tế thông qua sử dụng một cách hiệu quả các yếu tố đầu vào là “vốn” và

“lao động” để gia tăng kết quả đầu ra. Mục tiêu cuối cùng của năng suất là
nâng cao chất lượng cuộc sống và đảm bảo một xã hội tốt đẹp hơn. Vai trò
của năng suất đã thực sự được khẳng định khi nền kinh tế thế giới đi vào
khủng hoảng.
c. Các cơ sở kinh tế vĩ mô
Một thị trường hoạt động bao gồm nhiều đối tượng tham gia bao gồm
người mua, người bán, nhà nước, các đối tượng đầu cơ. Mỗi đối tượng tham
12

gia đều có những tác động nhất định tới sự vận hành của thị trường, quy luật
cung cầu không phải bao giờ cũng làm cho thị trường phát triển hiệu quả vì có
những cung ảo, cầu ảo hoặc có những nhóm nhỏ đối tượng thao túng thị
trường làm cho thị trường méo mó. Vai trò của bàn tay hữu hình là cần thiết
và giống như một người trọng tài có vai trò đảm bảo công bằng trong cạnh
tranh, các đối tượng tham gia thị trường đều phải tuân thủ luật.
Các cuộc khủng hoảng xảy ra trên thế giới đều xuất phát từ việc giá cả
tăng nhanh quá mức so với giá trị sử dụng của hàng hóa, dịch vụ. Các chính
sách đưa ra cần làm cho giá cả của hàng hóa xoay quanh giá trị sử dụng của
chúng, hạn chế tối đa tình trạng đầu cơ, găm giá tạo ra cầu ảo, sốt ảo, gây
thiệt hại cho sự phát triển chung của thị trường.
Hơn nữa trong môi trường cạnh tranh thì công cụ thống kê, đo lường
chính xác rất quan trọng: Nếu không có thông tin thống kê chính xác, có công
cụ đo lường hiệu quả và đánh giá tác động của các chính sách thì mọi quyết
định đưa ra phần lớn là cảm tính và như vậy sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Mỗi môi trường chính trị và một chính sách kinh tế vĩ mô ổn định kéo
theo nền tài chính vững mạnh, có sự tăng trưởng hợp lý về tiền tệ và tín dụng,
một mức nợ có thể kiểm soát được, lạm phát tương đối thấp, giới hạn và vai
trò thích hợp của chính phủ trong nền kinh tế cùng với sự mở cửa với các thị
trường quốc tế là các yếu tố để thúc đẩy tăng trưởng.

d. Hoạt động và chiến lược của Công ty
Sức khỏe của một công ty được đo lường qua hoạt động kinh doanh, hệ
thống và nguồn lực, còn triển vọng phát triển lớn mạnh về lâu dài thì phụ
thuộc chủ yếu vào chiến lược.
Chiến lược là một xâu chuỗi, một loạt những hoạt động được thiết kế
nhằm để tạo ra lợi thế cạnh tranh lâu dài so với các đối thủ. Trong môi trường
hoạt động của một công ty, bao gồm cả thị trường và đối thủ, chiến lược vạch
ra cho công ty một cách ứng xử nhất quán. Chiến lược thể hiện sự chọn lựa,
13

một sự đánh đối của công ty mà giới chuyên môn thường gọi là định vị chiến
lược.
Công ty hoạt động mà không có chiến lược ví như một người đi trên
đường mà không xác định minh đi đâu, về đâu, cứ mặc cho đám đông (thị
trường và đối thủ) đẩy theo hướng nào thì dịch chuyển theo hướng đấy. Một
nhà lãnh đạo có bản lĩnh sẽ không muốn phó mặc tương lai của doanh nghiệp
mình cho thị trường và đối thủ muốn dẫn đi đâu thì theo đó. Muốn vậy ông ta
phải chủ động vạch ra một hướng đi và cố gắng tác động để dẫn dắt thị trường
đi theo hướng này, một hướng đi mà công ty của ông ấy đã chuẩn bị và do đó
sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn những người khác. Trong bất kỳ một cuộc đối đầu
nào, đối thủ nào áp đặt được lối chơi của mình lên đối phương thì sẽ là người
có nhiều cơ hội chiến thắng hơn. Chiến lược kinh doanh riêng là cần thiết đối
với mỗi doanh nghiệp. Do vậy cần xây dựng chiến lược tuỳ thuộc vào từng
doanh nghiệp, từ chiến lược, tạo nên một công cụ cạnh tranh cho cuộc chiến
Lâu dài.
e. Môi trường kinh doanh
Sự mở cửa và hội nhập của nền kinh tế quốc tế là nhân tố trung tâm
trong những năm đầu thế kỷ XXI . Đặc trưng chủ yếu của việc mở cửa nền
kinh tế là sự mở rộng đa dạng hoá các hoạt động ngoại thương, quy mô lớn
của các dòng đầu tư nước ngoài và sự hội nhập sâu sắc với hệ thống thương

