Tải bản đầy đủ (.doc) (230 trang)

quản lý xã hội về kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (819.79 KB, 230 trang )

Chương 1
đối tượng và phương pháp nghiên cứu
của môn học quản lý xã hội về kinh tế
I. Đối tưîng nghiên cứu
Môn học quản lý xã hội về kinh tế mang những đặc trưng chung của khoa
học quản lý, đồng thời cũng có những đặc điểm riêng. Môn học nghiên cứu
những quan hệ quản lý trong các lĩnh vực kinh tế của nền kinh tế quốc dân. Đó
là quan hệ tác động qua lại giữa chủ thể quản lý xã hội về kinh tế và đối tưîng
quản lý xã hội về kinh tế trên bình diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Quan hệ quản lý là một trong ba mặt của quan hệ sản xuất, với tư cách là
mối quan hệ tác động qua lại giữa chủ thể quản lý xã hội về kinh tế theo luật
định và đối tưîng quản lý là con ngưêi, cộng đồng ngưêi trong quá trình sản xuất
nói riêng và trong các quá trình kinh tế nói chung, do vậy quan hệ quản lý
không những mang tính chất kinh tế, mà còn có tính chất tổ chức, tính chất tâm
lý xã hội Tính đa diện đó của quan hệ quản lý xã hội về kinh tế quy định tính
tổng hợp, tính liên ngành của môn học. Quản lý xã hội về kinh tế là môn học
nằm ở vùng giáp ranh, vùng đan xen giữa nhiều môn khoa học như Kinh tế học,
Điều khiển học, Chính sách công và các môn khoa học nghiên cứu các quy luật
chung về xã hội như Triết học, Xã hội học, Luật học, Tâm lý học
Môn học Quản lý xã hội về kinh tế có nhiệm vụ nghiên cứu các quan hệ
quản lý của chủ thể quản lý xã hội về kinh tế trên những mặt cơ bản, trên các
lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế quốc dân. Môn học nghiên cứu các khái niệm,
các phạm trù cơ bản, các yếu tố, bộ phận cấu thành của hệ thống quản lý xã hội
về kinh tế; mối quan hệ giữa các yếu tố của hệ thống quản lý xã hội về kinh tế;
nguyên tắc, chức năng; hình thức, phương pháp; thông tin, quyết định; bộ máy
quản lý và cán bộ quản lý xã hội về kinh tế; các nguyên tắc và hình thức tổ chức
quản lý xã hội đối với các loại hình doanh nghiệp; lĩnh vực tài chính, tiền tệ;
1
kinh tế đối ngoại; các dự án đầu tư. Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề cơ bản
nói trên ở góc độ phương pháp luận chung, môn học Quản lý xã hội về kinh tế
còn nghiên cứu quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam, trong giai đoạn chuyển


đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trêng định hưíng xã hội chủ
nghĩa, những định hưíng cơ bản của sự hình thành, đổi mới và phát triển hệ
thống quản lý xã hội đối với nền kinh tế quốc dân Việt Nam, định hưíng đổi
mới phương pháp, chính sách, công cơ quản lý kinh tế ở Việt Nam.
Quản lý xã hội về kinh tế là hoạt động vừa có tính khoa học và có tính
nghệ thuật vì vậy môn học quản lý xã hội về kinh tế cũng đề cập cả hai góc độ
khoa học và nghệ thuật. Tính khoa học của môn học đề cập đến các khái niệm,
các phạm trù, tính quy luật, các nguyên tắc của quản lý xã hội về kinh tế. Tính
nghệ thuật của quản lý xã hội về kinh tế ®îc nghiên cứu và trình bày dưới dạng
nêu lên những kinh nghiệm, những hiện tưîng, những trêng hợp và hình mẫu
điển hình ®îc tổng kết từ thực tiễn quản lý ở các cơ sở, các khâu, các cấp của
nền kinh tế.
Môn học Quản lý xã hội về kinh tế dựa trên nền tảng lý luận cơ bản của
Chủ nghĩa Mác - Lªnin, đồng thời sử dụng những thành tựu, kiến thức cơ bản
của nhiều môn khoa học khác như Kinh tế học, Toán học, Điều khiển học, Khoa
học tổ chức, Luật học, Xã hội học, Tâm lý học…để thực hiện nhiệm vụ của nó.
Môn học cũng rất coi trọng việc khai thác những thành tựu quản lý xã hội về
kinh tế trên thế giới, vận dụng vào điều kiện Việt Nam. Môn học Quản lý xã hội
về kinh tế góp phần tạo cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách, quán
triệt và thực hiện ®êng lối, chính sách của Đảng và Nhà nưíc trong sự nghiệp
xây dựng và phát triển kinh tế, mà trực tiếp là trong sự nghiệp xây dựng và phát
triển hệ thống quản lý xã hội về kinh tế.
Nh vậy, có thể nói một cách khái quát, môn học Quản lý xã hội về kinh tế
có bốn đặc điểm chính: Tính liên ngành, tính khoa học, tính nghệ thuật, tính ứng
dụng. Bốn đặc điểm này quy định môn học phải phát triển những lý luận khoa
học và nghệ thuật quản lý để giải quyết linh hoạt, sáng tạo những vấn đề thực
2
tiễn quản lý nền kinh tế quốc dân đặt ra, đồng thời góp phần bổ sung hoàn chỉnh
chính sách và cơ chế quản lý kinh tế.
II. PHƯƠNG PHáP nghiên cứu CủA MÔN HäC QUảN Lý Xã HộI Về

KINH Tế
Quản lý xã hội về kinh tế là môn học chủ yếu nghiên cứu mối quan hệ
giữa chủ thể quản lý kinh tế với đối tượng quản lý kinh tế để đạt được những
mục tiêu mà kinh tế đặt ra, do đó ngoài việc tuân thủ các phơng pháp truyền
thống như phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, môn học Quản lý
xã hội về kinh tế coi trọng phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê, phương
pháp so sánh, phân tích, Đối tưîng nghiên cứu của môn học Quản lý xã hội về
kinh tế là các quá trình kinh tế - xã hội đang diễn ra, do đó cần coi trọng phương
pháp tổng kết thực tiễn, thông qua thực tiễn để kiểm chứng mức độ phù hợp của
chính sách công cụ. Ngoài ra, trong một số trêng hợp có thể sử dụng phương pháp
thực nghiệm, về thực chất là làm thử một số phương án để xem xét, nếu đúng thì
tổng kết thành cơ chế chính sách, nếu sai thì sửa chữa hoặc lựa chọn phương án
khác.
Câu hỏi và bài tập
1. Trình bày đối tượng và phương pháp nghiên cứu của môn học quản lý
xã hội về kinh tế?
2. Khẳng định sau đây đúng hay sai:
- Quản lý xã hội về kinh tế là môn học chủ yếu nghiên cứu mối quan hệ
giữa chủ thể quản lý kinh tế với đối tượng quản lý kinh tế.
- Đối tượng nghiên cứu của môn học Quản lý xã hội về kinh tế là các quá
trình kinh tế - xã hội đang diễn ra
3
-Môn học Quản lý xã hội về kinh tế có nhiệm vụ nghiên cứu các quan hệ
quản lý của chủ thể quản lý xã hội về kinh tế trên những mặt cơ bản, trên các
lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế quốc dân.
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG quản lý xã hội về kinh tế
I. QUẢN LÝ XÃ HỘI VỀ KINH TẾ VÀ VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ XÃ
HỘI VỀ KINH TẾ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1. Khái niệm

