Tải bản đầy đủ (.pdf) (204 trang)

Luận án tiến sĩ ngữ văn: Cách dịch thuật ngữ anh việt chuyên ngành cảnh sát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 204 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGUYỄN THỊ BÍCH HƯỜNG





CÁCH DỊCH THUẬT NGỮ ANH - VIỆT
CHUYÊN NGÀNH CẢNH SÁT







LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN











THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN THỊ BÍCH HƯỜNG



CÁCH DỊCH THUẬT NGỮ ANH - VIỆT
CHUYÊN NGÀNH CẢNH SÁT


Chuyên ngành: NNH SO SÁNH ĐỐI CHIẾU
Mã số: 62.22.01.10



LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS Đặng Ngọc Lệ



Phản biện độc lập:

1. GS.TS Nguyễn Văn Hiệp
2. GS.TS Nguyễn Đức Dân

Phản biện:

1. GS.TS Nguyễn Đức Dân
2. GS.TS Nguyễn Văn Hiệp
3. PGS.TS Tô Minh Thanh



Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2014




MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU
1
Chương 1:
TỔNG QUAN VỀ THUẬT NGỮ VÀ DỊCH THUẬT
12
1.1.Tổng quan về thuật ngữ 12
1.1.1.Quan niệm về thuật ngữ 12

1.1.2. Quan niệm về thuật ngữ chuyên ngành cảnh sát 20
1.1.3. Một số khái niệm có liên quan 30
1.2. Tổng quan về dịch thuật 40
1.2.1. Lý luận chung 40
1.2.2. Vấn đề dịch thuật ngữ tiếng Anh sang tiếng Việt chuyên ngành cảnh sát 49
Chương 2:
ĐẶC ĐIỂM NGUỒN GỐC, CẤU TẠO, NGỮ NGHĨA VÀ CÁC
TRƯỜNG NGHĨA CỦA THUẬT NGỮ TIẾNG ANH, TIẾNG VIỆT
CHUYÊN NGÀNH CẢNH SÁT
56
2.1. Hệ thuật ngữ tiếng Anh chuyên ngành cảnh sát 56
2.1.1. Thuật ngữ tiếng Anh chuyên ngành xét từ góc độ nguồn gốc 56
2.1.2. Thuật ngữ tiếng Anh chuyên ngành xét từ góc độ cấu tạo 66
2.1.3. Thuật ngữ tiếng Anh chuyên ngành xét từ góc độ ngữ nghĩa và cách
sử dụng 81
2.2. Hệ thuật ngữ tiếng Việt chuyên ngành cảnh sát 91
2.2.1. Thuật ngữ tiếng Việt chuyên ngành xét từ góc độ nguồn gốc 91
2.2.2. Thuật ngữ tiếng Việt chuyên ngành xét từ góc độ cấu tạo 97
2.2.3. Thuật ngữ tiếng Việt chuyên ngành xét từ góc độ ngữ nghĩa và cách
sử dụng 103
2.3. Các trường từ vựng - ngữ nghĩa của thuật ngữ tiếng Anh, tiếng Việt
chuyên ngành cảnh sát 107
2.3.1. Trường từ vựng - ngữ nghĩa thuộc lĩnh vực Điều tra trinh sát cảnh
sát 108
2.3.2. Trường từ vựng - ngữ nghĩa thuộc lĩnh vực Điều tra hình sự 113
2.3.3. Trường từ vựng - ngữ nghĩa thuộc lĩnh vực Quản lý hành chính về
trật tự xã hội 115

2.3.4. Trường từ vựng - ngữ nghĩa thuộc lĩnh vực Quản lý trật tự an toàn
giao thông đường bộ 118

2.3.5. Trường từ vựng - ngữ nghĩa thuộc lĩnh vực Quản lý giáo dục và cải
tạo phạm nhân 122
2.3.6. Trường từ vựng - ngữ nghĩa thuộc lĩnh vực Kỹ thuật hình sự 125
2.3.7. Trường từ vựng - ngữ nghĩa thuộc lĩnh vực Luật 130
Chương 3:
ĐỀ XUẤT KỸ THUẬT DỊCH, XÂY DỰNG KHO NGỮ LIỆU VÀ
THIẾT KẾ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ THUẬT NGỮ TIẾNG ANH -

TIẾNG VIỆT CHUYÊN NGÀNH CẢNH SÁT
137
3.1. Cơ sở đề xuất 137
3.1.1. Căn cứ những điểm tương đồng và khác biệt của hệ thuật ngữ tiếng
Anh, tiếng Việt chuyên ngành cảnh sát 137
3.1.2. Đặc điểm của hệ thuật ngữ tiếng Anh, tiếng Việt chuyên ngành
cảnh sát xét về nội dung 144
3.1.3. Căn cứ vào Chương trình đào tạo Đại học Cảnh sát nhân dân dùng
cho hệ chính quy - tập trung do Bộ Công an quy định
146
3.1.4. Căn cứ giáo trình tiếng Anh chuyên ngành dành cho sinh viên hệ
chính quy - tập trung 149
3.1.5. Nhu cầu sử dụng tiếng Anh của đội ngũ giảng viên và học viên 151
3.1.6. Căn cứ vào sự thay đổi các văn bản 152
3.2. Nội dung giải pháp 156
3.2.1. Đề xuất kỹ thuật dịch thuật ngữ tiếng Anh chuyên ngành cảnh sát 156
3.2.2. Đề xuất cách chuyển dịch một số thuật ngữ tiếng Anh chuyên ngành
cảnh sát chưa thỏa đáng 165
3.2.3. Đề xuất xây dựng kho ngữ liệu thuật ngữ tiếng Anh, tiếng Việt
chuyên ngành cảnh sát 166
3.2.4. Đề xuất thiết kế ngân hàng điện tử thuật ngữ tiếng Anh, tiếng Việt
chuyên ngành cảnh sát 174

KẾT LUẬN 182
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 187
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 188
PHỤ LỤC




DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ANTT An ninh trật tự
ATTTGT An toàn trật tự giao thông
BLHS Bộ luật Hình sự
BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự
CAND Công an nhân dân
CSĐT Cảnh sát điều tra
CSGT Cảnh sát giao thông
CSHS Cảnh sát hình sự
CSKT Cảnh sát kinh tế
CSND Cảnh sát nhân dân
CSPCTP Cảnh sát phòng chống tội phạm
KTHS Kỹ thuật hình sự
QL, GD, CTPN Quản lý, giáo dục, cải tạo phạm nhân
QLHC Quản lý hành chính
TP HCM Thành phố Hồ Chí Minh
TTATXH Trật tự an toàn xã hội
TTXH Trật tự xã hội
TV-NN Từ vựng - ngữ nghĩa
XHCN Xã hội chủ nghĩa


