Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Vai trò của khoa học và công nghệ ở các nước đang phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.59 KB, 27 trang )

VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Thế giới đã và đang bước đi những bước đi đầu tiên của thế kỷ XXI. Thế kỷ
mà hứa hẹn biết bao những cơ hội nhưng cũng không ít những thách thức, khó
khăn cho nền kinh tế các quốc gia. Chính vì vậy, để tồn tại và phát triển trong môi
trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt, những yêu cầu về tăng năng suất lao động,
thường xuyên đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ, đổi
mới phương thức tổ chức quản lý,… đang đặt ra ngày càng gay gắt hơn. Đặc biệt,
trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, những yêu cầu đó lại càng trở nên cấp thiết
hơn.Đối với các nước đang phát triển nếu không chủ động chuẩn bị về nguồn nhân
lực, tăng cường cơ sở hạ tầng thông tin - viễn thông, điều chỉnh các quy định về
pháp lý, v.v thì nguy cơ tụt hậu ngày càng xa và thua thiệt trong quan hệ trao đổi
quốc tế là điều khó tránh khỏi.
Ngày nay khoa học và công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, hàng đầu. Sức mạnh của mỗi quốc gia tuỳ thuộc phần lớn vào năng lực
KH&CN, đặc biệt là đối với những nước đang phát triển thì vai trò của khoa học
công nghệ là nhân tố quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Điều này đòi
hỏi phải có chính sách khuyến khích và đầu tư đúng đắn cho khoa học công nghệ.
Chính vì những lý do trên, nhóm em xin lựa chọn đề tài “ Vai trò của khoa
học và công nghệ ở các nước đang phát triển” để làm rõ vai trò; thực trạng ứng
dụng và phát triển khoa học công nghệ ở các nước đang phát triển.Từ đó chỉ ra
những cơ hội và thách thức đồng thời tìm ra hướng đi mới cho các nước đang phát
triển.
Do kiến thức còn hạn hẹp nên bài viết còn có nhiều thiếu sót, kính mong cô
và các bạn đóng góp ý để bài viết hoàn thiện hơn.
SV THỰC HIỆN: NHÓM 1
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
PHẦN II: NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG
1. Lý luận về khoa học và công nghệ
1.1. Lý luận về khoa học


1.1.1 Khái niệm về khoa học
Khoa học được hiểu là tập hợp những hiểu biết về tự nhiên, xã hội và tư duy
được thể hiện bằng những phát minh dưới dạng các lý thuyết, định lý, định luật, và
nguyên tắc.
Như vậy thực chất của khoa học là sự khám phá các hiện tượng các thuộc
tính vốn tồn tại một cách khách quan . Sự khám phá này đã làm thay đổi nhận thức
của con người tạo điều kiện nghiên cứu, ứng dụng hiểu biết này vào thực tế.
1.1.2. Đặc điểm khoa học
Như ta đã nói khoa học là những phát minh của con người vì những phát
minh này không thể trực tiếp áp dụng vào sản xuất nên không có đảm bảo độc
quyền không phải là đối tượng để mua và bán .Các tri thức khoa học có thể được
phổ biến rộng rãi. Khoa học thường được phân loại theo khoa học tự nhiên và khoa
học xã hội .
Khoa hoc tự nhiên khám phá nhưng quy luật của tự nhiên xung quanh chúng
ta. Khoa học xã hội nghiên cứu cách sống cách hành động và ứng sử của con
người.
Vậy khoa học là kết quả nghiên cứu của quá trình hoạt động thực tiễn,
nhưng đến lượt mình nó lại có vai trò to lớn tác động mạnh mẽ trở lại hoạt động
SV THỰC HIỆN: NHÓM 1
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
sản xuất. Do đó con người hoàn toàn có khả năng đưa khoa học thành lực lượng
sản xuất trực tiếp
2.2. Lý luận về công nghệ
2.2.1. Khái niệm công nghệ
Có nhiều cách hiểu khác nhau về công nghệ tuỳ theo góc độ và mục đích
nghiên cứu. Nhưng một cách chung nhất công nghệ được hiểu như sau:
Công nghệ là các phương tiện , kỹ năng dùng để thực hiện quá trình sản xuất
nhằm biến đổi đầu vào và cho đầu ra là các sản phẩm dịch vụ. Ngày nay công nghệ
thường được coi là sự kết hợp giữa phần cứng và phần mềm. Phần cứng đó là trang
thiết bị máy móc. Phần mềm bao gồm thành phần kỹ năng kỹ xảo của con người,

thành phần thông tin, thành phần tổ chức quản lý.Bất kỳ quá trình sản xuất nào đều
phải đảm bảo bốn thành phần trên mỗi thành phần đảm nhiệm những chức năng
nhất định.
2.2.2. Đặc điểm công nghệ
Qua khái niệm về công nghệ ở trên ta thấy. Trước đây cách hiểu truyền
thống về công nghệ đồng nhất kỹ thuật với thiết bị không lưu ý với thực tế vận
hành, tay nghề của công nhân, năng lực tổ chức quản lý hoạt động sản xuất, do vậy
hiện nay thuật ngữ (công nghệ) thường được dùng thay cho thuật ngữ (kỹ thuật)
việc hiểu nội dung công nghệ như vậy đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong giai
đoạn hiện nay khi công nghệ thực sự trở thành nhân tố quyết định khả năng cạnh
tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước cũng như quốc tế.
1.3. Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ
Khoa học và công nghệ có nội dung khác nhau nhưng chúng lại có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Mối liên hệ chặt chẽ này thể hiện ở chỗ khi còn ở trình độ
SV THỰC HIỆN: NHÓM 1
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
thấp, khoa học tác động tới kĩ thuật và sản xuất còn rất yếu, nhưng đã phát triển
đến trình độ cao như ngày nay thì nó tác động mạnh mẽ và trực tiếp tới sản xuất.
Khoa học và công nghệ, là kết quả sự vận dụng những hiểu biết, tri thức khoa học
của con người để sáng tạo cải tiến các công cụ, phương tiệ phục vụ cho sản xuất và
các hoạt động khác
1.4. Đổi mới và chuyển giao công nghệ
Quá trình đổi mới khoa học công nghệ bao gồm nhiều mặt nhiều dạng hoạt
động nhưng tập trung chú ý vào đổi mới công nghệ, nhập công nghệ mới, nắm bắt
và đưa công nghệ mới vào sản xuất, cải tiến và sáng tạo ra công nghệ, công nghệ
mới bao gồm các thành phần chính. Thiết bị kĩ thuật phương pháp chế tạo sản
phẩm sự am hiểu công nghệ mới, tổ chức, quản lý công nghệ mới quá trình đổi mới
công nghệ được diễn ra rộng khắp, từ các doanh nghiệp, các công ty hợp tác xã các
ngành các địa phương.
Tóm lại có hai hướng đổi mới công nghệ: đó là đổi mới công nghệ sản phẩm