Có nhiều cách tiếp cận khái niệm “quản lý”. Thông thường quản lý đồng
nhất với các hoạt động tổ chức chỉ huy, điều khiển, động viên, kiểm tra, Theo
lý thuyết điều khiển học, quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý
đến hệ thống nào đó nhằm biến đổi nó từ trạng tháo này sang trạng thái khác
theo nguyên lý phá vỡ hệ thống để tạo lập hệ thống mới và điều khiển hệ thống.
Dựa vào lý thuyết nói trên, có thể hiểu quản lý xã hội về kinh tế là sự tác
động của các chủ thể quản lý kinh tế lên đối tượng quản lý xã hội về kinh tế
trong quá trình tiến hành các hoạt động kinh tế nhằm đạt tới mục tiêu kinh tế -
xã hội đã đề ra.
Như vậy, khái niệm quản lý xã hội về kinh tế bao hàm những khiá cạnh
sau:
- Quản lý xã hội về kinh tế là sự tác động giữa chủ thể quản lý xã hội về
kinh tế và đối tượng quản lý xã hội về kinh tế. Chủ thể QLXH về KT là những
tổ chức và cá nhân những nhà quản lý cấp trên. Đối tượng QLXH về KT – hay
còn gọi là khách thể quản lý QLXH về KT – là những tổ chức và cá nhân những
nhà quản lý cấp dưới, cũng như các tập thể và cá nhân người lao động. Sự tác
4
động của chủ thể QLXH về KT lên đối tượng QLXH về KT được thực hiện
thông qua các hoạt động tổ chức, điều khiển, phối hợp, động viên, kiểm tra,…
- Chủ thể QLXH về KT và đối tượng QLXH về KT cấu thành hệ thống
quản lý xã hội về kinh tế. Nền kinh tế quốc dân nói chung cũng như các đơn vị
kinh tế cơ sở nói riêng đều được xem như một hệ thống quản lý gồm hai phân
hệ: chủ thể QLXH về KT và đối tượng QLXH về KT. Mỗi phân hệ cũng có thể
là một hệ thống phức tạp.
- Quản lý xã hội về kinh tế là quá trình lựah chọn và thiết lập các hệ thống
chức năng, nguyên tắc, phương pháp, cơ chế, công cụ, cơ cấu tổ chức quản lý
kinh tế, đồng thời xây dựng đội ngũ cán bộ QLXH về KT và bảo đảm hệ thống
thông tin cho các quyết định quản lý kinh tế.
- Mục tiêu của QLXH về KT là huy động tối đa các nguồn lực – mà trước
hết là nguồn lực lao động- để phát triển kinh tế phục vụ lợi ích cho mọi người.

2.Vai trò của QLXH về KT trong đời sống xã hội
QLXH về KT là một tất yếu khách quan của sự phát triển khoa học – công
nghệ, sự xã hội hóa lực lượng sản xuất và xu thế phân công hợp tác trên phạm
vi quốc gia và quốc tế. Tình tất yếu khách quan của QLXH về KT thể hiện ở
vai trò to lơn của nó trong xã hội:
Một là, QLXH về KT là một nguồn lực quan trọng để tăng trưởng kinh tế.
Tài nguyên thiên nhiên, lao động, vốn và khoa học – công nghệ được coi là
nguồn lực quan trọng để tăng trưởng kinh tế. Song, trên thực tế, nhiều quốc gia
giàu về tài nguyên, phong phú về lao động,…nhưng tăng trưởng lại chậm.
Ngược lại, không ít quốc gia mặc dù tài nguyên thiên nhiên hạn chế, vón và
nguồn lao động cũng rất hạn chế nhưng lại nhanh chóng trở nên giàu có nhờ vào
sự nỗ lực của QLXH về KT. Nếu như ở những thế kỷ trước người ta so sanh sự
giàu có, văn minh giữa các quốc gia bằng các chỉ tiêu số lượng về gang thép,
dầu mỏ, than đá, ngũ cốc, lao động, vốn liếng…thì ngày nay được thay bằng
hàm lượng giá trị, hàm lượng trí tuệ của sản phẩm và các chỉ tiêu nhân văn.
Hai là, QLXH về KT thực hiện chức năng định hướng và điều tiết nền kinh
tế. Vai trò định hướng của QLXH về KT được thực hiện thông qua việc xác
5
định mục tiêu, hình thành các nguyên tắc để chi phối các hoạt động quản lý và
quá trình lao động sản xuất kinh doanh. Mặt khác, việc thực hiện các chức năng
kế hoạch hóa, tổ chức, điều khiển, động viên, kiểm tra trong quản lý kinh tế
thực chất là nhằm định hướng đối tượng quản lý hành động theo nguyên tắc và
đạt tới mục tiêu đã xác định. Trong xu thế mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế
quốc tế với tính chất đa dạng hóa, đa phương hóa, QLXH về KT đặc biệt là
quản lý nhà nước về kinh tế có vai trò quyết định trong việc hướng dẫn và tạo
điều kiện cho các chủ thể kinh tế từng bước tham gia vào thị trường khu vực và
quốc tế.
Thứ ba, QLXH về KT tạo điều kiện để phát triển năng lực cá nhân và tinh
thần tập thể trong lao động sản xuất. QLXH về KT được thực hiện thông qua
những hình thức, phương pháp, công cụ…mà chủ thể QLXH về KT đến tập thể

và cá nhân người lao động. Bằng sự tác động ấy sẽ khơi dậy và phát huy lòng
nhiệt tình và ý thức tự giác của từng người trong lao động – bao gồm lợi cíh vật
chất và lợi ích tinh thần – càng được thỏa mãn thì tình tích cực và sự sáng tạo
của người lao động càng được phát huy. Cũng thông qua lao động sáng tạo, con
người được hoàn thiện về thể lực, nhân cách, đặc biệt là rèn luyện kỷ luật lao
động, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường với một nền công nghiệp tiên
tiến, hiện đại. Hiệu quả của các hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động sản
xuất kinh doanh nói riêng không chỉ phụ thuộc vào năng lực và sự sáng tạo của
các cá nhân mà còn phụ thuộc vào sức mạnh của tập thể. Vì thế, nhà QLXH về
KT bắt buộc phải thiết lập một môi trường thuận lợi để nhiều người căng hợp
tác, phối hợp hoạt động nhằm tạo ra “tính trội” theo lý thuyết hệ thống. NHư thế
có nghĩa là người lao động sẽ được học tập, rèn luyện tính tập thể, ý thức cộng
đồng nhất là trong lao động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, nhà QLXH về KT
còn góp phần tích cực vào việc thực hiện đường lối phát triển kinh tế của Đảng,
đưa pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống, thực hiện quyền sở hữu XHCN
một cách hiện thực và mang lại hiệu quả cao về kinh tế - xã hội. Đây cũng chính
là môi trường để chứng minh rằng sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự quản lý
hiệu quả của Nhà nước đối với toàn xã hội.
6
II. CHỨC NĂNG QUẢN LÝ XÃ HỘI VỀ KINH TẾ
1. Khái niệm
Chức năng QLXH về KT là tập hợp các hoạt động quản lý kinh tế mang
tính tất yếu của chủ thể quản lý xã hội về kinh tế, nảy sinh từ sự phân công
chuyên môn hóa các hoạt động quản lý xã hội về kinh tế nhằm đạt tới mục tiêu
trong quản lý kinh tế.
Từ khái niệm trến cho thấy, chức năng QLXH về KT là những công việc
mang tính tất yếu khách quan của các chủ thể quản lý kinh tế các cấp. Về thực
chất, chức năng QLXH về KT xác định loại công việc, khối lượng công việc mà
nhà QLXH về KT phải làm cũng như trình tự của các công việc đó để có thể đạt
tới mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô và mục tiêu lợi nhuận trong