1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận án
Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm có tính quốc tế và người
nước ngoài phạm tội ở Việt Nam diễn biến rất phức tạp, với nhiều phương thức,
thủ đoạn mới. Vì vậy, cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm phải được tổ chức một
cách khoa học; các lực lượng vũ trang nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng phải
chủ động phòng ngừa, tích cực tấn công tội phạm; phải đẩy mạnh hợp tác quốc tế
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm thể hiện bằng việc ký các hiệp định
tương trợ tư pháp với các nước, dẫn độ tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự
hoặc thi hành án, trao đổi thông tin về tình hình tội phạm có liên quan lẫn nhau và
phối hợp truy bắt tội phạm bị truy nã. Ngoài ra, chúng ta còn phải liên kết và
phối hợp với các quốc gia trong đấu tranh phòng, chống tội phạm thông qua việc
gia nhập Tổ chức Cảnh sát Hình sự Quốc tế (Interpol), Tổ chức Hình sự Quốc tế
(ICC) hay Tổ chức Cảnh sát khối Asean; tham dự các chương trình của Liên Hiệp
Quốc như Chương trình kiểm soát ma túy quốc tế, Chương trình toàn cầu chống
tẩy rửa tiền, Chương trình toàn cầu chống buôn bán người, Công ước của Liên Hiệp
Quốc về chống buôn lậu ma túy và các chất hướng thần…
Để đấu tranh phòng, chống tội phạm có yếu tố nước ngoài và thực hiện tốt các
nhiệm vụ nêu trên, lực lượng Công an trước hết phải giỏi về chuyên môn nghiệp vụ,
đồng thời phải thông thạo về ngoại ngữ đặc biệt là tiếng Anh và hệ thuật ngữ
tiếng Anh chuyên ngành.
Hiện nay, hệ thuật ngữ tiếng Anh chuyên ngành cảnh sát ngày càng được bổ
sung, hoàn thiện hơn là do quan hệ trong công tác giữa lực lượng Cảnh sát nhân dân
(CSND) Việt Nam với người nước ngoài có sử dụng tiếng Anh và với lực lượng
Cảnh sát của các nước có sử dụng tiếng Anh ngày một mở rộng. Tuy nhiên, việc
dạy và học tiếng Anh ở các trường CSND mới chỉ dừng ở mức tiếng Anh giao tiếp
thông thường (General English), chưa có đầy đủ chương trình tiếng Anh chuyên

ngành chuẩn dành cho các khoa chuyên ngành nghiệp vụ đang được đào tạo tại các
trường đại học CSND. Hiện tại, chưa có giáo trình tiếng Anh chuyên ngành dành
2


riêng cho các khoa nghiệp vụ, cũng như chưa có một bộ sách chuyên ngành CSND
hoàn thiện dùng chung cho cán bộ, chiến sĩ, sinh viên CSND người Việt học tiếng
Anh ở bậc đại học.
Do vậy khi học tiếng Anh chuyên ngành, sinh viên các khoa chuyên ngành
học chung giáo trình đơn ngữ tiếng Anh “English for Police” với phần mục từ
(400 từ) của tác giả Phùng Việt Hòa (1998), The Police University. Số lượng 400 từ
trong giáo trình tiếng Anh chuyên ngành là vốn từ vô cùng hạn hẹp để các
sinh viên, các sĩ quan sử dụng trong công tác chuyên môn, vì thế họ gặp không ít
khó khăn khi giải quyết vụ việc có liên quan đến người nước ngoài hay dịch các
tài liệu chuyên ngành.
Là giảng viên dạy tiếng Anh tại Trường Đại học CSND, là người góp phần
đào tạo những sĩ quan cảnh sát, chúng tôi nhận thấy sự cần thiết của việc xây dựng
một chương trình ngoại ngữ chuyên ngành chuẩn mà trọng tâm là ngôn ngữ,
văn phong khoa học với sự trợ giúp đắc lực của hệ thuật ngữ tiếng Anh
chuyên ngành chính xác. Chính vì vậy, việc đi sâu vào nghiên cứu cấu tạo,
ngữ nghĩa các thuật ngữ chuyên ngành CS là thiết thực và có tính thời sự. Việc
chỉ ra được nguồn gốc, phương thức cấu tạo, nội dung ngữ nghĩa và cách sử dụng
thuật ngữ chuyên ngành là góp phần không nhỏ trong việc hoàn thiện hệ thống
thuật ngữ chuyên ngành trong lực lượng CAND.
Thuật ngữ chuyên ngành cảnh sát là hệ thuật ngữ nằm trong hệ thống
ngôn ngữ Việt Nam nói chung và trong hệ thống ngôn ngữ khoa học Việt Nam
nói riêng, nhưng hệ thuật ngữ này chưa được quan tâm tới và thực tế từ trước đến
nay chưa có một bài báo hay một công trình khoa học nghiên cứu về thuật ngữ
chuyên ngành CS được công bố.
Ý thức được tầm quan trọng và sự cần thiết của hệ thuật ngữ chuyên ngành

CS trong toàn bộ hệ thống ngôn ngữ khoa học Việt Nam, chúng tôi bước đầu
tiến hành nghiên cứu đặc điểm của hệ thuật ngữ này về nguồn gốc, cấu tạo,
ngữ nghĩa và cách sử dụng với mong muốn đóng góp một phần công sức nhỏ bé
3


vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thuật ngữ chuyên ngành CS cho ngành và làm
giàu thêm cho hệ thống ngôn ngữ khoa học Việt Nam.
Xa hơn nữa, hệ thuật ngữ chuyên ngành CS là hành trang, là tư liệu để
chúng tôi tiến hành biên soạn bộ giáo trình tiếng Anh chuyên ngành cho các khoa
nghiệp vụ, làm sổ tay từ vựng, thiết kế ngân hàng điện tử về thuật ngữ Anh - Việt
chuyên ngành CS hoặc làm từ điển song ngữ. Mục đích cuối cùng của luận án là
nâng cao hiệu quả chất lượng giảng dạy tiếng Anh chuyên ngành, góp phần vào
việc nâng cao trình độ, kỹ năng chuyên môn của lực lượng Cảnh sát để phục vụ
đắc lực cho quá trình hội nhập quốc tế.
Từ thực tế vấn đề nêu trên chúng tôi chọn nghiên cứu luận án:“Cách dịch
thuật ngữ Anh - Việt chuyên ngành cảnh sát”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Bàn về thuật ngữ, không thể không nhắc tới sự phát triển khoa học về thuật
ngữ ở Nga.
Bắt đầu từ năm 1780, các nhà khoa học ở Liên bang Nga đã lựa chọn và xử lý
sơ bộ các thuật ngữ và xác định các khái niệm chuyên biệt liên quan. Sự bắt đầu của
thời kỳ này được đánh dấu bằng việc dịch các thuật ngữ và biên soạn từ điển
thuật ngữ học đầu tiên.
Từ năm 1930 đến năm 1960, đây là thời kỳ mà các lý thuyết và những
hoạt động thực tiễn về thuật ngữ học trên cơ sở đào tạo kỹ thuật của hai chuyên gia
D.S.Lotte và E.K.DreZen ra đời. Cũng trong giai đoạn này, hai nhà khoa học
A.A.Reformatski và G.O.Vinokur đã đưa ra các quan điểm ngôn ngữ học và sự phát
triển khoa học về thuật ngữ ở Nga.
Từ năm 1970 đến năm 1990, đây là thời kỳ đánh dấu bằng việc thuật ngữ học

trở thành một ngành khoa học độc lập. Cách nhìn nhận khác nhau về từ vựng
chuyên biệt, những hiệu ứng của các lý thuyết và thực tiễn trong khoa học về
thuật ngữ đã hội tụ với những thành tựu trong ngôn ngữ học, logic học và tiến bộ
trong công nghệ thông tin đã dẫn đến việc xác định rõ chủ thể và khách thể của
thuật ngữ học.
4


