Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Giải pháp giảm nghèo trên địa bàn huyện Hạ Hòa tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (687.03 KB, 83 trang )

1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH




NGUYỄN THỊ NGỌC BÍCH



GIẢI PHÁP GIẢM NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN HẠ HÒA-TỈNH PHÚ THỌ

Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60.34.04.10







LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ












Thái Nguyên - 2012
2

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghèo là vấn đề nhức nhối mang tính toàn cầu, là vấn đề xã hội bức xúc, là
sự thách thức, cản trở lớn đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, khu vực
và toàn bộ nền văn minh nhân loại. Chính vì vậy, trong những năm gần đây nhiều
quốc gia và các tổ chức quốc tế đã quan tâm tìm các giải pháp nhằm hạn chế nghèo
và giảm dần khoảng cách phân hoá giàu, nghèo trên phạm vi toàn thế giới.
Đối với Việt Nam, vấn đề giảm nghèo (GN) không những là một chính sách
xã hội, mà còn là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
(KT-XH) của đất nước thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. GN là yếu tố cơ bản đảm
bảo công bằng xã hội và tăng trưởng bền vững, góp phần đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH,HĐH) đất nước, phấn đấu để nước ta đến năm 2020
về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Việt Nam đến nay
đã qua hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, kinh tế nước ta tăng trưởng khá
nhanh, đời sống đại bộ phận nhân dân đã được nâng lên một cách rõ rệt. GN từ chỗ
là phong trào (1990 - 1997) đến năm 1998 đã trở thành một chương trình mục tiêu
quốc gia. Đến nay, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm đáng kể ở cả hai tỷ lệ nghèo chung và tỷ
lệ nghèo lương thực thực phẩm. Điều này đã được các nhà tài trợ cho Việt Nam
khẳng định tại Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ Việt Nam, họ coi “ Thành tựu giảm
nghèo của Việt Nam là một trong những câu chuyện thành công nhất trong phát
triển kinh tế” [2,tr.1].

Mặc dù đã đạt được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực về kinh tế
và xã hội. Nhưng do xuất phát điểm rất thấp của nền kinh tế nên cho đến nay, Việt
Nam vẫn thuộc nhóm nước nghèo trên thế giới, tỷ lệ nghèo ở Việt Nam còn rất cao,
theo chuẩn nghèo mới được chính phủ ban hành trong quyết định số 170/2005/QĐ-
TTg ngày 8/7/2005, cả nước có khoảng 3,9 triệu hộ nghèo, chiếm 22% số hộ toàn
quốc [1,tr.29]. Đến năm 2009 cả nước có khoảng 2 triệu hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 11%
dân số, chênh lệch thu nhập giữa các nhóm dân cư và vùng lãnh thổ vốn đã có
3

khoảng cách khá xa nay càng giãn thêm ra; một bộ phận không nhỏ dân cư, đặc biệt
là ở các vùng cao, vùng sâu, vùng xa vẫn đang chịu cảnh nghèo. Người nghèo ít có
khả năng tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản, dễ bị tổn thương trước những rủi ro
trong cuộc sống như thiên tai, mất mùa, ốm đau. Khả năng tái nghèo còn cao, kết
quả giảm nghèo thiếu tính bền vững. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X nhận
định: “ Thành tựu XĐGN chưa thật vững chắc. Số hộ nghèo và tỷ lệ hộ nghèo ở một
số vùng còn lớn, tỷ lệ nghèo theo tiêu chuẩn mới còn cao. Đời sống nhân dân vùng
sâu, vùng xa, vùng thường bị thiên tai còn gặp nhiều khó khăn, nhiều vùng dân tộc
thiểu số có tỷ lệ hộ nghèo cao hơn so với bình quân cả nước” [6,tr.173].
Hạ Hoà là huyện miền núi thuộc tỉnh Phú Thọ. Trong những năm qua, thực
hiện công cuộc đổi mới của Đảng, tình hình KT - XH nhiều tiến bộ đáng kể, kết cấu
hạ tầng cơ sở ở vùng nghèo của huyện được xây dựng, mở rộng nhanh chóng đã
phát huy tác dụng cải thiện đời sống nhân dân, công tác giảm nghèo của Hạ Hoà đã
đạt được những thành tựu quan trọng về KT-XH. Nhờ đạt được những kết quả trong
phát triển kinh tế nông nghiệp, đời sống vật chất, tinh thần của đại bộ phận dân cư
đã được cải thiện. Số hộ đủ ăn, số hộ giàu tăng lên, hộ nghèo đói đã giảm, nhiều hộ
gia đình đã có tích luỹ. Bộ mặt nông thôn trên địa bàn có nhiều thay đổi, đã góp
phần giữ gìn ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Tuy nhiên, cũng như nhiều huyện miền núi trên cả nước, tình hình đời sống
của một bộ phận không nhỏ hộ nông dân ở huyện Hạ Hoà còn gặp nhiều khó khăn,
mức thu nhập bình quân đầu người còn thấp. Nguồn thu nhập chính của người nông

dân nghèo chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, trong khi điều kiện tự nhiên khắc
nghiệt, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, trình độ dân trí chưa cao. Đây là vấn đề rất bức
thiết, cần được quan tâm giải quyết đối với huyện Hạ Hoà. Xuất phát từ những lý do
đó, tôi lựa chọn đề tài : “Giải pháp giảm nghèo trên địa bàn huyện Hạ Hoà - tỉnh
Phú Thọ”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Luận văn tập trung nghiên cứu để chỉ ra giải pháp giảm nghèo phù hợp với điều
4

kiện tự nhiên KT-XH của huyện Hạ Hoà - tỉnh Phú Thọ.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về công tác giảm nghèo.
- Phân tích, đánh giá thực trạng và nguyên nhân nghèo đói trên địa bàn
huyện Hạ Hòa.
- Đề xuất các định hướng và giải pháp chủ yếu cho công tác giảm nghèo trên
địa bàn huyện Hạ Hòa đến năm 2020.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Vấn đề nghèo và các nhân tố ảnh hưởng đến nghèo ở huyện Hạ Hòa - tỉnh
Phú Thọ.
- Một số hộ đại diện thuộc 3 vùng tiêu biểu của huyện Hạ Hoà.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu tại một số xã đại diện cho các vùng sinh
thái khác nhau trên địa bàn huyện Hạ Hoà của tỉnh Phú Thọ.
- Thời gian nghiên cứu: Thu thập thông tin về giảm nghèo 3 năm (2009 -
2011) và dự báo giảm nghèo đến năm 2020.
- Nội dung nghiên cứu: Đề tài được giới hạn trong phân tích nguyên nhân và
các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập và nghèo của hộ nông dân, qua đó đề xuất một số
giải pháp cơ bản.

4. Những đóng góp của luận văn
Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng giảm nghèo trên địa bàn huyện Hạ Hoà
tỉnh Phú Thọ, tìm ra những nguyên nhân và hạn chế, các giải pháp chủ yếu thực
hiện công tác giảm nghèo trên địa bàn huyện Hạ Hoà - tỉnh Phú Thọ .
5. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, Luận văn được chia làm 4 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nghèo và giảm nghèo.
- Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
5

- Chương 3: Thực trạng giảm nghèo trên địa bàn huyện Hạ Hoà - tỉnh Phú
Thọ.
- Chương 4: Một số giải pháp chủ yếu đẩy mạnh thực hiện giảm nghèo trên
địa bàn huyện Hạ Hoà - tỉnh Phú Thọ.


