các cơ sở sản xuất kinh doanh. Căn cứ để hình thành các chức năng quản lý kinh
tế là sự phân công chuyên môn hóa các hoạt động quản lý kinh tế. Vì thế, sự
phân công chuyên môn hóa càng sâu đòi hỏi sự hợp tác càng chặt chẽ và các
chức năng quản lý càng được phân định rõ ràng, mạch lạc. Hệ thống quản lý
trong nền kinh tế là một chỉnh thể bao gồm nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều bộ
phận. Mỗi cấp, mỗi ngành và mỗi bộ phận đó gắn liền với các chức năng quản
lý nhất định. Vì thế, chức năng QLXH về KT xác định vị trí của các cấp các
ngành, các bộ phận quản lý trong hệ thống quản lý kinh tế nói chung. Nếu
không xác định được chức năng và không thực hiện tốt các chức năng đó thì chủ
thể quản lý không thể điều hành được hệ thống quản lý kinh tế của mình. Từ các
chức năng QLXH về KT đã được xác định, chủ thể quản lý các cấp đề ra các
nhiệm vụ cụ thể của công việc quản lý, đồng thời thiết kế bộ máy quản lý và bố
trí cán bộ vào các bộ phận thích hợp của bộ máy quản lý. Cũng xuất phát từ
chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận quản lý, chủ thể QLXH về KT tiến hành
các hoạt động kiểm tra, điều chỉnh nhằm hướng các bộ phận quản lý vào một
mục tiêu chung.
2. Các loại chức năng QLXH về KT
QLXH về KT là một hoạt động gồm nhiều hành vi, công đoạn và cấp độ
khác nhau, gắn liền với các quá trình thu nhận, xử lý và ra quyết định quản lý.
7
Mặt khác, công việc quản ký kinh tế không chỉ do một người tiến hành mà nó
liên quan đến từng đơn vị kinh tế cơ sở, từng địa phương, ngành kinh tế cũng
như trên tổng thể toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vì vậy chức năng QLXH về KT
rất đa dạng và phong phú. Tính đa dạng và phong phú của các chức năng QLXH
về KT ngày càng tăng lên do sự phát triển của khoa học – công nghệ, nhất là
công nghệ thông tin; sự đòi hỏi của cơ chế thị trường và xu hướng mở rộng các
quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên có thể phân loại các chức năng QLXH về KT dựa vào một số
các tiêu chí sau:
2.1. Phân loại theo cấp độ quản lý

Theo cấp độ quản lý, chức năng QLXH về KT được phân thành: chức
năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng quản lý sản xuất kinh doanh.
Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, các cơ quan quản lý kinh tế các
cấp, các ngành thực hiện các hoạt động dự đoán và sự báo, xác định mục tiêu,
xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cấp mình, ngành mình; đồng
thời tổ chức, phối hợp, kiểm tra, điều chỉnh,…hoạt động kinh tế trên cơ sở mục
tiêu đã được xác định. Để tiến hành các hoạt động tổ chức, phối hợp, kiểm tra,
điều chỉnh…đó, nhà nước sử dụng các công cụ riêng có như pháp luật, kế
hoạch, chính sách kinh tế và lực lượng kinh tế của nhà nước. Mục tiêu cuối
cùng mà quản lý nhà nước phải đạt tới là tăng trưởng kinh tế bền vững đồng
thời bảo đảm công bằng xã hội.
Chức năng quản lý sản xuất kinh doanh, các đơn vị kinh tế cơ sở thuộc
mọi thành phần kinh tế tiến hành các hoạt động tác nghiệp hàng ngày nhằm tạo
ra lợi nhuận, nâng cao vị thế cạnh tranh và đứng vững trên thị trường xã hội.
Công việc quản lý các đơn vị kinh tế cơ sở trong cơ chế thị trường hoàn toàn
khác với công việc của các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế. Quản lý sản
xuất kinh doanh thực chất là quản lý các quá trình cạnh tranh, xác định chỗ
đứng của các doanh nghiệp trên thị trường trên cơ sở kết hợp các yếu tố nguồn
lực kinh doanh và sự nắm bắt nhanh nhạy nhu cầu về hàng hóa dịch vụ trên thị
trường bào gồm cả thị trường trong nước và thị trường thế giới.
8
2.2. Phân loại theo lĩnh vực quản lý
Do sự đòi hỏi của cơ chế thị trường và để bao quát các cấp quản lý trong
tổng thể nền kinh tế quốc dân, chức năng QLXH về KT được phân thành các
lĩnh vực sau đây:
- Chức năng quản lý tài chính: các hoạt động khai thác, sử dụng và quản lý
vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh;
- Chức năng quản lý khoa học và công nghệ: các hoạt động nghiên cứu,
phát minh và ứng dụng những thành tựu mới về khoa học và công nghệ vào sản
xuất để tăng năng xuất lao động, nâng cao năng xuất lao động và hạ giá thành

sản phẩm;
- Chức năng tổ chức bộ máy và công tác nhân sự: xác định số cấp, số khâu
trong bộ máy quản lý kinh tế, để từ đó bố trí sắp xếp cán bộ vào các bộ phận của
bộ máy đó;
- Chức năng điều hành sản xuất kinh doanh: phối hợp các yếu tố tài chính,
công nghệ, lao động, vật tư nguyên liệu…để chế tạo ra các sản phẩm hàng hóa,
dịch vụ phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng.
- Chức năng marketing: các hoạt động tiếp cận nhu cầu của thị trường (thị
trường trong nước và ngoài nước) và thỏa mãn nhu cầu thông qua các công việc
quảng cáo, chào hàng và chiêu hàng.
2.3. Phân loại theo giai đoạn của quá trình quản lý
2.3.1. Chức năng dự báo
Trong QLXH về KT dự báo là hệ thống các giả định về trạng thái của đối
tượng quản lý trong tương lai. Nói cách khác, dự báo là đoán trước các quá
trình, hiện tượng kinh tế có thể xảy ra trong thời gian tới, làm cơ sở cho việc
hoạch định chiến lược, kế hoạch và quyết định các giải pháp về phát triển kinh
tế. Thông qua công tác dự báo sẽ phát hiện các xu hướng vận động của nền kinh
tế, sự tác động của môi trường bên trong và bên ngoài từ đó phát hiện những cơ
hội thuận lợi và có những giải pháp ứng phó với những bất lợi có thể xảy ra. Do
vậy, dự báo là một giai đoạn không thể thiếu được của quá trình tiến hành các
hoạt động kinh tế trên phạm vi nền kinh tế quốc dân, ngành kinh tế, địa phương
9
cũng như đơn vị kinh tế cơ sở. Tuy kết quả của các dự đoán chỉ mang tính chất
hướng dẫn và không phải là những chỉ số hoàn toàn chính xác nhưng dự đoán
bao giờ cũng dựa trên cơ sở khoa học vì thế nó là căn cứ để xây dựng kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô và kế hoạch sản xuất kinh doanh ở tầm vi
mô.
Nội dung dự báo thường tập trung vào các yếu tố: thị trường, tiến bộ kỹ
thuật và công nghệ, tài nguyên thiên nhiên, dân số, sự biến động của nền kinh tế
khu vực và thế giới. Trong nền kinh tế thị trường đầy biến động, hoạt động dự