Vào thời kỳ này, ở Cộng hòa Liên bang Nga đã tổ chức một số hội nghị,
hội thảo về thuật ngữ học, hàng chục chuyên khảo và gần 20 tuyển tập các bài báo
được xuất bản, hơn 100 luận án Phó tiến sĩ và Tiến sĩ đã được bảo vệ. Ngoài ra,
hàng nghìn các từ điển bách khoa và từ điển ngôn ngữ học, từ điển thuật ngữ
kĩ thuật tổng hợp, từ điển thuật ngữ khoa học công nghệ chung đến các từ điển
chuyên ngành sâu đã được biên soạn. Thời kỳ này phải kể đến sự đóng góp của các
nhà khoa học như L.N.Beljaeva, L.I.Borisova, A.S. gerd, B.N.Golovin, S.V.Grinev,
A.D.Hajutin, T.L.Kandenlaki, R.Ju.Kobrin, Z.I.Komarova, O.N.Trbachev,
N.V.Vasilieva, M.N.Volodina, v.v.
Vào thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, thời kỳ này việc nghiên cứu thuật
ngữ được thực hiện trong bối cảnh sau khi Liên Xô sụp đổ với những thay đổi sâu
sắc trong đời sống kinh tế, xã hội và khoa học.
Còn ở Việt Nam, những chú giải thuật ngữ đã xuất hiện vào những năm đầu
thập niên 40 của thế kỷ XX, thoạt đầu là do công của các nhà khoa học và các
nhà báo, trong môi trường giảng dạy bằng tiếng Pháp. Vào năm 1942, Giáo sư
Hoàng Xuân Hãn, một nhà Toán học - Sử học - Ngữ văn, thực sự có ý thức
xây dựng một hệ thống thuật ngữ khoa học cho người Việt nên đã biên soạn và cho
ra đời tác phẩm “Danh từ khoa học”. Cuốn sách này đã mang lại một tập hợp các
thuật ngữ mô tả những khái niệm trong toán học, vật lý, hóa học, cơ học và
thiên văn học dựa trên cơ sở tiếng Pháp. Từ đó, các đồng nghiệp và học trò của ông
tiếp tục công việc chuyển ngữ, chuẩn hóa các thuật ngữ và cho ra đời nhiều
dịch phẩm khoa học kĩ thuật. Đặc biệt chúng ta không thể quên phần đóng góp

tích cực của các dịch giả cùng với các dịch phẩm khoa học kĩ thuật tiếng Nga,
tiếng Đức và tiếng Ba Lan, đã đưa miền Bắc từ năm 1945, và cả nước từ năm 1975
tiếp cận với nền khoa học kĩ thuật châu Âu. Những công trình tiếp nối nghiên cứu
về thuật ngữ và ngôn ngữ khoa học có thể kể đến là: “Về vấn đề xây dựng thuật ngữ
của các ngành khoa học và kỹ thuật” của Võ Xuân Trang (1973), “Mấy vấn đề
thay thế thuật ngữ vay mượn tiếng nước ngoài bằng thuật ngữ thuần Việt” của
Võ Xuân Trang (1977), “Về vấn đề xây dựng thuật ngữ khoa học” của
5


Lưu Vân Lăng (1977), “Từ thường và từ chuyên môn” của Nguyễn Đức Dân
(1977), hay “Nghiên cứu ngôn ngữ khoa học - kỹ thuật tiếng Việt (về ngữ pháp)”
của Hoàng Trọng Phiến (1985).
Trong giai đoạn này, các từ điển thuật ngữ phát triển rầm rộ, đặc biệt là các
ngành kinh tế mũi nhọn, ngành công nghệ mới phát triển như tin học, điện tử
viễn thông. Theo thống kê của Chu Bích Thu
1
, tính từ năm 1994 đến tháng 6/1999,
có 118 cuốn từ điển song ngữ thì có tới 55 cuốn là từ điển đối dịch thuật ngữ, cụ thể
như cuốn “Danh từ sinh vật học Nga - Việt” (1963), “Danh từ toán học Anh - Việt”
(1960), “Danh từ toán học Nga - Việt” (1960), “Danh từ hóa học Anh - Nga - Việt”
(1960), “Danh từ sinh địa lý Nga - Việt” (1963), “Danh từ y dược Pháp - Việt” (1964),
“Thuật ngữ tâm lý và giáo dục học Nga - Pháp - Việt” (1967), “Thuật ngữ tâm lý và
giáo dục học Nga - Pháp - Việt ” (1967), “Thuật ngữ ngôn ngữ học Nga - Việt” (1970),
“Thuật ngữ văn học - mỹ học Nga - Pháp - Việt” (1970), “Thuật ngữ âm nhạc Nga -
Việt” (1970), “Thuật ngữ mỹ học Pháp - Việt” (1970), hay “Thuật ngữ sử học, dân tộc
học, khảo cổ học” (1970).
Trong thời kỳ hội nhập hiện nay, bên cạnh việc xây dựng một thứ tiếng nói
riêng hoàn thiện và luôn phát triển của dân tộc, các nhà khoa học Việt Nam,
trước khi muốn hội nhập vào thế giới khoa học bằng vốn ngoại ngữ riêng của mình,

phải nghĩ ngay đến việc chuẩn hóa, xây dựng sáng tạo hệ thuật ngữ khoa học của
ngành mình. Rất nhiều ngành khoa học đã xây dựng được những hệ thuật ngữ
chuyên ngành riêng thể hiện qua các từ điển thuật ngữ chuyên ngành như “Từ điển
Y học Anh - Việt” của Phạm Ngọc Trí (2000); “Từ điển Y học Anh -Việt” của Lâm
Phương Thảo (2003); “Từ điển Y dược Pháp - Việt” của Bộ Y tế (1976. Nxb
Y học); “Từ điển Niệu học Việt - Anh - Pháp” của Ngô Gia Hy (1992. Nxb Y học);
“Từ điển Thuật ngữ khoa học kỹ thuật giao thông vận tải Anh -Việt” của nhiều tác
giả (2001. Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội); “Từ điển Kỹ thuật xây dựng Anh -
Việt” của Nguyễn Văn Bình (1994. Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội); “Từ điển

1
Chu Bích Thu (2001), Giới thiệu sơ lược về từ điển và từ điển học Việt Nam, tạp chí Ngôn ngữ,
số (14).
6


Thủy lợi Anh-Việt” của nhiều tác giả (1997. Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội).
Riêng lĩnh vực tài chính - Kế toán - Ngân hàng, từ những năm 90 của thế kỷ trước
đến nay đã có nhiều từ điển song ngữ Anh-Việt như “Từ điển Thương mại - Tài
chính - Ngân hàng Anh - Việt” của Nguyễn Thị Ái Nguyệt & Nguyễn Tùng Lâm
(1992. Nxb Thế giới); “Từ điển Thương mại - Tài chính thông dụng Anh - Việt”
của Công ty Dịch vụ Quốc tế (1996. Nxb Thống kê); “Từ điển Thương mại Quốc tế
Anh - Việt” của Nguyễn Ninh Hùng (1997. Nxb Trẻ)…
Như vậy trong dòng chảy lịch sử, kể từ khi cuốn từ điển đầu tiên liên quan
đến tiếng Việt được xuất bản năm 1651 cho đến năm 2005, theo thống kê của
Vũ Quang Hào thì số lượng từ điển về tiếng Việt, liên quan đến tiếng Việt,
được dịch ra tiếng Việt, được biên soạn bằng tiếng Việt có khoảng 1000 cuốn.
Trong số đó, từ điển về thuật ngữ có số lượng lớn nhất bao gồm các loại từ điển
giải thích thuật ngữ (từ điển chuyên ngành), từ điển đối chiếu thuật ngữ, từ điển vừa
giải thích vừa đối chiếu thuật ngữ, các từ điển bách khoa chuyên ngành, với tổng số