mại quốc tế. Một trong những chính sách để tạo ra môi trường kinh doanh
thuận lợi nâng cao năng lực cạnh tranh về lâu dài là: Hạn ngạch xuất khẩu cần
phải được tổ chức đấu thầu cho phép những nhà xuất khẩu có hiệu quả nhất
thực hiện hạn ngạch xuất khẩu, cần khuyến khích gia nhập thị trường kinh
doanh thương mại nước ngoài bằng cách bãi bỏ yêu cầu về mức vốn lưu động
tối thiểu và về lao động; Cần tăng cường hội nhập thông qua việc gia nhập
các khu vực thương mại tự do; Cần có chính sách đảm bảo cho các nhà xuất
khẩu có thể có được đầu vào và đầu ra theo giá thị trường quốc tế; Tạo điều
kiện để các nhà xuất khẩu được tiếp cận nguồn tài chính hỗ trợ xuất khẩu, đặc
14

biệt nguồn vốn lưu động với mức lãi suất có tính cạnh tranh; Cải thiện các
điều kiện hạ tầng, thể chế phục vụ xuất khẩu.
f. Tổ chức hệ thống, bản sắc và tài sản vô hình của Công ty
Tổ chức công ty là việc bố trí, sắp xếp mọi người trong công ty vào
những vai trò, những công việc cụ thể. Nói cách khác, tổ chức là tổng thể
những trách nhiệm hay vai trò được phân chia cho nhiều người khác nhau
nhằm đạt được mục tiêu và nhiệm vụ chung.
Cơ cấu tổ chức công ty phải gồm các cấp độ như sau:
Cấp độ cơ cấu vĩ mô: là cách sắp xếp, tổ chức vị trí, vai trò của từng cá
nhân trong công ty.
Cấp độ vi mô: là cách qui định quyền hạn, trách nhiệm của từng vị trí mà
các cá nhân trong công ty nắm giữ.
Hệ thống bổ trợ: bao gồm hệ thống điều hành của tổ chức, quá trình quản
lý sự phát triển của công ty, hệ thống văn hoá công ty và hệ thống quản lý
hoạt động công ty.
Công ty sẽ không thực hiện có hiệu quả các chức năng của mình nếu 3
cấp cơ cấu này không được thiết lập một cách đúng mức để hỗ trợ cho hoạt
động của công ty. Ngoài ra, khi đánh giá hoạt động của một công ty hoặc khi
thành lập một công ty mới ta cũng cần phải xem xét 3 cấp độ cơ cấu này.

Văn hoá doanh nghiệp có vị trí và vai trò rất quan trọng trong sự phát
triển của mỗi doanh nghiệp, bởi bất kỳ một doanh nghiệp nào nếu thiếu đi yếu
tố văn hoá, ngôn ngữ, tư liệu, thông tin nói chung được gọi là tri thức thì
doanh nghiệp đó khó có thể đứng vững và tồn tại được. Trong khuynh hướng
xã hội ngày nay thì các nguồn lực của một doanh nghiệp là con người mà văn
hoá doanh nghiệp là cái liên kết và nhân lên nhiều lần các giá trị của từng
nguồn lực riêng lẻ. Do vậy, có thể khẳng định văn hoá doanh nghiệp là tài sản
vô hình của mỗi doanh nghiệp.
Ngoài những yếu tố chủ quan, để xây dựng văn hoá bản sắc của doanh
nghiệp còn phải chú trọng tới những yếu tố khách quan. Đó là việc tạo lập thị
15