6

CHƢƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
NGHÈO VÀ GIẢM NGHÈO

1.1. Quan niệm về nghèo và tiêu chí đánh giá nghèo
1.1.1. Quan niệm về nghèo
Nghèo là một hiện tượng xã hội bức xúc hiện nay trên thế giới nói chung và ở
Việt Nam nói riêng, không những có thể gây ra thảm hoạ về nhân đạo mà còn có
nguy cơ gây bất ổn xã hội. Nghèo không còn là vấn đề riêng của của một quốc gia
mà đã trở thành vấn đề quốc tế.
Tại khoá họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc về phát triển xã hội,
tháng 6 năm 2000 diễn ra ở Genever - Thụy Sỹ, các thành viên đã thống nhất cam
kết phấn đấu giảm một nửa số người nghèo trên thế giới. Hội nghị kêu gọi cộng
đồng quốc tế đẩy mạnh chiến dịch “ Tấn công vào nghèo ” và khuyến khích các
quốc gia cần có chiến lược toàn diện về GN.
Để giải quyết vấn đề nghèo cần phải có quan niệm đúng về nó. Tuy nhiên, do
mỗi quốc gia lại có trình độ phát triển KT-XH, điều kiện tự nhiên, trình độ dân trí,
văn hoá, chính trị khác nhau, nên mỗi quốc gia ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch sử
lại có cách làm và giải pháp khác nhau. Điều đó đã dẫn đến có nhiều quan niệm

khác nhau về nghèo và GN.
Đến nay nhiều nhà nghiên cứu và các tổ chức quốc tế đã đưa ra nhiều khái
niệm khác nhau, trong đó có khái niệm khái quát hơn cả được nêu ra tại hội nghị
bàn về XĐGN ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương do Uỷ Ban Kinh tế Xã hội
Châu Á Thái Bình Dương Liên Hiệp Quốc (ESCAP) tổ chức tại Băng Cốc -
Thái Lan, tháng 9/1993, các quốc gia trong khu vực đã thống nhất cho rằng “ Nghèo
là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn những nhu cầu cơ
bản của con người mà những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển KT- XH,
phong tục tập quán của từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa
nhận”[3,tr.11].
7

Đây là khái niệm khá đầy đủ về nghèo, được nhiều nước trên thế giới nhất trí
sử dụng. Định nghĩa đó đề cập được nội dung cơ bản của vấn đề nghèo đó là nhu
cầu cơ bản của con người. Nhu cầu cơ bản ở đây chính là cái thiết yếu, cái tối thiểu
để duy trì sự tồn tại sinh học của con người. Theo ý đó, Nghèo là tình trạng nghèo
khổ cùng cực, là trạng thái con người ăn không đủ no, không đủ năng lượng để duy
trì sự sống bình thường và không đủ để lao động, tái sản xuất sức lao động.
Để đánh giá đúng mức độ nghèo người ta chia nghèo thành hai loại: nghèo
tuyệt đối và nghèo tương đối.
Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả
mãn những nhu cầu cơ bản, tối thiểu để duy trì cuộc sống (nhu cầu về ăn, mặc, nhà
ở, y tế, giáo dục…). Những nhu cầu này cũng có sự thay đổi, khác biệt theo từng
quốc gia và được mở rộng dần trong quá trình phát triển.
Nghèo tuyệt đối phản ánh mức tối thiểu của sự nghèo khổ về dinh dưỡng và
phúc lợi xã hội. Trên thực tế, bộ phận dân cư nghèo tuyệt đối rơi vào tình trạng
nghèo và thiếu đói. Đó là bộ phận dân cư chỉ đảm bảo được mức lương bữa no, bữa
đói trong ba tháng trở xuống, sống cầu bơ, cầu bất. Đây là những người đói ở mức
nghiêm trọng. Theo một quy định của Ngân hàng thế giới: Nhu cầu dinh dưỡng của
các nước Đông Nam Á phải đạt 2100 kcalo/người/ngày.

Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức
trung bình của cộng đồng tại địa phương, ở một thời kỳ nhất định. Khái niệm nghèo
tương đối gắn liền với sự chênh lệch về mức sống của một bộ phận dân cư với mức
sống trung bình của địa phương trong một thời kỳ nhất định. Vì vậy, việc xoá dần
nghèo tuyệt đối là có thể làm, nhưng còn nghèo tương đối là hiện tượng thường có
trong xã hội và vấn đề ở đây là rút ngắn khoảng cách giàu nghèo, hạn chế sự phân
hoá giàu nghèo trong xã hội.
Nghèo còn được nhận diện ở bốn khía cạnh là thời gian, không gian, môi
trường và vấn đề giới.
Về thời gian: Phần lớn người nghèo có mức sống dưới mức được xác định như
một chuẩn thấp nhất có thể chấp nhận được trong một thời gian dài (tuy nhiên cũng
8

cần phải bổ sung vào số người này những người nghèo tình thế do thất nghiệp, do
thiên tai, rủi ro hay do con người gây ra).
Về không gian: Nghèo diễn ra chủ yếu ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng
xa… do nền kinh tế có phát triển đến thế nào chăng nữa dân cư ở các vùng kể trên
vẫn bị rơi vào nghèo.
Về môi trường: Hầu hết những người nghèo đều phải sống trong môi trường
khắc nghiệt và xuống cấp nghiêm trọng, bởi vì những người nghèo đói không đủ
khả năng và điều kiện để gìn giữ, đảm bảo và cải thiện môi trường sống.
Về giới: Phần lớn người nghèo ở các nước đều là phụ nữ. Mặc dù trong gia
đình, nam giới là chủ gia đình, nhưng phụ nữ vẫn phải gánh chịu nhiều hơn gánh
nặng của nghèo.
Tóm lại, những quan niệm về nghèo do cách tiếp cận khác nhau nên có
những kiến giải khác nhau, sự nghèo là một khái niệm tương đối và có tính biến đổi.
Các chỉ số xác định giới hạn nghèo không phải là cứng nhắc và bất biến. Nó biến
đổi tuỳ theo sự chênh lệch, sự khác biệt giữa các vùng, miền, quốc gia.
Dựa vào các khái niệm của các tổ chức quốc tế và căn cứ vào thực trạng
KT - XH ở Việt Nam, vấn đề nghèo ở Việt Nam còn được nghiên cứu ở các cấp độ