là 330 cuốn. [22; tr 223]
Qua khảo sát tình hình nghiên cứu về vấn đề dịch thuật, chúng tôi thấy đã có
rất nhiều sách, nhiều công trình của các tác giả trong nước và ngoài nước viết về
vấn đề này. Những nghiên cứu về dịch thuật của tác giả nước ngoài như cuốn
“Nhập môn nghiên cứu dịch thuật: Lý thuyết và ứng dụng” của Jeremy Munday -
Trịnh Lữ dịch (2009. Nxb Tri Thức); “A Linguistic Theory of Translation -
Lý thuyết ngôn ngữ dịch thuật” của Catford (1965. Nxb Oxford University,
Oxford); “Contemporary Translation Theories - Những lý thuyết dịch thuật
đương đại” của Hay Gentzler (1993. Nxb Roudledge, London & New York);
“Discourse and the Translator - Diễn ngôn và dịch giả” của Hatim và Mason (1990.
Nxb Longman, UK); “On Linguistic Aspects of translation – Những khía cạnh
ngôn ngữ của dịch thuật” của Jakobson (1959. Bài viết đăng trên tạp chí
The Translation Studies Reader, L. Venuti (ed.) Roudledge, London & New York,
1998); “A Textbook of Translation - Sách học về dịch thuật” của Newmark (1988.
Nxb Prentice Hall, London 1988).
7


Nhiều tác phẩm và tác giả nghiên cứu về dịch thuật trong nước cũng ra đời như
“Phiên dịch sách báo Anh - Việt, Việt - Anh” của Nguyễn Văn Tạo; “Vài nhận xét về
vấn đề dịch sách” của Hồ Hữu Tường; “Thế nào là một bản dịch hay” của Bàng Bá Lân;
“Hướng dẫn kỹ thuật dịch Anh - Việt” của Nguyễn Quốc Hùng hay “Dịch thuật, từ
lý thuyết đến thực hành” của Nguyễn Thượng Hùng.
Các bài viết “Văn bản khoa học kỹ thuật - cách mở nghĩa và dịch sang tiếng
Việt” của Đào Hồng Thu; “Một vài vấn đề về dịch tiếng Anh trong y khoa” của
Vương Thị Thu; “Về vấn đề tương đương trong dịch thuật” của Nguyễn Hồng Cổn
đăng trên tạp chí Ngôn ngữ, số 11/2001.
Một số công trình nghiên cứu dịch thuật khoa học như luận văn thạc sĩ của
Hoàng Văn Vân tại Đại học Macquarie (Úc) về đề tài “Bình diện chức năng trong
việc dịch các ngôn bản khoa học từ tiếng Anh sang tiếng Việt”; công trình

“Nghiên cứu dịch thuật” của Hoàng Văn Vân; luận án tiến sĩ “Dịch Anh-Việt
văn bản khoa học” của Lưu Trọng Tuấn (2008) và luận án tiến sĩ “Khảo cứu
việc dịch trạng từ tiếng Anh sang tiếng Việt qua tác phẩm Harry Potter” của
Võ Tú Phương (2011).
Nghiên cứu về dịch thuật nhìn chung cũng bắt đầu phát triển nhưng chưa thật
nhiều, đặc biệt về vấn đề dịch thuật ngữ tiếng Anh sang tiếng Việt chuyên ngành CS
chưa thật sự được quan tâm. Các thuật ngữ tiếng Anh, tiếng Việt chuyên ngành CS
mới chỉ được tập hợp thành các mục từ (glossary) nhằm mục đích phục vụ cho
giáo viên, sinh viên, phiên dịch viên có liên quan đến chuyên ngành này.
Ngoài một số tài liệu liên quan đến chuyên ngành hẹp như: “Từ điển Pháp luật
Anh - Việt” của nhóm tác giả Nguyễn Thế Kỳ, Phạm Quốc Toản và Lương Hữu Định
(1991. Nxb Khoa học xã hội); “Từ điển Pháp luật Việt - Anh” của tác giả Vũ Quốc
Tuấn (2002. Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh) và “Từ điển Thuật ngữ
về ma túy Anh - Việt” của tác giả Nguyễn Tường Dũng (2004. Nxb Thế giới),
hiện nay ở nước ta chưa có tài liệu chuyên sâu và đầy đủ về hệ thuật ngữ tiếng Anh,
tiếng Việt chuyên ngành CS, và cũng chưa có công trình nào nghiên cứu về đặc điểm,
cấu tạo ngữ nghĩa và kỹ thuật dịch thuật ngữ tiếng Anh sang tiếng Việt chuyên ngành
8


cảnh sát. Chính vì vậy chúng tôi nghiên cứu đề tài “Cách dịch thuật ngữ Anh-Việt
chuyên ngành cảnh sát”. Có thể nói đây là công trình có tính chất khởi đầu
nghiên cứu về thuật ngữ và dịch thuật ngữ tiếng Anh sang tiếng Việt chuyên ngành
cảnh sát.
3. Đối tượng, mục tiêu nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là:
- Hệ thuật ngữ tiếng Anh, tiếng Việt chuyên ngành cảnh sát và những yếu tố
có liên quan đến quá trình hình thành, phát triển của hệ thuật ngữ.
- Các yếu tố có liên quan đến hệ thuật ngữ tiếng Anh, tiếng Việt chuyên ngành
cảnh sát như nguồn gốc, phương thức cấu tạo, ngữ nghĩa và cách sử dụng.

4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để nghiên cứu luận án này, trước hết chúng tôi:
- Tập hợp tương đối đầy đủ các thuật ngữ tiếng Anh và tiếng Việt
chuyên ngành về các lĩnh vực QLHC về TTXH, KTHS, Phòng chống tội phạm
hình sự, Phòng chống tội phạm kinh tế, Phòng chống tội phạm về ma túy, CSĐT,
CSGT, Quản lý giáo dục & cải tạo phạm nhân, Luật (Hình sự và Tố tụng hình sự).
- Phân tích đặc điểm của hệ thống thuật ngữ Anh -Việt chuyên ngành CS từ
góc độ nguồn gốc, cấu tạo, ngữ nghĩa và cách sử dụng.
- Trên cơ sở phân tích đặc điểm của hệ thuật ngữ tiếng Anh và tiếng Việt
chuyên ngành cảnh sát, luận án tiến hành so sánh đối chiếu tìm ra các điểm
tương đồng cũng như khác biệt của hai hệ thống thuật ngữ từ các góc độ nghiên cứu
kể trên.
- Đề xuất các kỹ thuật dịch thuật ngữ tiếng Anh chuyên ngành CS sang tiếng
Việt nhằm đáp ứng các yêu cầu nghiên cứu, giảng dạy, học tập, dịch thuật các
tài liệu liên quan đến chuyên ngành cảnh sát.
Bên cạnh những nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu trên, chúng tôi cũng
định hướng đến việc đề xuất xây dựng kho ngữ liệu và thiết kế ngân hàng điện tử về
thuật ngữ tiếng Anh và tiếng Việt chuyên ngành CS.