và đổi mới quy trình công nghệ sản xuất.
2. Lý luận về các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng ứng dụng khoa học công
nghệ
2.1. Nhân tố con người
Nhân tố con người là điều kiện quyết định trong sự nghiệp phát triển khoa
học công nghệ và áp dụng khoa học công nghệ vào nền kinh tế các nước đang phát
triển. Con người là chủ thể sáng tạo ra khoa học công nghệ. đến lượt khoa học
công nghệ lai trở thành phương tiện công cụ và đồng thời cũng là cơ sở để con
người vươn lên hoàn thiện mình về mọi mặt, đặc là mặt năng lực trí tuệ.
2.2. Giáo dục và đào tạo
SV THỰC HIỆN: NHÓM 1
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Giáo dục và đào tạo giữ một vai trò quan trọng trong việc áp dụng khoa học
công nghệ vào nền kinh tế. Trong thời buổi ngày nay, một phát minh sáng chế
khoa học công nghệ, hôm nay còn được xem là tân tiến, là hiện đại song có thể chỉ
qua vài năm, vài tháng thậm chí là vài tuần đã bị lạc hậu. Chính vì vậy để có thể
nắm bắt được kịp thời những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, đòi hỏi ở đội
ngũ những người nghiên cứu triển khai và ứng dụng khoa học công nghệ phải được
đào tạo một cách cơ bản và có hệ thống, và phải thường xuyên được đào tạo
chuyên sâu và đào tạo lại.
Mọi người đều hiểu rằng để có thể khai thác sử dụng có hiệu quả nguồn lực
con người, trước tiên phải tập trung đầu tư, phát triển vào giáo dục và đào tạo, con
người ,giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu, việc giáo dục đào tạo một cách cơ
bản và có hệ thống trong nhà trường là vô cùng quan trọng; việc giáo dục, đào tạo
chuyên sâu vào đào tạo lại trong quá trình hoạt động của con người lại càng quan
trọng hơn. kiếm thức mà con người thu nhận trong nhà trường là những tri thức rất
cơ bản, nhưng còn rất hạn chế. Hơn nữa trong thời đại ngày nay khoa học công
nghệ phát triển rất nhanh, tri thức khoa học công nghệ thường xuyên đổi mới, nếu
các nhà chuyên môn không được đào tạo lại, đào tạo bổ sung họ không tránh được
sự lạc hậu và dễ dàng bị đào thải.

2.3. Đội ngũ cán bộ khoa học và nguồn lao động có tay nghề cao
Đội ngũ cán bộ khoa học và nguồn lao động có tay nghề cao có một vai trò
quan trọng. Bởi họ chính là bởi vì họ là thành phần trực tiếp tham gia vào các quá
trình sản xuất, kinh doanh và nghiệp vụ trực tiếp vần hành điều khiển các trang
thiết bị máy móc hiện đại. Sự hiểu biết trình độ chuyên môn về ngành nghề của họ
có vai trò quyết định trực tiếp đến hiệu quả sử dụng của máy móc trang thiết bị kĩ
thuật cũng như năng xuất và chất lượng của sản phẩm.
SV THỰC HIỆN: NHÓM 1
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
2.4. Nguồn vốn cho sự phát triển khoa học và công nghệ
Bên cạnh nhân lực thì vốn là điều kiện quan trọng cho sự phát triển khoa học
công nghệ và áp dung khoa học công nghệ vào sản xuất. Việc đầu tư vốn vào nhập
khẩu chuyển giao công nghệ của các nước đang phát triển còn rất hạn chế do thiếu
vốn đầu tư. Do vậy song song với việc huy động các nguồn vốn, vấn đề sử dụng,
bảo toàn và phát triển vốn cũng có ý nghĩa cực kì quan trọng. Yêu cầu bảo toàn
vốn được thể hiện trước hết ở công tác tổ trức tài trính có nghĩa là phải lựa trọn các
phương án tối ưu trong tạo nguồn tài chính.
II. THỰC TRẠNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC
ĐANG PHÁT TRIỂN
Trước khi nghiên cứu thực trạng khoa học công nghệ ở các nước đang phát
triển chúng ta cần phải hiểu rõ khoa học công nghệ có vai trò như thế nào đối với
các quốc gia ấy.
1. Vai trò của khoa học công nghệ đối với các nước đang phát triển
1.1. Mở rộng khả năng sản xuất
Dưới tác động của khoa học và công nghệ, các nguồn lực sản xuất ở các
nước đang phát triển sẽ được mở rộng: Mở rộng khả năng phát hiện, khả năng khai
thác và khả năng sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Từ đó làm biến đổi
chất lượng nguồn lao động, mở rộng khả năng huy động, phân bổ sử dụng các
nguồn vốn đầu tư một cách hiệu quả. Khoa học công nghệ tạo điều kiện chuyển
phát triển kinh tế theo chiều rộng sang phát triển kinh tế theo chiều sâu. Nghĩa là

thực hiện tăng trưởng kinh tế dựa trên việc nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố
sản xuất chứ không phải dựa trên việc sử dụng thêm các yếu tố đầu vào của quá
trình sản xuất.
SV THỰC HIỆN: NHÓM 1
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Liên hệ ngay trong đất nước Việt Nam chúng ta. Trước 1986, một cơ chế
nền kinh tế quan liêu bao cấp, bế quan tỏa cảng, không cho giao lưu hội nhập với
các nền kinh tế bên ngoài. Một nền sản xuất tự cung tự cấp là chính. Vì thế khả
năng sản xuất bị bó hẹp, sản xuất thủ công, sản phẩm không có tính cạnh tranh.
Nền kinh tế tụt hậu, kém phát triển. Từ những năm 1986 trở đi, do nhận thức được
vai trò to lớn của hội nhập kinh tế, đất nước ta đã bước sang một trang sử mới. Mở
cửa giao lưu với các nền kinh tế khác. Từ đó, nước ta đã có cơ hội giao lưu, học
hỏi các nước, chuyển giao khoa học và công nghệ, dẫn đến khả năng sản xuất đã
được mở rộng. Sản xuất bắt đầu có sự chuyển biến từ thủ công sang máy móc.
Năng suất lao động tăng nhanh, sản phẩm phong phú, đảm bảo chất lượng. Là điều
kiện cho sự phát triển và tăng trưởng kinh tế.
1.2. Thúc đẩy quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Sự phát triển của khoa học và công nghệ ở các nước đang phát triển đã góp
phần phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc và đưa đến phân chia thành
nhiều các phân ngành nhỏ, xuất hiện nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế mới. Từ
đó làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Tăng tỷ trọng GDP của ngành
công nghiệp và dịch vụ, đồng thời giảm tỷ trọng GDP của ngành nông nghiệp.Cơ
cấu kinh tế trong nội bộ mỗi ngành cũng thay đổi theo xu hướng ngày càng mở
rộng quy mô sản xuất. Vai trò của lao động trí tuệ trong các ngành kinh tế ngày
càng được coi trọng.
Lấy ví dụ ngay trong ngành công nghiệp của Việt Nam khi có yếu tố khoa
học công nghệ cao tác động. Cơ cấu các ngành công nghiệp đã có chuyển dịch
đáng kể, hình thành một số sản phẩm mũi nhọn, một số khu công nghiệp, khu chế
xuất với nhiều cơ sở sản xuất có công nghệ khá hiện đại. Đến năm 2000, công
nghiệp khai thác chiếm khoảng 15% tổng giá trị sản xuất toàn ngành, trong đó