khác nhau như cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng. Chương trình mục tiêu quốc gia
về GN giai đoạn 2001 - 2010 của Việt Nam đã đưa ra các khái niệm: nghèo, hộ
nghèo, vùng nghèo…
1.1.2. Khái niệm về nghèo ở Việt Nam
Việt Nam thừa nhận định nghĩa chung về nghèo do Hội nghị chống nghèo khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương do Uỷ Ban Kinh tế Xã hội Châu Á Thái Bình
Dương Liên Hiệp Quốc tổ chức tại Băng Cốc - Thái Lan, tháng 9/1993.
khác với đói thông tin, đói hưởng thụ văn hoá, thuộc phạm trù văn hoá tinh thần.
Hộ nghèo là hộ đói ăn nhưng không đứt bữa, mặc không đủ lành, không đủ
ấm, không có khả năng phát triển sản xuất.
Xã nghèo là xã có tỷ lệ nghèo cao (có tỷ lệ nghèo từ 25% trở lên), không có
hoặc rất thiếu những cơ sở hạ tầng thiết yếu như: điện, đường, trường, trạm y tế
9

trình độ dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ cao.
Vùng nghèo là địa bàn tương đối rộng, nằm ở những khu vực khó khăn hiểm
trở, giao thông không thuận tiện, có tỷ lệ xã nghèo, hộ nghèo cao.
Như vậy, nghèo là biểu hiện của cuộc sống thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh
thần của mỗi con người trong cùng một cộng đồng, một dân tộc.
1.1.3. Tiêu chí đánh giá nghèo
Để đánh giá được mức độ nghèo cần phải đưa ra các tiêu chí xác định mức
độ nghèo. Tuy nhiên, những tiêu chí xác định không cố định mà luôn có sự biến
động và khác nhau không những giữa các nước mà ngay trong cùng một nước, và
cũng khác nhau qua những giai đoạn lịch sử.
* Tiêu chí xác định chuẩn nghèo của các tổ chức trên thế giới
Ngân hàng thế giới (WB) đã đưa ra các chỉ tiêu đánh giá mức độ giàu nghèo
của các quốc gia dựa vào mức thu nhập bình quân tính theo đầu người trong một
năm và mức kcalo tối thiểu cần thiết cho một người sống trong ngày với hai cách
tính:
- Phương pháp Atlas là tính theo tỷ giá hối đoái và tính theo USD. Theo

phương pháp này, người ta chia các nước trên thế giới thành 6 nhóm (lấy mức thu
nhập bình quân năm 1990).
Nhóm 1: Có thu nhập bình quân đầu người trên 25.000 USD/người/năm được
gọi là nước cực giàu.
Nhóm 2: Có thu nhập bình quân đầu người từ 20.000 đến dưới 25.000
USD/người/năm được gọi là nước giàu.
Nhóm 3: Có thu nhập bình quân đầu người từ 10.000 đến dưới 20.000
USD/người/năm được gọi là nước khá giàu.
Nhóm 4: Có thu nhập bình quân đầu người từ 2.500 đến dưới 10.000
USD/người/năm được gọi là nước trung bình.
Nhóm 5: Có thu nhập bình quân đầu người từ 500 đến dưới 2.500
USD/người/năm được gọi là nước nghèo.
Nhóm 6: Có thu nhập bình quân đầu người dưới 500 USD/người/năm được gọi
10

là nước giàu.
- Theo phương pháp sức mua tương đương (PPP) cũng bằng USD, khi tính
toán chuẩn nghèo quốc tế, WB đã tính theo mức năng lượng tối thiểu cần thiết cho
một người để sống là 2.100 kcalo/ngày. Với mức giá chung của thế giới, để đảm
bảo mức năng lượng đó thì cần khoảng 1USD/người/ngày.
Cách tính của tổ chức Liên Hợp Quốc: Dùng cách tính dựa trên cơ sở phân
phối thu nhập theo đầu người hoặc theo nhóm dân cư.
Thước đo này tính phân phối thu nhập cho từng cá nhân hoặc hộ gia đình nhận
được trong thời gian nhất định, nó không quan tâm đến nguồn mang lại thu nhập
hay môi trường sống của dân cư mà chia đều cho mọi thành phần dân cư.
Phương pháp tính: Chia dân số của một nước, một châu hoặc toàn cầu ra làm
5 nhóm, mỗi nhóm có 20% dân số, bao gồm: rất giàu, giàu, trung bình, nghèo và rất
nghèo.
Mặc dù thu nhập bình quân là căn cứ quan trọng, song không thể coi đó là tiêu
chí duy nhất để đánh giá mức độ giàu nghèo của một quốc gia. Nghèo đói còn chịu

tác động của nhiều yếu tố khác như yếu tố chính trị, xã hội. Vì vậy, cơ quan phát
triển con người của Liên Hợp Quốc còn đưa ra chỉ số phát triển con người (HDI) để
kiểm soát đánh giá sự tiến bộ trong phát triển con người. HDI đo thành tựu trung
bình của một quốc gia trên 3 phương diện của sự phát triển con người, đó là:
- Tuổi thọ trung bình từ lúc sinh;
- Tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ nhập học các cấp giáo dục;
- Thu nhập bình quân đầu người theo sức mua tương đương (PPP).
HDI được tính bằng công thức sau:
I
A
+ I
E
+ I
N
HDI =
3
Trong đó: I
A
: Chỉ số đo tuổi thọ;
I
E
:

Chỉ số đo tri thức;
I
N
: Chỉ số đo mức sống;
Theo đánh giá của WB, tuy đã đạt được nhiều thành tựu trong công cuộc đổi mới
11


và có bước phát triển quan trọng, nhưng Việt Nam vẫn là nước nghèo, nằm trong
nhóm các quốc gia có thu nhập thấp, tuy nhiên thứ hạng HDI thì liên tục được cải
thiện. Theo báo cáo về tình hình phát triển con người năm 2007 - 2008 do chương
trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) công bố tại Hà Nội cho thấy chỉ số HDI
của Việt Nam được 0,733 điểm, từ vị trí 109 lên thứ 105/177 nước được xếp hạng,
đã tăng 4 bậc so với năm 2006. như vậy, dù GDP bình quân đầu người của nước ta
còn rất thấp, nhưng thứ hạng HDI cao hơn thứ hạng GDP nhiều. Điều đó chứng tỏ
đời sống của nhân dân được cải thiện nhanh hơn mức tăng trưởng GDP và tình
trạng nghèo cũng đã giảm.
Như vậy, trên thế giới có nhiều tiêu chí xác định chuẩn nghèo, tuy nhiên, quan
niệm về nghèo hay nhận dạng nghèo của từng quốc gia hay từng vùng, từng nhóm
dân cư không có sự khác biệt đáng kể, tiêu chí chung nhất để xác định nghèo vẫn là
mức thu nhập hay chi tiêu để thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người: ăn,
mặc, ở, y tế, giáo dục, văn hoá, đi lại, giao tiếp xã hội Sự khác nhau chung nhất là
thoả mãn ở mức cao hay thấp mà thôi, điều này phụ thuộc vào trình độ phát triển
KT-XH cũng như phong tục, tập quán của từng vùng, từng quốc gia.
* Tiêu chí xác định chuẩn nghèo của Việt Nam
Bảng : Chuẩn nghèo qua các giai đoạn

Tiêu chí

Năm
Chuẩn nghèo lương thực
(kg/người/tháng)
Chuẩn nghèo chung
(đồng/người/tháng)
Nông thôn
Thành thị
Nông thôn
Thành

thị
miền núi,
hải đảo
đồng bằng,
trung du
miền núi,
hải đảo
đồng bằng,
trung du
1993
<15
<20
55.000
70.000
1995
<15
<20
<25
55.000
70.000
90.000
1997
<15
<20
<25
55.000
70.000
90.000
2000
-

