BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
o0o
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
THỰC TRẠNG ĐÔ LA HÓA HIỆN NAY Ở VIỆT
NAM VÀ CÁC GIẢI PHÁP CỦA NHÀ NƢỚC
NHẰM HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA
ĐÔ LA HÓA VỚI NỀN KINH TẾ
SINH VIÊN THỰC HIỆN : LÊ THỊ PHƢƠNG DUNG
MÃ SINH VIÊN : A14893
CHUYÊN NGÀNH : TÀI CHÍNH
HÀ NỘI - 2014
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
o0o
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
THỰC TRẠNG ĐÔ LA HÓA HIỆN NAY Ở VIỆT
NAM VÀ CÁC GIẢI PHÁP CỦA NHÀ NƢỚC
NHẰM HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA
ĐÔ LA HÓA VỚI NỀN KINH TẾ
Giảng viên hƣớng dẫn : Th.s Chu Thị Thu Thủy
Sinh viên thực hiện : Lê Thị Phƣơng Dung
Mã sinh viên : A14893
Chuyên ngành : Tài chính
HÀ NỘI - 2014
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo, cô giáo trường Đại học Thăng Long, đặc
biệt là sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo Chu Thị Thu Thủy đã tận tình giúp đỡ em
hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Vì giới hạn kiến thức và khả năng lập luận của bản thân còn nhiều hạn chế nên
bài luận văn không tránh khỏi thiếu sót. Em kính mong sự thông cảm cũng như mong
nhận được sự góp ý, bổ sung của các thầy cô và Công ty để đề tài của em được đầy đủ
và hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 25 tháng 3 năm 2014
Sinh viên
Lê Thị Phƣơng Dung
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp này là do tự bản thân thực hiện
có sự hỗ trợ từ giáo viên hướng dẫn và không sao chép các công trình nghiên
cứu của người khác. Các dữ liệu thông tin thứ cấp sử dụng trong Khóa luận là có
nguồn gốc và được trích dẫn rõ ràng.
Em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này!
Sinh viên
Lê Thị Phƣơng Dung
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÔ LA HÓA VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA ĐÔ
LA HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ 1
1.1. Khái niệm, phân loại và tiêu chí đo lƣờng Đô la hóa 1
1.1.1. Khái niêm Đô la hóa 1
1.1.2. Nguồn gốc của Đô la hóa 2
1.1.3. Phân loại Đô la hóa 3
1.1.4. Chỉ tiêu đánh giá tình trạng Đô la hóa 5
1.2. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng Đô la hóa 7
1.2.1. Mức độ phát triển của nền kinh tế và tâm lý người dân 7
1.2.2. Hệ thống ngân hàng 8
1.2.3. Chính sách tiền tệ 9
1.2.4. Khả năng chuyển đổi đồng nội tệ của quốc gia 10
1.3. Những ảnh hƣởng của hiện tƣợng Đô la hóa tới nền kinh tế 10
1.3.1. Ảnh hưởng tích cực của Đô la hóa 10
1.3.2. Ảnh hưởng tiêu cực của Đô la hóa 12
1.4. Thực trạng Đô la hoá trên thế giới 14
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG ĐÔ LA HÓA TẠI VIỆT NAM 17
2.1. Tình hình kinh tế Việt Nam và quá trình xâm nhập của đồng Đô la vào nƣớc
ta. 17
2.1.1. Tình hình kinh tế Việt Nam 17
2.1.2. Những con đường đồng Đô la xâm nhập vào Việt Nam. 17
2.2. Đô la hóa tại Việt Nam qua các giai đoạn theo mốc thời gian 23
2.2.1. Giai đoạn trước khi tiến hành mở cửa (trước năm 1988) 23
2.2.2. Giai đoạn từ sau khi tiến hành mở cửa đến khủng hoảng tài chính khu vực
(từ 1988 đến 1997) 24
2.2.3. Giai đoạn từ khủng hoảng tài chính khu vực đến trước khủng hoảng kinh tế
thế giới (từ 1998 đến 2007) 25
2.2.4. Thực trạng Đô la hóa ở Việt Nam 30
2.2.5. Biểu hiện Đô la hóa ở Việt Nam 32
2.2.6. Nguyên nhân của hiện tượng Đô la hóa tại Việt nam 38
2.3. Ảnh hƣởng của tình trạng Đô la hóa đến nền kinh tế Việt Nam 44
2.3.1. Tác động tích cực 44
2.3.2. Những tác động tiêu cực của Đô la hoá: 46
CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC ẢNH HƢỞNG TIÊU CỰC CỦA TÌNH
TRẠNG ĐÔ LA HÓA VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 52
3.1. Tình hình thực tế và các biện pháp của chính phủ với tình trạng Đô la hóa
nền kinh tế Việt Nam 52
3.1.1. Tình hình thực tế của nước ta hiện nay 52
3.1.2. Các biện pháp chính phủ Việt Nam áp dụng để giảm tình trạng Đô la hóa tại
nước ta trong giai đoạn qua. 53
3.2. Một số kiến nghị để giải quyết tình trạng Đô la hóa ở Việt Nam 54
3.2.1. Một số kiến nghị để tận dụng tác động tích cực của tình trạng Đô la hóa ở
Việt Nam 54
3.2.2. Một số kiến nghị nhằm hạn chế các tác động tiêu cực của tình trạng Đô la
hóa 55
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC VIẾT TẮT
Ký hiệu viết tắt
Tên đầy đủ
ADP
Ngân hàng phát triển Châu Á
NH
Ngân hàng
NHNN
NHTM
Ngân hàng nhà nước
Ngân hang thương mại
TCTD
Tổ chức tín dụng
VND
Việt Nam đồng
USD
Đồng Đô la mỹ
WB
Ngân hàng thế giới
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Giá trị tổng kim ngạch của Việt Nam với Hoa Kỳ giai đoạn 2010-2013 . 19
Biểu đồ 2.2: Tình hình sử đầu tư vốn FDI vào 20
Biểu đồ 2.3: Lượng kiều hối về Việt Nam qua các năm 22
Biểu đồ 2.4: Lượng kiều hối về Việt Nam qua các năm 23
Biểu đồ 2.5: Biểu đồ thể hiện lượng tiền gửi ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng qua các
năm (1995 – 2012) 33
Biểu đồ 2.6: FCD/M2 của Việt Nam giai đoạn 1995 - 2013 35
Biểu đồ 2.7: So sánh tỷ lệ FCD/M2 giữa Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn Q1/2002
–Q1/2010 37
Biểu đồ 2.8: Biểu đồ thể hiện chỉ số CPI của Việt Nam qua các năm (1993 – 2013) 39
Biểu đồ 2.9: Biểu đồ thể hiện lượng kiều hối về Việt Nam qua các năm (1991 – 2010)
42
Biểu đồ 2.10: Biểu đồ thể hiện lượng khách du lịch tới Việt Nam qua các năm (1995 –
2010) 42
Bảng 2.1: Bảng thống kê lượng kiều hối gửi về Việt Nam qua các năm 21
Bảng 2.2: Số liệu thống kê tỷ lệ FCD/M2 giai đoạn 1995 đến 1997 25
Bảng 2.3: Số liệu thống kê tỷ lệ FCD/M2 giai đoạn 1998 đến 2001 26
Bảng 2.4: Số liệu thống kê tỷ lệ FCD/M2 giai đoạn 1998 đến 2001 27
Bảng 2.5: Số liệu thống kê tỷ lệ FCD/M2 giai đoạn 1998 đến 2001 28
Bảng 2.6: Chỉ số FCD/M2 từ năm 1995 đến 2012 30
Bảng 2.7: Thống kê CPI của Việt Nam qua các năm 1993 đến 2013 40