SV THỰC HIỆN: NHÓM 1
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
khai thác dầu khí chiếm 11,2%, công nghiệp chế tác chiếm 79%, trong đó công
nghiệp sản xuất thực phẩm chiếm khoảng 23,6% công nghiệp sản xuất và phân
phối điện, khí đốt, nước, chiếm khoảng 6% trong đó công nghiệp điện chiếm 5,4%.
1.3. Tăng sức cạnh tranh của hàng hóa và sự phát triển của thị trường
Mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận. Muốn vậy
phải sản xuất được các sản phẩm có nhu cầu lớn, tối thiểu hóa chi phí, nâng cao
chất lượng sản phẩm… Những yêu cầu đó chỉ được thực hiện khi áp dụng khoa
học công nghệ trong quá trình sản xuất. Ở các nước đang phát triển như Việt Nam
nhờ có sự ứng dụng của khoa hoc công nghệ đã làm cho các mặt hàng trở nên đa
dạng và phong phú hơn rất nhiều. Cùng một loại sản phẩm nhưng có rất nhiều các
mặt hàng khác nhau với mẫu mã khác nhau. Ví dụ như có rất nhiều các sản phẩm
về dầu gội đầu : DOVE, SUNSILk, CLEAR, PENTEN,…không kể đến những sản
phẩm nhập khẩu từ nước ngoài. Từ đó tạo ra sức cạnh tranh tương đối lớn không
chỉ thị trường trong nước mà còn trên cả thị trường quốc tế. Từ đó thúc đẩy các
doanh nghiệp đổi mới công nghệ, cải tiến mẫu mã nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của mình.
1.4. Thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế
Trước kia, khi khoa học và công nghệ chưa phát triển thì yếu tố quyết định
tăng trưởng và phát triển kinh tế đó chính là : Vốn, đất đai, lao động. Cho đến ngày
nay, tăng trưởng và phát triển kinh tế lại phụ thuộc chủ yếu vào việc triển khai ứng
dụng tiến bộ khoa học công nghệ.
2. Những thành tựu đạt được của việc ứng dụng khoa học công nghệ ở các
nước đang phát triển
2.1.Tiềm lực khoa học và công nghệ đã được tăng cường và phát triển.
SV THỰC HIỆN: NHÓM 1
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Năng lực công nghệ ở các nước đang phát triển hoàn toàn không giống
nhau, một trong những dấu hiệu quan trọng chỉ ra điều đó là số lượng các bằng

sáng chế.Một phân tích đơn giản thông qua số bằng sáng chế được cấp tại Mỹ cho
thấy, tỉ lệ bằng sáng chế ở các nước đang phát triển đang tăng lên.Qua đây, có thể
thấy rằng, tiềm năng sản sinh công nghệ mới ở các nước đang phát triển đang tăng
lên(năm 2001:773,2002:950,2003:1077 bằng sáng chế).
Theo đó,với 11 quốc gia đang phát triển và vùng lãnh thổ đã có những nổ
lực đáng kể để có những đổi mới công nghệ có thể cấp bằng sáng chế: Argentina,
Barazil và Mexico ở Mỹ latinh, Nam Phi của lục địa đen, Ấn Độ, Trung Quốc, đặc
khu Hồng Koong, Singapore, Malaysia, lãnh thổ đài loan và Hàn quốc ở Châu Á.
Với 11 quốc gia và vùng lãnh thổ trên có thể chia ra làm 3 nhóm: Nhóm dẫn đầu là
những con hổ Châu Á- Hàn quốc và lãnh thổ Đài Loan. Nhóm thứ 2 gồm:
Singapore và đặc khu Hồng Koong. Nhóm cuối cùng là 7 Quốc Gia còn lại: Trung
Quốc, Ấn Độ, Malaysia, Brazil, Nam Phi, Argentina, Mexico. Mặc dù tổng số các
bằng sáng chế còn nhỏ song con số bằng sáng chế thuộc các nước trong 3 nhóm
trên đang tăng nhanh chóng, và những nước này đang dần trở thành những Quốc
Gia sáng tạo công nghệ mới đầy tiềm năng.
2.2. Khoa học và công nghệ đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội.
Khoa học và công nghệ đã góp phần quan trọng trong việc tiếp thu, làm chủ,
thích nghi và khai thác có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài. Nhờ đó,
trình độ công nghệ trong một số ngành sản xuất, dịch vụ đã được nâng lên đáng kể,
nhiều sản phẩm hàng hoá có sức cạnh tranh cao hơn.
Các chương trình nghiên cứu trọng điểm về công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học, công nghệ vật liệu, tự động hoá, công nghệ cơ khí - chế tạo máy, đã góp
SV THỰC HIỆN: NHÓM 1
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
phần nâng cao năng lực nội sinh trong một số lĩnh vực công nghệ tiên tiến, nâng
cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của nhiều ngành kinh tế.
Hàng nghìn các kết quả nghiên cứu khoa học được ứng dụng rộng rãi, đã và
đang trở thành đòn bẩy thúc đẩy các nước phát triển kinh tế xã hội.Tỉ trọng các
ngành dịch vụ dựa trên công nghệ cao trong nền kinh tế ngày càng tăng. Khoa học
công nghệ tham gia ngày càng trực tiếp vào quá trình sản xuất, tạo điều kiện mở