9


5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi đã tiến hành các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp miêu tả
Mục đích của luận án là đề xuất một số kỹ thuật dịch thuật ngữ Anh -Việt
chuyên ngành CS dựa trên đặc điểm của thuật ngữ, vì vậy luận án đã sử dụng
phương pháp miêu tả đặc điểm về nguồn gốc, về cấu tạo của thuật ngữ
tiếng Anh, tiếng Việt chuyên ngành CS.
- Phương pháp so sánh đối chiếu

Phương pháp so sánh đối chiếu được sử dụng chính và xuyên suốt trong
luận án vì mục đích của luận án là so sánh đối chiếu hệ thuật ngữ tiếng Anh
chuyên ngành CS với hệ thuật ngữ tiếng Việt chuyên ngành CS về nguồn gốc,
cấu tạo, ngữ nghĩa và cách sử dụng. Trên cơ sở đó tìm ra các điểm tương đồng và
các điểm khác biệt giữa hai hệ thuật ngữ làm cơ sở đề xuất kỹ thuật dịch thuật ngữ
cho phù hợp.
Ngoài ra, để thực hiện luận án, chúng tôi còn sử dụng các thủ pháp sau:
- Phân tích và tổng hợp
Để biết số lượng trường từ vựng ngữ nghĩa, số lượng nhóm thuật ngữ và
nội dung ngữ nghĩa của thuật ngữ thuộc mỗi trường từ vựng, chúng tôi đã sử dụng
thủ pháp phân tích và tổng hợp.
- Thống kê
Thủ pháp thống kê định lượng giúp luận án tính toán tần số xuất hiện và tần số
sử dụng của các thuật ngữ, từ đó có được các số liệu cụ thể làm cơ sở xác thực cho
những kết luận trong quá trình nghiên cứu. Kết quả thống kê được tổng hợp thành
các bảng biểu, các con số thông qua các mô hình hay tỷ lệ phần trăm. Những
kết quả thu được giúp chúng ta hình dung dễ dàng các đặc trưng cơ bản về cấu trúc
hình thức và cấu trúc ngữ nghĩa của thuật ngữ tiếng Anh, tiếng Việt chuyên ngành.
Ngoài các phương pháp và thủ pháp nói trên luận án còn sử dụng một số
phương pháp khác như phương pháp mô hình hóa, phương pháp lập bảng biểu để
minh họa các kết quả và các luận điểm đã đề cập trong luận án.
10


6. Ý nghĩa của luận án
6.1. Ý nghĩa khoa học
- Đề tài là một trong những công trình đầu tiên hệ thống hóa tương đối đầy đủ
về đặc điểm (nguồn gốc, cấu tạo từ, ngữ nghĩa và cách sử dụng) của thuật ngữ
tiếng Anh và tiếng Việt chuyên ngành cảnh sát.
- Đề xuất được 6 kỹ thuật dịch thuật ngữ tiếng Anh sang tiếng Việt

chuyên ngành CS.
- Đề xuất xây dựng kho ngữ liệu thuật ngữ tiếng Anh, tiếng Việt
chuyên ngành CS.
- Đề xuất thiết kế và xây dựng một ngân hàng điện tử thuật ngữ

tiếng Anh, tiếng Việt chuyên ngành CS.
- Góp phần vào việc xây dựng và chuẩn hóa các thuật ngữ chuyên ngành CS.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể ứng dụng vào việc giảng dạy tiếng Anh
chuyên ngành ở các trường thuộc lực lượng cảnh sát nói riêng và các trường thuộc
lực lượng công an nói chung.
Kết quả nghiên cứu của luận án là cơ sở để biên soạn bộ giáo trình tiếng Anh
chuyên ngành và là phương tiện ứng dụng trong giao tiếp, trong công tác của
lực lượng cảnh sát khi có nhu cầu.
Kết quả nghiên cứu của luận án là cơ sở để biên soạn sổ tay từ vựng,
hình thành ngân hàng thuật ngữ và khi đủ điều kiện sẽ tiến tới xây dựng từ điển
thuật ngữ Anh -Việt chuyên ngành cảnh sát.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của luận án còn có thể ứng dụng cho việc
dịch thuật các văn bản chuyên môn, làm tài liệu tham khảo cho những độc giả
quan tâm đến lĩnh vực này.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài được cấu trúc như sau:
+ Chương 1: Tổng quan về thuật ngữ và dịch thuật.
11


Chương 1 có độ dài 47 trang, trong Chương 1 chúng tôi đề cập đến những
vấn đề lý luận chung về thuật ngữ và thuật ngữ chuyên ngành CS; Những lý luận
chung về dịch thuật, về vấn đề tương đương trong dịch thuật và về các loại hình
tương đương trong dịch thuật. Chúng tôi cũng đề cập đến các khái niệm có

liên quan như hình vị, từ, đoản ngữ và các trường từ vựng ngữ nghĩa.
+ Chương 2: Đặc điểm nguồn gốc, cấu tạo, ngữ nghĩa và các trường nghĩa
của thuật ngữ tiếng Anh, tiếng Việt chuyên ngành cảnh sát.
Chương 2 có độ dài 83 trang, Chương 2 của luận án đã miêu tả đặc điểm của
hệ thuật ngữ tiếng Anh, tiếng Việt chuyên ngành CS về góc độ nguồn gốc, cấu tạo,
ngữ nghĩa và cách sử dụng. Ngoài ra, trong chương 2 chúng tôi còn phân tích
cấu tạo ngữ nghĩa các thuật ngữ chuyên ngành theo 7 trường.
+ Chương 3: Đề xuất kỹ thuật dịch, xây dựng kho ngữ liệu và thiết kế
ngân hàng điền tử thuật ngữ tiếng Anh – tiếng Việt chuyên ngành cảnh sát.
Chương 3 có độ dài 46 trang, trong Chương 3 chúng tôi đề xuất các kỹ thuật
dịch thuật ngữ tiếng Anh chuyên ngành cảnh sát sang tiếng Việt dựa trên kết quả
so sánh đối chiếu hai loại thuật ngữ và dựa vào việc phân tích chương trình đào tạo
Đại học Cảnh sát nhân dân; Giáo trình tiếng Anh chuyên ngành; Nhu cầu sử dụng
tiếng Anh của đội ngũ giảng viên và học viên; Sự thay đổi các văn bản.
Phần cuối của luận án là mục tài liệu tham khảo và phụ lục.










12


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ THUẬT NGỮ VÀ DỊCH THUẬT

1.1. Tổng quan về thuật ngữ
1.1.1. Quan niệm về thuật ngữ
1.1.1.1. Định nghĩa về thuật ngữ
1) Các định nghĩa về thuật ngữ trên thế giới
Các nhà ngôn ngữ học Xô Viết đã đi sâu vào phân tích bản chất, chức năng,
khái niệm và đã tìm định nghĩa cho thuật ngữ khoa học như:
- Đại bách khoa toàn thư Xô Viết, 1976 đã định nghĩa: “Thuật ngữ là một từ
hoặc là một cụm từ chỉ ra một cách chính xác khái niệm và quan hệ của nó với
những khái niệm khác trong giới hạn của phạm vi chuyên ngành. Thuật ngữ là cái
biểu thị vốn đã chuyên biệt hóa, hạn định hóa về sự vật, hiện tượng, thuộc tính và
quan hệ của chúng trong phạm vi chuyên môn đó”.
-Terminovedenie: Predmet, metody, structura (Thuật ngữ học: Đối tượng,
phương pháp, cấu trúc) in năm 2007, tái bản lần thứ ba, của tác giả V.M.Leichik
định nghĩa: “Thuật ngữ là đơn vị từ vựng của một thứ ngôn ngữ nhất định dùng cho
những mục đích chuyên môn, nó biểu thị một khái niệm lý thuyết chung - cụ thể
hay trừu tượng của một lĩnh vực tri thức hay hoạt động chuyên môn nhất định”. [tr
31-32]
- Năm 2007, công trình “Thuật ngữ học đại cương - những vấn đề lý
thuyết” của ba tác giả là A.V.Superanskaja, N.V.Podolskaja và N.V.Vasileva
được tái bản lần thứ tư; theo các tác giả này, “Thuật ngữ là từ hay cụm từ
chuyên môn, được thừa nhận trong hoạt động chuyên ngành và được sử dụng trong
những điều kiện đặc biệt. Thuật ngữ là sự biểu đạt bằng từ ngữ một khái niệm của
một hệ thống các khái niệm thuộc một lĩnh vực tri thức chuyên ngành nhất định.
Thuật ngữ là yếu tố khái niệm cơ sở của thứ ngôn ngữ dùng cho các mục đích
chuyên môn”. [1; tr 14]
Có thể nói rằng, các nhà ngôn ngữ học trên thế giới đã xây dựng nên
bức tranh rõ nét, tỉ mỉ về thuật ngữ trong đó thể hiện đầy đủ những nội dung cơ bản
13