Bảng 2.8 Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam từ năm 1995 đến nay 43
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện tượng Đô la hóa bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong đó tiền
tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là Đô la Mỹ, được sử dụng trong giao lưu
quốc tế làm vai trò của "tiền tệ thế giới". Cho nên người ta thường gọi hiện tượng
ngoại tệ hóa là "Đô la hóa". Để có một cách đánh giá tổng quát hơn về tình trạng Đô la
hoá, cũng như tìm ra những giải pháp khắc phục tình trạng Đô la hoá ở Việt Nam là
vấn đề cần thiết và cấp bách, đó là lý do em chọn đề tài: “THỰC TRẠNG ĐÔ LA
HÓA HIỆN NAY Ở VIỆT NAM VÀ CÁC GIẢI PHÁP CỦA NHÀ NƯỚC NHẰM
HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA ĐÔ LA HÓA VỚI NỀN KINH TẾ” làm đề
tài cho khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục tiêu của đề tài
Trong đề tài này, em sẽ đề cập đến chủ yếu là các tác động của vấn đề Đô la hóa
tại Việt Nam, bên cạnh đó là các biện pháp mà ngân hàng nhà nước Việt Nam cùng Bộ
Tài Chính đưa ra nhằm tránh các ảnh hưởng tiêu cực của Đô la hóa với nền kinh tế,
cùng các phân tích nhận định cá nhân về vấn đề này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài này, em chỉ nghiên cứu nền kinh tế bị Đô la hóa bằng đồng
USD mà cụ thể là nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn từ sau cải cách kinh tế đến
nay. Kết cấu đề tài gồm 3 phần:
Phần 1: Lý luận chung về thực trạng Đô la hóa và ảnh hƣởng của nó đối với
nền kinh tế.
Phần 2: Thực trạng Đô la hóa tại Việt Nam và những ảnh hƣởng của nó.
Phần 3: Giải pháp khắc phục ảnh hƣởng tiêu cực của hiện tƣợng Đô la hóa
tới nền kinh tế Việt Nam.
1
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÔ LA HÓA VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA ĐÔ
LA HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ
1.1. Khái niệm, phân loại và tiêu chí đo lƣờng Đô la hóa
1.1.1. Khái niêm Đô la hóa
Đô la hoá có thể hiểu một cách thông thường là trong một nền kinh tế khi ngoại
tệ được sử dụng một cách rộng rãi thay thế cho đồng bản tệ trong toàn bộ hoặc một số
chức năng tiền tệ, nền kinh tế đó bị coi là Đô la hoá toàn bộ hoặc một phần. (Nguồn:
wikipedia.org)
Theo Quyết định 98/2007/QĐ-TT của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
Đề Án nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục tình trạng Đô la
hoá trong nền kinh tế ban hành ngày 04/07/2007 có đưa ra khái niệm: khi ngoại tệ
được sử dụng rộng rãi trong một quốc gia để thay thế một hay nhiều chức năng của nội
tệ thì nền kinh tế đó gọi là bị Đô la hoá.
Theo tiêu chí của IMF đưa ra, một nền kinh tế được coi là có tình trạng Đô la hoá
cao khi mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong tổng khối tiền tệ
mở rộng (M2); bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có
kỳ hạn, và tiền gửi ngoại tệ. Theo đánh giá của IMF năm 1998 trường hợp Đô la hoá
cao có 19 nước, trường hợp Đô la hoá cao vừa phải với tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/M2
khoảng 16,4% có 35 nước, trong số đó có Việt Nam.
Đô la hoá được phân ra làm 3 loại: Đô la hoá không chính thức (unofficial
Dollarization), Đô la hoá bán chính thức (semiofficial dollarization), và Đô la hoá
chính thức (official dollarization).
- Đô la hoá không chính thức là trường hợp đồng Đô la được sử dụng rộng rãi
trong nền kinh tế, mặc dù không được quốc gia đó chính thức thừa nhận.
Đô la hoá không chính thức có thể bao gồm các loại sau:
• Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài.
• Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài.
• Tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng trong nước.
• Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi.
- Đô la hoá bán chính thức là những nước có hệ thống lưu hành chính thức hai
đồng tiền. Ở những nước này, đồng ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp, và thậm
chí có thể chiếm ưu thế trong các khoản tiền gửi ngân hàng, nhưng đóng vai trò thứ
cấp trong việc trả lương, thuế và những chi tiêu hàng ngày. Các nước này vẫn duy trì
một ngân hàng trung ương để thực hiện chính sách tiền tệ của họ.
- Đô la hoá chính thức (hay còn gọi là Đô la hoá hoàn toàn) xảy ra khi đồng
ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành.Nghĩa là đồng ngoại tệ không
chỉ được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân, mà còn hợp pháp
2
trong các khoản thanh toán của Chính phủ. Nếu đồng nội tệ còn tồn tại thì nó chỉ có
vai trò thứ yếu và thường chỉ là những đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ.
Thông thường các nước chỉ áp dụng Đô la hoá chính thức sau khi đã thất bại trong
việc thực thi các chương trình ổn định kinh tế.
Đô la hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có một hoặc hai đồng ngoại tệ được
lưu hành hợp pháp.Tuy nhiên, các nước Đô la hoá chính thức thường chỉ chọn một
đồng ngoại tệ làm đồng tiền hợp pháp.
Theo nghiên cứu của Hệ thống dự trữ Liên bang Mỹ, hiện tại người nước ngoài
nắm giữ từ 55% đến 70% tổng số Đô la Mỹ đang lưu hành trên thế giới.
1.1.2. Nguồn gốc của Đô la hóa
Đô la hoá là hiện tượng phổ biến xảy ra ở nhiều nước, đặc biệt là ở các nước
chậm phát triển.
Một là, Đô la hoá thường gặp khi một nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao, sức mua
của đồng bản tệ giảm sút thì người dân phải tìm các công cụ dự trữ giá trị khác, trong
đó có các đồng ngoại tệ có uy tín. Song song với chức năng làm phương tiện cất giữ
giá trị, dần dần đồng ngoại tệ sẽ cạnh tranh với đồng nội tệ trong chức năng làm
phương tiện thanh toán hay làm thước đo giá trị. Tình trạng Đô la hoá bao gồm cả ba
chức năng thuộc tính của tiền tệ, đó là:
• Chức năng làm phương tiện thước đo giá trị.
• Chức năng làm phương tiện cất giữ.
• Chức năng làm phương tiện thanh toán.