rộng thị trường toàn thế giới. Khoa học công nghệ đã áp dụng tạo ra nhiều thành
công trong nhiều lĩnh vực.
Ở Việt Nam, trong nông nghiệp, khoa học công nghệ đóng vai trò lớn về lai
tạo, nhân giống cây trồng mới, tăng năng suất cây trồng, thay thế giống nhập
ngoại. Đến nay, hơn 170 giống lúa được công nhận, trong đó có nhiều giống lúa lai
tốt như VL20, TH3-3, TH304, HY83, HYT92, HYT100. Chỉ riêng Viện lúa Đồng
Bằng Sông Cửu Long đã chọn tạo và đưa vào sản xuất 114 giống lúa, trong đó 45
giống được công nhận chính thức. Gần 90% diện tích đất được trồng bằng các
giống lúa cải tiến. Năng suất lúa bình quân năm 2007 đạt 49,5 tạ/ha, gấp 2,4 lần
năm 1980 và năm 2010 đạt trên 52,3 tạ/ha, đưa Việt Nam từ chỗ thiếu lương thực
triền miên đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới. Ngoài ra, viện
còn xây dựng được 11 quy trình kỹ thuật được công nhận ở Cấp Quốc Gia, trong
đó có 5 quy trình kỹ thuật canh tác lúa, 2 quy trình kỹ thuật canh tác cây trồng cạn
luân canh với lúa và 4 quy trình phòng trừ sâu bệnh hại cây trồng. Việc ứng dụng
công nghệ mới giúp chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, tăng giá trị
sản xuất, đưa nước ta vào nhóm các nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về gạo, cà
phê, hạt tiêu, điều, cao su… Với thủy sản, đóng góp lớn nhất của khoa học và công
nghệ là sản xuât giống, công nghệ nuôi trồng, chế biến giúp tăng sản lượng và giá
trị xuất khẩu thủy sản. Ngoài ra, về lĩnh vực y học, năng lựơng nguyên tử, công
nghệ thông tin… cũng có nhiều thành tựu đáng kể.
SV THỰC HIỆN: NHÓM 1
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Kết quả phân tích của Ngân hàng Thế giới cho thấy tiến bộ khoa học công
nghệ đã đóng góp hơn 30% vào tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển.
Như ở Việt Nam: Theo tài liệu của TS Cù Chí Lợi, Viện Kinh tế Việt Nam (Viện
Khoa học - Xã hội Việt Nam): Ở nước ta, trong thời kỳ 1998-2002, tỉ trọng đóng
góp của yếu tố KH&CN vào tăng trưởng GDP đã chiếm hơn 23%, kéo mức thu
nhập bình quân đầu người từ vài trăm USD đạt ngưỡng 1.000USD.s
2.3. Cơ chế quản lý khoa học công nghệ từng bước được đổi mới.
Hệ thống quản lý nhà nước về khoa học công nghệ được tổ chức từ Trung

ương đến địa phương đã đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ góp phần thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của ngành và địa phương.
Thực hiện Luật Khoa học và công nghệ, các chương trình, đề tài, dự án khoa
hoc công nghệ đã bám sát hơn nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Cơ chế tuyển
chọn tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ khoa học công nghệ đã bước đầu được thực
hiện theo nguyên tắc dân chủ, công khai.
Hoạt động của các tổ chức khoa học công nghệ đã mở rộng từ nghiên cứu -
phát triển đến sản xuất và dịch vụ khoa học công nghệ. Quyền tự chủ của các tổ
chức, cá nhân trong hoạt động khoa học công nghệ bước đầu được tăng cường.
Quyền tự chủ về hợp tác quốc tế của tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học công
nghệ được mở rộng.
Vốn huy động cho khoa học công nghệ từ các nguồn hợp đồng với khu vực
sản xuất - kinh doanh, tín dụng ngân hàng, tài trợ quốc tế và các nguồn khác, tăng
đáng kể nhờ chính sách đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư cho khoa học công nghệ
việc cấp phát kinh phí đến nhà khoa học theo hướng giảm bớt các khâu trung
gian .Việc phân công, phân cấp trong quản lý nhà nước về khoa học công nghệ
SV THỰC HIỆN: NHÓM 1
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
hiện thông qua các quy định về chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của các bộ, cơ
quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
2.4. Trình độ nhận thức và ứng dụng khoa học và công nghệ của nhân dân
ngày càng được nâng cao.
Đối với các nước đang phát triển, khoa học công nghệ được ứng dụng ở hầu
hết nhiều lĩnh vực khác nhau trong hoạt động kinh tế. Có thể nói, ứng dụng khoa
học công nghệ đóng vai trò rất lớn trong hoạt động sản xuất. Người dân đã dần
nhận thức được vai trò to lớn ấy.
Ở Việt Nam, Nhờ có sự quan tâm của tổ chức Đảng, chính quyền các cấp,
hoạt động tích cực của các tổ chức khoa học công nghệ tổ chức khuyến nông, lâm,
ngư và công tác phổ biến, tuyên truyền rộng rãi về tác động của khoa học công
nghệ đến sản xuất và đời sống, nhận thức và khả năng tiếp của người dân trong

thời gian qua đã tăng lên rõ rệt. Hoạt động khoa học công nghệ ngày càng được xã
hội hoá trên phạm vi cả nước. Tại liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
phối hợp UBND tỉnh Quảng Ninh tổ chức trong 2 ngày 12 và 13 tại Quảng Ninh,
Giáo sư Đặng Vũ Minh, Ủy viên TW Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban khoa học công
nghệ và môi trường Quốc Hội, chủ tịch Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật
Việt Nam, Tiến sỹ Lê Đình Tiến, Thứ Trưởng Bộ khoa học và công nghệ đã nêu
bật vai trò của ứng dụng khoa học công nghệ vào cuộc sống và vai trò của khoa
học công nghệ với sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.
3. Những tồn tại hạn và chế về việc ứng dụng khoa học và công nghệ ở các
nước đang phát triển và
SV THỰC HIỆN: NHÓM 1
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng nhìn chung khoa học
và công nghệ ở các nước đang phát triển vẫn còn nhiều mặt yếu kém,nói chung
còn có khoảng cách khá xa so với các nước phát triển trên thế giới. Khoa học công
nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu là nền tảng và động lực phát triển kinh tế - xã
hội.
3.1. Năng lực khoa học công nghệ của các nước đang phát triển còn yếu kém (
năng lực về vốn, về nhân lực,…)
Đầu tư của Nhà nước cho lĩnh vực khoa học công nghệ còn rất thấp. Trang
thiết bị của các cơ sở nghiên cứu khoa học nhìn chung còn rất thiếu, không đồng
bộ, lạc hậu so với các nước tiên tiến.
Ở Việt Nam, 1985 đến nay, mức đầu tư tài chính từ ngân sách nhà nước
dành cho hoạt động nghiên cứu và triển khai chiếm từ 0,2% đến 0,82% thu nhập
quốc dân. Trong 10 năm đổi mới, nước ta đạt được những thành tựu kinh tế đáng
mừng, tổng kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ được nâng dần lên, nhưng
do giá cả hàng hoá tăng cho nên giá trị thực tế của vốn đầu tư không ngừng, theo
số liệu của bộ KHCN và môi trường thì đầu tư tài chính cho KHCN chưa vượt quá
1% ngân sách tiêu dùng hàng năm. Chi phí bình quân hàng năm cho một cán bộ
KHCN từ ngân sách nhà nước khoảng 1000 USD rất thấp so với mức bình quân