của khái niệm này, gồm các điểm sau:
- Thứ nhất, phân tích khái niệm và bản chất ngôn ngữ của lớp từ ngữ

đặc biệt này.
- Thứ hai, nêu rõ chức năng cơ bản của thuật ngữ trong hoạt động ngôn ngữ
của chúng.
- Thứ ba, khẳng định các đặc điểm cốt yếu của thuật ngữ để thực hiện tốt các
chức năng.
- Thứ tư, xác định các tiêu chuẩn cần có của thuật ngữ; hay nói cách khác là
tiêu chuẩn chung cho lớp từ ngữ đặc biệt này.
2) Các định nghĩa về thuật ngữ ở Việt Nam
Các nhà khoa học Việt Nam ngay từ những năm 30 - 40 của thế kỷ XX đã
chú ý đến việc xây dựng hệ thuật ngữ cho một số ngành khoa học và gọi đó là
“danh từ khoa học”. Từ đó, vấn đề thuật ngữ đã thực sự trở thành mối quan tâm của
các nhà ngôn ngữ học Việt Nam. Trong số các tác giả đó không thể không kể đến
Lê Khả Kế, Lưu Văn Lăng, Hoàng Văn Hành, Nguyễn Văn Tu, Đỗ Hữu Châu,
Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Hữu Quỳnh…
Theo Đỗ Hữu Châu: “Thuật ngữ là từ chuyên môn được sử dụng trong
phạm vi một ngành khoa học, một nghề nghiệp hoặc một ngành kỹ thuật nào đó. Có
thuật ngữ của ngành vật lý, ngành hóa học, toán học, thương mại, ngoại giao.v.v
Đặc tính của những từ này là phải cố gắng chỉ có một nghĩa, biểu thị một khái niệm
hay chỉ tên một sự vật, một hiện tượng khoa học, kỹ thuật nhất định”. [13; tr167]
Các tác giả Đái Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quang và
Vương Toàn cho rằng “Thuật ngữ là từ hoặc cụm từ biểu đạt chính xác một
khái niệm của một chuyên môn nào đó. Thuật ngữ nằm trong hệ thống từ vựng
chung của ngôn ngữ, nhưng chỉ tồn tại trong một hệ thống thuật ngữ cụ thể, nghĩa là
nó chỉ được dùng trong ngôn ngữ chuyên môn. Toàn bộ thuật ngữ của một lĩnh vực
sản xuất, hoạt động, tri thức tạo nên một lớp từ đặc biệt tạo thành một hệ thống
thuật ngữ”. [10; tr 64]


14


Theo Nguyễn Hữu Quỳnh, định nghĩa thuật ngữ trong các từ điển nước ngoài
tuy có khác nhau, nhưng có thể khái quát như sau: “Thuật ngữ khoa học là một từ,
cụm từ biểu thị một khái niệm trong chuyên ngành khoa học (khoa học xã hội,
khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật). Thông thường một thuật ngữ có vỏ âm thanh
nhất định và biểu đạt một khái niệm đơn nhất không trùng lặp với thuật ngữ khác”.
[60; tr 3]
Vũ Quang Hào trong luận án tiến sĩ “Đặc điểm và cấu tạo của thuật ngữ quân
sự tiếng Việt” đã dẫn lại và bổ sung định nghĩa thuật ngữ của Hoàng Văn Hành khá
đầy đủ như sau: “Thuật ngữ là từ ngữ dùng để biểu thị một khái niệm xác định
thuộc hệ thống những khái niệm của một ngành khoa học nhất định”. [90; tr 15]
Nhìn chung các tác giả đều thống nhất với quan điểm, thuật ngữ về bản chất là
từ hoặc cụm từ, tuy nhiên từ thì có thể đa nghĩa, nhưng thuật ngữ thì đơn nghĩa và
mô tả khái niệm hay một khách thể. Như vậy đặc trưng bao trùm của thuật ngữ là
tính đơn nghĩa trong giới hạn một lĩnh vực khoa học kỹ thuật nhất định.
1.1.1.2. Đặc trưng của thuật ngữ và tiêu chí đánh giá
1) Đặc trưng của thuật ngữ
Nói đến hệ thống thuật ngữ khoa học là phải đề cập đến những đặc trưng cơ
bản của thuật ngữ. Thuật ngữ có những đặc trưng cơ bản như: tính chính xác, tính
hệ thống, tính quốc tế, tính dân tộc và tính đại chúng. [88; tr 56]
a. Tính chính xác
Thuật ngữ khoa học trước hết phải chính xác, nghĩa là thuật ngữ phải biểu hiện
đúng khái niệm khoa học mà không gây nhầm lẫn. Thuật ngữ được gọi là lý tưởng khi
nó phản ánh được đặc trưng cơ bản, nội dung, bản chất của khái niệm, tuy nhiên
không thể đòi hỏi thuật ngữ phản ánh đầy đủ mọi phương diện, mọi khía cạnh của
khái niệm. Thậm chí cá biệt có những thuật ngữ phản ánh mọi nội dung không cơ bản,
nhưng là đặc trưng để phân biệt thuật ngữ này với thuật ngữ khác.
Tính chính xác loại trừ tính đa nghĩa, điều này nghĩa là trong nội bộ một ngành

khoa học, mỗi khái niệm chỉ nên có một thuật ngữ biểu hiện và ngược lại mỗi
thuật ngữ chỉ dùng để chỉ một khái niệm vì chức năng duy nhất của thuật ngữ là
15


