Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

nâng cao sức cạnh tranh của dịch vụ thanh toán quốc tế tại ngân hàng bidv chi nhánh tây nam quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (887.3 KB, 90 trang )

MỤC LỤC
“Citi trao giải thưởng Ngân hàng thực hiện xuất sắc Nghiệp vụ Thanh toán Quốc tế năm 2007 59
DANH MỤC SƠ ĐỒ, HINH VÀ BẢNG BIẺU
SƠ ĐỒ & HÌNH
Hình 1.1: Mô hình 5 lực lượng cạnh tranh của Mc.Porter……… …….13
“Citi trao giải thưởng Ngân hàng thực hiện xuất sắc Nghiệp vụ Thanh toán Quốc tế năm 2007 59
BẢNG:
“Citi trao giải thưởng Ngân hàng thực hiện xuất sắc Nghiệp vụ Thanh toán Quốc tế năm 2007 59
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHTM Ngân hàng Thương mại
NHTMCP Ngân hàng Thương mại cổ phần
SV: Phạm Thị Hoa Lớp: QTKD quốc tế
50B
i
NHTMQD Ngân hàng Thương mại quốc doanh
NHNN Ngân hàng nhà nước
TTQT Thanh toán quốc tế
SWIFT Hiệp hội truyền tin liên ngân hàng toàn cầu
(Society for Wordwide Interbank FinanciaL
Telecommunication)
L/C Thư tín dụng
XNK Xuất nhập khẩu
BIDV Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
VCB Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương
Việt Nam
ACB Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu
Vietinbank Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương
Việt Nam
Agribank Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Việt Nam
SV: Phạm Thị Hoa Lớp: QTKD quốc tế


50B
ii
LỜI MỞ ĐÀU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Kể từ khi pháp lệnh về Ngân hàng ra đời (năm 1990), hệ thống Ngân
hàng thương mại Việt nam đã đổi mới một cách căn bản về mô hình tổ chức
và hoạt động. Các nghiệp vụ và dịch vụ Ngân hàng thương mại hiện đại đã
được mở rộng và phát triển nhanh chóng, trong đó có nghiệp vụ Thanh toán
quốc tế.
Là một mắt xích không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng thương mại, hoạt động thanh toán quốc tế của các Ngân hàng ngày càng
chứng tỏ vị trí và vai trò quan trọng của mình. Hoạt động thanh toán quốc tế
không chỉ đơn giản là lựa chọn một phương thức thanh toán phù hợp hay sử
dụng một phương tiện thanh toán thông dụng nào đó. Yêu cầu đặt ra là hoạt
động thanh toán quốc tế phải được thực hiện nhanh chóng, an toàn, chính xác
và đạt hiệu quả đối với cả khách hàng và ngân hàng thương mại. Hoạt động
thanh toán quốc tế trực tiếp tác động vào việc rút ngắn thời gian chu chuyển
vốn, giảm thiểu rủi ro liên quan tới sự biến động tiền tệ, tới khả năng thanh
toán của khách hàng, tạo điều kiện cho việc mở rộng và phát triển hoạt động
ngoại thương của mỗi nước.
Bên cạnh đó, thế giới ngày nay ngày càng có khuynh hướng tiến tới sự
hội nhập. Điều này đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho các quốc gia phát
triển và mở rộng các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, trong đó thương mại quốc
tế đóng vai trò quan trọng. Việt Nam với chủ trương phát triển nền kinh tế
mở, đẩy nhanh quá trình hội nhập với nền kinh tế trong khu vực và trên thế
giới cũng đã tăng cường mối quan hệ hợp tác quốc tế thông qua hoạt động
thương mại quốc tế nhằm thu hút đầu tư, khai thông nguồn lực để phục vụ
cho quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước.
Cùng với xu hướng chung đó, Ngân hàng BIDV chi nhánh Tây Nam
Quảng Ninh đã có nhiều bước tiến mới trong hoạt động TTQT và có những

kết quả khá tốt, tuy nhiên vẫn chỉ chiếm một thị phần rất nhỏ trong tổng thị
SV: Phạm Thị Hoa Lớp: QTKD quốc tế
50B
1
phần TTQT đồng thời đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ cả ngân hàng
trong nước và ngân hàng nước ngoài. Vậy chi nhánh BIDV phải làm gì để
nâng cao vị thế, năng lực cạnh tranh của mình trong hoạt động TTQT? Việc
nghiên cứu để giải quyết vấn đề này là vô cùng cần thiết. Xuất phát từ thực
tiễn đó, cùng với những kiến thức thực tiễn thu được trong quá trình thực tập
tại Ngân hàng BIDV chi nhánh Tây Nam Quảng Ninh em đã chọn thực hiện
đề tài
“Nâng cao sức cạnh tranh của dịch vụ thanh toán quốc tế tại ngân hàng
BIDV chi nhánh Tây Nam Quảng Ninh” để tìm ra những nguyên nhân cũng
như các giải pháp, kiến nghị khắc phục những hạn chế trên.
2. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo
phương thức tín dụng chứng từ qua các năm với những khó khăn, tồn tại riêng
của chi nhánh, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hoạt
động thanh toán quốc tế tại ngân hàng BIDV chi nhánh Tây Nam Quảng
Ninh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân
hàng thương mại.
Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng BIDV
chi nhánh Tây Nam Quảng Ninh từ 2008 đến nay
4. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn dựa trên lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin, của phép
biện chứng duy vật, đồng thời căn cứ vào đường lối chính sách phát triển kinh
tế của Đảng và Nhà nước ta.
Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích thông tin kinh tế theo chỉ

tiêu, phương pháp so sánh, tổng hợp, trên cơ sở các số liệu thống kê của
ngân hàng BIDV chi nhánh Tây Nam Quảng Ninh từ 2008-2011 để nghiên
cứu.
SV: Phạm Thị Hoa Lớp: QTKD quốc tế
50B
2
5. Kết cấu của luận văn.
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Lý luận chung về sức cạnh tranh của dịch vụ TTQT tại
NHTM
Chương 2: Thực trạng về sức cạnh tranh của dịch vụ TTQT tại
ngân hàng BIDV chi nhánh Tây Nam Quảng Ninh trong giai đoạn 2009
đến năm 2011
Chương 3: Phương hướng hoạt động và một số giải pháp nâng cao
sức cạnh tranh của dịch vụ TTQT tại ngân hàng BIDV chi nhánh Tây
Nam Quảng Ninh trong giai đoạn 2012-2017
SV: Phạm Thị Hoa Lớp: QTKD quốc tế
50B
3
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỨC CẠNH TRANH
CỦA DỊCH VỤ TTQT TẠI NHTM
1.1 TỔNG QUAN VỀ CẠNH TRANH
1.1.1 Khái niệm cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều khái niệm khác nhau về cạnh tranh
hay liên quan đến cạnh tranh
Theo C.Mác “ Cạnh tranh là sự ganh đua gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm
giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và trong tiêu thụ để đạt
được những lợi nhuận siêu ngạch”, có các quan niệm khác lại cho rằng “ cạnh
tranh là sự phấn đấu về chất lượng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp mình