của thế giới là 55.324USD
Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực
khoa học và công nghệ chất lượng cao, đặc biệt đối với những lĩnh vực khoa học
và công nghệ tiên tiến.
Đội ngũ cán bộ còn thiếu cán bộ đầu đàn giỏi, đặc biệt là cán bộ trẻ kế cận
có trình độ cao. Cơ cấu nhân lực khoa học và công nghệ còn nhiều bất hợp lý.
Hệ thống dịch vụ khoa học và công nghệ, bao gồm thông tin khoa học và
công nghệ, tư vấn chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn - đo lường -
SV THỰC HIỆN: NHÓM 1
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
chất lượng còn yếu kém cả về cơ sở vật chất và năng lực cung cấp dịch vụ đáp ứng
các yêu cầu của hội nhập quốc tế.
Thiếu sự liên kết hữu cơ giữa nghiên cứu khoa học và công nghệ, giáo dục -
đào tạo và sản xuất - kinh doanh; thiếu sự hợp tác chặt chẽ giữa các tổ chức nghiên
cứu – phát triển, các trường đại học và doanh nghiệp.
3.2.Trình độ công nghệ còn thấp và lạc hậu
Thực tế hiện nay, khoảng cách về trình độ công nghệ ở các nước đang phát
triển và các nước phát triển là một khá xa. Điều này đã làm giảm khả năng cạnh
tranh của các nước đang phát triển không chỉ về khoa học và công nghệ mà còn tất
cả các lĩnh vực khác.
Như ở Việt Nam, theo tiêu chuẩn quy định về xếp loại ngành công nghệ cao,
công nghệ trung bình, công nghệ thấp của UNIDO, tổng cục thống kê đã tính tỷ
trọng hiện tại. Những ngành công nghệ cao của công nghiệp nước ta chỉ chiếm
15,7% trong tổng công nghiệp chế biến; các ngành công nghệ trung bình chiếm
31,5%; các ngành công nghệ thấp chiếm 32,8%. Nếu tính giá trị tăng thêm thì tỷ
trọng ngành công nghệ cao của nước ta còn thấp hơn nhiều vì phần lớn những
ngành công nghệ cao của nước ta là sản xuất lắp ráp.
Trình độ kỹ thuật công nghệ của phần lớn doanh nghiệp công nghiệp lạc
hậu. Thống kê sơ bộ cho thấy có tới 78% doanh nghiệp có mức vốn dưới 10 tỷ
đồng, chỉ có 17% doanh nghiệp có từ 200 tỷ đồng trở lên, chứng tỏ năng lực sản

xuất, kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp còn yếu, thiếu vốn để đầu tư công
nghệ mới, chỉ tiêu trang bị tài sản cố địnhcho 1 lao động ngành công nghiệp thấp,
khu vực có vốn ĐTNN bình quân mới chỉ đạt 191,6 triệu đồng gấp 1,4 lần DNNN
và gấp 5,2 lần doanh nghiệp ngoài quốc doanh; các cơ sở kinh tế cá thể chỉ đạt
8,6% triệu đồng; Hệ số đổi mới tài sản cố định trong công nghiệp trong những năm
gần đây tuy đã tăng lên song còn thấp, mới đạt khoảng 19% so với yêu cầu của
mục tiêu phải đạt là 24-25
SV THỰC HIỆN: NHÓM 1
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
3.3. Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ chậm còn lạc hậu, kém tiên tiến
Quản lý hoạt động khoa học và công nghệ còn tập trung chủ yếu vào các
yếu tố đầu vào, chưa chú trọng đúng mức đến quản lý chất lượng sản phẩm đầu ra
và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. Các nhiệm vụ khoa học và công
nghệ chưa thực sự gắn kết chặt chẽ với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Công
tác đánh giá nghiệm thu kết quả nghiên cứu chưa tương hợp với chuẩn mực quốc
tế.
Cơ chế quản lý các tổ chức khoa học và công nghệ không phù hợp với đặc
thù của lao động sáng tạo. Các tổ chức khoa học và công nghệ chưa có được đầy
đủ quyền tự chủ về kế hoạch, tài chính, nhân lực và hợp tác quốc tế để phát huy
tính năng động sang tạo.
Việc quản lý cán bộ khoa học và công nghệ theo chế độ công chức không
phù hợp với hoạt động khoa học và công nghệ, làm hạn chế khả năng lưu chuyển
và đổi mới cán bộ. Thiếu cơ chế đảm bảo để cán bộ khoa học và công nghệ được
tự do chính kiến, phát huy khả năng sáng tạo, tự chịu trách nhiệm trong khuôn khổ
pháp luật. Chưa có những chính sách hữu hiệu tạo động lực đối với cán bộ khoa
học và công nghệ và chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, chế độ tiền lương còn
nhiều bất hợp lý, không khuyến khích các cán bộ khoa học toàn tâm toàn ý với sự
nghiệp khoa học và công nghệ của mình.
Cơ chế quản lý tài chính trong hoạt động khoa học và công nghệ chưa tạo
thuận lợi cho nhà khoa học, chưa huy động được nhiều nguồn vốn ngoài ngân sách

