Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

chuyên đề : Chỉ ra và phân tích cơ sở lý luận để hoàn thiện pháp luật tài chính công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.79 KB, 15 trang )

Nhóm 02
Pháp luật về tài chính công là một trong những công cụ quan trọng để
Nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trong việc ổn định, phát triển
kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh và góp phần thực hiện công bằng xã
hội. Chính vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật tài chính công là rất cần thiết đặc
biệt là trong giai đoạn đất nước phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Hoàn thiện pháp luật tài chính công không thể dựa theo ý chí chủ
quan của nhà lập pháp, mà phải dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn cụ thể.
Trong phạm vi bài luận này, nhóm tập trung nghiên cứu những cơ sở lý luận để
hoàn thiện pháp luật tài chính công, do đó, nhóm xin chọn đề tài: “Chỉ ra và
phân tích cơ sở lý luận để hoàn thiện pháp luật tài chính công”.
I. Khái quát về Pháp luật tài chính công
1. Tài chính công
Tài chính công là tổng thể các hoạt động thu, chi bằng tiền do Nhà nước
tiến hành, nó phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình
tạo lập và sử dụng các quỹ công nhằm phục vụ thực hiện các chức năng của
Nhà nước và đáp ứng các nhu cầu, lợi ích chung của toàn xã hội.
Theo khái niệm trên, tài chính công có những đặc trưng sau:
Về sở hữu: các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ trong tài chính công thuộc
sở hữu công cộng, sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện, thường gọi là sở
hữu Nhà nước.
Về mục đích: các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ trong tài chính công
được sử dụng vì lợi ích chung của toàn xã hội, của toàn quốc, của cả cộng đồng,
vì các mục tiêu kinh tế vĩ mô, không vì mục tiêu lợi nhuận.
Về chủ thể: các hoạt động thu, chi bằng tiền trong tài chính công do các
chủ thể công tiến hành. Các chủ thể công ở đây là Nhà nước hoặc các cơ quan,
tổ chức của Nhà nước được Nhà nước giao nhiệm vụ thực hiện các hoạt động
thu, chi đó.
Về mặt pháp luật: các quan hệ tài chính công chịu sự điều chỉnh bởi các
“luật công”, dựa trên các quy phạm pháp luật mệnh lệnh - quyền uy.
Chỉ ra và phân tích cơ sở lý luận để hoàn thiện pháp luật tài chính công 1


Nhóm 02
2. Pháp luật tài chính công
2.1. Khái niệm
Pháp luật tài chính công là tập hợp các quy phạm pháp luật do cơ quan có
thẩm quyền ban hành, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động tài
chính của Nhà nước.
Như vậy, pháp luật về tài chính công điều chỉnh những nhóm quan hệ xã hội
có những đặc tính chung sau:
Thứ nhất, luôn có sự tham gia trực tiếp của Nhà nước hoặc các cơ quan đại
diện cho Nhà nước. Với tư cách là chủ thể quyền lực công, Nhà nước tự cho phép
mình tham gia vào các quan hệ nhằm hình thành và sử dụng các nguồn tài chính
công. Quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động của chính Nhà nước và các chủ thể
có liên quan phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng các nguồn tài chính
công.
Thứ hai, các quan hệ luôn gắn với yếu tố tài sản. Dù là trực tiếp hay gián
tiếp, các quan hệ pháp luật về tài chính công luôn gắn với việc chuyển giao, sử
dụng một nguồn tài chính nhất định. Mục tiêu của các quan hệ pháp luật về tài
chính công là nhằm hướng tới sự chuyển giao các nguồn lực tài chính, kể cả những
trường hợp các bên không giao ngay cho nhau lượng tài chính một cách trực tiếp
như quan hệ trong phân cấp quản lý ngân sách.
Thứ ba, nguồn hình thành các quỹ tài chính công xuất phát từ chính xã hội.
Chính vì vậy, nếu không thực hiện quan hệ thu, chi nguồn tài chính một cách phù
hợp sẽ dẫn đến nguy cơ bị phản ứng từ dân chúng.
Các quan hệ pháp luật về tài chính công gồm các nhóm cơ bản sau:
Một là, nhóm quan hệ tài chính công giữa cơ quan Nhà nước ở trung ương
với cơ quan chính quyền địa phương.
Hai là, nhóm quan hệ tài chính công giữa các cấp ngân sách với các đơn vị
sử dụng ngân sách.
Ba là, nhóm quan hệ tài chính giữa các cơ quan có thẩm quyền với các chủ
thể có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan đến tài chính công.