sao cho tốt hơn các doanh nghiệp khác”.
Theo kinh tế chính trị hoc: “ cạnh tranh là sự thôn tính lẫn nhau giữa các
đối thủ nhằm giành giật thị trường khách hàng choa doanh nghiệp của mình”.
Thống nhất giữa các khái niệm ta có thể hiểu :
Và trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh được hiểu là sự ganh đua giữa
các doanh nghiệp trên thị trường nhằm giành được nhiều ưu thế hơn về cùng
một loại sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, về cùng một loại khách hàng so với đối
thủ cạnh tranh.
Từ khi nước ta thực hiện đường lối mở cửa nền kinh tế, từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà
nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa thì vấn đề cạnh tranh bắt đầu xuất
hiện trong từng bước đi của doanh nghiệp. Môi trường hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp lúc này đầy biến động và vấn đề cạnh tranh đã trở nên cấp
bách. Có thể nói cạnh tranh đã hình thành và bao trùm lên mọi lĩnh vực của
cuộc sống, từ tầm vi mô đến vị mô, từ một cá nhân đơn lẻ đến tổng thể toàn
xã hội. Cạnh tranh vốn là quy luật tự nhiên và khách quan của nền kinh tế thị
trường, nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của mỗi người. Bên cạnh
đó cạnh tranh là động lực thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa phát triển.
Bởi vậy để dành được các điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ sản
SV: Phạm Thị Hoa Lớp: QTKD quốc tế
50B
4
phẩm buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới,tích cực, nhạy bén
và năng động, phải thường xuyên cải tiến kĩ thuật công nghệ mới, bổ sung
xây dựng các cơ sở hạ tầng, mua sắm thêm trang thiết bị máy móc mới, và
điều quan trọng là phải có phương pháp tổ chức quản lý có hiệu quả, đào tạo
và đãi ngộ trình độ có chuyên môn, tay nghề cho người lao động. Cạnh tranh
không chỉ kích thích tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất mà còn
cải tiến mãu mã, chủng loại hàng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm và chất
lượng dịch vụ làm cho sản xuất ngày càng gắn liền với tiêu dùng, đáp ứng

nhu cầu xã hội tốt hơn. Bên cạnh những mặt tích cực cạnh tranh còn để lại
nhiều hạn chế và tiêu cực, đó là sự phân hóa sản xuất hàng hóa, làm phá sản
những doanh nghiệp kinh doanh gặp nhiều khó khăn do thiếu vốn, cơ sở hạ
tầng không tốt để cạnh tranh được.
Như vậy, cạnh tranh được hiểu và được khái quát một cách chung nhất đó
là cuộc ganh đua gay gắt giữa các chủ thể đang hoạt động trên thị trường với
nhau, kinh doanh cùng một loại sản phẩm hoặc những sản phẩm tương tự thay
thế lẫn nhau nhằm chiếm lĩnh thị phần, tăng doanh số và lợi nhuận.
1.1.2 Vai trò của cạnh tranh
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây thì cạnh tranh hầu như
không tồn tại giữa các doanh nghiệp, tại thời điểm này các doanh nhiệp hầu
như đã được nhà nước bao cấp hoàn toàn về vốn, chi phí cho mọi hoạt động,
kể cả khi các doanh nghiệp thua lỗ thách nhiệm này thuộc về nhà nước. Chính
vì vậy vô hình chung Nhà nước đã tạo lối mòn trong kinh doanh, một thói
quen trì trệ và ỉ lại, doanh nghiệp không phải tự tìm kiếm khách hàng mà chỉ
có khách hàng tự tìm đến doanh nghiêp. Chính điều đó đã không tạo động lực
cho doanh nghiệp phát triển. Sau khi kết thúc Đại hội Đảng toàn quốc làn thứ
VI (1986) nước ta đã chuyển sang một giai đoạn mới, một bước ngoặt lớn,
nền kinh tế thị trường được hình thành thì vấn đề cạnh tranh xuất hiện và có
vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà với cả người
tiêu dùng và nền kinh tế quốc dân nói chung.
SV: Phạm Thị Hoa Lớp: QTKD quốc tế
50B
5
1.1.2.1 Đối với nền kinh tế quốc dân:
Đối với nền kinh tế, cạnh tranh không chỉ là môi trường và động lực thúc
đẩy sự phát triển nói chung, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao
động mà còn là yếu tố quan trọng làm lành mạnh hoá quan hệ xã hội, cạnh
tranh còn là điều kiện giáo dục tính năng động của các Doanh nghiệp. Bên
cạnh tranh góp phần gợi mở những nhu cầu mới của xã hội thông qua sự xuất

hiện của nhữnh sản phẩm mới. Điều đó chứng tỏ đời sống của con người ngày
càng được nâng cao về chính trị, về kinh tế và văn hoá. Cạnh tranh bảo đảm
thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự phân công lao động xạ hội
ngày càng phát triển sâu và rộng. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích to lớn mà
cạnh tranh đem lại thì nó vẫn còn mang lại những mặt hạn chế như cạnh tranh
không lành mạnh tạo sự phân hoá giàu nghèo, cạnh tranh không lành mạnh sẽ
dấn tới có những mốt làn ăm vi phạm pháp luật như trốn thuế, lậu thuế, làm
hàng giả, buôn bán trái phép những mặt hàng mà Nhà nước và pháp luật
nghiêm cấm.
1.1.2.2 Đối với doanh nghiệp
Bất kỳ một Doanh nghiệp nào cũng vậy, khi tham gia vào các hoạt động
kinh doanh trên trên thị trường thì đều muốn doanh nghiệp mình tồn tại và
đứng vững. Để tồn tại và đứng vững các doanh nghiệp phải có những chiến
lược cạnh tranh cụ thể và lâu dài mang tính chiến lược ở cả tầm vi mô và vĩ
mô. Họ cạnh tranh để giành những lợi thế về phía mình, cạnh trạnh để giành
giật khách hàng, làm cho khách hàng tự tin rằng sản phẩm của Doanh nghiệp
mình là tốt nhất, phù hợp với thì hiếu, như cầu người tiêu dùng nhất. Khi đó
doanh nghiệp nào đáp ứng tốt nhu cầu của khác hàng kịp thời, nhanh chóng
và đầy đủ các sản phẩm cũng như dịch vụ kèm theo với mức giá phù hợp thì
Doanh nghiệp đó mới có khả năng tồn tại và phát triển. Do vậy cạnh tranh là
rất quan trọng và cấn thiết.
Cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải phát triển công tác marketing bắt
đầu từ việc nghiên cứu thị trường để quyết định sản xuất cái gì? sản xuất như
SV: Phạm Thị Hoa Lớp: QTKD quốc tế
50B
6
thế nào? sản xuất cho ai ? Nghiên cứu thì trường để Doanh nghiệp xác định
được nhu cầu thị trường và chỉ sản xuất ra những gì mà thị trường cần chứ
không sản xuất những gì mà doanh nghiệp có. Cạnh tranh buộc các doanh
nghiệp phảo đưa ra các sản phẩm có chất lượng cao hơn, tiện dụng với người