Thứ hai, hiện tượng Đô la hoá bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong
đó tiền tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là Đô la Mỹ, được sử dụng trong
giao lưu quốc tế làm vai trò của "tiền tệ thế giới". Nói cách khác, Đô la Mỹ là một loại
tiền mạnh, ổn định, được tự do chuyển đổi đã được lứu hành khắp thế giới và từ đầu
thế kỷ XX đã dần thay thế vàng, thực hiện vai trò tiền tệ thế giới. Ngoài đồng Đô la
Mỹ, còn có một số đồng tiền của các quốc gia khác cũng được quốc tế hoá như: bảng
Anh, mác Đức, yên Nhật, Franc Thuỵ Sỹ, euro của EU nhưng vị thế của các đồng
tiền này trong giao lưu quốc tế không lớn; chỉ có Đô la Mỹ là chiếm tỷ trọng cao nhất
(khoảng 70% kim ngạch giao dịch thương mại thế giới). Cho nên người ta thường gọi
hiện tượng ngoại tệ hoá là "Đô la hoá".
Thứ ba, trong điều kiện của thế giới ngày nay, hầu hết các nước đều thực thi cơ
chế kinh tế thị trường mở cửa; quá trình quốc tế hoá giao lưu thương mại, đầu tư và
hợp tác kinh tế ngày càng tác động trực tiếp vào nền kinh tế và tiền tệ của mỗi nước,
nên trong từng nước xuất hiện nhu cầu khách quan sử dụng đơn vị tiền tệ thế giới để
thực hiện một số chức năng của tiền tệ. Đô la hoá ở đây có khi là nhu cầu, trở thành
thói quen thông lệ ở các nước.
3
Thứ tư, mức độ Đô la hoá ở mỗi nước khác nhau phụ thuộc vào trình độ phát
triển nền kinh tế, trình độ dân trí và tâm lý người dân, trình độ phát triển của hệ thống
ngân hàng, chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối, khả năng chuyển đổi của
đồng tiền quốc gia. Những yếu tố nói trên ở mức độ càng thấp thì quốc gia đó sẽ có
mức độ Đô la hoá càng cao.
1.1.3. Phân loại Đô la hóa
Về cơ bản, Đô la hoá gồm ba loại chính là: Đô la hoá không chính thức, Đô la
hoá bán chính thức, và Đô la hoá chính thức:
1.1.3.1. Đô la hóa không chính thức (unofficial dollarization):
Là trường hợp đồng USD được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế, mặc dù không
được quốc gia đó chính thức thừa nhận. Đô la hóa không chính thức có thể bao gồm
các loại sau:
- Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài.
- Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài.
- Tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng trong nước.
- Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi.
Đô la hoá không chính thức được chia làm 3 giai đoạn
Giai đoạn đầu các nhà kinh tế thường gọi là giai đoạn” thay thế tài sản”.Trong
giai đoạn này , người dân giữ trái phiếu ngoại tệ và các khoản tiền gửi ở nước ngoài
như một phương tiện cất trữ nhằm tránh việc giảm giá trị tài sản do lạm phát ở trong
nước hay việc tịch thu tài sản sung công mà một số nước đã làm.
Giai đoạn thứ hai các nhà kinh tế gọi là giai đoạn “thay thế tiền tệ”.Trong giai
đoạn này, người dân giữ một khối lượng lớn các trái phiếu ngoại tệ và tiền gửi ngoại tệ
tại hệ thống ngân hàng trong nước (nếu được phép).Ngoại tệ vừa thực hiện chức năng
là phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ.Tiền lương, thuế hay những chi tiêu
hàng ngày như hàng tạp phẩm hay các hoá đơn điện được thanh toán bằng nôị tệ,
nhưng với những giá trị tài sản hơn như ô tô và những nhà cửa thường được trả bằng
ngoại tệ.
Trong giai đoạn cuối cùng của Đô la hoá không chính thức giá cả của các hàng
hóa được tính bằng nội tệ nhưng mọi ngươì đều liên tưởng đến ngoại tệ theo tỷ giá hối
đoái. Đô la hoá không chính thức rất phổ biến ở các nước đang phát triển.
1.1.3.2. Đô la hóa bán chính thức (Đô la hóa từng phần) (semiofficial
dollarization):
Là trường hợp những nước có hệ thống lưu hành chính thức hai đồng tiền: đồng
ngoại tệ và đồng tiền bản tệ. Chính phủ các nước này không chính thức công nhận Đô
la hóa bằng việc dùng USD (hoặc một ngoại tệ mạnh khác) thay cho bản tệ, nhưng cho
phép khu vực kinh tế bị Đô la hóa tồn tại song song với khu vực kinh tế sử dụng bản
4
tệ. Biểu hiện của nó là việc dân chúng có thể gửi tiền ở ngân hàng bằng ngoại tệ hoặc
cất trữ Đô la tiền mặt nhưng vẫn tiếp tục ưa thích nắm giữ và thanh toán bằng Đô la
trong lĩnh vực mua bán hàng ngày. Đó như là một hành động thay thế tài sản vì dân
chúng luôn muốn đảm bảo an toàn cho tài sản của mình nhất là trong tình trạng hệ
thống tiền tệ chưa ổn định, lạm phát dễ xảy ra với đồng nội tệ. Lúc này dân chúng có
thể cất trữ tài sản của mình dưới nhiều hình thức: chứng khóan nước ngoài hoặc bất cứ
tài sản nào của nước ngoài, tiền gửi ngoại tệ ở nước ngoài, tiền gửi ngoại tệ tại các
ngân hàng trong nước hay ngoại tệ mặt (foreign bank note). Hành động gửi tiền bằng
ngoại tệ vào ngân hàng là một dạng Đô la hóa nền kinh tế (Đô la hóa tiền gửi ở các
ngân hàng trong nước).Đồng ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp, và thậm chí có
thể chiếm ưu thế trong các khoản tiền gửi ngân hàng, nhưng đóng vai trò thứ cấp trong
việc trả lương, thuế và những chi tiêu hàng ngày.Các nước này vẫn duy trì một ngân
hàng trung ương để thực hiện chính sách tiền tệ của họ.
Khoảng 12 nước trên thế giới được IMF xếp là các nước “Đô la hoá bán chính
thức” hay có hệ thống lưu hành chính thứ hai đồng tiền. Đối với các nước này đồng
ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp và thậm chí có thể chiếm ưu thế trong các
khoản tiền gửi ngân hàng , nhưng đóng vai trò thứ cấp trong việc trả lương, thuế và
những chi tiêu hàng ngày. Ví dụ như Bahamas ,Cambodia, Thailand, Liberia không
giống như các nước có Đô la hoá chính thức, các nước Đô la hoá bán chính thức duy
trì NHTƯ (một cơ quan tiền tệ) có quyền hạn tương tự để thực hiện chính sách tiền tệ
của họ.
1.1.3.3. Đô la hóa chính thức (hay còn gọi là Đô la hóa hoàn toàn) (official
dollarization):
Là trường hợp khi mà đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu
hành. Nếu một quốc gia thực hiện Đô la hóa chính thức có nghĩa là quốc gia đó đơn
phương lấy Đô la Mỹ (hoặc một ngoại tệ mạnh nào đó) làm phương tiện thanh toán,
tích trữ tài sản, và đơn vị tính toán thay cho bản tệ (đồng tiền riêng của nước đó).
Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các
bên tư nhân, mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán của Chính phủ. Theo đó,
toàn bộ tài sản Có, tài sản Nợ, các hợp đồng giao dịch, giá cả hàng hóa và dịch vụ, tiền
lương sẽ, hoàn toàn (hoặc một phần), được niêm yết bằng (hoặc gán theo) USD một
cách công khai hoặc ngầm định. Thông thường các nước chỉ áp dụng Đô la hóa chính
thức sau khi đã thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn định kinh tế và thường
chỉ chọn 1 ngoại tệ làm đồng tiền hợp pháp.
Hay còn được gọi là Đô la hoá hoàn toàn xuất hiện khi đồng ngoại tệ là đồng tiền
hợp pháp duy nhất được lưu hành ;là trường hợp mà một quốc gia chính thức từ bỏ
đồng bản tệ và sử dụng một đồng tiền (ngoại tệ ) ổn định hơn làm đồng tiền pháp định.
5
Nghĩa là đồng tiền ngoại tệ này không chỉ được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng
giữa các bên tư nhân mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán của Chính phủ. Nếu
đồng nội tệ còn tồn tại thì nó chỉ đóng vai trò là thứ yếu và thường chỉ là những đồng
tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ .
Đô la hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có một hai đồng ngoại tệ được lưu
hành hợp pháp .Tuy nhiên, các nước Đô la hoá chính thức thường chỉ chọn một đồng
ngoại tệ làm đồng tiền hợp pháp, nhưng chỉ có Andorra dùng cả đồng Franc của Pháp
và đồng Pezota của Tây Ban Nha. Hầu hết các nước Đô la hoá chính thức, các đối tác
tư nhân được phép kí hợp đồng bằng bất cứ loại tiền nào mà họ cùng đồng ý .
Theo IMF, hiện nay có khoảng 14 nước được xếp là các nước Đô la hoá chính
thức; ví dụ như Palama, Ecuador. Trên thực tế, những nước này chỉ áp dụng Đô la hoá
hoàn toàn sau khi thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn định kinh tế. Điểm
hấp dẫn chủ yếu của Đô la hoá hoàn toàn là loại trừ rủi ro của việc phá giá tiền tệ đột
ngột và phá giá mạnh.
1.1.4. Chỉ tiêu đánh giá tình trạng Đô la hóa
Để đánh giá được các tác động của Đô la hóa xem trường hợp nào là tự nhiên,
trường hợp nào đáng báo động, trường hợp nào có lợi, trường hợp nào có hại, chúng ta
phải lượng hóa được mức độ Đô la hóa của nền kinh tế.
Về mặt định tính, mức độ Đô la hóa thể hiện ở cả ba chức năng của tiền tệ đều có
thể nhận thức hoặc quan sát được. Để đo lường chính xác tỉ lệ Đô la hóa của một nền
kinh tế đòi hỏi phải đánh giá theo cả ba chức năng của tiền tệ:
- Tỷ lệ dự trữ ngoại tệ của nền kinh tế trên tổng dự trữ của nền kinh tế.
- Tỷ lệ thanh toán bằng ngoại tệ trên tổng khối lượng thanh toán
- Tỷ lệ các giao dịch được niêm yết, định giá bằng ngoại tệ trên tổng khối lượng
thanh toán
Tuy nhiên, việc lượng hóa được thành phần thứ hai và thứ ba là rất khó khăn ở
các nước đang phát triển, khi các nước này hiện tượng thanh toán bằng tiền mặt diễn ra
khá phổ biến. Trong các trường hợp này, hầu hết các nhà kinh tế và chuyên gia kinh tế
mới chỉ dừng lại ở việc lượng hóa tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng tiền gửi và so với
tổng phương tiện thanh toán (hay lượng cung ứng tiền mở rộng) ở nước đó để thấy
được mức độ thay thế chức năng cất trữ trong hệ thống ngân hàng và vai trò của ngoại
tệ trong tổng giao dịch của nền kinh tế.
Với việc tiếp cận này, IMF đã đưa ra cách tính mức độ Đô la hóa của một nền
kinh tế bằng tỷ lệ giữa lượng tiền gửi ngoại tệ tại các ngân hàng so với lượng cung ứng
tiền mở rộng (M2).
Mức độ Đô la hóa
=
FCD
M2
6
FCD: là lượng tiền ngoại tệ gửi tại các ngân hàng.
Lượng tiền M0 là tiền do ngân hàng quốc gia tạo nên, bao gồm các khoản tiền
gửi không kỳ hạn của các ngân hàng tại ngân hàng quốc gia và tiền giấy cũng như tiền
kim loại trong lưu hành. Lượng tiền này chịu ảnh hưởng trực tiếp của ngân hàng quốc
gia.Lượng tiền M1 bao gồm M0 và các tiền có thể sử dụng làm phương tiện thanh toán
tức là tiền mặt.Lượng tiền M2 (còn gọi là tiền rộng) bao gồm lượng tiền M1 và các
khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn dưới 4 năm.
Tiêu thức này được nhiều chuyên gia sử dụng và có thuận lợi đối với các nước có
hệ thống ngân hàng phát triển ở trình độ cao, hoạt động có hiệu quả, lượng tiền mặt do
các chủ thể kinh tế nắm giữ không đáng kể so với tiền gửi ngân hàng. Theo cách tính
này, một nền kinh tế có tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ so với tổng phương tiện thanh toán lớn
hơn 30% thì nền kinh tế đó được coi là bị Đô la hóa cao.
Các chuyên gia của IMF cho rằng nếu tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ so với lượng
tiền cung ứng M2 lớn hơn 30% thì có nghĩa là hiện tượng Đô la hóa đã có tác động ở
một mức độ nào đó đến chính sách tiền tệ của một quốc gia và cần được các nhà hoạch
định chính sách lưu ý. Tuy nhiên, các chuyên gia cũng thừa nhận là cụm từ “ ở một
mức nào đó” còn chưa rõ ràng là do ở nhiều nước có tỷ lệ Đô la hóa cao hơn nhưng
chính sách tiền tệ vẫn tỏ ra vững vàng.
Để đánh giá mức độ ưa chuộng loại tiền trong chức năng thay thế tài sản, người
ta thường quan sát tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng số tiền gửi của các chủ thể kinh tế
tại ngân hàng. Phương pháp này tuy đơn giản nhưng không chính xác đối với những
quốc gia có tỷ lệ sử dụng tiền mặt cao, việc tính toán lượng tiền mặt do các chủ thể
kinh tế nắm giữ để giự trữ giá trị và để thanh toán chiếm tỷ trọng lớn.
Đối với các nước đang phát triển, mặc dù khó có thể lượng hóa được ngoại tệ
được sử dụng như thế nào trong chức năng thanh toán, cất trữ tiền mặt hay định giá
nhưng các nhà kinh tế cũng cho rằng để đánh giá mức độ Đô la hóa thực tế của các
nước này, cần phải lượng hóa được khối tiền mặt ngoại tệ trôi nổi trên thị trường ngoại
tệ phí chính thức hay còn gọi là thị trường ngoại hối phi chính thức và các đặc trưng
của thị trường này để thấy được vai trò của thị trường này so với thị trường chính thức
và thấy được các chức năng thay thế thanh toán, tính toán giá trị của đồng ngoại tệ.