Chỉ ra và phân tích cơ sở lý luận để hoàn thiện pháp luật tài chính công 2
Nhóm 02
2.2. Kết cấu của pháp luật tài chính công
Pháp luật tài chính công bao gồm các bộ phận:
Thứ nhất, Pháp luật về hệ thống tổ chức cơ quan quản lý tài chính công.
Nhóm các cơ quan này bao gồm các cơ quan quản lý có thẩm quyền chung (Chính
phủ và các cơ quan chính quyền địa phương) và hệ thống các cơ quan quản lý có
thẩm quyền riêng (Ngân hàng Nhà nước, hệ thống cơ quan tài chính, kiểm toán
Nhà nước, Bộ kế hoạch và đầu tư, các chủ thể quản lý các khoản tài chính công
không phải là quỹ ngân sách Nhà nước).
Thứ hai, Pháp luật về ngân sách Nhà nước. Đây là lĩnh vực mà pháp luật tài
chính công điều chỉnh nhiều nhất. Pháp luật về ngân sách Nhà nước bao gồm các
bộ phận pháp luật thuế, pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay và quản lý các
khoản nợ cho vay, pháp luật về chi ngân sách Nhà nước và pháp luật về quản lý
ngân sách Nhà nước.
Thứ ba, Pháp luật điều chỉnh hoạt động của các quỹ ngoài ngân sách. Quỹ
ngoài ngân sách được hình thành và sử dụng như một tất yếu để hỗ trợ quỹ ngân
sách Nhà nước, đảm bảo yếu tố công bằng xã hội. Nội dung pháp luật điều chỉnh
hoạt động của các quỹ ngoài ngân sách gồm những vấn đề cơ bản như xác định
mục tiêu sử dụng của mỗi loại quỹ, quy định về cơ chế hoạt động của từng quỹ…
Thứ tư, Pháp luật về kiểm toán Nhà nước. Tổ chức kiểm toán được hình
thành nhằm phục vụ cho việc kiểm tra giám sát, đánh giá tính hiệu quả của hoạt
động tài chính do Nhà nước thực hiện. Luật kiểm toán Nhà nước và các văn bản
pháp luật liên quan quy định về cơ quan kiểm toán Nhà nước cùng với các nhiệm
vụ quyền hạn cũng như các biện pháp để đảm bảo thực thi nhiệm vụ.
II. Cơ sở lý luận để hoàn thiện pháp luật tài chính công
Quá trình hoàn thiện pháp luật tài chính công chịu ảnh hưởng trực tiếp của ba
yếu tố: (i) quan điểm, đường lối của hệ thống chính trị trong từng thời kì được thể
hiện trong kết cấu và nội dung của pháp luật tài chính công; (ii) năng lực tài chính
của xã hội và của công dân dường như không liên quan đến vấn đề luật pháp nhưng

trong thực tế lại là gốc cơ bản để đảm bảo tính khả thi của pháp luật, đặc biệt là
trong lĩnh vực pháp luật tài chính; và (iii) mức độ cải cách thể chế và hệ thống hành
Chỉ ra và phân tích cơ sở lý luận để hoàn thiện pháp luật tài chính công 3
Nhóm 02
chính Nhà nước có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả thực hiện pháp luật về tài chính
công
1
.
Sau 10 năm thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước
giai đoạn 2001 – 2010, lĩnh vực tài chính công đã có những bước hoàn thiện căn
bản, đặc biệt Nhà nước đã xây dựng được khung pháp lý điều chỉnh một cách
tương đối toàn diện, hiệu quả các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình hình
thành và quản lý, sử dụng các quỹ tài chính của Nhà nước. Trước bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế ngày càng cao, đồng thời để phát huy vai trò của Nhà nước trong
thời kì mới, vấn đề cải cách tài chính công một lần nữa được đặt ra trong Chương
trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2011 – 2020
2
. Cải cách tài
chính công, trong đó có việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật tài chính công phải
đảm bảo tính toàn diện, đồng bộ, phù hợp với thực tiễn; từ đó xây dựng, quản lý và
sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, công khai, minh bạch các nguồn tài chính công phục
vụ đắc lực cho các hoạt động của Nhà nước đồng thời thúc đẩy kinh tế - xã hội phát
triển trước yêu cầu của hội nhập quốc tế và sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước.
1. Hoàn thiện pháp luật tài chính công phải mang tính toàn diện
Yêu cầu về tính toàn diện của pháp luật tài chính công đòi hỏi các quy định
pháp luật của Nhà nước ban hành phải đảm bảo bao quát điều chỉnh được hết các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hình thành, quản lý và sử dụng các quỹ tài
chính của Nhà nước.
Hệ thống pháp luật về tài chính công hiện nay đã đáp ứng tương đối tốt yêu