nhà nước; cơ chế tự chủ về tài chính của các tổ chức khoa học và công nghệ chưa
đi liền với tự chủ về quản lý nhân lực nên hiệu quả còn hạn chế.
3.4. Thị trường khoa học và công nghệ chậm phát triển
SV THỰC HIỆN: NHÓM 1
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Thị trường khoa học và công nghệ được hiểu là tổng hòa các mối quan hệ
mua bán, trao đổi, môi giới, giám định, khiếu kiện giữa các bên giao dịch. Hay nói
cách khác thị trường khoa học công nghệ là phương thức thương mại hóa các
thành quả khoa học và công nghệ, thúc đẩy gắn kết khoa học và công nghệ với sản
xuất.
Thực tế ở các nước đang phát triển hoạt động mua, bán công nghệ và lưu
thông kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ còn bị hạn chế do thiếu các tổ chức
trung gian, môi giới, các quy định pháp lý cần thiết, đặc biệt là hệ thống bảo hộ
hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ .
4. Các nguyên nhân dẫn đến hệ quả trên
Có rất nhiều nguyên nhân đan xen, tác động qua lại với nhau tuy nhiên có
thể nêu nên một số nguyên nhân nổi bật như sau:
4.1. Về nguồn vốn đầu tư cho khoa học:
Đầu tư cho khoa học công nghệ, áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất
tuy có tăng nhưng chưa đủ độ và chưa đúng mức để tạo bước đột phá trong lĩnh
vực khoa học và công nghệ. Mức đầu tư cho khoa học và công nghệ còn rất thấp.
Đầu tư dàn trải không đúng địa chỉ, mang tính chất phân phối, gây lãng phí vốn và
không hiệu quả chưa có cơ chế thích ứng để thu hút đầu tư khoa học công nghệ
ngoài ngân sách nhà nước.
Thế giới đã tổng kết và đi đến kết luận: “Đầu tư cho khoa học là đầu tư
thông minh”. Các nước phát triển đầu tư cho KH&CN vào khoảng từ 2 - 2,5% (cao
nhất là 4-5%) tổng sản phẩm quốc dân. Nghị quyết của Bộ chính trị về chính sách
KH&CN đã chỉ ra rất đúng đắn rằng: “ trong điều kiện kinh tế càng khó khăn,
trình độ sản xuất càng thấp kém, thì càng phải chú trọng đầu tư cho các hoạt động
khoa học kỹ thuật cho công tác đào tạo cán bộ khoa học và kỹ thuật, công nhân kỹ

thuật” và “cần nâng cao tỷ lệ đầu tư tài chính cho hoạt động nghiên cứu và triển
khai ”. Gần đây, Chi phí bình quân cho một cán bộ KH&CN/năm: Việt Nam <
SV THỰC HIỆN: NHÓM 1
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
1000 USD, Nhật 194000 USD, Thái Lan 18000 USD. Do vậy, một mặt, cần tiếp
tục tăng đầu tư cho các ngành KHCB, mặt khác, cần sử dụng có trọng điểm, có
hiệu quả vốn đầu tư của Nhà nước.
4.2. Về đội ngũ nhân lực
Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ còn yếu, còn có sự mất cân đối lên
giữa các ngành, các lĩnh vực, giữa các vùng và độ tuổi. Năng lực đội ngũ cán bộ,
khoa học và công nghệ còn non yếu, nhất là năng lực triển khai, chuyển giao và cải
tiến khoa học nhằm tạo ra công nghệ mới.
Mặt bằng dân trí, lực lượng lao động trí tuệ còn thấp.
Thu nhập chủ yếu của các cán bộ khoa học là lương, còn thấp, mới chỉ đáp
ứng được 1/3 nhu cầu. Nhiều nhà khoa học , trong đó có một số người có tên tuổi,
đã buộc phải rời bỏ công việc nghiên cứu của mình để đi kiếm sống. Chất xám ở
nước ta đang bị lãng phí rất nghiêm trọng. Hình ảnh này của nghề nghiên cứu khoa
học không thể tạo nên chút hấp dẫn nào đối với thanh niên trong việc lựa chọn
nghề nghiệp.
4.3. Thị trường khoa học công nghệ, chuyển giao công nghệ thiết bị máy móc
vào sản xuất kém phát triển
Các hoạt động khoa học và công nghệ vẫn chưa thoát khỏi tình trạng quản lý
tập trung, bao cấp. Mối liên hệ giữa doanh nghiệp khoa học công nghệ trường đại
học - cao đẳng còn rất lỏng lẻo. Vai trò của khu vực tư nhân trong việc thúc đẩy thị
trường khoa học và cong nghệ rất mờ nhạt.
Trong quan điểm và tư tưởng chỉ đạo chưa cả trọng dụng mức vai trò của
các trường đại học, cao đẳng trong nghiên cứu cơ bản ứng dụng và chuyển giao.
Vốn đầu tư cho các trường đại học, cao đẳng rất thấp, cơ sở vật chất trang thiết bị
phục vụ nghiên cứu khoa học - công nghệ nghèo nàn lạc hâu.
Thành tựu khoa học và công nghệ chưa được áp dụng rộng rãi nên chưa tạo

chuyển biến rõ nét về năng suất, chất lượng, hiệu quả trong sản xuất kinh doanh và
dịch vụ, chưa tạo được những ngành nghề mới xuất phát từ kết quả của hoạt động
SV THỰC HIỆN: NHÓM 1
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
khoa học công nghệ. Trong các ngành công nghiệp, hệ thống máy móc thiết bị hiện
đại lạc hậu so với thế giới và hình thành từ nhiều nguồn chắp vá. Mẫu mã hàng hoá
đơn điệu, chất lượng sản phẩm thấp, khả năng cạnh tranh xuất khẩu kém. Quy mô
dự án còn nhỏ chưa tương xứng với tầm nhiệm vụ cấp nhà nước phần lớn chỉ dừng
ở quy mô ngành, địa phương, hoặc cấp cơ sở, ít có tác dụng thúc đẩy sản xuất công
nghiệp lớn.
III. Cơ hội và thách thức của việc ứng dụng khoa học công nghệ ở các nước
đang phát triển
1. Cơ hội
Sự khởi đầu của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã đưa con người
vào một kỷ nguyên mới, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã tạo điều
kiện tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lực xã hội, cho phép chi phối
các phương tiện sản xuất để cùng tạo ra một khối lượng hàng hóa tiêu dùng. Kết
quả là kéo theo sự thay đổi của nền sản xuất xã hội, làm thay đổi tận gốc lực lượng
sản xuất mà khoa học công nghệ là yếu tố hàng đầu.
Đối với các nước đang phát triển, muốn đẩy nhanh tiến trình đổi mới đất
nước thì điều tất yếu là phải thực hiện 2 quá trình: vừa thực hiện công nghiệp hóa-
hiện đại hóa vừa xây dựng và phát triển khoa học công nghệ.Khoa học công nghệ
chính là chìa khóa thần kì để đưa đất nước thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, với đường lối đa phương hoá, đa dạng
hoá quan hệ quốc tế, các nước đang phát triển sẽ có cơ hội thuận lợi để tiếp thu tri
thức khoa học, công nghệ, các nguồn lực và kinh nghiệm tổ chức quản lý tiên tiến
của nước ngoài để nhanh chóng tăng cường năng lực KH&CN quốc gia, đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Hiện nay, hầu hết nền kinh tế các nước đang phát triển có tốc độ tăng
trưởng cao, liên tục là cơ hội thuận lợi để tăng đầu tư cho phát triển khoa học và