trường, lợi ích của người tiêu dùng, được thể hiện qua “Các nguyên tắc chỉ
đạo để bảo vệ người tiêu dùng”, là quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực
và thế giới.
1.1.2.3. Các phương thức nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên
phương diện lí thuyết
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, các doanh nghiệp cần
chú ý đến các phương thức cơ bản sau:
Thứ nhất doanh nghiệp phải đầu tư cho giai đoạn nghiên cứu để nắm bắt
xu hướng thay đổi nhu cầu của thị trường, giai đoạn thiết kế sản phẩm nhằm
tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho doanh nghiệp.
Thứ hai là áp dụng các công nghệ phù hợp, vừa bảo đảm tạo ra các sản
phẩm có chất lượng đáp ứng nhu cầu của thị trường, vừa có chi phí sản xuất
thấp. Để đạt được điều này doanh nghiệp phải tập trung vào hai nội dung cơ
bản: (i) Các doanh nghiệp phải có quy mô lớn và tiềm lực tài chính mạnh để
xây dựng các cơ sở nghiên cứu với thiết bị hiện đại, với nhân lực có trình độ
phát minh cao và triển khai nghiên cứu hiệu quả; (ii) Doanh nghiệp có khả
năng liên doanh liên kết với các tổ chức khác nhằm đi tắt, đón đầu công nghệ
mới. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có kinh nghiệm và kỹ năng hoạt

động trên thị trường công nghệ thế giới, có đội ngũ người lao động trình độ
cao và có môi trường khuyến khích người lao động sáng tạo.
Thứ ba: Thương mại điện tử, hệ thống giao hàng tại nhà theo đặt hàng
qua điện thoại, thiết lập mạng lưới tiêu thụ hiệu quả… là những cách thức
giúp doanh nghiệp phục vụ và giữ khách hàng hiệu quả. Do đó các doanh
nghiệp phải tập trung vào cách thức bao gói sản phẩm và khả năng giao hàng
linh hoạt, đúng hạn.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tổng quan việc sản xuất và tiêu thụ chè trên thế giới
1.2.1.1. Tình hình sản xuất chè trên thế giới
16

Hiện nay tổng diện tích trồng chè trên toàn thế giới vào khoảng 17,9
triệu ha và sản lượng hàng năm biến động trên dưới 11 triệu tấn, năng suất
bình quân chưa quá 2.7 tạ/ha. Theo thống kê của Hiệp hội chè “VITAS” hiện
nay có trên 40 nước trồng chè trong đó có 20 nước Châu Phi, 8 nước Châu
Mỹ, 18 nước Châu Á.
Hầu hết diện tích chè tập trung ở vành đai nhiệt đới. Sản lượng chè thế
giới năm 2002 là 4,708 triệu tấn, năm 2006 là 6,645 triệu tấn. Trong số các
nước sản xuất chè 5 nước Kenya, Trung Quốc, Ấn Độ, Colombia, Mehico
chiếm gần 50 % tổng sản lượng chè toàn thế giới (Theo báo cáo đánh giá của
Hiệp hội Chè Việt Nam ).
Tình hình sản xuất của các nước Kenya, Trung Quốc, Ấn Độ, Colombia,
Mehico làm biến động về cung chè trên thế giới; nó ảnh hưởng đến xuất khẩu
chè của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Khi các nước này bị mất
mùa thì lập tức giá chè thế giới tăng. Do đó giá chè Việt Nam được cải thiện.
Những năm qua do thời tiết không ổn định ảnh hưởng rất lớn đến sản lượng
chè thế giới đồng thời có động mạnh mẽ đến thực trạng xuất khẩu chè của
Việt Nam.
1.2.1.2. Thực trạng tiêu thụ chè trên thế giới