-
-
<80.000
<100.000
<150.000
2005
-
-
-
<200.000
<260.000
2011
-
-
-
<400.000
<500.000
( Nguồn: Bộ Lao động Thương binh và Xã hội)
12

Trong những năm qua tại Việt Nam 2 loại tiêu chí được sử dụng để xác định
chuẩn nghèo.
Một là, chuẩn nghèo do Tổng cục thống kê và WB đưa ra để đánh giá nghèo
đói trên giác độ vĩ mô dựa theo mức chi tiêu thông qua các cuộc điều tra mức sống
dân cư.
Hai là, chuẩn nghèo do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (LĐTB&XH)
đưa ra để áp dụng trong công tác XĐGN theo tiêu chí thu nhập bình quân đầu
người.
1.2. Những nhân tố tác động đến nghèo
1.2.1. Nhóm nhân tố thuộc điều kiện tự nhiên

Các nhân tố về tự nhiên có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình
hình thành và tồn tại của nghèo trong mỗi vùng, mỗi quốc gia thường bao gồm các
nhân tố như: vị trí địa lý, đất đai, địa hình, khí hậu thời tiết.
- Vị trí địa lý: Những nơi xa xôi, hẻo lánh, giao thông đi lại khó khăn… là
một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ nghèo cao. Bởi những vùng, địa
phương có vị trí không thuận lợi dễ bị rơi vào thế cô lập với bên ngoài, khó tiếp cận
với các nguồn lực để phát triển như khoa học - công nghệ, tín dụng, thị
trường…Tuy nhiên, đây không phải là nhân tố quyết định mà nó còn phụ thuộc vào
các chính sách, vào nhận thức của từng quốc gia và có thể khắc phục được.
- Đất đai: Đất canh tác ít, cằn cỗi, khó canh tác, năng suất cây trồng, vật nuôi
đều thấp là nguyên nhân dẫn đến sản xuất trong nông nghiệp gặp nhiều khó khăn,
nhất là đối với những vùng thuần nông. Thiếu đất sản xuất sẽ ảnh hưởng đến khả
năng đảm bảo lương thực cho người nghèo và khả năng đa dạng hoá sản xuất để
hướng tới những cây trồng có giá trị kinh tế cao, dẫn đến thu nhập của người nông
dân thấp kéo theo việc tích luỹ và tái sản xuất mở rộng bị hạn chế, bởi vậy người
nghèo lại tiếp tục nghèo.
- Địa hình: Những vùng có địa hình phức tạp, bị chia cắt bởi sông suối và
núi đá, đất dốc, hoặc những nơi đất bị xói mòn, dễ bị khô hạn sẽ làm cho việc tổ
13

chức sản xuất, kinh doanh và dịch vụ gặp nhiều khó khăn, chi phí sản xuất cao, hiệu
quả sản xuất thấp.
- Về khí hậu thời tiết: Đây cũng là nhân tố có tác động rất lớn đến quá trình
sản xuất, đến sự hình thành nghèo của vùng hay của một quốc gia, một khu vực.
Thời tiết, khí hậu diễn biến phức tạp như nắng lắm, mưa nhiều, biên độ nóng, lạnh
quá lớn hoặc xảy ra động đất, núi lửa, bão lụt, hạn hán…thì sẽ làm tổn thất về
người, tài sản, huỷ hoại môi trường sinh thái…Khi đó tình trạng nghèo là khó tránh
khỏi. Dó đó, trong các giải pháp giảm nghèo cũng phải tính đến các yếu tố này.
1.2.2. Nhóm nhân tố về kinh tế
Các yếu tố về điều kiện tự nhiên là yếu tố khách quan ban đầu cho phát triển

kinh tế thì các yếu tố về kinh tế là yếu tố nền tảng có vai trò quyết định đến GN.
Nhóm nhân tố này bao gồm: quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, yếu tố
thị trường…
- Quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Đây là yếu tố quan trọng tạo điều kiện tiền đề để người nghèo có cơ hội vươn
lên nhờ hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế mang lại. Mặt khác, nhờ quy mô và tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao, Nhà nước tăng các nguồn thu và tích luỹ tạo sức mạnh vật
chất để thực hiện tốt hơn công tác GN. Vì vậy, quy mô nền kinh tế lớn và tăng
trưởng kinh tế cao, bền vững là điều kiện quan trọng nhất để thực hiện GN.
- Thị trường cũng là một trong những nhân tố tác động đến nghèo theo hai
hướng thuận lợi và khó khăn.
+ Thứ nhất, nếu thị trường tương đối phát triển sẽ không chỉ tạo cơ hội cho các
vùng, các hộ, các cá nhân có điều kiện tiếp cận đầy đủ hơn các nguồn lực phát triển
của xã hội và quan trọng là giúp vùng nghèo, hộ nghèo vươn lên thoát nghèo.
+ Thứ hai, nếu thị trường phát triển không đầy đủ, đặc biệt thị trường yếu ớt
hoặc không có thị trường thì những hộ gia đình sống trong điều kiện này gần như bị
gạt ra khỏi vòng quay của tiến trình phát triển.
1.2.3. Nhóm nhân tố thuộc về xã hội
Các yếu tố xã hội cũng có nhiều tác động đến quá trình hình thành nghèo
14

như: Dân số và lao động, trình độ dân trí, đầu tư cho giáo dục, chăm sóc sức khoẻ,
phong tục tập quán, an ninh chính trị…
- Về dân số: Đây là nhân tố thường xuyên liên quan đến nghèo, tình trạng
nghèo luôn liên quan chặt chẽ với sự gia tăng dân số và cơ cấu dân cư. Theo điều
tra, bình quân nhân khẩu phải nuôi trên một lao động chính của các hộ nghèo
thường cao hơn các hộ giàu. Như vậy, chính nghèo, dân trí thấp dẫn đến sinh đẻ
nhiều và đến lượt nó, sinh đẻ nhiều, thời gian lao động giảm kéo theo thu nhập của
hộ gia đình cũng giảm theo làm cho đời sống khó khăn hơn. Trên góc độ quốc gia,
dân số tăng nhanh thì mức độ gia tăng thu nhập bình quân đầu người sẽ giảm. Với

một nguồn lực hạn chế lại phải cân đối cho một lượng dân cư lớn hơn thì sẽ khó
khăn cho việc huy động nguồn lực để hỗ trợ trực tiếp cho các mục tiêu GN…
- Về lao động: Chất lượng lao động (trình độ tay nghề, sức khoẻ, thái độ lao
động của người lao động…) là một nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế nói
chung, đến tình trạng nghèo nói riêng bởi vì chất lượng lao động sẽ tác động trực
tiếp đến tăng năng suất và tăng thu nhập cho người lao động.
- Về giáo dục: Chất lượng lao động gắn với việc nâng cao trình độ dân trí và
chiến lược phát triển giáo dục. Hầu hết những người nghèo, vùng nghèo ở Việt Nam
là những nơi có trình độ dân trí thấp. Cùng với tác động của thu nhập thấp nên việc
đầu tư cho con cái học hành của các hộ gia đình nghèo và vùng nghèo ít được quan
tâm hơn, ít được đào tạo nghề nên ít có cơ hội tìm kiếm việc làm có thu nhập cao.
Kết quả tỷ lệ đi học trong độ tuổi ở các vùng này thấp và như vậy nguy cơ nghèo về
tri thức dẫn đến nghèo về mọi mặt sẽ gia tăng.
- Về y tế: Người nghèo có thu nhập thấp nên ít có điều kiện chăm lo sức khoẻ,
bệnh tật phát sinh nên sức lao động suy giảm và sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thu
nhập và chi tiêu của họ. Họ phải gánh chịu hai gánh nặng: một là, mất đi thu nhập
từ lao động, hai là gánh chịu chi phí cao cho khám chữa bệnh. Họ phải vay mượn,
cầm cố tài sản để có tiền chi phí, dẫn đến người nghèo càng ít có cơ hội thoát khỏi
nghèo.