Do vậy, ngoài tiêu thức tiền gửi ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán cao
hơn 30%, có thể đưa ra một số dấu hiệu bổ trợ khi nhận dạng một nền kinh tế được coi
là Đô la hóa cao:
- Số ngoại tệ trôi nổi ngoài lưu thông là tương đối lớn so với tổng phương tiện
thanh toán.
- Hiện tượng định giá bằng ngoại tệ và thanh toán bằng ngoại tệ diễn ra phổ biến.
7
- Hoạt động thanh toán bằng ngoại tệ của các nước có cùng biên giới diễn ra sôi
nổi và ít dùng bằng đồng bản tệ.
Cũng giống như các nước đang phát triển khác, mặc dù theo quy định, các tổ
chức và các nhân không được phép mua bán, thanh toán, cho vay bằng ngoại tệ, đặc
biệt là ngoài hệ thống ngân hàng nhưng thực tế chưa kiểm soát được vì nhiều lý do vì
vậy, ở Việt Nam vẫn có hiện tượng sử dụng ngoại tệ tiền mặt để phục vụ cho việc
thanh toán và sử dụng trong buôn lậu, nên ngoài việc đánh giá mức độ Đô la hóa tiền
gửi và tiền vay tại hệ thống ngân hàng thì phải đề cập đến việc dự báo, tính toán khối
lượng tiền mặt ngoại tệ trôi nổi ngoài thị trường phi chính thức và các đặc trưng của
thị trường này.
1.2. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng Đô la hóa
Quyết định Đô la hoá một phần là do đất nước đang phải đối đầu với tỷ lệ lạm
phát không thể kiểm soát nổi và phá giá đồng nội tệ sẽ đe dọa toàn bộ nền kinh tế.
Những người đang có trong tay đồng nội tệ sẽ đòi một lãi suất rất cao để bù vào
khoản trượt giá. NHTW sẽ tăng lãi suất để bảo vệ đồng nội tệ khỏi bị trượt giá quá
nhanh.
Trong hoàn cảnh nghiêm trọng như vậy, rất nhiều nhà kinh doanh sẽ vay bằng
ngoại tệ với lãi suất thấp.Việc người dân mất niềm tin vào đồng nội tệ và đổ xô đi mua
Đô la sẽ làm cho đồng nội tệ càng mất giá hơn.Bất chấp lãi suất cao, người dân vẫn
giảm gửi tiền tiết kiệm bằng nội tệ và nhiều nhà kinh doanh sẽ chuyển vốn của họ ra
nước ngoài.
Bản thân Đô la hoá khi được sử dụng như một hệ thống hối đoái, không đảm bảo
được sự ổn định và tốc độ phát triển kinh tế. Khi một nước quyết định Đô la hoá, nước
này chấp nhận chính sách tiền tệ của Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) và vì vậy sẽ hoàn
toàn được giải thoát khỏi chu kì lạm phát và sự sụt giá của đồng tiền. Có thể chia
nguyên nhân của tình trạng Đô la hóa theo các yếu tố sau:
1.2.1. Mức độ phát triển của nền kinh tế và tâm lý người dân
1.2.1.1. Sự yếu kém của nền kinh tế
Đô la hóa là hiện tượng phổ biến xảy ra ở nhiều nước, đặc biệt là ở các nước
chậm phát triển.
- Tốc độ tăng GDP thấp hơn tỷ lệ lạm phát hàng năm.
- Thâm hụt ngân sách lớn, thâm hụt thương mại cao, mức 5-10% GDP đã là
đáng lo ngại đối với quốc tế.
- Thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai.
- Nợ nước ngoài/GDP chiếm tỷ trọng lớn.
- Tệ nạn tham nhũng ngày càng trầm trọng.
8
Xét về mặt lý thuyết và học thuật thì nguyên nhân căn bản nhất của tình trạng Đô
la hóa là đồng bản tệ không thể cạnh tranh được với đồng ngoại tệ trong việc thực hiện
một, hai hoặc cả ba chức năng của tiền tệ. Nói chung các quốc gia đều khuyến khích
(bắt buộc) người dân sử dụng đồng bản tệ. Tuy nhiên khi lựa chọn giữa đồng bản tệ và
đồng ngoại tệ, các chủ thể kinh tế sẽ lựa chọn đồng tiền nào thực hiện tốt hơn các chức
năng của tiền tệ.
1.2.1.2. Lạm phát cao và kéo dài
Trong những nền kinh tế của các nước kém phát triển, giá trị đồng bản tệ có xu
hướng giảm giá so với USD và các đồng tiền mạnh khác trên thế giới thì trong ba chức
năng của tiền tệ, chức năng dự trữ giá trị của tiền tệ luôn được xem xét đầu tiên khi
quyết định danh mục đầu tư tài sản chính. Một nền kinh tế mở với các chính sách
ngoại hối cho phép dân chúngđược phép mua bán và cất trữ ngoại tệ , khi có lạm phát
cao, kéo dài đặc biệt là do nhà nước phát hành quá nhiều tiền giấy để khắc phục thâm
hụt ngân sách, giá cả hàng hóa và dịch vụ tăng cao, đồng nội tệ bị mất giá, sức mua
giảm sút thì dân chúng sẽ không dự trữ bằng đồng bản tệ mà thường đầu tư bằng ngoại
tệ mạnh để đảm bảo giá trị tài sản của họ.
1.2.1.3. Yếu tố tâm lý
Một nguyên nhân chính được nhiều người công nhận là do nhu cầu phòng chống
rủi ro các loại, trong đó có rủi ro do lạm phát và bản tệ bị mất giá so với ngoại tệ, rủi
ro sụp đổ một thể chế tiền tệ, rủi ro gắn với sự yếu kém của các cơ quan chức năng của
chính phủ mà vì đó, chính phủ không thể đưa ra những cam kết về ổn định và an toàn
của hệ thống và thể chế kinh tế. Đô la hóa thường gặp khi một nền kinh tế có tỷ lệ lạm
phát cao, đồng nội tệ bị mất giá thì người dân phải tìm các công cụ dự trữ giá trị khác,
trong đó có các đồng ngoại tệ có uy tín. Với chức năng ban đầu làm phương tiện cất
giữ giá trị, dần dần đồng ngoại tệ sẽ cạnh tranh với đồng nội tệ trong chức năng làm
phương tiện thanh toán hay làm thước đo giá trị.
Trình độ dân trí, cùng tâm lí của người dân.Các nước có trình độ chưa cao, người
dân còn có thói quen nắm giữ vàng và Đô la, thì thường là nền kinh tế có mức độ Đô
la hoá cao.
1.2.2. Hệ thống ngân hàng
Tại một số nước, thanh toán bằng đồng bản tệ đôi khi còn gặp khó khăn do hệ
thống ngân hàng kém phát triển, hoạt động thanh toán chủ yếu được thực hiện bằng
tiền mặt và với các nước có mệnh giá nhỏ thì hoạt động thanh toán tiền mặt bằng ngoại
tệ sẽ phát triển làm gia tang hiện tượng Đô la hoá thay thế thanh toán.
Trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng nhất là hoạt động thanh toán rõ ràng
là khi hệ thống ngân hành còn non trẻ, hoạt động thanh toán chưa phát triển công nghệ
thanh toán còn lạc hậu, thì thường là có tình trạng Đô la hoá nền kinh tế.
9
Tín dụng ngoại tệ, bao gồm các nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay bằng ngoại
tệ, là đặc trưng của các hoạt động ngân hàng hải ngoại (Eurobankings), việc tăng tín
dụng ngoại tệ cũng làm gia tăng tình trạng Đô la hoá. Mục đích đầu tiên của các
NHTM thực hiện các hoạt động Eurobankings chính là lợi ích „siêu ngạch‟ và tránh sự
kiểm soát của NHNN. Nhưng khi các nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay bằng ngoại
tệ được thực hiện thì nền kinh tế đã đứng trước khả năng bị Đô la hoá (Dollarization),
nhất là khi đồng bản tệ không được tin tưởng và ưa chuộng do những khó khăn về tăng
trưởng kinh tế và sự yếu kém trong quản lý vĩ mô của đa số các nước đang phát triển.
Để có thể cho vay ngoại tệ, các NHTM phải huy động tiền gửi bằng ngoại tệ, làm
gia tăng tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ (FCD) trong tổng khối lượng tiền mở rộng
(M2) và tạo ra động cơ đầu cơ cũng như sự tồn tại lưu lượng ngoại tệ trôi nổi trên thị
trường tự do. Lưu lượng ngoại tệ này chính là „vật cản‟ làm giảm hiệu lực và hiệu quả
của các công cụ điều tiết vĩ mô. Mỗi khi NHNN vận hành chính sách tiền tệ, thắt chặt
hay nới lỏng mức cung tiền để giảm lạm phát hay thúc đẩy tăng trưởng, lượng ngoại tệ
sẽ được „đẩy‟ vào (Inflows) hay „hút‟ ra (Outflows), thế chỗ cho sự thay đổi trong mức
cung nội tệvà làm giảm hiệu lực, thậm chí vô hiệu hóa sự điều chỉnh của NHNN.
1.2.3. Chính sách tiền tệ
1.2.3.1. Việc điều hành chính sách tỷ giá hối đoái và chính sách lãi suất thiếu đồng
bộ.
Đối với tình trạng Đô la hóa thay thế thanh toán, khi các chủ thể kinh tế đã có
một dự trữ khá lớn đồng ngoại tệ, giá trị đồng bản tệ vẫn không ổn định thì chức năng
đơn vị tính toán và phương tiện thanh toán của đồng nội tệ cũng sẽ dần được đồng nội
tệ chiếm lĩnh. Băt đầu từ những hoạt động kinh tế đối ngoại như xuất nhập khẩu, đầu
tư, vay nợ. Trong bối cảnh tỷ giá hối đoái biến động, các doanh nghiệp kinh doanh
hàng nhập khẩu có xu hướng định giá hàng hóa bán trong nước (công khai hoặc ngầm
quy đổi tùy thuộc chính sách quản lý ngoại hối) bằng ngoại tệ để tránh rủi ro về tỷ giá
hối đoái.Từ lĩnh vực này mà ngoại tệ sẽ dần chiếm lĩnh vai trò tiền tệ trong các lĩnh
vực khác của kinh tế.
Đối với Đô la hóa thay thế tài sản, xét trong giai đoạn tỷ giá ổn định, nếu mức lãi
suất của đồng ngoại tệ bằng mức lãi suất của đồng bản tệ thì chủ tài sản vẫn muốn giữ
tài sản dưới hình thức ngoại tệ do khả năng thanh toán quốc tế và khả năng chuyển
đổi. Chính vì vậy các chủ tài sản chỉ ngừng các nỗ lực chuyển đổi hình thức tài sản
sang ngoại tệ khi mức chênh lệch lãi suất giữa đồng bản tệ và ngoại tệ là dương và đủ
bù đắp sự mất mát lợi ích về khả năng thanh toán quốc tế.
1.2.3.2. Chính sách ngoại hối lỏng lẻo
Đô la hoá bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong đó tiền tệ của một số
quốc gia đang phát triển, đặc biệt là Đô la Mỹ, được sử dụng trong giao lưu quốc tế
10
làm vai trò của “tiền tệ thế giới”. Nói cách khác Đô la Mỹ là một loại tiền mạnh, được
tự do chuyển đổi đã được lưu hành khắp thế giới và từ đầu thế kỷ XX đã dần thay thế
vàng, thực hiện vai trò tiền tệ thế giới.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay, hầu hết các nước đều thực thi
cơ chế kinh tế thị trường mở cửa, quá trình quốc tế hoá, giao lưu thương mại, đầu tư và
hợp tác kinh tế ngày càng tác động trực tiếp vào nên kinh tế và tiền tệ của mỗi nước,
nên trong từng nước xuất hiện nhu cầu khách quan sử dụng đơn vị tiền tệ thế giới để
thực hiện một số chức năng của tiền tệ, Đô la hoá ở đây có khi trở thành nhu cầu, trở
thành thói quen thong lệ ở các nước.
Chính sách quản lý tiền tệ ở các nước cho phép dân chúng được cất trữ, nhận,
thanh toán, gửi, rút ra bằng ngoại tệ một cách tự do sẽ góp phần làm tăng mức độ Đô
la hoá. Cụ thể ở các nước có chính sách tiền tệ cho phép các doanh nghiệp được nhận
ngoại tệ quá rộng rãi, cho phép các ngân hàng mở bàn thu đổi ngoại tệ quá tràn lan hay
các chính sách cho phép dân chúng nhận, gửi, rút ra bằng ngoại tệ một cách dễ dàng từ
đó sẽ làm thuận tiện việc thanh toán, cất trữ ngoại tệ của dân chúng và các tổ chức
kinh tế, góp phần làm phát triển thị trường ngoại hối phí chính thức và tạo điều kiện
thuận lợi cho hiện tượng Đô la hoá gia tăng. Đặc biệt khi các chính sách tiền tệ nêu
trên không được kiểm soát để thực thi đúng quy định, hiện tượng lạm dụng các giấy
phép thu đổi ngoại tệ để kinh doanh ngoại tệ trên thị trường sẽ xảy ra, tạo điều kiện
phát triển thị trường Đô la hoá phi chính thức.
1.2.4. Khả năng chuyển đổi đồng nội tệ của quốc gia
Khi ở một nước, đồng tiền bản tệ chưa được tự do chuyển đổi, đặc biệt là tự do
chuyển đổi cán cân vãng lai thì đồng tiền bản tệ sẽ trở nên kém hấp dẫn so với ngoại tệ
và cất trữ ngoại tệ sẽ xảy ra với lý do khó có thể mua lại trong tương lại do cung ngoại
tệ chưa đáp ứng cầu ngoại tệ và kết quả là đồng ngoại tệ sẽ lấn át đồng bản tệ trong
chức năng cất trữ và hiện tượng Đô la hóa sẽ tồn tại như một hiện tượng kinh tế khách
quan
1.3. Những ảnh hƣởng của hiện tƣợng Đô la hóa tới nền kinh tế
1.3.1. Ảnh hưởng tích cực của Đô la hóa
Thứ nhất, tạo một cái van giảm áp lực đối với nền kinh tế trong những thời kỳ
lạm phát cao, bị mất cân đối và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định. Do có một
lượng lớn ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng, sẽ là một công cụ tự bảo vệ chống lại
lạm phát và là phương tiện để mua hàng hóa ở thị trường phi chính thức.