cầu nói trên với các bộ phận pháp luật về thu, chi ngân sách Nhà nước, pháp luật về
quản lý và sử dụng tài sản công, pháp luật về quản lý tài chính tại các đơn vị hành
chính và đơn vị sự nghiệp. Với việc thực hiện cải cách hành chính giai đoạn 2001 –
2010, những kết quả đạt được trong cải cách tài chính công đã phần nào đáp ứng
được yêu cầu về tính toàn diện trong pháp luật tài chính công. Với vai trò là một
trong những bộ phận pháp luật quan trọng của hệ thống pháp luật tài chính công,
Luật Ngân sách Nhà nước 2002 đã có những đổi mới quan trọng trong việc nâng
1
Nghiên cứu pháp luật về tài chính công ở Việt Nam. Đề tài khoa học cấp trường. Chủ nhiệm đề tài: TS. Phạm
Thị Giang Thu. 2011.tr19-20.
2
Khoản 5 Điều 3 Nghị quyết 30c/NĐ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ
Chỉ ra và phân tích cơ sở lý luận để hoàn thiện pháp luật tài chính công 4
Nhóm 02
cao hiệu quả quản lý và sử dụng ngân sách Nhà nước đáp ứng được yêu cầu về tính
toàn diện như sau:
Thứ nhất, Pháp luật ngân sách Nhà nước đã đẩy mạnh phân cấp quản lý ngân
sách Nhà nước cho các cấp chính quyền địa phương và các đơn vị hành chính theo
hướng tăng tính chủ động, tăng thêm quyền và trách nhiệm đối với các cán bộ,
ngành, địa phương nhằm mục đích nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng nguồn ngân
sách Nhà nước. Với việc ban hành Nghị định 130/2005/NĐ-CP về chế độ tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ
quan Nhà nước, và Nghị định 43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về thực hiện nhiệm vụ tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị
sự nghiệp công lập đã khẳng định cơ chế tài chính đối với khu vực hành chính sự
nghiệp đã được đổi mới theo hướng tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn
lực tài chính
3
.
Thứ hai, Ngân sách Nhà nước đã được cơ cấu lại theo hướng giảm các khoản

chi bao cấp, tăng tỷ lệ chi cho đầu tư phát triển, tập trung ưu tiên chi cho những
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội quan trọng. Phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi
cho các cấp ngân sách đảm bảo tính chủ động cũng như công bằng giữa các địa
phương.
Ngoài ra, cơ chế tài chính trong lĩnh vực quản lý tài sản công cũng được chú
trọng nhằm tăng cường huy động các nguồn lực tài chính cho phát triển kinh tế - xã
hội. Cụ thể, các văn bản pháp luật trong lĩnh vực quản lý tài sản Nhà nước đã được
hình thành, bao gồm: Luật Quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước 2008; Nghị định
52/2009/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản
lý, sử dụng tài sản Nhà nước Bên cạnh đó, hệ thống cơ chế chính sách quản lý nợ
đã bao quát toàn diện các vấn đề quản lý nợ cả trong và ngoài nước, góp phần tích
cực thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo duy trì giới hạn an
toàn khả năng trả nợ, bước đầu quản lý nợ theo nguyên tắc thống nhất, chặt chẽ, an
3
Cải cách tài chính công ở Việt Nam – Kết quả và những vấn đề đặt ra. PGS.TS Trân Văn Giao. Tạp chí Quản
lý Nhà nước – Số 190(11/2011). Tr6 -7.
Chỉ ra và phân tích cơ sở lý luận để hoàn thiện pháp luật tài chính công 5
Nhóm 02
toàn. Đặc biệt Luật Quản lý nợ công năm 2009 là cơ sở pháp lý quan trọng thúc
đẩy việc quản lý nợ công của Việt Nam đi vào nền nếp
4
.
Như vậy, Pháp luật tài chính công đã cơ bản được hoàn thiện theo hướng xây
dựng, quản lý và sử dụng hợp lý và hiệu quả quỹ tài chính của Nhà nước, đồng thời
đã bao quát tương đối các quan hệ phát sinh trong quá trình sử dụng quỹ ngân sách
Nhà nước. Tuy nhiên, do quản lý tài chính công là một nội dung có phạm vi lớn
nên việc ban hành các văn bản pháp luật để điều chỉnh toàn bộ các quan hệ phát
sinh trong lĩnh vực này vẫn còn nhiều hạn chế. Đơn cử, pháp luật tài chính công
hiện nay còn thiếu những quy định cụ thể để xử lý các tình huống tăng, giảm đột
biến thu ngân sách tại các cơ quan, đơn vị hoặc các cấp ngân sách sau khi đã được