tiêu dùng hơn. Muốn vậy các doanh nghiệp phải áp dụng những thành tựư
khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất kinh doanh, tăng cường công tác
quản lý, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân, cử cán bộ đi học để nâng
cao trình độ chuyên môn. Cạnh tranh thắnglợi sễ tạo cho doanh nghiệp một
vị trí xứng đáng trên thị trường tăng thêm uy tín cho doanh nghiệp. Trên cơ sở
đó sẽ có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, tái sản xuất xã hội, tạo đà
phát triển mạnh cho nền kinh tế.
1.1.2.3 Đối với ngành:
Hiện nay, đối với nền kinh tế nói chung và đối với ngành ngân hàng nói
riêng, cạnh tranh đóng một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển nâng cao
chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh sẽ tạo
bước đà vững chắc cho mọi ngành nghề phát triển. Nhất là đối với ngành da
ngân hàng- là một ngành vai trò chủ lực trong sự phát triển tài chính của nền
kinh tế quốc dân. Cạnh tranh sẽ tạo bước đà và động lực cho ngành phát triển
trên cơ sở khai thác lợi thế và điểm mạnh của ngành đó là thu hút được một
nguồn lao động dồi dào và có thể khai thác tối đa nguồn lực đó.
Như vậy, trong bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào dù là có quy mô
hoạt động lớn hay quy mô hoạt động nhỏ, dù là hoạt động đó đứng ở tầm vĩ
mô hay vi mô thì không thể thiếu vắng sự có mặt của hoạt động cạnh tranh.
1.1.2.4 Đối với sản phẩm:
Nhờ có cạnh tranh, mà sản phẩm, dịch vụ ngày càng được nâng cao về
chất lượng, phong phú. Giúp cho lợi ích của người tiêu dùng và của Doanh
nghiệp thu được ngày càng nhiều hơn. Ngày nay, các sản phẩm được sản xuất
ra không chỉ để đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn cung cấp và xuất khẩu ra
nước ngoài. Qua những ý nghĩa trên ta thấy rằng cạnh tranh không thể thiếu
SV: Phạm Thị Hoa Lớp: QTKD quốc tế
50B
7
sót ở bất cứ một lĩnh vực nào của nền kinh tế. Cạnh tranh lành mạnh sẽ thực
sự tạo ra những Doanh nghiệp lớn và đồng thời là động lực thúc đẩy nền kinh

tế phát triển đảm bảo công bằng xã hội,. Bởi vậy, cạnh tranh là một yếu tố rất
cần có sự hỗ trợ và quản lý của Nhà nước để phát huy những mặt tích cực và
hạn chế những mặt tiêu cực như cạnh tranh không lành mạnh dẫn tới độc
quyền và gây lũng loạn thị trường.
1.1.3 Phân loại
Cạnh tranh được phân loại theo các hình thức sau:
1.1.3.1 Căn cứ vào các chủ thể tham gia cạnh tranh: Chia làm 3 loại
 Cạnh tranh giữa người bán và người mua: Là cuộc cạnh tranh diễn ra
theo quy luật mua rẻ bán đắt, cả hai bên đều muốn tối đa hoá lợi ích của mình.
Người bán muốn bán với giá cao nhất có thể, còn người mua muốn mua với
giá rẻ nhất những chất lượng vẫn không thay đổi. Tuy vậy, mức giá vẫn là sự
thoả thuận mang lại lợi ích của cả 2 bên.
 Cạnh tranh giữa người mua và người mua: là cuộc cạnh tranh trên cơ
sở quy luật cung cầu, khi trên thị trường mức cung nhỏ hơn mức cầu. Lúc này
hàng hoá trên thị trường sẽ khan hiếm, người mua có để đạt được nhu cầu
mong muốn của mình họ sẽ sẵn sàng mua với mức giá cao hơn do vậy mức
độ cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn giữa những người mua, kết quả là giá cả
hàng hoá sẽ tăng lên, những người bán sẽ thu được lợi nhuận lớn trong khi
những người mua bị thiệt thòi cả về giá và chất lượng, nhưng trong trường
hợp này chủ yếu chỉ tồn tại ở nền kinh tế bao cấp và xảy ra khi diễn ra hoạt
động bán đấu giá một loại hàng hoá nào đó.
 Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: đây là cuộc cạnh tranh
gay go và quyết liệt nhất khi mà trong nền kinh tế thị trường sức cung lớn hơn
cầu rất nhiều, khách hàng được coi là thượng đế của người bán, là nhân tố có
vai trò quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp. Do
vậy, các Doanh nghiệp phải luôn ganh đua, loại trừ nhau để giành giật những
ưu thế và lợi thế cho mình.
SV: Phạm Thị Hoa Lớp: QTKD quốc tế
50B
8