Nhìn chung, sản lượng tiêu thụ chè rất lớn, nhưng giá trị của từng sản
phẩm chè ở mỗi quốc gia lại khác nhau trong đó Việt Nam mới chỉ xuất khẩu
được rất ít cả về số lượng và giá trị ở thị trường này. Những nước nhập chè
tiêu thụ gần 70% lượng chè tiêu thụ toàn cầu, những nước sản xuất chỉ tiêu
thụ khoảng 30%. Trên thế giới hiện có Tiểu Vương Quốc Ả Rập, Ấn Độ,
Trung Quốc, Nga, Đài Loan, Ba Lan, Đức là những nước tiêu thụ chè lớn nhất.
Giá nhập khẩu trung bình là 67,06 Rs/kg, giảm 7 Rs/kg so với năm ngoái.
Khối lượng nhập khẩu 3,04 triệu kg, so với 2,28 triệu kg của năm ngoái. Kim
ngạch nhập khẩu đạt 204,2 triệu Rs so với 169,5 triệu Rs của năm ngoái (Theo
báo cáo đánh giá của Hiệp hội Chè Việt Nam ).
17

Theo như kết quả đánh giá của hiệp hội chè Việt Nam thì năm 2011
Công ty cổ phần chè Quân Chu có giá trị xuất khẩu chiếm 8.5% sản lượng chè
của Việt Nam, do vậy cầu thế giới về chè cũng có ảnh hưởng lớn đến tình
hình xuất khẩu của Công ty.
1.2.2. Một số nhận định về năng lực cạnh tranh sản phẩm chè của Việt Nam
1.2.2.1. Tổng quan tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chè ở Việt Nam
Chè là cây công nghiệp dài ngày, xuất hiện ở Việt Nam từ lâu. Do có
khí hậu nhiệt đới gió mùa thuận lợi với 2/3 diện tích lãnh thổ là vùng đồi núi,
cây chè đã trở thành cây mang tính chất sản xuất hàng hóa, sản phẩm chè đã
được đưa ra bán ở nhiều thị trường khác nhau. Theo thống kê của Tổng công
ty chè Việt Nam, hiên có gần một nửa số tỉnh, thành trong cả nước trồng chè,
nhưng phát triển mạnh nhất là ở các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Phú
Thọ, Yên Bái, Sơn La, Lâm Đồng. Chè Việt Nam được các chuyên gia quốc
tế đánh giá là có hương vị đặc trưng, thơm ngon.
Trong 20 năm qua (từ 1991 đến 2011) ngành Chè không ngừng phát
triển trên tất cả các lĩnh vực: diện tích, năng suất, sản lượng, chất lượng, cơ
cấu giống, chủng loại chè, thị trường và thương nhân tiêu thụ trong nước và
ngoài nước; xúc tiến thương mại, xây dựng và quảng bá thương hiệu, nhãn

mác doanh nghiệp và sản phẩm; Văn hóa và Lễ hội Trà. Từ năm 2007, theo
nguồn tin của ITC, Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 5 trên Thế giới về sản
lượng chè và khối lượng chè xuất khẩu.
Năm 2011, ngành chè Việt Nam đã có những đột phá về giá nhờ chất
lượng được cải thiện và giá tăng trên thị trường thế giới. Giá chè xuất khẩu
năm qua đạt bình quân 1.450 đô la Mỹ/tấn, giúp giá chè Việt Nam từ chỉ bằng
50% leo lên mức 70% so với giá chè trung bình của thế giới.
Giá chè ở thị trường trong nước cũng đã tăng 30% lên bình quân 70.000
đồng/kg, các loại có chất lượng cao đáp ứng tiêu chuẩn an toàn đạt 90.000 -
120.000 đồng/kg.
18