cơ quan có thẩm quyền giao ngân sách theo quy định của pháp luật; hệ thống quy
định cụ thể về thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về biên chế và tài chính
cho các đơn vị sự nghiệp trong từng ngành nhằm đảm bảo thực thi thể chế chung
trên cơ sở phù hợp với đặc thù của đơn vị sự nghiệp trong mỗi ngành.
5
2. Hoàn thiện pháp luật về tài chính công phải đảm bảo tính đồng bộ
Yêu cầu về tính đồng bộ đòi hỏi hệ thống các quy định pháp luật về tài chính
công một mặt phải thống nhất trong nội tại đồng thời phải thống nhất, đồng bộ với
hệ thống pháp luật hiện hành.
Thực tế hiện nay nhiều chế độ, chính sách, cơ chế vê tài chính công được
ban hành, tình trạng chậm triển khai hoặc không triển khai được trên thực tế còn
phổ biến do không có sự ăn khớp trong các quy định của pháp luật về tài chính
công với hệ thống pháp luật hiện hành. Hệ thống chính sách, pháp luật về tài chính
thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán, thậm chí còn mâu thuẫn, nên đã cản trở quá trình
vận hành theo cơ chế thị trường, chưa tạo ra hành lang thuận lợi để phát huy hết các
tiềm năng và nguồn lực của nền kinh tế. Trong quá trình hoàn chỉnh hệ thống pháp
luật theo hướng tiến tới một mặt bằng pháp lý chung đã có những thay đổi bất lợi
cho các nhà đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn, việc thi hành Luật Thuế thu nhập doanh
nghiệp đã giảm ưu đãi về thuế, nhất là đối với các dự án đầu tư vào khu công
4
Cải cách tài chính công ở Việt Nam – Kết quả và những vấn đề đặt ra. PGS.TS Trân Văn Giao. Tạp chí Quản
lý Nhà nước – Số 190(11/2011). Tr7.
5
Nghiên cứu pháp luật về tài chính công ở Việt Nam. Đề tài khoa học cấp trường. Chủ nhiệm đề tài: TS. Phạm
Thị Giang Thu. 2011.
Chỉ ra và phân tích cơ sở lý luận để hoàn thiện pháp luật tài chính công 6
Nhóm 02
nghiệp, khu chế xuất tại các trung tâm đô thị lớn và các dự án thuộc danh mục đặc
biệt khuyến khích đầu tư. Việc giảm ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với
các dự án đầu tư nước ngoài cũng như chính sách đối với ô-tô, xe máy đã làm cho

nhiều nhà đầu tư lo ngại về sự thiếu nhất quán của chính sách đầu tư nước ngoài
của nước ta, đồng thời, cản trở việc quyết định đầu tư của một số dự án, trong đó có
những dự án quy mô lớn, sử dụng công nghệ cao. Nhiều dự án đầu tư vào các lĩnh
vực dịch vụ gặp ách tắc do chủ trương chưa rõ ràng, các vướng mắc trong công tác
quy hoạch ngành chưa được tháo gỡ, cản trở các nhà đầu tư
6
. Mặt khác, việc hệ
thống pháp luật tài chính công thiếu đồng bộ, mâu thuẫn với nhau cũng gây khó
khăn lúng túng cho các cơ quan chức năng trong việc quản lý tài chính công, không
đảm bảo việc thi hành pháp luật.
Từ những phân tích trên càng cho thấy, tính đồng bộ là một yêu cầu tất yếu
cơ bản trong hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật tài chính công nói riêng.
Đây cũng là một trong những nội dung lớn trong Chương trình tổng thể cải cách
hành chính Nhà nước giai đoạn 2011-2020. Một trong những nhiệm vụ chương
trình nêu ra là “Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật,
trước hết là quy trình xây dựng, ban hành luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định,
thông tư, và văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương nhằm bảo
đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, cụ thể và khả thi của các văn bản quy
phạm pháp luật”
7
Để đảm bảo điều đó, quá trình xây dựng, ban hành và hoàn thiện các quy
định pháp luật cần hợp pháp, đúng quy trình. Cụ thể, về mặt nội dung các quy định
trong pháp luật tài chính công không được trái với hiến pháp, không mâu thuẫn
nhau, không loại trừ nhay, những quy định trong các văn bản có giái trị pháp lý
thấp hơn thì phải phù hợp, không được trái với các quy định trong các văn bản có
giá trị pháp lý cao hơn. Ví dụ, các văn bản quy phạm pháp luật phải phù hợp,
không được trái với Hiến pháp; quy định trong các văn bản dưới luật phải phù hợp
với quy định trong văn bản luật, quy định trong văn bản của cấp dưới phải phù hợp
6
/>hien-nay.aspx.