1.1.3.2 Căn cứ theo tính chất và mức độ cạnh tranh: chia làm 4 loại:
 Cạnh tranh hoàn hảo: Là cạnh tranh thuần tuý, là một hình thức đơn
giản của cấu trúc thị trường trong đó người mua và người bán đều không đủ
lớn để tác động đến giá cả thị trường. Nhóm người mua tham gia trên thị
trường này chỉ có cách thích ứng với mức giá đưa ra vì cung cầu trên thị
trường được tự do hình thnàh, giá cả do thị trường quyết định.
 Cạnh tranh không hoàn hảo: đây là hình thức cạnh tranh phổ biến trên
thị trường mà ở đó Doanh nghiệp nào có đủ sức mạnh có thể chi phối được
giá cả của sản phẩm thông qua hình thức quảng cáo, khuyến mại các dịch vụ
trong và sau khi bán hàng. Cạnh tranh không hoàn hảo là cạnh tranh mà phần
lớn các sản phẩm không đồng nhất với nhau, mỗi loại sản phẩm mang nhãn
hiệu và đặc tính khác nhau dù xem xét chất lượng thì sự khác biệt giữa các
sản phẩm là không đáng kể nhưng mức giá mặc định cao hơn rất nhiều. Cạnh
tranh không hoàn hảo có 2 loại:
 Cạnh tranh độc quyền: Là cạnh tranh mà ở đó một hoặc một số chủ thể
có ảnh hưởng lớn, có thể ép tất cả các đối tác của mình phải bán hoặc mua sản
phẩm của mình với giá cao và những người này có thể làm thay đổi giá thị
trường. Có hai loại cạnh tranh độc quyền đó là độc quyền bán và độc quyền
mua. Độc quyền bán là trên thị trường có ít người bán và nhiều người mua.
Còn độc quyền mua thì ngược lại có nhiều người mua và ít người bán.
 Độc quyền tập đoàn: Hình thức cạnh tranh này tồn tại trong một số
ngành sản xuất mà ở đó chỉ có một số ít người sản xuất. Lúc này cạnh tranh sẽ
xẩy ra giữa một số lực lượng nhỏ các Doanh nghiệp. Do vậy, mọi Doanh
nghiệp phải nhận thức rằng giá cả các sản phẩm của mình không chỉ phụ
thuộc vào số lượng mà còn phụ thuộc vào hoạt động của những đối thủ khác
trên thị trường.
SV: Phạm Thị Hoa Lớp: QTKD quốc tế
50B
9
1.1.3.3 Căn cứ vào phạm vi kinh tế.

 Cạnh tranh nội bộ ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các
Doanh nghiệp trong cùng một ngành, sản xuất và tiêu dùng cùng một chủng
loại sản phẩm. Trong cuộc cạnh tranh này có sự thôn tính lẫn nhau, các
Doanh nghiệp phải áp dụng mọi biện pháp để thu được lợi nhuận như cải tiến
kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí cá biệt của hàng hoá
nhằm thu lợi nhuận, siêu ngạch.
 Cạnh tranh giữa các ngành: Là cạnh tranh giữa các
ngành kinh tế khác nhau nhằm tạo ra lợi nhuận cao nhất, là ngành cạnh tranh
giữa các Doanh nghiệp hay đồng minh các Doanh nghiệp cùng một ngành với
ngành khác.
1.2 SƠ LƯỢC VỀ CẠNH TRANH DỊCH VỤ
1.2.1 Khái niệm
Theo UNCTAD thuộc liên hợp quốc, thì cho rằng khẳ năng (hay sức
cạnh tranh sản phẩm của Doanh nghiệp ) có thể được khảo sát dưới góc độ
sau: Nó có thể được định nghĩa là năng lực của một Doanh nghiệp trong việc
giữ vững hay tăng thị phần của mình một cách vững chắc.
Như vậy, ta có thể định nghĩa sức cạnh tranh sản phẩm như sau: Sức
cạnh tranh sản phẩm là năng lực tạo ra, duy trì, phát triển thị phần, lợi nhuận
thông qua việc giảm thiểu chi phí sản xuất, chất lượng được nâng cao, giá
thành hạ. Sức cạnh tranh sản phẩm được thể hiện các yếu tố: Giá cả, chất
lượng sản phẩm, các dịch vụ kèm thep và các yếu tố khác.
1.2.2 Những nhân tố tác động đến sức cạnh tranh của dịch vụ
1.2.2.1. Nhân tố thuộc môi trường vĩ mô:
 Môi trường kinh tế
Một môi trường kinh tế với các chỉ số định tính như tính ổn định của
nền kinh tế…hay các chỉ số định lượng như GDP, GNP, chỉ số giá tiêu dùng
CPI…tất cả là môi trường hoạt động, tác động trực tiếp tới các chính sách,
SV: Phạm Thị Hoa Lớp: QTKD quốc tế
50B
10

các quyết định của doanh nghiệp cũng như tác động trực tiếp đến năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trước hết là tính ổn định của nền kinh tế, nó thể hiện ở sự ổn định
trong tài chính quốc gia, tình trạng lạm phát…rõ ràng các yếu tố này ảnh
hưởng đến việc tồn tại, các quyết định của doanh nghiệp về sản phẩm, dịch vụ
của mình.
Bên cạnh đó, các thông số về GNP, GDP, CPI lại tác động trực tiếp đến
sức mua của người tiêu dùng và tác động trực tiếp đến thị trường tiêu thụ sản
phẩm của doanh nghiệp.
 Môi trường chính trị luật pháp:
Môi trường chính trị luôn đóng vai trò đặc biệt trong kinh doanh, nhất
là đối với kinh doanh quốc tế, nó là nền tảng cho sự phát triển của kinh tế xã
hội
Một môi trường chính trị ổn định thể hiện ở thể chế chính trị, mức độ
dân chủ của nó, mức độ mở cửa của nền kinh tế…kèm theo đó là vấn đề luật
pháp của các bộ luật doanh nghiệp, luật cạnh tranh của từng quốc gia là khác
nhau. Và luật pháp sẽ quy định rõ những lĩnh vực, những hình thức kinh
doanh, cạnh tranh nào mà doanh nghiệp được phép hoạt động. Vậy nên khi
hoạt động ở bất kỳ quốc gia nào cũng cần phải có sự am hiểu về chính trị luật
pháp của nước đó.
Nếu một doanh nghiệp hoạt động trong một nước vấn đề chính trị
không ổn định, có nhiều đảng phái tranh chấp, đặc biệt là vấn đề khủng bố
hay xảy ra, thì doanh nghiệp đó không thể hoạt động một cách ổn định. Việc
kinh doanh luôn bấp bênh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp cũng giảm sút
 Môi trường văn hóa xã hội:
Văn hóa xã hội bao gồm các yếu tố về phong tục, tập quán, ngôn ngữ,
sở thích, thị hiếu…của người tiêu dùng, nắm bắt được những cái đó là nắm
bắt được nhu cầu của người tiêu dùng và có thể cung cấp cho họ các sản phẩm
SV: Phạm Thị Hoa Lớp: QTKD quốc tế
50B