SV THỰC HIỆN: NHÓM 1
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
công nghệ, đồng thời thúc đẩy đổi mới công nghệ và ứng dụng thành tựu khoa học
công nghệ trong nền kinh tế, nhất là trước sức ép về cạnh tranh trong điều kiện hội
nhập khu vực và quốc tế.
Ở Việt Nam, Vào thời kì trước đây, nền kinh tế đi theo cơ chế tập trung,
quan liêu bao cấp, do đó nền kinh tế hàng hóa không có điều kiên để phát triển,
không có sự cạnh tranh trong nội bộ ngành cũng như nội bộ ngành với nhau nên
không cần những thành tựu mới trong khoa học. Vì vậy động lực quan trọng và cần
thiết để thúc đẩy sự phát triển của khoa học công nghệ gần như không có, hậu quả
là khoa học công nghệ không hài hòa được với nhau…Sau một thời gian dài đổi
mới cùng với chuyển từ kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì khoa học
công nghệ bắt đầu có động lực mạnh mẽ để phát triển. Hơn nữa, Đảng và Nhà
nước luôn coi trọng sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ, Đại hội IX của
Đảng tiếp tục khẳng định phát triển khoa học công nghệ cùng với phát triển giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực cho công nghiệp
hóa- hiệ đại hóa đất nước. Tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ hiện đại, nước ta có thể đi thẳng vào những công nghệ hiện đại để
rút ngắn quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa và khoảng cách phát triển kinh tế
so với các nước đi trước. Với tiềm năng trí tuệ dồi dào, nếu có một chiến lược phát
triển nguồn nhân lực đúng đắn, nước ta có thể sớm đi vào một số lĩnh vực của kinh
tế tri thức.
2. Thách thức
Đối với nhóm nước đang phát triển, mỗi quốc gia có trình độ, nhận thức và
khả năng nắm bắt thời cơ, nhạy bén thay đổi trước sự phát triển của xã hội là khác
nhau. Do đó, trong bối cảnh phát triển năng động và khó dự báo cả về khoa học
công nghệ và kinh tế của thế giới hiện đại, khả năng nắm bắt thời cơ và tranh thủ
các nguồn lực bên ngoài tuỳ thuộc nhiều vào trình độ và năng lực KH&CN của
SV THỰC HIỆN: NHÓM 1
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

quốc gia. Thách thức lớn nhất đối với sự phát triển khoa học công nghệ của các
nước phát triển hiện nay là phải nâng cao nhanh chóng năng lực khoa học công
nghệ để thực hiện quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa rút ngắn.
Trong xu thế phát triển của kinh tế tri thức, lợi thế về nguồn tài nguyên thiên
nhiên, giá lao động rẻ dần nhường chỗ cho lợi thế về nguồn nhân lực có trình độ
chuyên môn giỏi, có năng lực sáng tạo. Các nước đang phát triển phải nhanh chóng
thực hiện chiến dịch chuyển đổi cơ cấu, ngành nghề đồng thời phải đưa ra các
chính sách đúng đắn để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của lực lượng
lao động thì khi đó sẽ có cơ hội cạnh tranh với các nước trong khu vực về thu hút
đầu tư và các công nghệ tiên tiến từ bên ngoài.
Trong quá trình hội nhập quốc tế về kinh tế và khoa học công nghệ,các nước
đang phát triển có những khó khăn về chuyển đổi và xây dựng những thể chế mới
về kinh tế, thương mại, tài chính, ngân hàng, sở hữu trí tuệ, v.v phù hợp với
thông lệ quốc tế. Tình trạng này nếu không sớm vượt qua sẽ cản trở sự thành công
của quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Trước những cơ hội và thách thức trên đây, nếu không có những quyết sách
đột phá về đổi mới thể chế kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý khoa học- công nghệ
để cường năng lực khoa học công nghệ thì nguy cơ tụt hậu kinh tế và KH&CN
ngày càng xa và tình trạng lệ thuộc lâu dài vào nguồn công nghệ nhập là khó tránh
khỏi.
IV. CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ Ở CÁC
NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN VÀ LIÊN HỆ THỰC TẾ VIỆT NAM
1. Các giải pháp
Để thực hiện được mục tiêu chiến lược phát triển khoa học và công nghệ,
đưa khoa học và công nghệ thực sự trở thành nền tảng và động lực cho quá trình
SV THỰC HIỆN: NHÓM 1
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, trong giai đoạn tới các nước đang phát
triển cần tập trung thực hiện các giải pháp cơ bản sau:
1.1.Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế và hoàn thiện hệ thống pháp luật

Thực hiện tốt giải pháp ấy sẽ giúp cho khoa học và công nghệ trở thành lực
lượng sản xuất hàng đầu trong phát triển kinh tế xã hội. Tạo môi trường cạnh
tranh bình đẳng có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho đổi mới công
nghệ, ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất, quan tâm tới hiệu quả khi lựa
chọn công nghệ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho mọi nỗ lực của các doanh nghiệp,
trường đại học, viện nghiên cứu và các cá nhân tiếp cận, vận dụng, nghiên cứu và
phát triển khoa học và công nghệ theo mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất
nước .
1.2. Đổi mới quản lý khoa học và công nghệ là ưu tiên phát triển công nghệ cao
Đây là một giải pháp có ý nghĩa đột phá. Trong giai đoạn tới, các nước đang
phát triển cần chuyển đổi căn bản cơ chế quản lý khoa học và công nghệ hiện nay
còn nặng về hành chính, bao cấp sang cơ chế mới dựa trên nguyên tắc hướng dẫn,
phân cấp, hướng tới thị trường và phù hợp với đặc thù của hoạt động khoa học
và công nghệ; nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân
hoạt động khoa học và công nghệ. Đặc biệt chú trọng chính sách đối với cán bộ
khoa học và công nghệ trong đào tạo, tuyển dụng, đãi ngộ nhằm tạo động lực thu
hút và khuyến khích nhân tài cống hiến cho sự nghiệp khoa học và công nghệ.
Đồng thời cần sắp xếp lại các tổ chức khoa học và công nghệ phù hợp với từng
loại hình hoạt động và định hướng ưu tiên về phát triển khoa học và công nghệ.
1.3. Xây dựng và phát triển thị trường khoa học và công nghệ
SV THỰC HIỆN: NHÓM 1
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Trước hết cần xây dựng năng lực đổi mới công nghệ và tạo nhu cầu mạnh
mẽ từ phía các doanh nghiệp thông qua việc tăng cường hỗ trợ của nhà nước
nhằm nâng cao năng lực đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Nâng cao chất
lượng sản phẩm khoa học và công nghệ đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống
như : dành tỷ lệ thích đáng kinh phí khoa học và công nghệ của nhà nước cho
việc hỗ trợ, hoàn thiện sản phẩm nghiên cứu có khả năng thương mại hoá,
hoàn thiện quy trình, quy phạm giám định về độ tin cậy, chất lượng, an toàn và giá
cả của công nghệ trước chuyển giao. Phát triển các dịch vụ môi giới về thị trường