15

1.3. Sự cần thiết phải giảm nghèo
- Giảm nghèo tạo điều kiện cho phát triển KT-XH
Thực tế cho thấy người nghèo không có khả năng nuôi dạy con cái khoẻ
mạnh; không có khả năng cho con em học hành để có tay nghề tốt, do đó dẫn đến
hiện tượng trẻ em bỏ học, thất học; không có khả năng hưởng thụ văn hoá; không
có khả năng khám chữa bệnh…, về lâu dài sẽ làm giảm năng lực sản xuất của gia
đình và mất cơ hội tăng thu nhập cho họ.
Đặc biệt hộ nghèo còn không có khả năng tích luỹ cho đầu tư mở rộng sản

xuất, không có tài sản khi vay vốn nên họ khó tiếp cận được với thị trường tín dụng
chính thức. Vì không có vốn, trình độ và tay nghề thấp nên các hộ gia đình nghèo
không có khả năng áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất làm giảm năng
suất của gia đình. Hơn nữa, con em hộ nghèo không được đào tạo nghề đầy đủ sẽ
làm gia tăng tình trạng thất nghiệp, tăng gánh nặng cho Nhà nước, xã hội và làm
giảm năng lực sản xuất của đất nước. Vì vậy, GN là một yêu cầu cấp thiết để đảm
bảo nền kinh tế tăng trưởng và phát triển một xã hội bền vững.
- Giảm nghèo góp phần đảm bảo an toàn trật tự xã hội và là cơ sở để bảo vệ
môi trường sinh thái.
Một khi nghèo còn xảy ra thì tình trạng phạm pháp còn xảy ra. Nghèo là
nguyên nhân chủ yếu gây nên các tệ nạn xã hội, bạo lực, tội phạm, mất an ninh xã
hội như: buôn bán hàng lậu, ma tuý, mại dâm, cờ bạc, trộm cắp, cướp giật tài sản,
thậm chí giết người cướp của…Nếu nghèo không được chú ý giải quyết, tỷ lệ và
cấp độ nghèo sẽ vượt quá giới hạn an toàn dẫn đến hậu quả mất ổn định chính trị xã
hội, ở mức cao hơn là khủng hoảng chính trị, đặc biệt là nguy cơ diễn biến hoà bình.
Vì vậy, giải quyết việc làm, phát triển kinh tế, thực hiện GN có hiệu quả là những
biện pháp góp phần đảm bảo ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Mặt khác, lịch sử đã chứng minh rằng, nghèo bao giờ cũng tham gia vào quá
trình khai thác bừa bãi tài nguyên, tàn phá môi trường sinh thái. Như Đảng ta nhận
định: “ Nghèo là một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng khai thác bừa
bãi, sử dụng lãng phí và không hợp lý tài nguyên thiên nhiên. Nó cũng cản trở việc
16

thực hiện những cách thức tiêu dùng có hiệu quả nhằm góp phần phát triển bền
vững hơn” [4, tr.32]. Bởi vậy, GN là một trong những biện pháp quan trọng nhất để
bảo vệ môi trường sinh thái.
- Giảm nghèo góp phần thực hiện công bằng xã hội và thực hiện cam kết quốc
tế
Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, việc thực hiện công bằng xã hội không có nghĩa là “cào bằng”, là thực

hiện chủ nghĩa bình quân, chia đều các nguồn lực và của cải làm ra, bất chấp chất
lượng, hiệu quả của sản xuất kinh doanh và sự đóng góp của mỗi người cho sự phát
triển chung của cộng đồng. Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định:
“Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu
phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo
điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình”
[5, tr.113].
GN góp phần thực hiện công bằng xã hội thể hiện trên các mặt: Mở rộng cơ
hội lựa chọn cho cá nhân, nhất là nhóm người nghèo; tạo cơ hội cho sự phát triển
đồng đều giữa các vùng, giảm khoảng cách và sự chênh lệch quá đáng về mức sống
giữa nông thôn và thành thị, các nhóm dân cư.
1.4. Kinh nghiệm giảm nghèo ở một số nƣớc trên thế giới, trong nƣớc và một số
huyện trong tỉnh Phú Thọ. Bài học kinh nghiệm cho huyện Hạ Hoà giảm nghèo.
1.4.1. Kinh nghiệm giảm nghèo ở một số nước trên thế giới
* Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc là quốc gia có dân số đông nhất thế giới (chiếm 25%), thành
công của Trung Quốc trong công cuộc xoá đói, giảm nghèo không chỉ có tăng
trưởng kinh tế mà còn do những biện pháp giải quyết việc làm ở nông thôn (cho 800
triệu người), mở rộng hệ thống dạy nghề, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, giảm
nhẹ điều kiện việc làm, cải thiện điều kiện sống cho nông dân (mô hình xí nghiệp
Hương Trấn).
17

Kinh nghiệm của Trung Quốc là cải cách đi đôi với phát triển công nghiệp
nông thôn (Quy mô sản xuất vừa và nhỏ, sản xuất hàng tiêu dùng, dịch vụ chế biến,
xuất khẩu) nhằm thay đổi cơ cấu kinh tế, cải tạo kinh tế thuần nông “ly nông bất ly
hương”. Tuy là một nước đông dân nhất thế giới nhưng Trung Quốc lại có tỷ lệ
người nghèo khổ thấp nhất (năm 1991 còn 87 triệu người sống dưới mức nghèo
khổ, 27 triệu người là bần cùng)