Ở các nước Đô la hóa chính thức, bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ, họ sẽ duy trì
được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp làm tăng sự an toàn đối với tài sản tư
nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa, ở những nước này ngân
hàng trung ương sẽ không còn khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát, đồng
11
thời ngân sách nhà nước sẽ không thể trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải
thâm hụt ngân sách, kỷ luật về tiền tệ và ngân sách được thắt chặt. Do vậy, các chương
trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn.
Hạ thấp lạm phát hiện tại và rủi ro về lạm phát trong tương lai cũng thấp hơn.Với
việc sử dụng đồng ngoại tệ, các nước Đô la hoá chính thức luôn được duy trì tỉ lệ lạm
phát gần với mức lạm phát thấp ở các nứơc phát hành đồng ngoại tệ lạm phát thấp tăng
sự an toàn đối với tài sản tư nhân , khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Lạm
phát thấp cũng giúp cho người nghỉ hưu, những người có thu nhập cố định và những
người nghèo có các tài khoản tại ngân hàng và bảo đảm rằng khoản tiết kiệm của họ
được duy trì giá trị.
Thứ hai, Đô la hóa cũng được cho là có tác dụng thúc đẩy phát triển ngành Ngân
hàng và nâng cao vai trò của nó trong nền kinh tế, phản ánh dưới góc độ tỷ trọng tiền
gửi trong hệ thống ngân hàng trong GDP (thuật ngữ chuyên môn gọi là “độ sâu tài
chính”) tăng lên khi có Đô la hóa. Điều này có được là do người gửi tiền thay vì
chuyển tài sản của mình bằng ngoại tệ ra nước ngoài trong bối cảnh rủi ro lạm phát
cao nay được phép, và có thể yên tâm, gửi tài sản (bằng ngoại tệ) của mình vào hệ
thống ngân hàng trong nước và hưởng lãi tính theo ngoại tệ mà không phải bận tâm
đến lạm phát của bản tệ. Nói cách khác, Đô la hóa giúp cung cấp “dinh dưỡng” nuôi
sống hệ thống ngân hàng trong nước.
Tăng cường khả năng cho vay ngoại tệ của ngân hàng. Với một lượng lớn ngoại
tệ thu được từ tiền gửi tại ngân hàng, các ngân hàng sẽ có điều kiện cho vay nền kinh
tế bằng ngoại tệ, qua đó hạn chế việc phải vay nợ nước ngoài. Đồng thời, các ngân
hàng sẽ có điều kiện mở rộng các hoạt động đối ngoại, thúc đẩy quá trình hội nhập của
thị trường trong nước với thị trường quốc tế.
Thứ ba, hạ thấp chi phí giao dịch. Ở những nước Đô la hóa chính thức, các chi
phí như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền
khác được xoá bỏ. Các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết, các
ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh.
+ Đối với chi phí do chênh lệch tỉ giá :
Đối với những nước Đô la hoá chính thức các chi phí như chênh lệch giữa tỉ giá
mua và bán khi chuyển đổi từ đồng tiền này sang đồng tiền khác bị xoá bỏ .Đô la hoá
chính thức cũng loại bỏ những giao dịch với các nước khác .
+ Chi phí dự phòng cho rủi ro tỉ giá :
Chi phí này cũng không cần thiết, điều này giúp thúc đẩy thương mại và đầu tư
giũa các nước làm cho các nhà đầu tư quốc tế tin tưởng hơn khi đầu tư vào nước đó.
+ Chi phí kinh doanh của các ngân hàng:
12
Các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ vì thế mà giảm đưọc chi phí kinh
doanh việc tồn tại của hai đồng tiền buộc các ngân hàng phải tiến hành danh mục đầu
tư tách biệt giữa nội tệ và ngoại tệ.
Thứ tư, thúc đẩy thương mại và đầu tư. Các nước thực hiện Đô la hóa chính thức
có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến
khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế. Các nền kinh tế Đô la hóa có thể được,
chênh lệch lãi suất đối với vay nợ nước ngoài thấp hơn, chi ngân sách giảm xuống và
thúc đẩy tăng trưởng và đầu tư.
Đô la hóa có thể giúp người ta dự đoán tỷ giá hối đoái dễ dàng hơn. Đối với
những nước áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi thuộc khu vực sử dụng đồng USD sẽ giúp
cho họ giảm được những bất ổn trong mua bán và đầu tư quốc tế nảy sinh do biến
động tỷ giá giữa đồng nội tệ và các đồng tiền ngoài khu vực, làm giảm rủi ro tỷ giá
(người ta không còn phải lo đến việc bản tệ bị mất giá hay lên giá nữa), và do đó, thúc
đẩy thương mại quốc tế; điều này lại góp phần thúc đẩy tăng trưởng
Đô la hóa cũng là một trong những giải pháp giúp giảm lạm phát, từ đó có thể
giảm lạm phát, từ đó có thể giảm lãi suất thực nền kinh tế và kích thích đầu tư, và do
đó sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thứ năm, thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phí chính
thức. Tỷ giá chính thức càng sát với thị trường phi chính thức, tạo ra động cơ để
chuyển các hoạt động từ thị trường phi chính thức (bất hợp pháp) sang thị trường
chính thức (thị trường hợp pháp).
Thứ sáu, Đô la hóa cũng giúp cho đồng tiền có khả năng tự do chuyển đổi hoàn
toàn ở những nước mà tiền tệ chưa có khả năng chuyển đổi.
1.3.2. Ảnh hưởng tiêu cực của Đô la hóa
Khi bị Đô la hóa, nền kinh tế trong nước phụ thuộc rất lớn vào đồng Đô la, đặc
biệt là hệ thống tài chính.Sự ổn định của hê thống tài chính cột chặt vào đồng Đô la.
Điều này dẫn tới, một cuộc khủng hoảng kinh tế bên ngoài có thể ảnh hưởng nặng nề
tới hệ thống tài chính của nước có hệ thống tài chính dựa trên hai đồng tiền.Đô la hóa
sẽ làm cho các nước rất khó phản ứng thành công với các bất ổn, biến động từ bên
ngoài (vì đã mất đi một công cụ hữu hiệu chống sốc là chính sách tiền tệ). Điều này
làm cho các nền kinh tế Đô la hóa dễ bị tổn thương bởi các cú sốc ngoại lai và thậm
chí còn làm giảm tăng trưởng.
Thứ nhất, Đô la hóa làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tiền tệ. Chính
sách tiền tệ của ngân hàng trung ương không phát huy được hiệu quả, bị mất tính độc
lập và chịu nhiều ảnh hưởng từ diễn biến kinh tế quốc tế, nhất là khi xảy ra các cuộc
khủng hoảng kinh tế, cụ thể:
13
Gây khó khăn trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán, do đó
dẫn đến việc đưa ra các quyết định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông
kém chính xác và kịp thời.