7
Điểm b Khoản1 Điều 3 Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2011
Chỉ ra và phân tích cơ sở lý luận để hoàn thiện pháp luật tài chính công 7
Nhóm 02
với quy định trong trong văn bản của cấp trên, quy định trong trong văn bản của địa
phương phải phù hợp với quy định trong văn bản của trung ương và quy định trong
văn bản của cơ quan quản lý phải phù hợp với quy định trong văn bản của cơ quan
quyền lực cùng cấp. Những văn bản có quy định trái với Hiến pháp, trái với quy
định trong văn bản có giá trị pháp lý cao hơn thì phải bị bãi bỏ hoặc hủy bỏ. Về mặt
hình thức: các quy định của pháp luật phải được xây dựng và ban hành đúng căn cứ
pháp lý, đúng thẩm quyền hoạt động của chủ thể ban hành, đúng trình tự, thủ tục,
hình thức pháp lý, thể thức và kỹ thuật trình bày đã được quy định trong pháp luật.
Tóm lại, trong quá trình đổi mới và hoàn thiện pháp luật tài chính công thì
tính đồng bộ trong pháp luật là một cơ sở lý luận quan trọng, là nguyên tắc không
thể bỏ qua trong quá trình xây dựng pháp luật.
3. Hoàn thiện pháp luật về tài chính công phải phù hợp với thực tiễn,
đồng thời định hướng cho các quan hệ xã hội phát triển
Pháp luật nói chung, và pháp luật tài chính công nói riêng đều xuất phát từ
thực tiễn, là sự phản ánh các quan hệ xã hội đang xảy ra trong thực tiễn. Chính vì
vậy, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tài chính công phải xuất phát từ thực
tiễn và đáp ứng những yêu cầu đặt ra từ thực tiễn. Có như thế, pháp luật về tài
chính công mới đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng trên thực tế. Ngược lại, việc
ban hành các quy định không phù hợp thực tiễn sẽ khiến cho hoạt động quản lý của
Nhà nước trở nên kém hiệu quả, tạo cơ hội cho tình trạng tham nhũng, lãng phí
nguồn lực, tổn hại đến kinh tế - xã hội và giảm uy tín của Nhà nước trên trường
quốc tế.
Để làm được điều này, trong quá trình hoàn thiện pháp luật về tài chính
công, Nhà nước phải tiến hành khảo sát, tổng kết từ thực tiễn và lấy ý kiến rộng rãi
từ các đối tượng chịu sự tác động của các quy định pháp luật trong lĩnh vực này.
Nhìn chung, hiện nay, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến công tác này. Ví dụ,

trong quá trình sửa đổi Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Chính phủ đã giao trách
nhiệm tổng kết đánh giá tình hình thực hiện Luật Thuế TNDN và xây dựng dự thảo
Luật Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thuế TNDN cho Bộ Tài chính thực hiện. Bởi đây
Chỉ ra và phân tích cơ sở lý luận để hoàn thiện pháp luật tài chính công 8
Nhóm 02
là một đạo luật quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế - xã hội của đất
nước, do đó, ngày 30/11/2012, Bộ Tài chính đã gửi Dự thảo Luật đến các Bộ,
ngành, địa phương và doanh nghiệp để xin đóng góp ý kiến tại Công văn số
16692/BTC-CST ngày 30 tháng 11 năm 2012, đồng thời ra thông cáo báo chí đến
mọi tầng lớp nhân dân ngày 13/12/2012 trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tài
chính. Trên cơ sở đó, hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về thuế thu nhập
doanh nghiệp cho phù hợp với thực tiễn.
Bên cạnh đó, pháp luật không chỉ là sự phản ánh hiện thực, mà còn có chức
năng điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển theo ý chí của Nhà nước. Pháp luật về
tài chính công cũng vậy. Việc hoàn thiện pháp luật về tài chính công phải đảm bảo
định hướng cho các quan hệ tài chính công phát triển theo ý chí của Nhà nước trên
quan điểm quản lý, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm các nguồn quỹ tài chính Nhà nước.
Đây là một đòi hỏi quan trọng để đảm bảo ổn định nguồn thu và sử dụng các quỹ
tài chính công một cách hiệu quả không chỉ trong ngắn hạn. Việc sửa đổi, bổ sung
các luật thuế quan trọng như: Luật Thuế thu nhập cá nhân, Luật Thuế thu nhập
doanh nghiệp… là nhằm khắc phục những bất cập giữa quy định của luật với thực
tế đời sống. Tuy nhiên, hoạt động này không nhằm một mục đích nào khác ngoài
việc đảm bảo sự ổn định của nền tài chính quốc gia và sự phát triển bền vững của
đất nước.
4. Hoàn thiện pháp luật về tài chính công phải đảm bảo bao quát nguồn
thu và tiết kiệm, hiệu quả trong quản lý và sử dụng các nguồn tài chính công
của Nhà nước
Để thực hiện chức năng của Nhà nước đặc biệt là thực hiện công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi Nhà nước phải có nguồn quỹ tài chính đủ
lớn. Do đó, việc quản lý, sử dụng tiết kiệm hiệu quả các quỹ tài chính công sẽ là