Năm 2012, giá chè nước ta sẽ tiếp tục tăng nhờ chất lượng tiếp tục được
cải thiện và nhu cầu cao từ phía khách hàng. Kim ngạch xuất khẩu năm nay
được Hiệp hội Chè dự đoán sẽ tăng 20% so với mức 197 triệu đô la Mỹ của
năm 2011, lên trên 200 triệu đô la Mỹ.
Khối lượng chè xuất khẩu năm nay có thể ổn định ở quanh mức 135.000
tấn như năm ngoái. Để đạt mục tiêu ngành chè ngày càng phát triển, nâng cao
giá trị và quảng bá thương hiệu chè Việt đến toàn cầu, trước hết phải đảm bảo
nguồn nguyên liệu ổn định và hướng đển việc tăng sản xuất và xuất khẩu sản
phẩm chè chất lượng cao, sau nữa là hướng tới mục tiêu phát triển bền vững
ngành chè.
Hiện tại, Việt Nam là quốc gia sản xuất và xuất khẩu chè lớn thứ 5 thế
giới sau Ấn Độ, Trung Quốc, Kenya, Sri Lanka và ngang hàng với Indonesia.
Tuy nhiên giá trị xuất khẩu chè của nước ta còn thấp hơn nhiều so với mặt
bằng giá trị chung của thế giới (chỉ bằng 70% trong năm 2011). Nguyên nhân
chính là sản phẩm chè xuất khẩu có chất lượng chưa cao do chưa quản lý
được vấn đề chất lượng, đặc biệt là khâu vệ sinh an toàn thực phẩm.
Theo Cục Trồng trọt, hiện cả nước có 690 nhà máy và cơ sở chế biến
chè, trong đó chỉ có 31 nhà máy có quy mô sản xuất lớn, 103 nhà máy có quy

mô sản xuất vừa, còn lại là các cơ sở sản xuất chế biến nhỏ và hàng vạn các lò
thủ công chế biến do các hộ gia đình tự chế.
Qua kiểm tra 31 doanh nghiệp chế biến chè ở phía Bắc cho thấy, số cơ
sở chế biến có đầu tư vùng nguyên liệu chiếm 35,5%, số cơ sở đáp ứng yêu
cầu kỹ thuật và trang thiết bị hiện đại phù hợp chỉ mới 45%. Như vậỵ có thể
thấy, số các nhà máy quá nhiều trong khi nguồn nguyên liệu có hạn, chất
lượng chưa đảm bảo lại phân tán nhỏ lẻ theo quy mô nông hộ.
Cũng theo Cục Trồng trọt, cần quy hoạch các vùng chè an toàn, tập trung
đáp ứng yêu cầu sản xuất an toàn theo hướng thực hành nông nghiệp tốt
(VietGAP) làm cơ sở đầu tư hạ tầng, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, chứng
19

nhận chất lượng. Ngoài ra phải tăng cường công tác quản lý giống chè, áp
dụng các biện pháp kỹ thuật để sản xuất chè, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật
đúng và hiệu quả, đồng thời phải quản lý tốt các cơ sở chế biến chè cũng như
việc phát triển cơ sở hạ tầng và có chính sách phù hợp với các nông hộ sản
xuất chè.
Hiện chè Việt Nam đã được xuất khẩu sang 110 nước và vùng lãnh thổ,
trong đó chiếm 95% khối lượng được xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu thô,
chỉ có 5% được xuất khẩu dưới dạng thành phẩm. Đây là lý do khiến cho dù
đứng thứ 5 thế giới về xuất khẩu chè nhưng thương hiệu chè Việt Nam vẫn
chưa được nhiều người biết đến. 10 thị trường xuất khẩu chủ yếu của chè Việt
Nam được thể hiện qua biểu đồ sau:
20

24000
20700
18600
13619
6636

5095
4158
3386
3347
Pakistan
Đài Loan
Nga
Trung Quốc
Afghan
Indonesia
Mỹ
Malaysia
UAE