báo gặp rất nhiều khó khăn nhưng lại hết sức cần thiết. Nó đòi hỏi nhà quản lý
phải kết hợp các yếu tố khoa học, kinh nghiệm và sự mẫn cảm nghề nghiệp;
phải cập nhật những thông tin có liên quan đến hoạt động kinh tế, đặc biệt đối
với lĩnh vực, sản phẩm mà mình đang trực tiếp kinh doanh. Đồng thời các thông
tin dự báo phải phản ánh đầy đủ cả mặt chất lẫn mặt lượng, cả trước mắt và lâu
dài, tạo nên những căn cứ khoa học cho việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội và sản xuất kinh doanh.
2.3.2. Chức năng kế hoạch
Kế hoạch là một chức năng quản lý bao gồm xác định mục tiêu, đồng thời
xây dựng chương trình hành động và các bước đi cụ thể nhằm đạt tới mục tiêu.
Như vậy, lập kế hoạch chính là việc ra quyết định quản lý. Tiến trình lập kế
hoạch thực chất là quá trình nhận thức cơ hội, phân tích thực trạng và lựa chọn
các phương án; đồng thời tổ chức các phương tiện để đạt tới được các mục tiêu
đã được xác định trước, ở đây có sự phân biệt giữa dự báo và kế hoạch. Cả hai
phạm trù đều đề cấp đến tương lai của sự vật, hiện tượng song dự báo chỉ là sự
nhận định, tiên đoán còn kế hoạch bao gồm không chỉ các hoạt động dự báo mà
quan trọng hơn là làm thay đổi, hạn chế hoặc thúc đẩy xu hướng vận động của
sự vật, hiện tượng. Nói cách khác, dự bảo là những hoạt động tiền đề của kế
hoạch. Thực hiện chức năng kế hoạch cho phép các nhà quản lý hình dung và
mô tả sự phát triển của một nền kinh tế, một ngành, địa phương và từng doanh
nghiệp qua các thời kỳ từ đó hình thành các phương án hoạt động trên cơ sở dự
kiến những rủi ro có thể gặp phải, cũng như những thuận lợi cần phải tận dụng.
10
Như vậy, hoạt động trong lĩnh vực kế hoạch, một mặt sẽ tạo ra tầm nhìn chiến
lược cho các nhà quản lý kinh tế, giúp họ phát hiện chính xác và đầu tư phù hợp
vào những lĩnh vực, sản phẩm, thị trường mang lại hiệu quả cao về kinh tế - xã
hội, mặt khác, còn làm giảm những bất trắc và hạn chế các hoạt động kinh tế
trùng lắp, gây lãng phí cho các chủ thể kinh tế do thiếu sự tính toán sắp đặt từ
trước. Ngoài ra, công việc xác định mục tiêu và xây dựng chương trình phát
triển kinh tế không chỉ là một chức năng quản lý kinh tế mà còn là căn cứ để

hình thành và thực hiện các chức năng khác như tổ chức, điều khiển, kiểm tra và
điều chỉnh, hạch toán.
Nội dung của các hoạt động kế hoạch bao gồm xác định mục tiêu, lựa chọn
các phương án và tổ chức các phương tiện để thực hiện mục tiêu. Các mục tiêu,
phương án và phương tiện ấy được xây dựng cho các thời kỳ dài ngắn khác
nhau gọi là kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Dự thuộc loại hình nào,
các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và kế hoạch sản xuất kinh doanh cũng
phải thỏa mãn các yêu cầu sau đây:
- Coi trọng công tác tiền kế hoạch, tức là các hoạt động dự báo, điều tra,
thăm dò nhằm cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng chương trình phát
triển kinh tế;
- Kế hoạch phải có khả năng thích ứng với sự biến đổi của nhu cầu thị
trường, coi thị trường vừa là đối tượng vừa là căn cứ của kế hoạch;
- Phân định rõ ràng chức năng kế hoạch ở tầm vĩ mô và trong những đơn
vị kinh tế cơ sở;
- Hệ thống mục tiêu phải được xây dựng có căn cứ khoa học và sát thực tế.
Mục tiêu kinh tế gắn với mục tiêu xã hội;
- Kế hoạch phải góp phần tạo dựng và duy trì các giá trị tinh thần và
truyền thống của từng doanh nghiệp, từng ngành kinh tế, qua đó tạo niềm tin và
sự hăng say sáng tạo của người lao động trong các doanh nghiệp, các ngành
kinh tế đó;
- Phải kết hợp giữa ổn định và đổi mới về nội dung kế hoạch để một mặt
tạo thuận lợi cho quá trình thực hiện và mặt khác lại có thể thích ứng với sự
11
biến đổi của môi trường bên ngoài. Nói cách khác, trong cơ chế thị trường, kế
hoạch phải là những “cân đối động”.
2.3.3. Chức năng tổ chức
Với tư cách là một chức năng QLXH về KT, tổ chức là việc thiết lập bộ
máy quản lý trong đó gồm nhiều bộ phận được chuyên môn hóa có liên hệ với
nhau nhằm thực hiện các nhiệm vụ quản lý vì một mục tiêu chung. Như vậy, tổ

chức chỉnh là công việc xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý các cấp, các ngành
trong nền kinh tế. Cơ cấu đó được xây dựng trên cơ sở kế hoạch phát triển của
các cấp, các ngành; đồng thời là lực lượng vật chất để tiến hành các hoạt động
điều khiển, kiểm tra, điều chỉnh và hạch toán. Để thích ứng với nền kinh tế hàng
hóa vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN, việc xây dựng cơ cấu tổ chức QLXH về KT phải đảm bảo các
yêu cầu cơ bản sau đây:
- Phải căn cứ vào mục tiêu và nhiệm vụ phát triển kinh tế mà kế hoạch đã
đề ra, bao gồm cả mục tiêu và nhiệm vụ trước mắt lẫn lâu dài;
- Phải kết hợp cả hai yếu tố ổn định và biến đổi trong quá trình xây dựng
và vận hành cơ cấu tổ chức quản lý kinh tế. Nghĩa là, bộ máy quản lý kinh tế
cần duy trì một số lượng cần thiết các bộ phận được chuyên môn hóa theo chức
năng trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên, do sự thay đổi của nhiệm vụ của
phát triển kinh tế và sản xuất kinh doanh, bộ máy quản lý kinh tế phải từng
bước hoàn thiện cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động.
- Con người chính là “vật liệu” để xây dựng cơ cấu tổ chức, chất lượng của
cơ cấu tổ chức phụ thuộc vào chất lượng của vật liệu tạo nên nó. Vì thế, phải lựa
chọn được các chuyên gia thành thạo trong các chuyên môn nhất định để bố trí
sắp xếp vào các bộ phận của bộ máy quản lý các cấp;
- Tổ chức là một chức năng không thể thiếu được trong quản lý kinh tế,
bởi vậy các nhà quản lý phải xuất phát từ những nhu cầu của thực tiễn hoạt
động kinh tế, năng lực của cán bộ đồng thời tiếp thu kinh nghiệm của thế giới
để không ngừng hoàn thiện bộ máy quản lý từ các cơ sở kinh tế đến tổng thể
nền kinh tế quốc dân.
12
2.3.4. Chức năng điều khiển
Điều khiển là cách thức, nghệ thuật tác động của chủ thể quản lý kinh tế
đối với tập thể người lao động. Nói cách khác, điều khiển là các hoạt động chỉ
huy, phối hợp, liên kết các bộ phận và những người lao động trong nền kinh tế
cũng như nội bộ một doanh nghiệp để thực hiện kế hoạch.