* Kinh nghiệm của Philippin
Là một nước nông nghiệp, tuy nhiên sản xuất nông nghiệp ở Philippin còn phát
triển chậm và ở mức độ thấp, trong thời kỳ 1990 - 1997 mức tăng trưởng hàng năm
chỉ đạt 1,9%, trong khi đó vào cùng thời điểm thì mức độ tăng trưởng của Thái Lan
là 3,6% và Việt Nam là 5,2%. Trong nông nghiệp thì thuỷ điện là vấn đề quan
trọng, song hệ thống thuỷ lợi ở Philippin chỉ đủ tưới tiêu cho một nửa diện tích đất
nông nghiệp và 1/5 hệ thống đó lại đang ở trong tình trạng không hoạt động. Ngân
hàng thế giới (WB) dự tính Philippin cần khoảng 4,5 tỷ USD để hoàn thành hệ
thống thuỷ lợi đảm bảo tưới tiêu cho toàn bộ diện tích đất, trong khi đó Chính Phủ
hiện nay chỉ đủ khả năng chi 20% số tiền này.
Trước nhu cầu cấp bách thúc đẩy quá trình phát triển nông nghiệp nông thôn
nhằm xoá đói, giảm nghèo, tháng 10/1997 quốc hội Philippin đã thông qua luật cho
phép Chính Phủ tiến hành hiện đại hoá nông nghiệp, dự tính ngân sách 122 tỷ Pêxô
chi cho các dự án cải tạo và phát triển nông nghiệp trong 7 năm liên tục. Tháng
9/1999 Chính Phủ đã trình Quốc hội dự thảo ngân sách 1999 - 2000, trong đó tăng
51% ngân sách cho phát triển nông nghiệp (khoảng 21,5 tỷ Pêxô nhằm thực thi luật
hiện đại hoá nông nghiệp của Quốc hội. Một số dự án đã bắt đầu hoạt động như dự
án phát triển nông nghiệp ở Mindanao do WB hỗ trợ bước đầu đạt kết quả.
Nếu công cuộc hiện đại hoá nông nghiệp là chiến lược lâu dài thì chương
trình cải thiện đời sống cho người nghèo của Chính phủ lại là các biện pháp trước
mắt thúc đẩy tiến bộ GN. Một trong những chương trình thành công là dự án xây
dựng nhà ở cho người nghèo ở thành phố. Trong hơn một năm qua khoảng 25 nghìn
người nghèo trong các khu nhà ổ chuột ở Manila được cấp nhà ở theo chương trình
18

quốc gia. Để có nhà ở các hộ nghèo chỉ phải đóng góp phí xây dựng ban đầu không
lớn, Chính phủ thanh toán cho các nhà chủ xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách sau
đó thu hồi từ các hộ thuê nhà trong 25 năm với lãi suất thấp. Tuy nhiên, trong giai
đoạn đầu của dự án nảy sinh một số khó khăn từ các chủ xây dựng, do họ quan tâm
nhiều tới lợi nhuận, tới các công trình, thu hồi vốn nhanh, Để khắc phục tình trạng

này, Chính phủ quyết định giành 80% kinh phí dự án cho các chủ xây dựng (trước
đây khoảng 19%), tài chính cho các dự án còn được bổ sung bằng nguồn vốn phát
hành công trái (4 tỷ Pêxô). Kết quả đạt được của dự án tuy mới giải quyết được một
phần nhỏ trong tổng số ước tính một triệu người không có nhà ở trên toàn quốc,
nhưng việc bố trí nơi ở cố định cho người nghèo ở Manila cũng là một cố gắng lớn
của Philippin trong điều kiện nguồn ngân sách hạn hẹp hiện nay. Ngoài những dự
án cấp nhà ở, Chính phủ Philippin còn quan tâm tạo việc làm cho người nghèo ở
thành thị. Hơn một năm qua ở Philippin lạm phát bớt căng thẳng, lãi suất giảm, đời
sống nhân dân được cải thiện, số lượng người mua bảo hiểm tăng chứng tỏ bắt đầu
có sự tích luỹ và đầu tư về lâu dài, Những thành công trong công cuộc GN ở
Philippin chưa nhiều, song với cam kết đẩy mạnh kinh tế nhằm xoá tận gốc đói
nghèo, Chính phủ sẽ có biện pháp thích hợp nhằm đạt được mục tiêu đặt ra trong
những năm tới.
Từ những kinh nghiệm trong công cuộc GN của các nước trong khu vực cho
thấy Chính phủ phải có sự can thiệp đồng bộ để tăng trưởng kinh tế gắn liền với
công bằng xã hội, đó chính là xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển văn hoá, giáo dục
gắn liền với các nguồn lực như đất đai, lao động, tạo việc làm và giải quyết việc làm
cho người lao động.
Việt Nam là một nước có tỷ lệ nghèo cao, do vậy kinh nghiệm của các nước
láng giềng trong công tác GN là bài học bổ ích cho chúng ta để có thể giảm nhanh
nghèo như các nước trong khu vực. Nếu chúng ta vẫn duy trì được tốc độ phát triển
kinh tế cao như mấy năm gần đây và đảm bảo được sự phân chia đồng đều giữa các
nhóm KT- XH thì việc giảm nghèo sẽ đạt được kết quả khả quan.

19

1.4.2. Kinh nghiệm giảm nghèo một số tỉnh thành trong nước
* Kinh nghiệm của Lào Cai
Lào Cai là một tỉnh biên giới phía Bắc, có 8 huyện và 1 thành phố với 25 dân
tộc anh em và dân số trên 600.000 người, trong đó đồng bào các dân tộc ít người

chiếm 65%. Ngay từ khi mới thành lập tỉnh (năm 1991) tỷ lệ nghèo đói của Lào Cai
là 54,8% (đói chiếm tới 31%). Chính quyền và nhân dân địa phương đã có nhiều cố
gắng trong GN. Năm 1995, tỷ lệ nghèo đói là 33,75% (đói 15%), đến 2001 (theo
chuẩn nghèo đói giai đoạn 2001 - 2005), tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh là 29,96%; đến
năm 2005 chỉ còn 6,94%. Như vậy, theo chuẩn nghèo đói giai đoạn này, tỷ lệ nghèo
đói giảm nhanh từ 29,96% xuống còn 6,94%, bình quân mỗi năm giảm gần 5%. Với
chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010, theo quyết định 170/2005/QĐ-TTg ngày
8/7/2005, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh Lào Cai là 43,01% [7,tr.34].
Trong thời gian qua, thông qua việc thực hiện chương trình GN, nhận thức về
trách nhiệm của các cấp, các ngành, của người nghèo có sự chuyển biến mạnh và ý
chí vươn lên làm giàu của người dân tiếp tục được nâng lên. Việc thực hiện chương
trình đã tạo được phong trào GN sâu rộng, bước đầu theo phương châm xã hội hoá,
thu hút sự tham gia tích cực của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị, các tổ chức
kinh tế, lực lượng vũ trang, cộng đồng và các tầng lớp dân cư. Hiện nay, toàn tỉnh
Lào Cai chỉ còn 3 huyện nghèo nhất của cả nước nằm trong tổng số 62 huyện nghèo
nhất của cả nước, đó là huyện Mường Khương, huyện Bắc Hà, huyện Si Ma Cai.
Theo đề án 30a, tỉnh Lào Cai gồm 55 xã, phường, thị trấn với 555 thôn bản trong đó
có 43 xã đặc biệt khó khăn theo chương trình 135 giai đoạn II [7,tr.35]. Việc thực
hiện có hiệu quả đề án 30a trên địa bàn cùng các giải pháp hỗ trợ sản xuất sẽ tạo
việc làm, tăng thu nhập góp phần giảm nghèo cho 3 huyện nhằm đạt được mục tiêu
đến năm 2020 mức sống của hộ dân tại 3 huyện trên ngang bằng với mức sống của
khu vực Tây Bắc.
* Kinh nghiệm của Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc là tỉnh nằm ở đồng bằng Bắc Bộ có cả 3 vùng sinh thái là vùng núi,
vùng trung du và vùng đồng bằng. Phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên và Tuyên
20

Quang, phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ, phía Đông và phía Nam giáp thủ đô Hà Nội.
Tỉnh có 01 thành phố, 01 thị xã và 06 huyện với 137 xã, phường, thị trấn, trong đó
có 02 huyện và 39 xã miền núi.

Tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập từ tháng 1 năm 1997, khi đó Vĩnh Phúc còn
là một tỉnh nghèo, thu nhập bình quân đầu người mới xấp xỉ 140USD/1người/năm,
sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chưa phát
triển nên việc bố trí ngân sách cho mục tiêu GN là rất khó khăn, phụ thuộc lớn vào
ngân sách trung ương. Giai đoạn này tỷ lệ nghèo đói của tỉnh còn khá cao, cụ thể,
năm 1998, toàn tỉnh có 225.228 hộ, thì có 28.666 hộ nghèo đói, chiếm 12,7% tổng
số hộ, số hộ nghèo là 22.007, chiếm 9,75 tổng số hộ [8,tr.47]. Tuy nhiên, với sự nỗ
lực của người nghèo, hộ nghèo và của các ban, ngành, các cấp, các tổ chức đoàn
thể, số hộ nghèo, xã nghèo của tỉnh đã giảm đi rõ rệt.
Giai đoạn 1998 - 2000 toàn tỉnh giảm được 7.313 hộ nghèo đói, tương đương
với 3,5%, cơ bản không còn hộ đói kinh niên, xoá được 02 xã nghèo. Cuối năm
2000 tỷ lệ nghèo đói chung toàn tỉnh còn 9,2%, nhưng theo chuẩn nghèo giai đoạn
2001 - 2005 tỷ lệ đó tăng lên 12,26%.
Giai đoạn 2001 - 2005, sau 1 năm nâng chuẩn nghèo, cuối năm 2001 tỷ lệ đói
nghèo toàn tỉnh giảm từ 12,26% xuống còn 10,91%, cuối năm 2004 tỷ lệ này giảm
xuống còn 6,6%, cuối năm 2005 tỷ lệ này tiếp tục giảm xuống còn 5,6%; giảm 8/10
xã nghèo của tỉnh, xoá cơ bản nhà tranh tre, dột nát cho hộ nghèo và hộ chính sách
người có công với cách mạng.
Giai đoạn 2006 - 2010, sau khi nâng chuẩn nghèo mới tỷ lệ đói nghèo của tỉnh
tăng lên rất cao, cuối năm 2005, toàn tỉnh có tới 18,04% hộ đói nghèo. Nhưng sau 1
năm thực hiện chương trình GN, Vĩnh Phúc đã đạt được tỷ lệ giảm nghèo cao nhất
từ khi tái lập tỉnh đến nay, toàn tỉnh đã giảm được 7.332 hộ, tương đương với
3,14% [8,tr.67].
Trong 5 năm (2001 - 2005) tổng kinh phí thực hiện chương trình mục tiêu
quốc gia GN của tỉnh là 752.915 triệu đồng, trong đó ngân sách Trung ương là
21

214.995 triệu đồng, ngân sách tỉnh là 234.498 triệu đồng, vốn huy động từ cộng
đồng là 158.529 triệu đồng [8,tr.63].
1.4.3. Kinh nghiệm giảm nghèo trong tỉnh Phú Thọ

* Kinh nghiệm của Huyện Tân Sơn
Tân Sơn được thành lập năm 2007, trên cơ sở điều chỉnh địa giới hành chính
tách huyện Thanh Sơn thành hai huyện Thanh Sơn và Tân Sơn. Tách ra từ một
huyện nghèo, Tân Sơn trở thành huyện miền núi vùng cao với số dân gần 77 nghìn
người, trong đó 82,3 % là đồng bào dân tộc thiểu số (đông nhất là dân tộc Mường,
Dao, Mông, Tày). Tỷ lệ hộ nghèo chiếm gần 62%. Đây là huyện nghèo nhất tỉnh
Phú Thọ và cũng là một trong 62 huyện nghèo của cả nước. Chính quyền và nhân
dân địa phương đã có nhiều cố gắng trong GN. Với sự giúp đỡ của nhiều nguồn lực
khác nhau, cuộc sống của người dân Tân Sơn đã được đổi thay rõ rêt. Tỷ lệ hộ
nghèo từ 62% (năm 2007) xuống còn 40,34% cuối năm 2011 [9].
Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn về nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân lực có
trình độ; về nguồn vốn đầu tư Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Tân Sơn
xác định trong giai đoạn tới sẽ tập trung thực hiện các nhiệm vụ về phát triển kinh
tế, kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với đẩy mạnh phát triển văn hoá, xã hội,
đảm bảo an sinh xã hội. Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu
tư xã hội để tiếp tục thực hiện 3 khâu đột phá về đầu tư kết cấu hạ tầng then chốt,
đào tạo nguồn nhân lực, phát triển kinh tế phục vụ du lịch. Để giảm nghèo nhanh và
bền vững, Tân Sơn đã và đang tiếp tục triển khai đồng loạt các chính sách đã quy
định trong Nghị quyết 30a, đặc biệt là chính sách hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm, tăng
thu nhập cho người dân. Đảm bảo đạt được các nội dung của đề án giảm nghèo
nhanh và bền vững theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ vào năm
2015.
* Kinh nghiệm của huyện Cẩm Khê
Cẩm Khê là một huyện miền núi thuộc tỉnh Phú Thọ, Huyện có 1 thị trấn và
30 xã với số dân gần 13 vạn người. Trong phát triển sản xuất nông nghiệp, huyện
đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu, cây trồng, con nuôi nhằm tăng giá trị trên một đơn vị
22

diện tích canh tác. Quy hoạch và khuyến khích nông dân chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp để khoanh vùng chăn nuôi thủy sản, đầu tư trồng chè, trồng