định danh (gọi tên khái niệm) cho nên những yếu tố biểu thái hầu như không
xuất hiện trong thuật ngữ. Như vậy không thể có hiện tượng đồng nghĩa.
Nguyên tắc này đương nhiên không thể tuyệt đối hóa, vì có trường hợp do sự phát
triển của khoa học mà một thuật ngữ vẫn song song tồn tại với một thuật ngữ mới.
Tính chính xác còn thể hiện ở hình thức cấu tạo thuật ngữ. Do tính chính xác
về hình thức mà thuật ngữ thường ngắn gọn, chặt chẽ. Thuật ngữ ngắn gọn thường
được sử dụng rộng rãi khi người đọc đã quen với khái niệm đó, còn những
khái niệm mới, có khi chưa đi vào hệ thống thuật ngữ của ngôn ngữ hoặc được dùng
ở những nơi ít người thuộc chuyên môn thì gây khó hiểu.
b. Tính hệ thống
Mỗi thuật ngữ khoa học phải nằm trong hệ thống nhất định và

hệ thống đó phải hết sức chặt chẽ. Nói đến tính hệ thống của thuật ngữ tức là nói
đến hai góc độ: hệ thống khái niệm (tức là xét về nội dung) và hệ thống ký hiệu
(tức là xét về hình thức). Tính hệ thống là thuộc tính quan trọng bậc nhất của
thuật ngữ. Nghĩa là nó thể hiện ở kiểu cấu tạo từ và trong sự ý thức hóa tuyệt đối
để vận động cấu tạo từ. Mặt khác, không thể tách rời từng khái niệm ra để đặt
thuật ngữ, mà phải hình dung, xác định vị trí của nó trong toàn bộ hệ thống
khái niệm. Nhờ có tính hệ thống mà chúng ta có thể hiểu được thuật ngữ một
cách chính xác và dễ dàng. Do tính hệ thống trong cách cấu tạo thuật ngữ mà
người ta có thể dễ dàng nắm bắt được khái niệm mà thuật ngữ diễn tả [67;
tr 274].
c. Tính quốc tế
Đã là ngành khoa học thì hệ thuật ngữ của ngành khoa học đó dù là ở nước
nào cũng phải được quốc tế hóa, trước hết về phương diện nội dung, có như vậy

mới đáp ứng được xu thế hội nhập, toàn cầu hóa. Nội dung khái niệm của một
ngành khoa học nào đó ở mọi quốc gia, ở bất kỳ nơi nào trên thế giới không được
phép có độ chênh. Đây chính là sự thống nhất khoa học trên con đường nhận thức
chân lý. Quá trình quốc tế hóa thuật ngữ khoa học là xu hướng phát triển tất yếu của
ngôn ngữ, nó có ý nghĩa trong việc hoàn thiện hệ thuật ngữ chung trên toàn thế giới,
16


khắc phục “hàng rào ngôn ngữ” trong hợp tác quốc tế về mọi mặt, nhất là lĩnh vực
khoa học. Tuy nhiên, việc quốc tế hóa thuật ngữ về mặt hình thức đã được xem là
việc làm rất khó và gần như không thể, vì mỗi quốc gia sử dụng một ngôn ngữ
riêng. Chính vì vậy mà hệ thống thuật ngữ ở bất kỳ ngôn ngữ nào cũng rất rộng,
rất mở và có xu hướng là vay mượn gần như nguyên bản từ các ngôn ngữ có nền
khoa học phát triển hơn. Điều này thể hiện rất rõ ở một số ngành khoa học như:
ngành y khoa có nhiều thuật ngữ gốc Latin dùng định danh các loại bệnh, các loại
dược phẩm; ngành vật lý, hóa học, kinh tế… có nhiều thuật ngữ gốc Anh, Pháp.
Trong ngành cảnh sát, thuật ngữ gốc Hán chiếm số lượng lớn.
d. Tính đại chúng
Khoa học không thể tách rời quần chúng mà trái lại khoa học phải phục vụ
quần chúng nhân dân. Muốn khoa học dễ dàng xâm nhập vào đời sống của
nhân dân thì thuật ngữ khoa học cần phải có tính đại chúng. Tính đại chúng
đòi hỏi thuật ngữ phải ngắn gọn, dễ nhớ, dễ hiểu đối với tất cả những người làm
công tác trong ngành chuyên môn đó, cũng như đối với tất cả những ai học môn
khoa học đó. Khác với biệt ngữ (những từ ngữ đặc biệt dành riêng cho một nhóm
người, cho một tầng lớp của xã hội như tiếng lóng, biệt ngữ giai cấp, biệt ngữ
nhóm), thuật ngữ khoa học vẫn là một bộ phận trong ngôn ngữ của toàn dân, nó
được mọi người sử dụng hàng ngày. Do đó tính chất đại chúng đòi hỏi thuật ngữ
phải dễ hiểu, dễ đọc, dễ viết đối với quảng đại quần chúng.
e. Tính dân tộc
Tác giả Lưu Vân Lăng cho rằng: “Thuật ngữ, dù thuộc lĩnh vực khoa học

nào, chuyên môn nào, cũng nhất thiết phải là một bộ phận của từ ngữ dân tộc. Do
đó thuật ngữ phải có tính chất dân tộc và phải mang màu sắc ngôn ngữ dân tộc” [49;
tr 58]. Điều này có nghĩa là mỗi dân tộc phải tận dụng vốn từ ngôn ngữ của mình để
diễn đạt các khái niệm khoa học. Vì vậy chúng ta phải giữ gìn sự trong sáng của
tiếng Việt trong việc dịch thuật các thuật ngữ, tránh lạm dụng các thuật ngữ tiếng
nước ngoài.

17



Đảm bảo tính dân tộc của thuật ngữ là góp phần xây dựng tính đại chúng của
thuật ngữ. Các thuật ngữ chuyên môn không thể tách rời quần chúng, tách rời người
sử dụng, nhất là trong thời đại mà nền kỹ thuật tri thức đang được tiếp nhận trên
phạm vi toàn cầu.
2) Tiêu chí của thuật ngữ
Khi đặt danh từ khoa học (thuật ngữ), Hoàng Xuân Hãn đưa ra 8 tiêu chuẩn
của thuật ngữ, đó là: (1) Mỗi ý phải có một danh từ để gọi; (2) Danh từ ấy phải
riêng về ý ấy; (3) Một ý không nên có nhiều danh từ; (4) Danh từ phải làm cho dễ
nhớ đến ý; (5) Danh từ trong các môn phải thành một toàn thể duy nhất; (6) Danh từ
phải gọn; (7) Danh từ phải có âm hưởng Việt; (8) Danh từ phải đặt theo lối tiếng
thường và phải có tính cách quốc gia. [28; tr 237]
Theo Nguyễn Thiện Giáp, thuật ngữ phải có những tiêu chuẩn sau:
(1) Tính chính xác; (2) Tính hệ thống; (3) Tính đơn nghĩa; (4) Tính quốc tế;
(5) Không mang sắc thái tu từ biểu cảm. [66; tr 121]
Trong luận án này chúng tôi dựa vào sự tổng kết các tiêu chuẩn của thuật ngữ
do Lưu Vân Lăng đưa ra tại hội nghị bàn về việc xây dựng thuật ngữ năm 1964 để
đánh giá tiêu chuẩn của thuật ngữ. Các tiêu chuẩn đó là:
(1) Tính khoa học (cụ thể là: chính xác, có hệ thống và ngắn gọn);
(2) Tính dân tộc (nghĩa là có màu sắc ngôn ngữ dân tộc, phù hợp với

đặc điểm tiếng Việt);
(3) Tính đại chúng (nghĩa là quần chúng dễ dùng, dễ nhớ, dễ đọc, dễ viết và
dễ hiểu).
2

1.1.1.3. Phân biệt thuật ngữ với từ nghề nghiệp
1) Các quan niệm về từ nghề nghiệp

2
Lưu vân Lăng & Như Ý, Tình hình và xu hướng phát triển thuật ngữ tiếng Việt trong mấy
chục năm qua, tạp chí Ngôn ngữ số (1), Hà Nội.