khoa học và công nghệ, kể cả nước ngoài. Phát triển các tổ chức tư vấn khoa học
và công nghệ, dịch vụ môi giới về công nghệ, cung cấp thông tin thị trường khoa
học và công nghệ. Xây dựng các chợ công nghệ ( techmart ) làm cầu nối giữa cung
và cầu của công nghệ. Hoàn thiện môi trường pháp lý cho phát triển thị trường
khoa học và công nghệ, đặc biệt là các văn bản pháp luật về bảo vệ sở hữu trí tuệ.
1.4. Phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ, tập trung đầu tư xây dựng các
lĩnh vực khoa học và công nghệ trọng điểm quốc gia
Có như vậy mới nhanh chóng rút ngắn khoảng cách với khu vực và quốc tế,
phục vụ có hiệu quả cho mục tiêu kinh tế xã hội trong giai đoạn tới. Thực hiện xã
hội hoá đầu tư cho khoa học và công nghệ. Một mặt tăng cường đầu tư ngân sách
nhà nước để xây dựng hạ tầng cơ sở vật chất kỷ thuật và các nguồn lực cho các
hướng khoa học và công nghệ ưu tiên trọng điểm quốc gia. Mặt khác xoá bỏ bao
cấp tràn lan, tạo môi trường thuận lợi để huy động nguồn lực xã hội nhằm gắn kết
khoa học và công nghệ đời sống với sản xuất.
1.5. Tạo vốn cho hoạt động khoa học và công nghệ
Vốn là nguồn lực để phát triển khoa học và công nghệ. Nếu không có hoặc
thiếu vốn thì đều không có đủ điều kiện để thực hiện các mục tiêu khoa học và
SV THỰC HIỆN: NHÓM 1
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
công nghệ. Kinh nghiệm ở các nước cho thấy vấn đề phát triển khoa học và
công nghệ thường được huy động từ hai phía nhà nước và khu vực doanh nghiệp,
trong đó phần nhiều là từ các nhà doanh nghiệp. Các quốc gia đang phát triển cần
ra các chính sách đầu tư khuyến khích hỗ trợ phát triển khoa học và công nghệ,
theo đó một phần vốn ở các doanh nghiệp được dành cho nghiên cứu, đổi mới
công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực. Một phần vốn từ các chương trình kinh tế -
xã hội và dự án được dành để đầu tư cho khoa học và công nghệ nhằm đẩy mạnh
việc nghiên cứu, triển khai và đảm bảo hiệu quả của dự án. Tăng dần tỷ lệ chi ngân
sách nhà nước hàng năm cho khoa học và công nghệ. Ví dụ như Việt Nam đạt
không dưới 2% tổng chi ngân sách nhà nước
1.6. Mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ

Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, hợp tác quốc tế về khoa
học và công nghệ có vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt là đối với các nước đang
phát triển. Định hướng giải pháp về hợp tác khoa học và công nghệ trong những
năm tới là tạo ra cơ chế, chính sách thuận lợi để các tổ chức, cá nhân hoạt động
khoa học và công nghệ được học tập, đào tạo, giao lưu, hợp tác nghiên cứu với
thế giới và khu vực.
2. LIÊN HỆ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ CỦA
VIỆT NAM
Tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta phải
phát huy cao độ tinh thần cách mạng tiến công, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi
mới phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, đưa đất nước tiến nhanh và
vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Không làm được như vậy sẽ tụt hậu
xa hơn về trình độ phát triển kinh tế so với các nước xung quanh, ảnh hưởng trực
tiếp tới niềm tin của nhân dân, sự ổn định chính trị, xã hội và an ninh quốc gia.
SV THỰC HIỆN: NHÓM 1
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Việt Nam coi khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then
chốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là “ lực lượng sản xuất hàng
đầu’’ trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, phát triển nhanh, bền vững
đất nước. Nghị quyết hội nghị lần thứ hai, ban chấp hành TW khoá VIII của Đảng
cộng sản Việt Nam ngày 24 -12 - 1996 đã vạch ra định hướng chung của chiến
lược phát triển khoa học - công nghệ đến năm 2020 là :
Vận dụng sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa Mác- LêNin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, kế thừa những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí
tuệ của nhân loại, đi sâu điều tra, nghiên cứu thực tế, tổng kết sâu sắc quá trình đổi
mới đất nước. Xây dựng, không ngừng phát triển và hoàn thiện hệ thống lý luận về
con đường đi lên CNXH của Việt Nam, cung cấp luận cứ khoa học cho việc tiếp
tục bổ sung, hoàn thiện đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc tổ quốc XHCN.
Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ trong

tất cả các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý và quốc phòng an ninh,
nhanh chóng nâng cao trình độ công nghệ của đất nước. Coi trọng nghiên cứu cơ
bản, làm chủ và cải tiến các công nghệ nhập từ bên ngoài tiến tới sáng tạo ngày
càng nhiều công nghệ mới ở những khâu quyết định đối với sự phát triển của đất
nước trong thế kỷ XXI.
Nâng cao năng lực nội sinh, xây dựng, phát triển tiềm lực khoa học và công
nghệ của nhà nước: Đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học và công
nghệ có đủ đức, đủ tài, kiện toàn hệ thống tổ chức, tăng cường cơ sở vật chất kỹ
thuật, mở rộng các nguồn cung cấp thông tin, từng bước hình thành một nền khoa
học và công nghệ hiện đại của Việt Nam có khả năng giải quyết phần lớn những
vấn đề then chốt được đặt trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
SV THỰC HIỆN: NHÓM 1
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
PHẦN III: KẾT LUẬN
Từ những phân tích trên ta nhận thấy khoa học công nghệ có vai trò hết sức quan
trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển: Mở
rộng khả năng sản xuất, thúc đẩy quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, tăng sức cạnh tranh của hàng hóa và sự phát triển của thị trường, thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế
Khoa học công nghệ sẽ là động lực thúc đẩy các nước có xuất phát điểm thấp, có
nền kinh tế lạc hậu, thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển, là yếu tố quan
trọng nhất góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế … Trong mấy năm gần đây ứng
dụng khoa học công nghệ ở các nước đang phát triển đã gặt hái được rất nhiều
SV THỰC HIỆN: NHÓM 1

×