Các chức năng kế hoạch, tổ chức dự được thực hiện tốt đến đâu nhưng
không có hoạt động điều khiển thì không thể chuyển biến được sự vật hiện
tượng. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đã được xây dựng, bộ máy quản lý
kinh tế đã được thiết lập nhưng bộ máy đó không hoạt động, nghĩa là không có
ai chỉ huy thì không có sản phẩm cuối cùng. Vì thế, điều khiển là quá trình tổ
chức thực hiện các quyết định quản lý kinh tế và các chức năng điều khiển có
tác dụng phối hợp, liên kết các chức năng khác. Chức năng điều khiển được thể
hiện ở những nội dung sau đây:
- Phối hợp, liên kết các bộ phận cấu thành của doanh nghiệp cũng như nền
kinh tế nói chung nhằm tạo ra sự hoạt động ăn khớp, nhịp nhàng giữa các bộ
phận ấy;
- Phân công công việc, bố trí con người vào các nhiệm vụ sản xuất kinh
doanh, đồng thời liên kết họ vào một chỉnh thể nhằm tạo ra “tính trồi” theo lý
thuyết hệ thống;
- Kết hợp các yếu tố tài chính, lao động, kỹ thuật – công nghệ, nguyên vật
liệu…để tiến hành sản xuất kinh doanh với hiệu quả cao nhất.
- Hướng dẫn các cơ quan quản lý và những người dưới quyền thực hiện
các quyết định quản lý kinh tế, đồng thời đóng vai trị dẫn dắt các chủ thể kinh tế
khai thác, xâm nhập thị trường và lĩnh vực kinh doanh mới;
- Tạo ra động lực để khuyến khích, động viên các cấp, các ngành và những
người lao động phát huy khả năng sáng tạo để tăng năng xuất lao động, tiết
kiệm và đạt hiệu quả cao trong hoạt động kinh tế.
Để thực hiện những nội dung nêu trên, đòi hỏi nhà quản lý phải có quyền
uy, đó là uy tín về phẩm chất và năng lực; phải mạnh dạn phân cấp cho người
dưới quyền trên cơ sở xác định rõ ràng trách nhiệm, quyền hạn và quyền lợi của
13
mỗi người. Nhà quản lý phải thông đạt chính xác các quyết định quản lý, bao
gồm mục tiêu, nội dung, yêu cầu và các định mức nhất thiết. Phải kết hợp các
phương pháp hành chính, kinh tế, giáo dục động viên trong hoạt động điều
khiển. Đối với các hoạt động điều khiển mang tính chất tác nghiệp trong doanh

nghiệp, nhà quản lý ngoài những kiến thức kinh tế và năng lực tổ chức điều
hành phải có tác phong linh hoạt, nhạy bén trong việc phán đoán và xử lý tình
huống để kịp thời đối phó mọi tác động từ môi trường bên ngoài làm cản trở sự
phát triển của doanh nghiệp.
2.3.5. Chức năng kiểm tra và điều chỉnh
Kiểm tra là việc theo dõi và xem xét công việc có được thực hiện như kế
hoạch đã được vạch ra hay không, đồng thời chỉ ra ưu điểm để phát huy, khuyết
điểm để khắc phục. Như vậy, kiểm tra là yêu cầu khác quan của hoạt động quản
lý và là một chức năng không thể thiếu được của QLXH về KT. Nhờ chức năng
kiểm tra mà quá trình kinh tế được duy trì ổn định và có cơ hội để phát triển.
Kết quả kiểm tra cho phép các chủ thể quản lý tự đánh giá lại mình sau một chu
kỳ sản xuất kinh doanh, từ đó có phương án hoàn thiện chất lượng quản lý để
đạt kết quả cao hơn. Công việc kiểm tra phải bao quát toàn bộ các cấp, các
ngành, các thành phần kinh tế và xuyên suốt từ khâu đầu đến khâu cuối của quá
trình tái sản xuất mở rộng trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế cũng như các đơn
vị kinh tế cơ sở. Tuy nhiên, nội dung và phương pháp kiểm tra phải được lựa
chọn sao cho không làm cản trở đến hoạt động kinh tế, nhất là đối với các đơn
vị kinh tế cơ sở, mặt khác vẫn thường xuyên theo sát tình hình phát triển kinh tế
và tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhằm thỏa mãn những yêu
cầu nêu trên, nội dung kiểm trâ cần tập trung vào những vấn đề sau:
- Kiểm tra việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
nhằm hướng các hoạt động kinh tế theo đúng quỹ đạo, đồng thời bảo đảm quyền
tự chủ sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở.
- Kiểm tra việc thực hiện nội quy, quy định do địa phương , đơn vị kinh tế
đề ra nhằm phát hiện lệch lạc, qua đó lập lại kỷ cương đối với hoạt động của các
bộ phận, các tập thể và từng người lao động.
14
- Kiểm tra tiến độ thực hiện công việc trên cơ sở các định mức về thời
gian, về kinh tế kỹ thuật đã đề ra.
- Kiểm tra hiệu quả của việc quản lý và sử dụng các nguồn tài nguyên, lao

động, tiền vốn, công nghệ trong phát triển kinh tế và sản xuất kinh doanh.
- Kiểm tra tình hình phân phối sản phẩm, quyền lợi của người lao động
cũng như chế độ an toàn lao động trong phạm vi doanh nghiệp.
- Kiểm tra tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước, các
cam kết và các hợp đồng kinh tế đối với bên ngoài.
Kiểm tra không vì mục đích tự thân mà để phát hiện sự sai lệch của thực tế
so với kế hoạch từ đó có những giải pháp để điều chỉnh. Do vậy kiểm tra luôn
gắn với điều chỉnh. Từ kết quả của kiểm tra nếu có sự mâu thuẫn, vi phạm hay
rối loạn trong các quá trình kinh tế thì người quản lý phải điều tiết, uốn nắn để
các quá trình đó trở lại hoạt động bình thường và có hiệu quả. Chức năng điều
chỉnh còn thể hiện ở các quyết định quản lý bổ sung đối với những vấn đề mới
nảy sinh hoặc bản thân kế hoạch chưa lường hết được. Điều đó đòi hỏi nhà quản
lý phải nhạy bén và không bảo thủ.
2.3.6. Chức năng hạch toán
Hạch toán bao gồm hạch toán kỹ thuật, hạch toán thống kê và hạch toán kế
toán là một trong những phương tiện nhằm cung cấp thông tin thực hiện cho nhà
quản lý. Trước khi ra quyết định quản lý, cán bộ quản lý các cấp phải tính toán
nhu cầu xã hội về loại hàng hóa dịch vụ mà mình định làm, tính tỉa các yếu tố
thuộc về năng lực sản xuất kinh doanh đặc biệt là vốn liếng từ đó xây dựng kế
hoạch phát triển cho doanh nghiệp, địa phương, ngành kinh tế và trên phạm vi
cả nước. Nói cách khác, nhà quản lý các cấp phải tính toán để quyết định sản
xuất sản phẩm gì, bằng công nghệ nào, tiêu thụ ở đâu, tiêu thụ như thế nào.
Điều quan trọng hơn cả là phải tính toán kết quả cuối cùng của một chu trình ra
quyết định quản lý kinh tế, từ khâu dự báo, xây dựng kế hoạch đến khâu tổ
chức, điều khiển, kiểm tra và điều chỉnh.
Như vậy hạch toán là một chức năng rất quan trọng của QLXH về KT bởi
vì trong hoạt động QLXH về KT tiết kiệm và hiệu quả là mục tiêu trực tiếp
15
buộc các chủ thể quản lý kinh tế phải phấn đấu để đạt tới. Vấn đề là pahir sử
dụng các thước đo phù hợp để có thể hạch toán chính xác các yếu tố định tính