11
mà họ mong muốn, tạo được uy tín cho doanh nghiệp trong mắt người tiêu
dùng.
Để thâm nhập và thành công trên một thị trường bất kì doanh nghiệp
nào cũng phải có sự tìm hiểu về văn hóa, phong tục tập quán, tôn giáo của thị
trường đó. Càng am hiểu bao nhiêu thì cơ hội thành công càng lớn và có lợi
thế cạnh tranh tốt hơn so với doanh nghiệp khác.
 Môi trường công nghệ- khoa học kĩ thuật:
Trong thời đại ngày nay, công nghệ - khoa học kĩ thuật tác động mạnh
mẽ đến mọi mặt của đời sống. Việc phát triển khoa học công nghệ luôn được
các doanh nghiệp quan tâm hàng đầu và nó là chiến lược chủ chốt trong cạnh
tranh và cũng là công cụ cạnh tranh hoàn hảo. Bằng việc phát triển khoa học
công nghệ doanh nghiệp có thể tạo ra ưu thế của mình bằng sự khác biệt của
hàng hóa, từ đó tạo ra ưu thế trong cạnh tranh. Vì vậy hoạt động tại môi
trường khoa học công nghệ cao sẽ cho phép doanh nghiệp tiếp cận những
công nghệ tiên tiến và có được sức cạnh tranh lớn hơn.
1.2.2.2Các nhân tố thuộc môi trường ngành:
Theo Mc.Porter thì các yếu tố ảnh hưởng đến cạnh tranh trong môi
trường ngành bao gồm 5 lực lượng: các đối thủ cạnh tranh trực tiếp, các đối
thủ cạnh tranh tiềm ẩn chuẩn bị ra nhập ngành, các sản phẩm thay thế, khách
hàng và nhà cung ứng. Tùy vào sự mạnh yếu của 5 yếu tố này sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến doanh thu, lợi nhuận cũng như khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp trong hiện tại hay tương lai.
SV: Phạm Thị Hoa Lớp: QTKD quốc tế
50B
12
Hình 1.1: Mô hình 5 lực lượng cạnh tranh của Mc.Porter
 Đối thủ cạnh tranh trực tiếp
Đây là nhân tố cạnh tranh rõ nét nhất trong cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nó ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu, thị phần của doanh nghiệp trong hiện

tại.
Để xét mức độ cạnh tranh trực tiếp trong ngành ta nên xét đến các yếu tố
như: cơ cấu cạnh tranh ngành, rào cản khi ra nhập hay rút khỏi ngành, thực
trạng ngành.
Thực trạng ngành ở đây chính là nói tới thực trạng về mức độ cầu trong
ngành là cao hay thấp, quy mô thị trường là lớn hay nhỏ… nếu cầu lớn và có
xu hướng tăng, quy mô thị trường rộng thì mức độ cạnh tranh là nhỏ. Còn nếu
tình trạng cầu có xu hướng giảm thì mức độ cạnh tranh lại có xu hướng tăng,
khi đó để bán được sản phẩm của mình các doanh nghiệp lại phải nỗ lực nhiều
hơn trong sản xuất, marketing, tiêu thụ…
SV: Phạm Thị Hoa Lớp: QTKD quốc tế
50B
13
Cơ cấu cạnh tranh ngành tức là nói đến cạnh tranh là cạnh tranh hoàn hảo
hay không hoàn hảo, hay cạnh tranh mang tính độc quyền, ở đây phải xét đến
mức độ đồng nhất, tương đồng của sản phẩm. Nếu mức độ tương đồng của
sản phẩm càng cao thì cạnh tranh trong ngành càng lớn.
“Hàng rào rút lui khỏi ngành” là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng cạnh
tranh mạnh hơn của ngành. “Hàng rào rút lui khỏi ngành” bao gồm các yếu tố
về chi phí về đầu tư nhà xưởng thiết bị, các chi phí cho việc rời bỏ ngành, các
yếu tố tâm lý của chủ doanh nghiệp, các chi phí xã hội như thất nghiệp của
công nhân, đào tạo công nhân…Vậy nếu các chi phí rút lui này là cao, thì
trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt, quy mô thị trường nhỏ, doanh nghiệp lại
bị khóa chặt trong ngành không rút lui được và tình trạng cạnh tranh ngày
càng tăng.
 Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn:
Nếu các đối thủ cạnh tranh hiện tại tạo ra mối đe dọa trước mắt cho doanh
nghiệp thì các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn lại quyết định cục diện cạnh tranh
trong tương lai, nó có thể làm tăng mức độ cạnh tranh trong ngành vào thời
điểm gia nhập ngành.

Một ngành có tốc độ phát triển lớn, hứa hẹn đem lại nhiều lợi nhuận luôn
thu hút các đối thủ ngoài ngành mong muốn gia nhập. Sự tham gia của các
đối thủ mời này có thể đem lại cho thị trường những khả năng cung ứng mới
làm tăng áp lực cạnh tranh và tạo áp lực phân chia lại thị trường. Vì vậy các
doanh nghiệp hiện tại luôn cố gắng ngăn cản các đối thủ gia nhập ngành.
Khả năng gia nhập ngành của các đối thủ tiềm ẩn phụ thuộc vào những “
rào cản gia nhập ngành” bao gồm khả năng chống trả ( năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp hiện có trong ngành), mức độ trung thành của khách hàng
với những nhãn hiệu hiện có, tính khác biệt của sản phẩm, chi phí đầu tư cơ
bản và sức hấp dẫn về lợi nhuận mà đoạn thị trường hứa hẹn.
Nếu doanh nghiệp hiện tại có sản phẩm với tính khác biệt cao thì nó sẽ
đem lại cho doanh nghiệp sự trung thành của khách hàng và khi đó đối với
SV: Phạm Thị Hoa Lớp: QTKD quốc tế
50B
14
các doanh nghiệp mới gia nhập ngành thì thật khó để có thể tạo ấn tượng mới
cho khách hàng và giành giật thị trường.
 Sản phẩm thay thế:
Sản phẩm thay thế là một tất yếu cho nhu cầu ngày càng đa dạng của
khách hàng. Do có nhiều lựa chọn khách hàng có thể cân nhắc thay vì sử dụng
sản phẩm này có thể sử dụng sản phẩm khác. Sự xuất hiện của các sản phẩm
thay thế sẽ đặt ra giới hạn giá cả và lợi nhuận tương lai cho thị trường, vì nếu
giá cả của sản phẩm thay thế thấp hơn sản phẩm của doanh nghiệp đó sẽ là
điều kiện để khách hàng cân nhắc trong việc thay thế sản phẩm và khả năng
này càng cao nếu tính khác biệt của sản phẩm thấp và mức độ gắn bó của
khách hàng là nhỏ. Khả năng thay thế sản phẩm càng cao giá cả lợi nhuận lại
có xu hướng giảm xuống.
Trong thời đại công nghệ thì phát triển của khoa học công nghệ luôn đóng
vai trò quan trọng trong việc tạo ra các sản phẩm thay thế, vì vậy doanh
nghiệp cần phải luôn nắm bắt được công nghệ mới, làm mới sản phẩm để đảm