Biểu đồ 1.1. 10 thị trường xuất khẩu chủ yếu của chè Việt Nam

Hiện chỉ có thương hiệu CHEVIET của nước ta là mới được biết đến và
đăng ký bảo hộ ở 70 quốc gia và vùng lãnh thổ. Để xứng danh với vị trí đứng
thứ 5 về xuất khẩu chè, vấn đề đặt ra cho ngành chè hiện nay là phải tăng
cường sản xuất các sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng được các yêu cầu
khắt khe nhất, tạo dựng thêm một số thương hiệu chè có truyền thống và
quảng bá rộng rãi ra thị trường thế giới.
Với lợi thế nguồn nguyên liệu dồi dào, giá chè thành phẩm lại cao hơn tới
5-10 lần giá nguyên liệu, ngành chè nước ta có rất nhiều tiềm năng phát triển.
Được xếp hàng thứ 5 trên thế giới và thứ nhất ASEAN về khối lượng sản
xuất và xuất khẩu chè, Việt Nam luôn chú trọng đầu tư phát triển ngành
chè. Hiện tại, với khoảng 130.000 ha chè, hơn 670 doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế và khoảng 400.000 hộ gia đình tham gia sản xuất chè,
mỗi năm Việt Nam sản xuất được khoảng 160.000 tấn chè khô, trong đó
80% là xuất khẩu, còn lại là tiêu dùng trong nước. Tuy nhiên, để có một

hướng phát triển bền vững cho ngành này vẫn là bài toán khó trong bối
cảnh hiện nay. Bởi mặc dù giá chè khá ổn định, song nếu so sánh thì hiện
21

nay giá xuất khẩu chè của Việt Nam vẫn thấp, chỉ bằng 1/2 so với mặt bằng
giá chung trên thế giới. Nguyên nhân chính là do có tới 98% lượng chè
xuất khẩu của nước ta đều ở dạng nguyên liệu thô, đóng bao 50 kg để xuất
khẩu. Giá trị kim ngạch xuất khẩu chè của nước ta càng ngày càng tăng,
điều đó được thể hiện qua biểu đồ sau:
0
200
400
Kim ngạch xuất khẩu …

Biểu đồ 1.2. Kim ngạch xuất khẩu chè của Việt Nam qua các năm
Sản xuất kinh doanh chè được coi là một mặt hàng chiến lược trong sản
xuất nông nghiệp ở Việt Nam, có giá trị xã hội lớn về các mặt như bảo vệ môi
trường, góp phần xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, dòng vốn đầu tư vào lĩnh
vực nông nghiệp nói chung và ngành chè nói riêng còn hết sức hạn chế, chưa
tương xứng với tiềm năng.
1.2.2.2. Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh của sản phầm chè Việt Nam
Từ thực trạng sản xuất và tiêu thụ chè của Việt Nam trong những năm
qua có thể thấy rằng: việc sản xuất và tiêu thụ chè của nước ta đã đạt được
nhiều thành công về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, hoạt động
sản xuất và tiêu thụ chè của chúng ta chưa ổn định, bị ảnh hưởng nhiều bởi
những bất lợi trên thế giới. Điều này có thể là do tăng trưởng của chúng ta chủ
yếu dựa vào số lượng (diện tích trồng chè tăng, sản lượng sản xuất và xuất
2007 2008 2009 2010 2011
22


khẩu tăng) chứ chưa có những bước phát triển về chất (năng suất chè và giá
xuất khẩu đều thấp hơn mức trung bình của thế giới).
Nhìn chung, năng lực cạnh tranh mặt hàng chè của Việt Nam khá tốt nhưng
đang có xu hướng giảm mạnh hơn mức độ suy giảm của thị trường thế giới.
Nguyên nhân chủ yếu là do những yếu kém của chúng ta trong cả 4 yếu tố:
(1) Về điều kiện các yếu tố đầu vào: Tuy khí hậu và thổ nhưỡng thuận
lợi nhưng giống chè chưa đa dạng, chưa bảo vệ được những giống tốt, bón
phân chưa đủ, dư lượng thuốc trừ sâu còn cao.
(2) Về điều kiện thị trường cầu trong nước tuy lớn nhưng mang tính chất
thời vụ và chủ yếu là uống chè theo kiểu truyền thống.
(3) Công nghiệp chế biến tuy có phát triển nhưng còn lạc hậu, phần lớn
vẫn ở quy mô nhỏ và vừa.
(4) Các doanh nghiệp tuy gia tăng về số lượng nhưng chưa có chiến lược
thích hợp, đặc biệt chưa xây được nhiều thương hiệu của Chè Việt Nam.
1.2.3. Tổng quan năng lực cạnh tranh của sản phẩm chè trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên
1.2.3.1. Khái quát thực trạng sản xuất và tiêu thụ chè của tỉnh Thái Nguyên
Sản xuất chè ở Thái Nguyên còn chủ yếu là sản xuất quy mô hộ. Tuy vậy,
do đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học, tăng đầu tư thâm canh chè mang lại
hiệu quả kinh tế cao. Trong những năm vừa qua, diện tích, năng suất, chất
lượng, giá trị chè Thái Nguyên không ngừng tăng:
Năm 2009, diện tích chè toàn tỉnh có 16.994 ha, năng suất 8,78 tấn chè
búp tươi/ ha, sản lượng 149.255 tấn; Năm 2010: 17.309 ha, năng suất 9,17
tấn/ha, sản lượng 158.702 tấn; Đến năm 2011, diện tích chè toàn tỉnh có
17.660 ha. Năng suất chè búp tươi năm 2011 đạt 107 tạ/ha, sản lượng chè búp
tươi 171.900 tấn;
Tỉnh Thái Nguyên đang đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ cấu giống chè theo
hướng giảm giống chè Trung du tăng các giống chè nhập nội và các giống chè
trong nước chọn tạo, lai tạo:
23