lẫn định lượng về hiệu quả kinh tế - xã hội của các quyết định quản lý. Chức
năng hạch toán phải xuyên suốt các khâu dự báo, kế hoạch, tổ chức, điều khiển,
kiểm tra và điều chỉnh; đồng thời bao quát toàn bộ nền kinh tế quốc dân: các
ngành kinh tế, các vùng kinh tế cũng như các đơn vị kinh tế cơ sở.
Có thể khắng định, các chức năng của QLXH về KT nêu trên tạo thành
một chỉnh thể thống nhất, trong đó từng chức năng có tính độc lập tương đối
vừa có mối quan hệ phụ thuộc các chức năng khác. Quá trình ra quyết định
QLXH về KT là quá trình thực hiện các chức năng theo một trình tự nhất định.
Việc bỏ qua hoặc coi nhẹ bất cứ một chức năng nào trong chuỗi các chức năng
ấy đều ảnh hưởng xấu tới thành công trong công tác QLXH về KT.
iiI. nguyên tắc quản lý xã hội về kinh tế
Việc quản lý kinh tế của các chủ thể phải tuân thủ các nguyên tắc quản lý
xã hội nói chung và phải được vận dụng cơ thể vào lĩnh vực kinh tế để hình
thành các nguyên tắc quản lý xã hội về kinh tế nhất định.
1. Khái niệm
Nguyên tắc quản lý xã hội về kinh tế là các quy tắc lãnh đạo, những tiêu
chuẩn hành vi mà các chủ thể quản lý phải tuân thủ trong quá trình quản lý xã
hội về kinh tế.
Yêu cầu của các nguyên tắc quản lý xã hội về kinh tế: Các nguyên tắc
quản lý xã hội về kinh tế do con người đặt ra nhưng không phải do sự suy nghĩ
chủ quan phải tuân thủ các đòi hỏi khách quan của quy luật.
- Các nguyên tắc phải phù hợp với mục tiêu của quản lý;
- Các nguyên tắc phải phản ánh đúng tính chất và các quan hệ quản lý;
- Các nguyên tắc quản lý phải bảo đảm tính hệ thống, tính nhất quán và
phải được bảo đảm bằng pháp luật;
Các nguyên tắc quản lý xã hội về kinh tế phản ánh các yêu cầu khách quan
của các quy luật chi phối lên quá trình quản lý xã hội về kinh tế, tức là muốn
biết có nguyên tắc nào thì trước tiên phải biết có các quy luật nào? Đối với nước
16
ta, theo quan điểm hiện nay của Đảng, có các nguyên tắc cơ bản trong quản lý

xã hội về kinh tế ở phạm vi Nhà nước là:
- Thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế;
- Tập trung dân chủ;
- Kết hợp hài hoà các loại lợi ích;
- Hiệu quả, tiết kiệm;
2. Các nguyên tắc quản lý xã hội về kinh tế
2.1. Thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế
Thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế bảo đảm quan hệ đúng đắn giữa
kinh tế và chính trị và tạo được động lực cùng chiều cho mọi người dân trong xã
hội là một trong những nguyên tắc cơ bản của việc quản lý kinh tế có căn cứ
khoa học trong phạm vi quốc gia.
Phát triển luận điểm của C.Mác và F.¡ngghen về sự tương quan giữa chính
trị và kinh tế, V.I.Lªnin đã xác định sự thống nhất biện chứng và sự tác động
qua lại giữa hai phạm vi hoạt động của con người đó là chính trị và kinh tế.
Sự thống nhất và sự tác động khách quan lẫn nhau giữa chính trị và kinh tế
được thể hiện với các đặc điểm:
- Sự thống nhất và mối liên hệ lẫn nhau giữa chính trị và kinh tế không có
nghĩa là sự đồng nhất giữa chóng vì đó là hai phạm vi khác nhau của hoạt động
con người tuy chóng được phát triển trong sự thống nhất và phụ thuộc lẫn nhau.
Không thể nhìn thấy ngay lợi ích kinh tế trực tiếp và đầy đủ trong mọi hành
động chính trị. Đôi khi muốn đạt được lợi ích kinh tế nào đó, cần có hàng loạt
biện pháp chính trị quá độ. Có thể có lợi ích chính trị trong những trường hợp
mà lợi ích kinh tế trực tiếp không đáng kể và được con người chấp nhận.
Trong sự thống nhất giữa chính trị và kinh tế, vai trò quyết định thuộc về
kinh tế. Nhà nước xã hội chủ nghĩa giữ vai trò người cải tạo kinh tế trên cơ sở
vận dụng tự giác các quy luật khách quan. Thực tế đó có thể là lý do để đánh giá
cao vai trò của chính trị, để giải thích chính trị như là nhân tố quyết định so với
kinh tế. Nhưng cho dù phạm vi chính trị có phức tạp chăng nữa, suy cho cùng
nó bị quy định bởi các điều kiện kinh tế. Chính do các điều kiện kinh tế hiện
17

nay tạm đủ sống mà ở các nước tư bản chủ nghĩa phong trào đấu tranh chính trị
đang bị co hẹp.
Chính trị không phải là một cách thụ động thực tế kinh tế. Nó là phương
tiện mạnh mẽ tác động đến các quá trình kinh tế khách quan. Sự tác động ngược
lại của chính quyền Nhà nước đến sự phát triển kinh tế có ba loại: Tác động
cùng hướng thì sự phát triển kinh tế sẽ nhanh, tác động ngược hướng thì sự phát
triển kinh tế bị kìm hãm, hoặc nó cản trở sự phát triển kinh tế trong những
hướng nhất định và thúc đẩy sự phát triển kinh tế theo những hướng khác.
Trong trường hợp này cuối cùng dẫn đến một trong hai trường hợp trên. Rõ
ràng, trong trường hợp thứ hai và thứ ba, chính quyền có thể gây thiệt hại to lớn
cho sự phát triển kinh tế; đường lối chính trị sai sẽ dẫn tới bế tắc về kinh tế.
- Dưới chủ nghĩa xã hội, chính trị và kinh tế không thể tách rời nhau vì
chính sách của Đảng là cơ sở cho mọi biện pháp lãnh đạo kinh tế, hướng dẫn sự
phát triển không ngừng của nền kinh tế.
Nội dung (yêu cầu) của nguyên tắc thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế
là:
- Phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận kinh tế và quản lý kinh
tế. Cụ thể là:
+ Đảng phải vạch ra đường lối chủ trương phát triển kinh tế xã hội,
+ Đảng phải chỉ rõ con đường, biện pháp, thủ đoạn, phương tiện để thực
hiện được đường lối chủ trương đã vạch ra,
+ Đảng phải động viên được đông đảo quần chúng, đoàn kết nhất trí thực
hiện đường lối chủ trương chống nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa và phải
nắm chắc vấn đề nhân sự của bộ máy,
- Phải phát huy vai trò điều hành, quản lý của Nhà nước. Cụ thể là:
+ Nhà nước phải biến đường lối chủ trương của Đảng thành kế hoạch,
chống nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên
thế giới,
+ Nhà nước phải dùng quyền lực của mình để hoàn chỉnh hệ thống pháp
luật làm cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh,

18
+ Nhà nước phải chăm lo, giải quyết vấn đề cán bộ, vấn đề lao động, vấn
đề việc làm và đời sống dân cư,
+ Nhà nước triển khai việc thực hiện kế hoạch do Nhà nước vạch ra.
+ Nhà nước phải kiểm tra, tổng kết việc thực hiện kế hoạch.
- Vừa phải phát triển kinh tế sản xuất, vừa phải chăm lo vấn đề an ninh
quốc phòng của đất nước. Vừa đấu tranh chống nạn tham nhũng và tệ quan liêu,
vừa đấu tranh chống nguy cơ diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch.
2.2. Tập trung dân chủ
Nội dung của nguyên tắc: Phải đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ và tối ưu
giữa tập trung và dân chủ trong quản lý xã hội về kinh tế. Tập trung phải trên cơ
sở dân chủ, dân chủ phải thực hiện trong khuôn khổ tập trung.
Biểu hiện của tập trung:
- Thông qua hệ thống kế hoạch;
- Thông qua hệ thống pháp luật và chính sách quản lý xã hội về kinh tế;
- Thực hiện chế độ một thủ trưởng ở tất cả các đơn vị, các cấp;
Biểu hiện của dân chủ:
- Mở rộng phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của các cấp, phân biệt rõ chức
năng quản lý kinh tế của Nhà nước và chức năng quản lý kinh doanh của các
doanh nghiệp.
- Hạch toán kinh tế;
- Chấp nhận kinh tế thị trường, chấp nhận cạnh tranh, chấp nhận mở cửa;
- Giáo dục, bồi dưỡng trình độ kiến thức cho quần chúng;
- Kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và từng vùng
lãnh thổ;
- Xoá bỏ dần chế độ chủ quản, cấp hành chính chủ quản và sự phân biệt
giữa xí nghiệp Trung ương và xí nghiệp địa phương.
Điều 6, Hiến pháp năm 1992( sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định:
“Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức
và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”.