tiền đề quan trọng cho việc xây dựng một nền tài chính công vững mạnh phục vụ
đắc lực cho các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng của Nhà
nước. Muốn đạt được điều này, pháp luật về tài chính công cần được cụ thể hóa ở
một số điểm sau:
Chỉ ra và phân tích cơ sở lý luận để hoàn thiện pháp luật tài chính công 9
Nhóm 02
Thứ nhất, pháp luật về tài chính công phải đảm bảo bao quát nguồn thu.
Theo Báo cáo báo cáo kinh tế vĩ mô 2012 "Từ bất ổn vĩ mô đến con đường tái cơ
cấu" do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội vừa công bố chỉ ra rằng, thâm hụt ngân sách
và nợ công của Việt Nam tăng nhanh trong thời gian qua. Báo cáo chỉ ra rằng, thâm
hụt ngân sách diễn ra liên tục trong khoảng hơn một thập kỉ qua và có mức độ ngày
càng gia tăng. Cụ thể, thâm hụt ngân sách không bao gồm chi trả nợ gốc của Việt
Nam trung bình trong giai đoạn 2003 - 2007 chỉ là 1,3% GDP, nhưng con số này đã
tăng hơn gấp đôi lên 2,7% GDP trong giai đoạn 2008 – 2012
8
. Do đó, một mặt,
Nhà nước cần quan tâm tới việc sửa đổi, bổ sung hay ban hành các luật thuế mới,
mặt khác cần chú trọng tới những khoản thu ngoài thuế của Nhà nước. Đối với các
khoản thu từ thuế, nguồn thu từ thuế luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi ngân
sách nhưng trong quá trình hội nhập việc một số nguồn thu từ các loại thuế bị suy
giảm là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy, để bảo đảm bù đắp nguồn suy giảm đó
cũng như tăng thu cho ngân sách Nhà nước từ thuế đòi hỏi phải bao quát hơn nữa
diện chịu thuế cũng như đối tượng nộp thuế được quy định trong các văn bản pháp
luật về thuế. Hiện nay, những quy định về thuế được quy định khá cụ thể trong các
văn bản pháp luật như: Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 2010; Luật thuế bảo
vệ môi trường năm 2010; Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu năm 2005; Luật thuế tiêu
thụ đặc biệt năm 2008… đã không chỉ đảm bảo mục tiêu xây dựng hệ thống thuế
đồng bộ, phù hợp với các quy định của Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác có
liên quan mà còn là bước đi tất yếu để bổ sung khoản thu lớn cho ngân sách Nhà
nước từ các nguồn vốn trước đây chưa thật sự được lưu tâm hoặc khó quản lý.

Thứ hai, pháp luật về tài chính công phải góp phần làm tăng hiệu quả trong
quản lý và sử dụng các nguồn tài chính công. Bên cạnh những kết quả đã đạt được,
pháp luật về ngân sách Nhà nước vẫn còn những tồn tại, bất cập ảnh hưởng đến yêu
cầu quản lý, và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả minh bạch nguồn quỹ ngân sách Nhà
nước như: phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách chưa thực sự
đảm bảo tính hợp lý đặc biệt là giữa các địa phương với nhau; nhiều vấn đề vướng
mắc trong quá trình hình thành, quản lý và sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước chưa
8
Nguồn: />Chỉ ra và phân tích cơ sở lý luận để hoàn thiện pháp luật tài chính công 10
Nhóm 02
được sửa đổi, bổ sung kịp thời dẫn đến những hạn chế, bất cập không đáng có trong
một chu trình ngân sách Nhà nước…
Nhiều quỹ tài chính ngoài quỹ ngân sách Nhà nước được thành lập và tồn tại
nhưng việc sử dụng chúng lại không được hạch toán vào ngân sách Nhà nước, do
vậy nhiều khả năng sẽ làm nảy sinh vấn đề trong khi phân bổ ngân sách, khiến cho
việc phân tích chương trình chỉ tiêu của Chính phủ có thể bị ảnh hưởng. Điều này,
khiến cho nguồn lực tài chính Nhà nước bị phân tán đồng thời ảnh hưởng tới tính
minh bạch trong hoạt động tài chính công.
Minh bạch về tài chính luôn là một tiêu chí để đánh giá hiệu quả trong hoạt
động quản lý tài chính công.Theo Báo cáo phát triển Việt Nam, năm 1998, lần đầu
tiên ngân sách Nhà nước được công khai và chi tiết hóa khoảng 75% các khoản chi
tiêu. Kể từ thời điểm đó, mức độ yêu cầu và cụ thể hóa các khoản ngân sách và
quyết toán được công bố tăng lên. Luật ngân sách Nhà nước 2002 đã quy định cho
phần lớn các khoản chi ngân sách Nhà nước được phép công khai như công khai dự
toán, quyết toán, kết quả kiểm toán ngân sách các cấp… Tuy nhiên, pháp luật cần
có quy định cụ thể hơn nữa để khắc phục tình trạng thực tế hiện nay đó là các thông
tin về tình hình phân bổ nguồn lực của các địa phương vẫn còn hạn chế nhất là khi
các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ngày càng có nhiều chủ động hơn trong
phân bổ ngân sách.
Đối với lĩnh vực quản lý và sử dụng tài sản công, theo Luật quản lý và sử