rừng và chăn nuôi gia súc gia cầm Đến nay, diện tích lúa lai, lúa chất lượng cao
chiếm 50-70% diện tích gieo trồng của toàn huyện. Trong năm 2011, Cẩm Khê gieo
trồng được gần 15.000ha trong đó diện tích trồng lúa hơn 7.600ha, tổng sản lượng
lương thực có hạt hơn 51.000 tấn, năng suất lúa đạt cao nhất từ trước tới nay, bình
quân đạt 54,1 tạ/ha. Huyện đã nhân rộng được hàng trăm mô hình cánh đồng, khu
đồi rừng có thu nhập cao. Điển hình như mô hình: Cá rô phi đơn tính, chép lai 3
máu, tôm càng xanh, trồng nấm, khoai tây, đậu tương, ngô lai, lúa lai Những năm
gần đây, Cẩm Khê đã đẩy mạnh phát triển thủy sản một ngành kinh tế trọng điểm
mũi nhọn của huyện với nhiều chính sách .Năm 2011, Cẩm Khê duy trì 5 lớp trung
cấp nghề, mở 22 lớp sơ cấp nghề cho 842 lao động, góp phần tạo việc làm mới cho
2.203 người. Từ việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, đa dạng hóa các ngành nghề tiểu
thủ công nghiệp, chú trọng các chương trình kinh tế trọng điểm, mũi nhọn, Cẩm
Khê đã giảm tỷ trọng nông nghiệp xuống còn 44,9%, tăng mức thu nhập bình quân
đạt gần 10,13 triệu đồng/ người/ năm. Để có nguồn lực đầu tư cơ sở hạ tầng, huyện
Cẩm Khê đã lồng ghép nhiều chương trình, dự án phát triển kinh tế, nhất là huy
động nguồn lực đầu tư xây dựng, cải thiện cơ sở hạ tầng về giao thông, thuỷ lợi,
giáo dục và y tế; tập trung triển khai hiệu quả nhiều dự án lớn trên địa bàn huyện
như: Dự án đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai. Cẩm Khê còn thực hiện khá tốt các
chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội theo đúng quy định. Năm 2011, cấp
trên 41.000 thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội; hỗ trợ tiền
điện cho gần 31.000 lượt hộ nghèo với số tiền trên 3 tỷ đồng; chi trả trợ cấp khó
khăn cho 2.572 cán bộ, công chức, viên chức, người hưởng lương hưu có mức
lương thấp, người có công, hộ nghèo có đời sống khó khăn với số tiền trên 503 tỷ
đồng. Các hoạt động thăm hỏi, tặng quà cho đối tượng chính sách, học sinh nghèo,
tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên nghèo vay vốn được tổ chức thường xuyên,
góp phần động viên, hỗ trợ kịp thời cho hộ nghèo vươn lên. Đến cuối năm 2011,
toàn huyện đã đóng góp vốn, công lao động xây dựng xóa xong 1.090 ngôi nhà tạm
23

cho hộ nghèo. Triển khai đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp trên, Cẩm Khê đã tạo

ra nhiều bước đột phá mới trong công tác giảm nghèo, tỷ lệ hộ nghèo từ 30,61%
năm 2010 xuống còn 24,78% năm 2011 (giảm 5,83%). Kết quả này sẽ là tiền đề
quan trọng để Cẩm Khê tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội một cách nhanh và bền
vững trong lộ trình giảm nghèo. Nhằm phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới
24% trong năm 2012, huyện tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ người nghèo,
đi đôi với việc đẩy mạnh xây dựng cơ sở sản xuất chế biến, phát triển ngành nghề,
từng bước đưa khoa học kỹ thuật vào chế biến tiêu thụ sản phẩm và ngoài ra đồng
thời đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động [10].
1.4.4. Một số bài học kinh nghiệm cho huyện Hạ Hoà về giảm nghèo.
Huyện Hạ Hoà là huyện nằm ở phía Bắc tỉnh Phú Thọ có nhiều nét tương
đồng với hai huyện trên. Với những kinh nghiệm giảm nghèo của địa phương bạn
có thể rút ra một số kinh nghiệm quý báu cho Huyện Hạ Hoà trong thực hiện giảm
nghèo là:
- Tiến hành điều tra cặn kẽ để xây dựng được cơ sở dữ liệu đầy đủ, chính xác,
từ đó xác định được quy mô, đặc điểm, mức độ nghèo đói của từng vùng cụ thể để
đưa ra chính sách, giải pháp phù hợp nhằm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu giảm
nghèo trên địa bàn huyện.
- Để làm tốt chương trình giảm nghèo, trước hết phải làm tốt công tác tuyên
truyền giáo dục, nâng cao nhận thức của chính quyền các cấp, nhân dân các xã
nghèo, xã đặc biệt khó khăn, xoá bỏ tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà
nước và chính quyền địa phương. Đồng thời cần phải chú trọng việc kiện toàn bộ
máy chính quyền ở cơ sở, đào tạo, tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ cũng như phẩm chất đạo đức cho cán bộ ở cơ sở để đảm bảo triển khai các
chương trình giảm nghèo có hiệu quả.
- Xã hội hoá các hoạt động giảm nghèo, tạo ra phong trào sôi động trong toàn
huyện, huy động sự tham gia của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, sự chia sẻ trách
nhiệm của các cơ quan, đoàn thể và cộng đồng xã hội trong việc giúp người nghèo.
- Kinh phí của chương trình giảm nghèo phải được đầu tư có trọng điểm việc
24


đầu tư, hỗ trợ của chương trình phải gắn chặt với việc hướng dẫn, kiểm tra để đảm
bảo cho các nguồn lực được sử dụng đúng mục đích và đạt kết quả KT-XH
- Thiết lập được cơ chế lồng ghép các chương trình phát triển KT-XH với
giảm nghèo, mọi sự giúp đỡ của Nhà nước, cộng đồng phải hướng tới nâng cao
năng lực nội tại của hộ nghèo để họ tự vươn lên, tự giải quyết lấy việc làm, thu
nhập trong tương lai một cách bền vững.
25

CHƢƠNG 2:
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Câu hỏi nghiên cứu
Một là, Nguyên nhân chủ yếu nào gây ra nghèo đói ở Hạ Hoà
Hai là, Những chính sách giảm nghèo nào đã được triển khai ở huyện Hạ Hoà?
Hiệu quả của chính sách đó như thế nào?
Ba là, Giải pháp giảm nghèo nào đã được Hạ Hoà vận dụng?
2.2. Các phƣơng pháp nghiên cứu.
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu chung
Đây là phương pháp tổng quát bao gồm quan điểm duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử để thấy rõ các hiện tượng KT-XH trong trạng thái vận động và có các
mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nó cho phép phân tích, đánh giá một cách khách
quan các vấn đề nghiên cứu như cơ cấu kinh tế của địa phương, cơ sở vật chất kỹ
thuật có ảnh hưởng đến sự phát triển của cơ cấu kinh tế đó, phong tục tập quán liên
quan trực tiếp và gián tiếp đến giảm nghèo.
2.2.2. Phương pháp phân tích, thống kê
2.2.2.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu, chọn mẫu điều tra
* Chọn điểm nghiên cứu: Chúng tôi chọn địa bàn huyện Hạ Hoà làm điểm
nghiên cứu của đề tài vì huyện Hạ Hoà là huyện có điều kiện sản xuất rất khó khăn,
phần lớn là sản xuất nông nghiệp, là huyện có nhiều hộ nghèo nhất của tỉnh Phú
Thọ.
* Chọn mẫu điều tra: Do địa bàn huyện Hạ Hoà được chia thành 3 vùng rõ rệt

là vùng đồi gò, vùng ven sông và vùng giữa nên chúng tôi tiến hành điều tra ở mỗi
vùng 30 hộ đại diện thuộc 3 xã (Vụ Cầu, Mai Tùng, Quân Khê), ngoài ra còn điều
tra nhanh thêm một số hộ khác và một số hộ mới thoát nghèo nhằm xem xét, nghiên
cứu nguyên nhân, khả năng tái nghèo của các hộ đó.
2.2.2.2. Phương pháp thu thập số liệu
- Số liệu thứ cấp được thu thập từ 2 nguồn:
+ Từ các sách, báo, công trình nghiên cứu, các báo cáo khoa học về đẩy mạnh
sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn và giảm nghèo.

×