bảo nhu cầu khách hàng.
 Khách hàng:
Khách hàng là đối tượng phục vụ của doanh nghiệp, được xem như một
thế lực cạnh tranh vì họ có thể tạo ra sức ép khiến doanh nghiệp phải giảm
giá, hay tăng dịch vụ trên một đơn vị doanh thu, khiến doanh nghiệp bị giảm
mức lợi nhuận. Khả năng tạo sức ép của khách hàng được gọi là quyền lực
trong thương lượng. Và quyền lực này càng cao thì sức hấp dẫn của ngành
càng thấp. Nó thể hiện ở:
+ Số lượng người mua ít, số lượng mua của họ chiếm tỷ trọng lớn trong
sản lượng bán ra của doanh nghiệp. Đó là một điều kiện khiến khách hàng có
thể ép giá. Thông thường trường hợp này xảy ra với các sản phẩm là sản
phẩm trung gian và các nhà mua là các nhà mua công nghiệp
+ Sự ít khác biệt của sản phẩm cũng tạo ra quyền lực trong chi phí chuyển
đổi sản phẩm sử dụng.
SV: Phạm Thị Hoa Lớp: QTKD quốc tế
50B
15
+ Chi phí chuyển đổi nhà cung ứng càng thấp thì quyền lực của khách
hàng càng cao.
+ Thậm chí khách hàng lớn có thể tạo ra các mối liên kết gây sức ép giảm
giá.
 Nhà cung ứng:
Nếu khách hàng tạo sức ép từ phía đầu ra của doanh nghiệp thì nhà cung
ứng lại có thể tạo sức ép từ phía đầu vào, làm tăng chi phí sản xuất và giảm
mức lợi nhuận của doanh nghiệp. Quyền thương lượng của nhà cung ứng là
cao khi:
+ Nhà cung ứng tập trung với số lượng ít, doanh nghiệp sẽ không dễ dàng
chuyển đổi nhà cung ứng và phải chấp nhận hợp tác với thế yếu.
+ Nếu nhà cung ứng đầu vào tối quan trọng mà ít có khả năng thay thế.
+ Chi phí chuyển đổi nhà cung ứng cao hay nhà cung ứng là độc quyền.

+ Khả năng liên kết cao của các nhà cung ứng sẽ gây sức ép lớn cho doanh
nghiệp, khi đó doanh nghiệp không thể chuyển nhà cung ứng với giá thấp
hơn, tốt hơn vì khi đó các dịch vụ cung ứng là đồng nhất.
1.2.2.3Nhân tố thuộc yếu tố bên trong doanh nghiệp:
Nhân tố bên trong doanh nghiệp là toàn bộ các yếu tố cấu thành doanh
nghiệp. Nó trực tiếp quyêt định đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Một số yếu tố tiêu biểu như:
 Nguồn lực về tài chính:
Để đánh giá độ mạnh yếu của một doanh nghiệp, cái mà người ta đánh
giá đầu tiên chính là sự minh bạch của các chỉ số tài chính, nó phản ánh toàn
bộ hoạt động cũng như khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Các chỉ số tài
chính như ROA, ROE… sẽ cho biết chỉ số lợi nhuận, tỷ lệ nợ của doanh
nghiệp, khả năng thu hồi vốn, khả năng thanh toán, tỷ lệ nợ đọng, khả năng
huy động vốn của doanh nghiệp…khi các chỉ số này là tích cực thì doanh
nghiệp sẽ được đánh giá là mạnh.
SV: Phạm Thị Hoa Lớp: QTKD quốc tế
50B
16
Tất cả các hoạt động của doanh nghiệp đều cần có tài chính, có quỹ để
hoạt động, từ sản xuất đến tiêu thụ…nhất là trong cạnh tranh thì tài chính luôn
nắm vai trò chủ chốt, với nguồn tài chính lành mạnh và dồi dào doanh nghiệp
có thể cạnh tranh trong mọi tình huống, nhất là trong trường hợp phải giảm
giá, bỏ qua mục tiêu lợi nhuận để đạt được các mục tiêu khác như thị phần và
thị trường, khi đó doanh nghiệp nào có tiềm lực tài chính mạnh mới có thể
bám trụ và giành được thị trường.
 Nguồn nhân lực:
Từ trước đến nay trong mọi hoạt động, tất cả các yếu tố đều quan trọng
nhưng con người luôn được đánh giá là chủ thể của mọi quá trình, điều khiển
mọi công việc, con người là yếu tố quan trọng nhất. Nguồn nhân lực trong
doanh nghiệp bao gồm các quản trị viên ( cấp cao, cấp trung, cấp cơ sở) và

đội ngũ nhân viên, công nhân. Với các quản trị viên 3 cấp cần có uy tín, năng
lực quản lý và điều hành, khả năng thương thuyết và đàm phán. Còn với các
nhân viên, công nhân cần có khả năng về tay nghề, kĩ thuật. Một doanh
nghiệp có được các quản trị viên giỏi, các nhà lãnh đạo nhìn xa trông rộng,
các nhân viên có tay nghề cao, đó sẽ là tiền đề cho một doanh nghiệp mạnh.
 Tổ chức quản lý:
Một doanh nghiệp để hoạt động tốt cũng cần chú ý đến việc tổ chức doanh
nghiệp sao cho hợp lý. Tùy tính chất của từng lĩnh vực, từng ngành mà tổ
chức các phòng ban và sắp xếp cơ cấu để có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các
phòng ban, đảm bảo tính tập trung hay phân tán từ các cấp các bộ phận cho
phù hợp với hoạt động của doanh nghiệp.
Do đó một cơ cấu tổ chức tốt sẽ đảm bảo cho các cấp lãnh đạo có thể nắm
bắt thông tin và phân chia quyền lực một cách hợp lý
 Nguồn lực vật chất kĩ thuật, công nghệ:
Nguồn lực này quyết định nhiều nhất đến chất lượng, quy cách sản phẩm
của doanh nghiệp và có thể quyết định đến sức cạnh tranh của sản phẩm. Cơ
sở vật chất kĩ thuật tốt có thể đảm bảo sản xuất được các sản phẩm tốt, đảm
SV: Phạm Thị Hoa Lớp: QTKD quốc tế
50B
17
bảo tiến độ sản xuất, đáp ứng nhu cầu khách hàng một cách nhanh chóng. Và
thậm chí còn có thể sản xuất với công suất lớn, nhanh và nhiều, như thế có thể
giúp doanh nghiệp đạt được tính hiệu quả theo quy mô. Giảm chi phí trên một
đơn vị sản phẩm, giảm giá thành sản phẩm và tăng tính cạnh tranh cho sản
phẩm.
 Hoạt động Marketing:
Ngày nay marketing là một bộ phận không thể thiếu được trong một doanh
nghiệp. Nó đảm nhận nhiệm vụ điều tra thị trường, phát hiện nhu cầu của
người tiêu dùng, phát triển sản phẩm, khuếch trương và xúc tiến bán hàng…
rồi phân phối hàng, đưa sản phẩm đến tay khách hàng, ấn tượng của sản phẩm