19
Nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà
nước; trong quản lý xã hội về kinh tế ở nước ta thể hiện.
- Các cơ quan quyền lực Nhà nước đều do nhân dân bầu ra và chịu trách
nhiệm trước nhân dân. Các cơ quan hành chính Nhà nước, Toà án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân đều do cơ quan quyền lực Nhà nước bầu ra và chịu
trách nhiệm trước cơ quan bầu ra mình.
- Các cơ quan Nhà nước cấp dưới phải phục tùng cơ quan Nhà nước cấp
trên; các cấp chính quyền địa phương phải phục tùng cơ quan Trung ương.
- Tăng cường quyền quản lý tập trung thống nhất của Trung ương, kết hợp
chặt chẽ với việc phân cấp hợp lý, để tăng cường và phát huy tính chủ động,
sáng tạo của chính quyền địa phương và cơ sở.
- Thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tập thể, mọi người phải
phục tùng người chỉ huy trong các cơ quan Nhà nước tổ chức theo chế độ thủ
trưởng và trong điều hành công việc ở các công sở.
Nguyên tắc tập trung dân chủ đối lập với tập trung quan liêu, gia trưởng
độc đoán. Nguyên tắc này cũng đối lập với tình trạng phân tán, cục bộ, địa
phương, vô tổ chức, vô kû luật.
2.3. Kết hợp hài hoà các loại lợi ích xã hội
Quản lý xã hội về kinh tế trước hết là quản lý con người, là tổ chức mang
tính tích cực lao động của người lao động. Con người có những lợi ích, những
nguyện vọng và những nhu cầu nhất định. Do đó một trong những nhiệm vụ
quan trọng của quản lý là phải chú ý đến lợi ích của con người để khuyến khích
việc làm có hiệu quả phát huy tính tích cực lao động của họ.
- Lợi ích là sự vận động tự giác, chủ quan của con người nhằm thoả mãn
một nhu cầu nào đó của con người.
- Lợi ích là một động lực to lớn nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của
con người.
- Lợi ích còn là phương tiện của quản lý cho nên phải dùng nó để động
viên con người.

20
Nội dung của nguyên tắc là phải kết hợp hài hoà 3 loại lợi ích: Lợi ích của
xã hội (hoặc thu gọn hơn là lợi ích của Nhà nước); lợi ích của tập thể và lợi ích
của cá nhân trên cơ sở các đòi hỏi của các quy luật khách quan.
Các biện pháp kết hợp tốt 3 loại ích:
- Thực hiện đường lối phát triển kinh tế đúng đắn dựa trên cơ sở vận dụng
các quy luật khách quan phù hợp với đặc điểm của đất nước. Đường lối đó phản
ánh lợi ích cơ bản và lâu dài của toàn xã hội cũng tức là lợi ích của mọi thành
viên xã hội.
- Xây dựng và thực hiện các quy hoạch và kế hoạch chuẩn xác. Kế hoạch
quy tụ quyền lợi của cả hệ thống và phải có tính hiện thực cao.
- Thực hiện đầy đủ chế độ hạch toán kinh tế và vận dụng đúng đắn các đòn
bẩy kinh tế để quản lý một cách có hiệu quả mọi tiềm năng và cơ hội.
Người lao động, các tập thể của họ không phải chỉ có lợi ích vật chất mà
còn có lợi ích tinh thần. Có những động cơ tinh thần, tư tưởng thúc đẩy hoạt
động lao động của con người như: Giá trị lao động của mỗi người đối với xã
hội, niềm tự hào và vinh dự lao động, lương tâm lao động và nhiệt tình sản xuất,
niềm vui sáng tạo, hứng thú tăng thêm kiến thức và tìm tòi, sự phấn khởi về tình
cảm. Sự thích thú thẩm mü về lao động và kết quả lao động của mình. Con
người còn có những quyền lợi về chính trị, tự do, dân chủ, quyền hưởng thụ
những giá trị văn hoá tinh thần do xã hội bảo đảm cho họ.
Nhận thức lợi ích chẳng qua là vạch rõ khuynh hướng của các quy luật,
phạm vi cường độ tác động của chúng, chỉ khi nào các hình thức và phương
pháp quản lý phù hợp với lợi ích của xã hội, của tập thể và của cá nhân thì các
quy luật của chủ nghĩa xã hội mới được nhận thức đúng đắn và được vận dụng
khéo léo nhằm mục đích phát triển nền kinh tế xã hội. Cho nên việc nghiên cứu
lợi ích, việc thoả mãn và kết hợp chung là cơ sở vững chắc để cải tiến các
phương pháp quản lý trong quản lý xã hội về kinh tế.
2.4. Tiết kiệm và hiệu quả
Tiết kiệm và hiệu quả là hai mặt của một vấn đề. Trong nền kinh tế sản

xuất nhỏ, tiết kiệm thường đóng khung trong tiết kiệm tiêu dùng cá nhân, hoặc
21
người ta chỉ lo tiết kiệm trong việc sản xuất từng đơn vị sản phẩm, không tính
đến và cũng không thể đáp ứng nhu cầu to lớn của toàn xã hội về tư liệu sản
xuất và vật phẩm tiêu dùng. Đó là lối tiết kiệm theo kiểu làm ăn “cò con”, “dè
xẻn”, không bảo đảm hiệu quả kinh tế cho nền sản xuất xã hội.
Trong sản xuất tư bản chủ nghĩa, từng nhà tư bản rất quan tâm tiết kiệm và
quản lý của họ cũng nhằm tiết kiệm và đạt hiệu quả kinh tế cao trong từng đơn
vị xí nghiệp.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, tiết kiệm bao gồm cả tiết kiệm trong sản
xuất, xây dựng và tiêu dùng. Tiết kiệm cả lao động sống, lao động vật hoá và
nguồn lực khác của đất nước. Đặc biệt là nguồn lực về con người và nguồn lực
thiên nhiên. Cơ sở khách quan của chế độ tiết kiệm trong quản lý kinh tế xã hội
chủ nghĩa và cũng là bảo đảm chắc chắn cho chế độ ấy trở thành hiện thực trong
hoạt động kinh tế là tính kế hoạch trong toàn bộ nền sản xuất xã hội và sự nhất
trí về lợi ích cơ bản trong xã hội xã hội chủ nghĩa giữa các giai cấp, các tầng
lớp, các cá nhân người lao động xã hội chủ nghĩa, giữa lợi ích cá nhân tập thể và
toàn xã hội.
Để thực hiện nguyên tắc này, Nhà nước, các chủ thể quản lý kinh tế cần phải:
- Có đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn, phù hợp với đòi hỏi
của các quy luật khách quan.
- Xây dựng và thực hiện các quy hoạch và kế hoạch chuẩn xác để khai thác
một cách có hiệu quả nhất các nguồn lực của đất nước.
- Thực hiện đầy đủ chế độ hạch toán kinh tế. Lấy hiệu quả kinh tế xã hội
làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư
và công nghệ.
- Xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Tiến hành công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước lấy con người là
nguồn lực chủ yếu, khoa học, kỹ thuật là động lực cơ bản của sự nghiệp này.