18


Cho đến nay, đã có một số công trình ngôn ngữ học đề cập đến lớp từ
nghề nghiệp, nhưng chỉ dừng lại ở mức độ khái quát về đặc điểm của chúng mà
chưa đi sâu vào tìm hiểu đặc điểm cấu trúc - ngữ nghĩa cũng như quá trình hành
chức của lớp từ này. Các tác giả đã có những quan niệm riêng về từ nghề nghiệp.
Nguyễn Như Ý và các đồng sự của ông cho rằng “Từ nghề nghiệp là các từ,
ngữ đặc trưng cho ngôn ngữ của nhóm người thuộc cùng một ngành nghề hoặc cùng
một lĩnh vực nào đó” [62; tr 389].
Đỗ Hữu Châu cho rằng “ Từ nghề nghiệp bao gồm những đơn vị được
sử dụng để phục vụ các hoạt động sản xuất và hành nghề của các ngành sản xuất
tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và các ngành lao động trí óc (nghề thuốc, ngành
văn thư …)” [14; tr 249-250].
Xem xét từ nghề nghiệp với tư cách là một phương ngữ xã hội, tác giả
Nguyễn Văn Khang cho rằng: “Từ ngữ nghề nghiệp là những từ ngữ có tính
chuyên môn cao mà chỉ có những người làm nghề mới có thể hiểu được. Thậm chí
ở trình độ chuyên môn sâu, rất nhiều thuật ngữ mà ngay cả những người làm trong

nghề ở trình độ bình thường cũng cảm thấy khó hiểu hoặc không thể hiểu được (nếu
không được giải thích đến nơi đến chốn)” [75; tr 118].
Mỗi tác giả có quan niệm, nhận định riêng về lớp từ ngữ nghề nghiệp, nhưng
các tác giả đều cho rằng từ nghề nghiệp được sử dụng hạn chế về mặt xã hội (chỉ
hoạt động trong khu vực của những nhóm người thuộc cùng một ngành nghề
cụ thể).
2) Sự khác nhau giữa thuật ngữ và từ nghề nghiệp
Bên cạnh việc đưa ra những định nghĩa xác đáng về thuật ngữ, các nhà
ngôn ngữ học cũng rất quan tâm nghiên cứu đến lớp từ nghề nghiệp. Việc
nghiên cứu lớp từ này có ý nghĩa rất lớn về mặt ngôn ngữ học. Các nhà ngôn ngữ đã
phân biệt rất rõ ràng giữa thuật ngữ và từ nghề nghiệp thể hiện qua bảng so sánh
dưới đây:


19


BẢNG SO SÁNH THUẬT NGỮ VÀ TỪ NGHỀ NGHIỆP
Thuật ngữ Từ nghề nghiệp
Thu
ật ngữ
đư
ợc hiểu l
à n
ội dung của
khái niệm khoa học (nội hàm khái
niệm khoa học chính xác), hình thức
ngôn ngữ (là cái vỏ), là tên gọi của
một khái niệm khoa học, toàn bộ khái
niệm trong một lĩnh vực khoa học và

là toàn bộ tên gọi của một khoa học.
Ví dụ:
Từ đồng âm, phụ âm, nguyên âm
thuộc về ngành ngôn ngữ học; quang
phổ, quang học, điện quang thuộc về
ngành vật lý học.

T
ừ ngh
ề nghiệp l
à nh
ững đ
ơn v
ị từ vựng có

nội dung chuyên môn thông thường, có
nhiệm vụ xác định tên những nguyên vật
liệu, những công cụ sản xuất, những quy
trình, công đoạn làm việc hay những sản
phẩm nghề nghiệp.
Ví dụ:
Từ nghề nghiệp chỉ công cụ sản xuất như: đê,
máy cắt, ruột ổ, v.v… thuộc về ngành may mặc-
da giày; bay, bàn xoa, giàn giáo, v.v. thuộc
ngành cầu đường.


Đặc điểm của thuật ngữ là tính đơn
nghĩa, không có từ đồng nghĩa v
à

không có sắc thái tình cảm.
T
ừ nghề nghiệp đ
ư
ợc d
ùng đ
ể trao đổi
miệng về chuyên môn. Từ nghề nghiệp có
tính gợi cảm, gợi hình, có nhiều sắc thái vui
đùa.
Ví dụ:
Dùng từ phó đẽo thay thế từ thợ mộc hay từ
người gõ đầu trẻ thay từ thầy giáo.
Thu
ật ngữ có tính đại chúng v
ì

khoa học kỹ thuật không thể tách rời
quần chúng, tách rời người sử dụng.
Khoa học kỹ thuật phải thực sự

xâm nhập sâu rộng vào quần chúng,
muốn vậy thuật ngữ không thể là lớp
từ cao siêu, xa lạ hoàn toàn với quần
chúng.
T
ừ nghề nghiệp l
à nh
ững từ có phạm vi sử
dụng trong khu vực chuyên môn của một

nhóm. Với những ngành nghề mang tính xã
hội hóa, thì số lượng từ nghề nghiệp của nó
càng được sử dụng rộng rãi. Ngược lại,
những ngành nghề ít phổ biến ngoài xã hội
như nghề kim hoàn, nghề mộc… thì vốn từ
nghề nghiệp của chúng lại ít được biết đến
và ít được sử dụng.
20


1.1.2. Quan niệm về thuật ngữ chuyên ngành cảnh sát
1.1.2.1. Định nghĩa về thuật ngữ chuyên ngành cảnh sát
Từ các định nghĩa về thuật ngữ đã trình bày ở trên, thuật ngữ
chuyên ngành CS có thể hiểu là “từ và cụm từ biểu thị các khái niệm, sự vật,
hiện tượng thuộc các lĩnh vực công tác của lực lượng cảnh sát; các biện pháp trinh
sát; các phương pháp, chiến thuật điều tra hình sự; các biện pháp, phương tiện
KTHS và các quy định của pháp luật.”
Thuật ngữ chuyên ngành CS gồm các thuật ngữ liên quan đến hoạt động
nghiệp vụ của các lực lượng như: CSĐT, CSHS, CSKT, CSPCTP về MT, Cảnh sát
QLHC về TTXH, CSGT, Cảnh sát quản lý giáo dục & cải tạo phạm nhân, Cảnh sát
vũ trang, KTHS và một số ngành luật có liên quan.
Nghiên cứu về thuật ngữ chuyên ngành CS, chúng tôi nhận thấy các
thuật ngữ chuyên ngành CS dùng để chỉ:
1) Các khái niệm liên quan đến phương pháp, chiến thuật điều tra hình sự hay
các biện pháp trinh sát như:
- Khám xét là hoạt động điều tra được tiến hành bằng cách tìm tòi,
lục soát trên người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, đồ vật, thư tín, bưu kiện,
bưu phẩm nhằm phát hiện, thu giữ vật chứng, đồ vật tài liệu có liên quan đến vụ án.
- Hỏi cung là biện pháp điều tra bằng cách hỏi trực tiếp người đã bị
khởi tố về hình sự với tư cách là bị can.

- Trinh sát là hoạt động điều tra, thu thập tình hình về đối tượng cần điều tra
bằng các biện pháp bí mật.
- Trinh sát ngoại tuyến là biện pháp trinh sát mà người cán bộ trinh sát trực tiếp
theo dõi, giám sát bí mật để phát hiện những hoạt động bên ngoài của đối tượng cần
điều tra nghiên cứu và thực hiện các yêu cầu điều tra trinh sát đặt ra.
- Dấu hiệu hiềm nghi là những biểu hiện nghi vấn cụ thể ở một con người,
việc, hiện tượng nào đó làm căn cứ để đánh giá, xem xét xem con người, việc,
hiện tượng đó có đủ cơ sở kết luận là đối tượng hiềm nghi hay không.

×