dụng tài sản Nhà nước 2008 quy định thì tài sản Nhà nước được quản lý tập trung
thống nhất trên cơ sở đẩy mạnh phân cấp quản lý cho các cấp chính quyền và các
đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng. Tuy nhiên, các văn bản pháp luật quy định về vấn
đề này còn chưa đầy đủ, dẫn đến tình trạng quản lý, sử dụng lãng phí, kém hiệu quả
đối với tài sản Nhà nước. Quy định về quản lý và sử dụng tài sản Nhà nước tại các
cơ quan Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề
nghiệp và các tổ chức khác còn chưa rõ ràng cũng khiến cho quá trình triển khai
thực hiện gặp những vướng mắc, không thống nhất, làm giảm hiệu quả trong quản
lý và sử dụng tài sản của Nhà nước.
Hiệu quả trong việc sử dụng nguồn tài chính công còn phụ thuộc rất lớn vào
việc ban hành và thực hiện các quy định liên quan tới phân cấp quản lý nguồn lực
Chỉ ra và phân tích cơ sở lý luận để hoàn thiện pháp luật tài chính công 11
Nhóm 02
cho các chủ thể liên quan. Pháp luật cũng đã có những quy định mang tính nguyên
tắc về việc phân cấp quản lý ngân sách song cần có sự cụ thể hóa hơn nữa các quy
định này để vừa đảm bảo phát huy sự chủ động trong tạo lập nguồn thu vừa đáp
ứng tốt nhu cầu chi của các cấp ngân sách. Điều này cũng là một trong những cải
cách cơ bản trong chiến lược tổng thể cải cách nền hành chính quốc gia. Ngoài ra,
thời gian vừa qua Nhà nước cũng đã thực hiện việc phân định rõ chức năng quản lý
hành chính Nhà nước với chức năng cung cấp dịch vụ công. Theo đó, hình thành
hai đơn vị hành chính và đơn vị sự nghiệp. Để tạo tính chủ động, hiệu quả trong
quản lý và sử dụng tài chính trong các đơn vị này, Nhà nước ta đã thực hiện cơ chế
tự chủ về biên chế và tài chính cho các cơ quan, đơn vị. Đối với các cơ quan hành
chính, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 130/2005/NĐ-CP quy định chế độ tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối
với các cơ quan Nhà nước; còn đối với các đơn vị sự nghiệp, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với
đơn vị sự nghiệp công lập. Tuy nhiên, hạn chế trong các quy định của pháp luật về
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về biên chế và tài chính của các đơn vị sự nghiệp

đó là hầu hết chưa có các văn bản hướng dẫn chuyên ngành cụ thể thực hiện quyền
tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp trong từng ngành, lĩnh vực cụ thể do đó quá trình
triển khai vẫn còn những vướng mắc trong thực tiễn.
5. Hoàn thiện pháp luật về tài chính công phải phù hợp với yêu cầu mở
cửa và hội nhập kinh tế quốc tế
Cùng với lộ trình tham gia vào các tổ chức quốc tế, Việt Nam phải tuân thủ
những luật chơi chung đã cam kết với các tổ chức khu vực và quốc tế. Điều đó đòi
hỏi phải có những cải cách về mặt hành chính, trong đó có cải cách tài chính công
sao cho phù hợp với những quy định và cam kết quốc tế, đảm bảo nâng cao năng
lực quản lý Nhà nước về kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp và của nền kinh tế. Tuy nhiên, quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật
về tài chính công cũng cần cân nhắc đến yếu tố bảo hộ nền sản xuất trong nước một
cách hợp lý và được pháp luật quốc tế cho phép – đây là yếu tố hết sức nhạy cảm
Chỉ ra và phân tích cơ sở lý luận để hoàn thiện pháp luật tài chính công 12
Nhóm 02
cần được cân nhắc kỹ khi xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật về tài chính
công.
Chính sách thuế đã được đổi mới theo hướng thích ứng dần với cơ chế thị
trường và phù hợp với thông lệ quốc tế. Thuế đã đảm bảo nguồn tài chính chủ yếu
để thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, quốc
phòng. Hệ thống chính sách thuế từng bước giảm dần sự phân biệt giữa các thành
phần kinh tế, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi để phát triển sản xuất, kinh
doanh, đẩy mạnh xuất khẩu và tăng cường năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp;
thủ tục hành chính trong thu nộp thuế được đổi mới và dần được hiện đại hóa.
Chính sách thuế tiếp tục được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiệu theo hướng áp dụng
thống nhất đối với các loại hình doanh nghiệp và bước đầu phù hợp với thông lệ
quốc tế, góp phần khuyến khích đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh.
Ngoài lĩnh vực thuế là nơi yếu tố hội nhập được thể hiện khá rõ nét thì ngay
trong lĩnh vực ngân sách, vốn được đánh giá là một lĩnh vực chậm thay đổi, kém
thích ứng với sự phát triển kinh tế - xã hội chúng ta cũng có thể nhận thấy sự tác