- Đổi mới các chính sách là đòn bẩy kinh tế nhằm khuyến khích sử dụng
có hiệu quả, tiết kiệm các nguồn lực của đất nước.
22
- Kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng công quỹ trong các cơ quan,
cơ sở kinh tế Nhà nước.
- Thực hành chế độ tiết kiệm, chống tham nhũng, xử lý nghiêm chỉnh
những hành vi làm lãng phí, làm thất thoát tài sản xã hội chủ nghĩa.
- Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong việc quản lý và sử dụng tài
sản xã hội chủ nghĩa.
3. Yêu cầu vận dụng các nguyên tắc QLXH về KT
Việc hình thành các nguyên tắc QLXH về KT là công việc hết sức khó
khăn. Nhưng vận dụng chúng để thiết lập cơ chế, chính sách, giải pháp về
QLXH về KT lại không kém phần phức tạp nó tùy thuoochj vào năng lực, trình
độ nghệ thuật của nhà quản lý. Tuy nhiên, quá trình vận dụng nguyên tắc quản
lý kinh tế phải đảm bảo những yêu cầu chung sau đây:
Một là, coi trọng việc hoàn thiện hệ thống nguyên tắc QLXH về KT. Như
đã đề cập nguyên tắc QLXH về KT mang tính chủ quan vừa mang tính khách
quan. Nhận thức của nhà quản lý luôn có giới hạn, trong khi quá trình kinh tế
diễn ra đa dạng và có sự thay đổi thường xuyên. Vì thế, phải không ngừng
nghiên cứu lý luận để nâng cao khả năng nhận thức quy luật, đồng thời tổng kết
thực tiễn nhằm hoàn thiện nội dung các nguyên tắc QLXH về KT. Việc hoàn
thiện hệ thống nguyên tắc QLXH về KT còn đòi hỏi một mặt phảu tự giác tôn
trọng và kiên trì tuân thủ các nguyên tắc, mặt khác cần phát hiện những nguyên
tắc không còn phù hợp, bổ sung nguyên tắc QLXH về KT mới phù hợp với quy
luật khách quan và do sự đòi hỏi của thực tiễn vận hành nền kinh tế.
Hai là, vận dụng tổng hợp các nguyên tắc QLXH về KT. Mỗi nguyên tắc
đều có mục đích, nội dung, yêu cầu riêng đối với quá trình QLXH về KT. Từ
việc nhận thức một cách đúng đắn vai trò của các nguyên tắc trong nền kinh tế
phải biết vận dụng tổng hợp các nguyên tắc QLXH về KT trong việc xây dựng
cơ chế, chính sách, phương pháp, cơ cấu tổ chức bộ máy QLXH về KT nhằm

phát huy ưu thế của từng nguyên tăc, đồng thời bảo đảm các nhân tố cần thiết
của quá trình QLXH về KT, đó là: mục tiêu, động lực, phương tiện, phương
pháp QLXH về KT.
23
Ba là, lựa chọn hình thức và phương pháp vận dụng nguyên tắc QLXH về
KT phù hợp. Hệ thống nguyên tắc chi phối việc hình thành các quyết định
QLXH về KT ở tầm vĩ mô. Tuy nhiên, phải tùy thuộc vào đối tượng quản lý,
cấp quản lý và những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể để lựa chọn và quyết định
hình thức, phương pháp vận dụng các nguyên tác QLXH về KT.
Để lựa chọn hình thức và phương pháp vận dụng các nguyên tác QLXH về
KT, nhà quản lý QLXH về KT phải nắm vững được chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước và chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp;
hiểu rõ nội dung và yêu cầu của nguyên tắc; thực trạng kinh tế - xã hội của
quốc gia và năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra cần tiếp
cận kinh nghiệm và những thành tựu mới, tiến bộ của nhân loại về QLXH về
KT để vận dụng hiệu quả các nguyên tắc trong việc đề ra các quyết định QLXH
về KT.
Bốn là, cần có quan điểm toàn diện và hệ thống trong việc vận dụng các
nguyên tắc QLXH về KT. Trong QLXH về KT, hệ thống nguyên tắc giữ vai trò
định hướng cho việc hình thành các quyết định quản lý, bao gồm phương pháp,
cơ chế, công cụ, tổ chức bộ máy QLXH về KT Chính vai trò định hướng đó đã
quy định tính toàn diện và tính hệ thống của nguyên tắc QLXH về KT. Yêu cầu
bảo đảm tính toàn diện và tính hệ thống càng đặc biệt quan trọng đối với nguyên
tắc tiết kiệm và hiệu quả. Cụ thể là tiết kiệm và hiệu quả cần được xem xét trên
bình diện rộng, thời gian dài và với thái độ thận trọng, tránh tư tưởng cục bộ,
cách nhìn thiển cận và những quyết định vội vàng về QLXH về KT. Điều này
có ý nghĩa sâu sắc trong việc lựa chọn các phương án đầu tư nước ngoài vào trong
nước, các hình thức hợp tác kinh tế quốc tế, cải cách hệ thống doanh nghiệp nhà
nước, giao quyền sử dụng ruộc đất lâu dài cho nông dân ở Việt Nam.
Iv. Quá trình đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trưâng định hướng xhcn

1. Quá trình đổi mới quản lý xã hội về kinh tế
Đổi mới kinh tế, tức là chuyển đổi cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
quá trình đầy khó khăn, phức tạp. Đó là cuộc tìm tòi, sáng tạo không ngừng của
24
toàn Đảng, toàn dân; là sự đổi mới có ý nghĩa cả về nhận thức, quan điểm, về
thể chế chính sách, về bộ máy và cán bộ. Cho đến nay, toàn bộ quá trình xác
lập, phát triển và đổi mới quản lý xã hội về kinh tế của nước ta có thể chia ra
làm ba giai đoạn: Giai đoạn trước năm 1979, giai đoạn từ năm1979 đến năm
1986 và giai đoạn từ năm1986 đến nay.
1.1. Giai đoạn thực hiện thuần tuý cơ chế kế hoạch hoá tập trung (trước
năm 1979)
Trước Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương (khoá IV) của
Đảng (tháng 9 -1979) nền kinh tế nước ta được quản lý thuần tuý bằng cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp. Ngay từ đầu cơ chế đó bộc lộ những nhược điểm,
khuyết tật, nhưng trong điều kiện có hệ thống xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, có
viện trợ lớn và chiến tranh kéo dài nên các nhược điểm của cơ chế cũ chưa bộ lộ
gay gắt. Đặc biệt trong mười năm 1955 - 1965 đất nước ta vẫn dành được nhiều
thành tựu to lớn trên lĩnh vực xây dựng, phát triển kinh tế, giáo dục, y tế.v.v. và
đã tạo cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước. Như vậy, trong chừng mực đáng kể, cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã
đáp ứng yêu cầu của thời chiến, đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ cách mạng;
đấu tranh giải phóng miền Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Khi đất nước thống nhất, hoà bình được xác lập trên toàn quốc thì cơ chế
quản lý tập trung bao cấp càng bộc lộ nhược điểm, trở thành lực cản của sự phát
triển, nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực. Tác động tiêu cực của nó biểu hiện rõ
rệt trên các khía cạnh: Không tạo được động lực phát triển, kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất, giảm năng suất, chất lượng và hiệu quả, hạn chế
tính chủ động, năng động, sáng tạo của cơ chế kinh tế và của người lao động.
Trong cơ chế cũ các nhược điểm đã được phát hiện ngay trong thời kỳ

chiến tranh chống Mü, đã có ba Hội nghị Trung ương: Hội nghị lần thứ mười
chín Ban chấp hành Trung ương khoá III (1-1971), lần thứ 20 (4 -1972) và lần
thứ hai mươi hai (4-1973) đã phê phán cơ chế hành chính - bao cấp và đưa ra
phương hướng, biện pháp khắc phục, nhưng càng khắc phục thì tình trạng tập
25

×