ra sao đều là do khâu marketing… Nhờ các nỗ lực marketing mà sản phẩm có
thể được biết đến rộng rãi và tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm.
1.2.3 Tiêu chí đánh giá sức cạnh tranh của dịch vụ
Khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp được thể hiện thông qua chỉ tiêu
cạnh tranh của Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, sức
cạnh tranh sản phẩm thì lại thể hiện thông qua một số chỉ tiêu sau:
1.2.3.1 Tiêu chí định lượng:
 Tiêu chí doanh thu:
Doanh thu là số tiền mà Doanh nghiệp thu được khi bán hàng hoá, dịch vụ.
Doanh thu có thể được coi là một chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh sản
phẩm, bởi suy cho cùng sức cạnh tranh sản phẩm của Doanh nghiệp là khả
năng duy trì và phát triển thêm lợi nhuận mà doanh thu là điều kiện cần để có
lợi nhuận. Muốn có cạnh tranh Doanh nghiệp cần xem xét các chỉ số sau:
Tỷ lệ doanh thu của Doanh nghiệp/ doanh thu của đối thủ cạnh tranh.
Tỷ lệ doanh thu năm sau / năm trước.
Thông qua các tỷ lệ này thì Doanh nghiệp có thể đánh giá được sức cạnh
tranh sản phẩm của mình hay không? Sử dụng chỉ tiêu này thì có ưu điểm là
đơn giản, dễ tính nhưng cũng khó khăn trong công việc chọn chính xác đối
thủ cạnh tranh.
SV: Phạm Thị Hoa Lớp: QTKD quốc tế
50B
18
 Tiêu chí chi phí:
HQ
f
= M/F
M: Doanh thu thuần đạt được
F: Chi phí bỏ ra
HQ: Hiệu quả sử dụng chi phí.
Chỉ tiêu này phản ánh mức doanh thu đạt được trên một đồng chi phí. Đây

là một chỉ tiêu thuận, nghĩa là HQ
f
cao thì hiệu quả chi sử dụng chi phí càng
cao.
 Tiêu chí lợi nhuận:
Là phần dôi ra của Doanh nghiệp sau khi trừ đi chi phí. Lợi nhuận là một
chỉ tiêu tổng hợp, nó không chỉ phản ánh sức cạnh tranh của sản phẩm mà còn
là sức cạnh tranh của Doanh nghiệp. Khi xem xét chỉ tiêu này ta chú ý đến tỷ
suất lợi nhuận:
HQ
f
= (LN / M )*100
LN: Tổng lợi nhuận đạt được (Lợi nhuận trước thuế ).
M: Doanh thu thuần.
Chỉ tiêu này phản ánh trong một thời kỳ nhất định, Doanh nghiệp thu được
bao nhiêu đồng lợi nhuận trên một đồng doanh thu bán hàng. Chỉ tiêu này
càng cao thì hiệu quả kinh tế của Doanh nghiệp càng cao.
 Tiêu chí thị phần:
Đó là phần thị trường mà Doanh nghiệp chiếm giữ trong tổng dung lượng
thị trường. Thị phần đã trở thành một tiêu thức đánh giá sức cạnh tranh sản
phẩm của Doanh nghiệp. Bởi thực chất khả năng cạnh tranh của Doanh
nghiệp là khả năng duy trì và phát triển thị phần. Khi đó cần chú ý tới các chỉ
tiêu như:
Tỷ lệ thị phần của Doanh nghiệp so với toàn bộ dung lượng thị trường.
Được xác định bằng công thức sau:
SV: Phạm Thị Hoa Lớp: QTKD quốc tế
50B
19
TP
x

=

Kn
Kx
Trong đó:
TP
x
là thị phần của doanh nghiệp đối với loại hàng hóa x
K
x
là lượng hàng hóa x bán ra của doanh nghiệp

Kn
là tổng khối lượng hàng hóa x được bán ra trên thị trường của n
doanh nghiệp trong ngành
Thị phần càng lớn chứng tỏ được sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong
mặt hàng đó. Ngược lại thị phần nhỏ cho thấy khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp còn hạn chế, chưa có vị thế trên thị trường.
Thị phần tương đối: Là tỷ lệ thị phần của công ty so với đối thủ cạnh tranh
mạnh nhất.
 Giá cả:
Một sản phẩm được coi là có sức cạnh tranh nếu sản phẩm được người tiêu
dùng chấp nhận với mức giá phù hợp. Trong nền kinh tế thị trường, cung luôn
lớn hơn cầu thì việc sản phẩm có sức cạnh tranh hay không phụ thuộc vào rất
nhiều giá cả của nó. Người tiêu dùng luôn luôn có sự so sánh khi đứng trước
quyết định lựa chọn sản phẩm tiêu dùng và điều quan trọng sẽ đưa ra quyết
định mua hàng là giá cả.
1.2.3.2 Tiêu chí định tính:
 Chất lượng sản phẩm :
Các sản phẩm giống nhau về mức giá nhưng chưa chắc đã có sức cạnh

tranh giống nhau. Một sản phẩm có sức cạnh tranh khi mà nó vừa đảm bảo
mức giá chấp nhận và tương xứng với chất lượng. Vì thế đối với Doanh
nghiệp thì giá cả và chất lượng được coi là vấn đề sống còn. Do đó, các
Doanh nghiệp luôn tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm của mình nhằm
đưa ra các sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường.
 Uy tín và giá trị thương hiệu
SV: Phạm Thị Hoa Lớp: QTKD quốc tế
50B
20
Giữa sức cạnh tranh và uy tín giá trị thương hiệu có sự tương tác qua lại
biện chứng lẫn nhau. Nếu doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao thì sẽ tạo ra uy
tín và thương hiệu cho doanh nghiệp, và ngược lại khi có uy tín và thương
hiệu trong lòng khách hàng thì sẽ tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Tuy đây là yếu tố vô hình song lại ảnh hưởng rất lớn tới quyết định lựa
chọn sản phẩm của khách hàng, trước một sản phẩm của một hãng có thương
hiệu lâu năm với sản phẩm của một hãng mới xuất hiện, thì tâm lý chung của
khách hàng vẫn là hướng đến các sản phẩm có uy tín. Hơn nữa đây cũng là
một yếu tố cấu thành nên giá cả hàng hóa, giúp doanh nghiệp có thể định giá
cao hơn so với các sản phẩm thông thường.
1.3 PHÂN BIỆT NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG VÀ SỨC CẠNH
TRANH CỦA DỊCH VỤ NGÂN HÀNG
Không ít người nhầm lẫn giữa các khái niệm tưởng chừng như là một,
đó là “năng lực cạnh tranh” và “sức cạnh tranh” . Vậy giữa hai khái niệm này
có gì khác biệt cần lưu ý.
Đầu tiên là “năng lực cạnh tranh”, khi nói đến năng lực cạnh tranh
người ta thường gán nó với một tổ chức hay một quốc gia. Vì vậy năng lực
cạnh tranh của ngân hàng là khả năng tạo ra, duy trì và phát triển lợi thế cạnh
tranh của ngân hàng trên thị trường nhằm tạo ra lợi nhuận ổn định và cao hơn
mức trung bình của ngành trong một môi trường cạnh tranh bình đẳng.
Các yếu tố bên trong quyết định năng lực cạnh tranh của một ngân