động của xu thế hội nhập. Trước đây, trong quản lý tài chính công, Việt nam chủ
yếu thực hiện kế hoạch lập ngân sách hàng năm, do đó, khó đánh giá được tính hiệu
quả giữa việc phân bổ nguồn lực với các chương trình phát triển kinh tế xã hội, hạn
chế tính chiến lược của ngân sách và không phù hợp với việc quản lý các dự án tài
chính lớn cần thực hiện trong nhiều năm. Bố trí ngân sách còn bị động, co kéo với
các mục tiêu ngắn hạn. Trong ngắn hạn, hầu hết các khoản chi tiêu có tính cố định
trong khi việc thực hiện chính sách mới hay điều chỉnh các khoản chi tiêu là cả một
quá trình. Do vậy cẩn phải lên kế hoạch cho các khoản chi tiêu trong tương lai và
tạo khuôn khổ cho việc lập ngân sách hàng năm. Các nước có xu thế chung là xây
dựng kế hoạch chi tiêu trung, dài hạn, mà phổ biến được biết tới với tên gọi Khuôn
khổ chi tiêu trung hạn (Medium Term Expenditure Framework – MTEF) dù hình
thức, phạm vi áp dụng và mức độ chi tiết đối với mỗi quốc gia là không giống nhau
do sự khác biệt về năng lực quản lý của các quốc gia.
9
Từ năm 2002, với dự án
VIE/96/028, qua sự hỗ trợ của UNDP, Việt Nam bắt đầu thí điểm xây dựng khuôn
9
Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính công trong một thế giới cạnh tranh – Ngân hàng Phát triển châu Á
(ADB), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2003, tr.259
Chỉ ra và phân tích cơ sở lý luận để hoàn thiện pháp luật tài chính công 13
Nhóm 02
khổ chi tiêu trung hạn trong ngành giáo dục – đào tạo. Tới năm 2003, dự án Cải
cách quản lý tài chính công được phê duyệt
10
mà một trong những mục tiêu cụ thế
là nâng cao năng lực lập kế hoạch ngân sách và kế hoạch đầu tư, góp phần sử dụng
hiệu quả nguồn lực, thực hiện chiến lược tăng trưởng bền vững và xóa đói giảm
nghèo; xây dựng thí điểm kế hoạch chỉ tiêu trung hạn ở một số Bộ, địa phương.
Cho tới nay, việc thực hiện kế hoạch chi tiêu trung hạn đang tiếp tục được triển
khai với sự huy động nguồn lực từ các nhà tài trợ nước ngoài (ví dụ thông qua Quỹ

tín thác đa biên do Ngân hàng thế giới quản lý).
Bộ Tài Chính cũng luôn tăng cường triển khai quan hệ đối tác trong lĩnh vực
tài chính công, qua đó, kết quả hợp tác, quan hệ đối tác trong năm 2012 đã đáp ứng
nhu cầu trong việc điều phối tiến trình cải cách, là công cụ hữu ích và phù hợp cho
công tác điều phối các nguồn lực, tăng cường hiệu quả các nguồn lực hỗ trợ trong
lĩnh vực quản lý tài chính công. Bộ Tài chính đề nghị các nhà tài trợ quốc tế (Quỹ
tiền tệ quốc tế IMF, Ngân hàng thế giới WB…) tiếp tục hỗ trợ dựa trên một số định
hướng nội dung sau: Triển khai đề án cải cách tài chính công theo 8 nhóm giải pháp
nêu tại Chiến lược tài chính; Tăng cường phối hợp đẩy nhanh tiến độ dự án; hỗ trợ
tăng cường quản lý dự án; tăng cường trao đổi thông tin, đối thoại chính sách; phát
huy các sáng kiến xây dựng các diễn đàn trao đổi kinh nghiệm về quản lý tài chính
công.
Tóm lại, việc hoàn thiện pháp luật về tài chính công phải đặt trong bối cảnh
hiện tại của quốc gia, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của Việt Nam. Hoàn
thiện pháp pháp luật về tài chính công cũng là một khâu quan trọng trong chương
trình cải cách tài chính công nói riêng, cải cách nền hành chính quốc gia nói chung.
10
Tháng 12/2010, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý gia hạn thực hiện dự án tới tháng 2 năm 2013
Chỉ ra và phân tích cơ sở lý luận để hoàn thiện pháp luật tài chính công 14
Nhóm 02
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết 30c/NĐ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ;
2. .Nghiên cứu pháp luật về tài chính công ở Việt Nam. Đề tài khoa học cấp
trường. Chủ nhiệm đề tài: TS. Phạm Thị Giang Thu. 2011.
3. Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính công trong một thế giới cạnh
tranh – Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội 2003;
4. Cải cách tài chính công ở Việt Nam – Kết quả và những vấn đề đặt ra.
PGS.TS Trân Văn Giao. Tạp chí Quản lý Nhà nước – Số 190(11/2011).
5. />Traodoi/2008/752/Cai-cach-tai-chinh-cong-o-Viet-Nam-hien-nay.aspx.

6. />tuc.html
Chỉ ra và phân tích cơ sở lý luận để hoàn thiện pháp luật tài chính công 15

×