Năm 2010, cơ cấu giống mới là 34,22%. Năm 2011, cả tỉnh trồng mới và
trồng thay thế 1.000 ha chè bằng các giống mới có năng suất và chất lượng cao.
Đến năm 2015, cơ cấu giống mới đạt 60%, giống chè Trung du còn 40%.
- Xây dựng vùng sản xuất nguyên liệu chè búp tươi: Vùng nguyên liệu
phục vụ sản xuất chè xanh, chè xanh cao cấp gồm các giống: Trung du, LDP1,
TRI 777, Kim Tuyên, Phúc Vân Tiên, Bát tiên, Keo Am tích, phân bố chủ yếu
ở thành phố Thái Nguyên, huyện Đại Từ, Đồng Hỷ, Phú Lương, Phổ Yên,
chiếm tỷ lê 80 - 85% nguyên liệu chè chè búp tươi. Vùng nguyên liệu phục vụ
sản xuất chè đen gồm các giống: Trung du, LDP2, TRI 777, chủ yếu phân bố
ở các huyện Định Hoá, một phần ở huyện Đại Từ, Đồng Hỷ, Phú Lương,
chiếm tỷ lệ 10 - 15% lượng nguyên liệu chè búp tươi.
- Một số tiến bộ khoa học công nghệ ứng dụng nâng cao năng suất, chất
lượng, giá trị sản phẩm chè Thái Nguyên: tập trung vào việc chuyển đổi giống
mới, biện pháp canh tác hữu cơ, sử dụng phân bón cân đối, hiệu quả; tưới tiết
kiệm; áp dụng quản lý phòng trừ dịch hại tổng hợp (IPM).
- Sản xuất chè an toàn ở tỉnh Thái Nguyên: Hiện nay tỉnh Thái Nguyên
đang triển khai quy hoạch vùng sản xuất chè an toàn trên địa bàn toàn tỉnh
làm cơ sở cho việc thu hút đầu tư sản xuất chè hàng hóa chất lượng, giá trị
cao; xây dụng vùng sản xuất nguyên liệu chè an toàn theo hướng hữu cơ, hạn
chế sử dụng phân bón vô cơ, hóa chất trừ sâu; áp dụng quy trình thực hành
sản xuất nông nghiệp tốt GAP, từ khâu sản xuất đến khâu chế biến thành
phẩm cuối cùng gắn quy trình sản xuất với việc ược chứng nhận bởi các tổ
chức chứng nhận trong nước và quốc tế (VietGAP, GlobalGAP, Uzt
Certified,…).
Chương trình chuyển đổi giống mới và ứng dụng các biện pháp canh tác
tiên tiến sản xuất chè theo hướng an toàn, đã nâng cao năng suất, chất lượng,
giá trị chè Thái Nguyên. Năm 2005, giá trị sản xuất bình quân đạt 36,5 triệu
đồng/ha đối với chè búp khô; năm 2010 là 68 triệu đồng/ha, có nơi đạt 90 -
100 triệu đồng/ha (ở thành phố Thái Nguyên).

×