hàng thương mại là: năng lực tài chính, số lượng và chất lượng nguồn nhân
lực, khoa học công nghệ, khả năng tổ chức quản lý điều hành, vốn
Thư hai là “sức cạnh tranh”, nói đến sức cạnh tranh là gắn liền với một
sản phẩm, một sản phẩm này có sức cạnh tranh hơn một sản phẩm khác là
người ta muốn nói đến chất lượng, giá cả, cũng như các dịch vụ đi kèm của
sản phẩm này được khách hàng đánh giá là tốt hơn các sản phẩm cùng loại
trên thị trường.
SV: Phạm Thị Hoa Lớp: QTKD quốc tế
50B
21
Ngoài ra khi nói đến năng lực cạnh tranh người ta thường gắn nó với
thương hiệu, còn sức cạnh tranh thì gán với nhãn hiệu. Vì vậy năng lực cạnh
tranh và sức cạnh tranh là hai phạm trù khác nhau nhưng chúng lại có mối
quan hệ mật thiết với nhau, có tác động qua lại vói nhau, tương hỗ lẫn nhau.
Điều này có thể thấy rất rõ vì một sản phẩm muốn có sức cạnh tranh thì nó
phải do một công ty hay một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh snar xuất
ra, hay nói cánh khác dễ hình dung hơn là tâm lý của khách hàng khi nào
cũng nghĩ một sản phẩm do một công ty hay một doanh nghiệp uy tín, có chỗ
đứng trên thị trường sản xuất hay cung ứng thì tốt hơn các sản phẩm cùng loại
do các công ty “chưa có tên tuổi”. Ngược lại, khi sản phẩm có sức cạnh tranh
thì nó thúc đẩy làm cho năng lực cạnh tranh của công ty hay doanh nghiệp đó
tăng lên.
1.4 DỊCH VỤ TTQT VÀ SỨC CẠNH TRANH CỦA DỊCH VỤ TTQT:
1.4.1 khái niệm dịch vụ thanh toán quốc tế
Nhu cầu của các quốc gia trong việc liên kết, hợp tác với nhau trong
các lĩnh vực kinh tế, giáo dục, văn hóa – xã hội, chính trị ngày càng sâu và
rộng, trong đó, quan hệ kinh tế thường được xem là mối quan hệ cơ sở dẫn
đến các mối quan hệ khác. Trước đây, quan hệ kinh tế quốc tế chủ yêu thể
hiện qua các hoạt động ngoại thương ( trao đổi, mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ) nhưng ngày nay hoạt động ngoại thương là chủ đạo thì các hoạt động

phi ngoại thương như trợ cấp, gửi tặng quà biếu, viện trợ nhân đạo… cũng
diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Hoạt động TTQT luôn song hành và phát triển
cùng các hoạt động kinh tế quốc tế, cùng với sự phát triển đa dạng và phức
tạp của quan hệ kinh tế quốc tế thì hoạt động TTQT cũng ngày càng nhanh
chóng, thuận tiện, hiện đại hơn. Hoạt động TTQT giúp cho sự lưu thoong của
các dòng tiền giữa các quốc gia diễn ra liên tục, thông suốt một cách dễ dàng.
Từ đó, hoạt động TTQT tác động trở lại thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế
quốc tế phát triển cả bề rộng và chiều sâu. Để hiểu rõ hơn về bản chất hoạt
động TTQT ta có khái niệm sau:
SV: Phạm Thị Hoa Lớp: QTKD quốc tế
50B
22
“ TTQT là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả và quyền hưởng lợi về
tiền tệ phát sinh trên cơ sở hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ
chức,cá nhân nước này với tổ chức, cá nhân nước khác, hay giữa một quốc
gia với tổ chức quốc tế, thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước
liên quan”
Theo định nghĩa ta có 2 loại TTQT sau:
- Thanh toán phi ngoại thương: là việc thực hiện thanh toán không liên quan
đến hàng hóa xuất nhập khẩu cũng như cung ứng lao vụ cho nước ngoài,
nghĩa là thanh toán cho các hoạt động không mang tính thương mại. Đó là
việc chi trả các chi phí của các cơ quan ngoại giao ở nước ngoài, các chi phí
của các đoàn khách nhà nước, tổ chức và cá nhân, các nguồn tiền quà biếu,
trợ cấp của cá nhân người nước ngoài cho các cá nhân trong nước, các
nguồn trợ cấp của một tổ chức từ thiện nước ngoài cho tổ chức, đoàn thể
trong nước…
- Thanh toán quốc tế trong ngoại thương: là việc thực hiện thanh toán trên cơ
sở hàng hóa xuất nhập khẩu và cung ứng các dịch vụ thương mại cho nước
ngoài theo giá cả thị trường quốc tế. Cơ sở để các bên tiến hành mua bán và
thanh toán cho nhau là hợp đồng ngoại thương.

Trong phạm vi nghiên cứu này, em tập trung vào TTQT trong hoạt
động ngoại thương gọi tắt là hoạt động TTQT.
Hoạt động TTQT gồm 4 phương thức thanh toán chủ yếu sau:
1. Nghiệp vụ chuyển tiền
2. Thanh toán nhờ thu ( D/A.D/P )
3. Thanh toán bằng thư tín dụng (L/C)
4. Phương thức ứng trước
1.4.2 Các phương thức TTQT và đặc điểm của chúng:
Trong kinh doanh ngày nay, thanh toán quốc tế đang ngày trở nên phổ
biến. Những phương thức thanh toán truyền thống như tiền mặt đã dần được
thay thế bằng những phương thức thanh toán hiện đại hơn, nhanh chóng hơn.
SV: Phạm Thị Hoa Lớp: QTKD quốc tế
50B
23

×