Trong trường hợp có biến động, mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể
làm cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người dân giữ một
khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước
ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác (hoạt
động đầu cơ tỷ giá). Những thay đổi này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trung ương
trong việc đặt mục tiêu cung tiền trong nước và có thể gây ra những bất ổn định trong
hệ thống ngân hàng.
Trường hợp tiền gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao, nếu khi có biến động làm cho
người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng cho vay,
đặc biệt là cho vay dài hạn, khi đó ngân hàng nhà nước của nước bị Đô la hóa cũng
không thể hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành Đô la Mỹ.
Làm cho đồng nội tệ nhạy cảm hơn đối với các thay đổi từ bên ngoài, do đó
những cố gắng của chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền kinh tế thông
qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả.
Tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hóa có thể làm
cho cầu tiền trong nước không ổn định, do người dân có xu hướng chuyển từ đồng nội
tệ sang Đô la Mỹ, làm cho cầu của đồng Đô la Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá.
Khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới thực hiện phá giá đồng tiền, thì
quốc gia bị Đô la hóa sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực
xuất khẩu thông qua việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái.Ngân hàng không có sức đề
kháng trước những biến động về tỷ giá có thể dẫn đến khủng hoảng hệ thống ngân
hàng.
Thứ hai, Đô la hóa chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng trung ương
là người cho vay cuối cùng. Trong các nước đang phát triển chưa bị Đô la hóa hoàn
toàn, mặc dù các ngân hàng có vốn tự có thấp, song công chúng vẫn tin tưởng vào sự
an toàn đối với các khoản tiền gửi của họ tại các ngân hàng. Nguyên nhân là do có sự
bảo lãnh ngầm của Nhà nước đối với các khoản tiền này. Điều này chỉ có thể làm được
đối với đồng tiền nội tệ, chứ không thể áp dụng được đối với Đô la Mỹ. Đối với vác
nước Đô la hóa hoàn toàn, khu vực ngân hàng sẽ trở nên bất ổn hơn trong trường hợp
ngân hàng thương mại bị phá sản và sẽ phải đóng cửa khi chức năng người cho vay
cuối cùng của ngân hàng trung ương đã bị mất.
Thứ ba, chính sách tiền tệ bị phụ thuộc nặng nề vào nước Mỹ. Trong trường hợp
Đô la hóa chính thức, chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất của đồng tiền khi đó sẽ
do nước Mỹ quyết định. Trong khi các nước đang phát triển và một nước phát triển
14
như Mỹ không có chu kỳ tăng trưởng kinh tế giống nhau, sự khác biệt về chu kỳ tăng
trưởng kinh tế tại hai khu vực kinh tế khác nhau đòi hỏi phải có những chính sách tiền
tệ khác nhau.
Thứ tư, hệ thống ngân hàng bị Đô la hóa được coi là nguyên nhân của những
cuộc khủng hoảng tài chính trong 2 thập kỷ qua.Một hệ thống như thế này sẽ có rủi ro
cao về thanh khoản và khả năng chi trả. Rủi ro về khả năng chi trả phát sinh bởi sự
khác biệt về đồng tiền huy động và cho vay. Các ngân hàng với một lượng vốn lớn
bằng ngoại tệ có được từ huy động tiền gửi ngoại tệ của công chúng trong nước buộc
phải tìm cách cho vay một phần trong số này cho các đối tượng trong nước, và như
vậy là đã chuyển giao rủi ro tiền tệ sang khách hàng không có biện pháp phòng hộ rủi
ro này, đồng thời vẫn còn giữ lại rủi ro về tín dụng cho mình. Khi bản tệ bị phá giá,
các con nợ của ngân hàng dễ bị mất khả năng thanh toán vì các khoản thu của họ phần
lớn bằng bản tệ, trong khi họ đi vay ngân hàng bằng ngoại tệ, những khoản vay này
nay đã “phình to” ra nếu tính theo bản tệ bị mất giá. Đối với người gửi ngoại tệ vào
ngân hàng, nếu họ lo ngại rằng ngân hàng mà họ gửi tiền đang có vấn đề với những
khoản cho vay mất khả năng thu hồi của nó, họ sẽ thi nhau rút tiền của mình ra khỏi
ngân hàng. Để đáp ứng được sự rút ồ ạt đó, ngân hàng buộc phải có một nguồn tài sản
ngoại tệ có tính thanh khoản cao đủ lớn hoặc đi vay của ngân hàng trung ương và các
ngân hàng khác.Nhưng những nguồn trên đều có hạn, nhất là vào thời điểm mà các
ngân hàng khác cũng bị rơi vào tình trạng này.Kết cục là sự sụp đổ của cả một hệ
thống ngân hàng.
1.4. Thực trạng Đô la hoá trên thế giới
Theo đánh giá của IMF năm 1998, 19 nước có mức độ Đô la hoá cao với tỷ lệ
tiền gửi ngoại tệ/M2 lớn hơn 30%, bao gồm các nước: Argentina, Azerbaijian,
Belarus, Bolivia, Cambodia, Costa Rica, Croatia, Georgia, Guinea - Bissau, Laos,
Latvia, Mozambique, Nicaragua, Peru, Sao Tome, Principe, Tajikistan, Turkey và
Uruguay.
35 nước có mức độ Đô la hoá vừa phải với tỷ lệ tiền gửi/M2 khoảng 16,4%, bao gồm
các nước: Albania, Armenia, Bulgaria, Cộng hoà Czech, Dominica, Honduras,
Hungary, Jamaica, Jordan, Lithuania, Macedonia, Malawi, Mexico, Moldova,
Mongolia, Pakistan, Philippines, Poland, Romania, Russia, Sierra Leone, Cộng hoà
Slovak, Trinidad, Tobago, Uganda, Ukraine, Uzbekistan, Việt Nam, Yemen và
Zambia.
Theo nghiên cứu của Hệ thống dự trữ Liên bang Mỹ, hiện tại người nước ngoài nắm
giữ từ 55 đến 70% tổng số Đô la Mỹ đang lưu hành trên thế giới.
15
Những nƣớc đã tiến hành Đô la hóa
Panama
Nước đầu tiên tiến hành Đô la hoá toàn phần là Panama.Từ năm 1904, sau khi
tách ra khỏi Colombia, Panama đã dùng đồng xanh.Việc này đã có ảnh hưởng rất tốt
đến nền kinh tế của Panama.Ví dụ trong suốt những năm 1990 lạm phát hầu như
không vượt quá 1% một năm.Nhưng đồng thời Đô la hoá vẫn không giúp Panama
được hoàn toàn độc lập với trợ giúp của các tổ chức bên ngoài. Từ năm 1973 Panama
tiếp nhận hơn 15 chương trình của Quỹ tiền tệ quốc tế, và Đô la hoá cũng không ngăn
được việc Panama mất khả năng trả nợ nước ngoài vào giữa những năm 1980.
Ecuador
Ecuador bắt đầu thực hiện chuyển đổi vào đầu năm 2000. Đô la hoá là phương
cách cuối cùng của Ecuador khi nước này cố vượt qua một cuộc khủng hoảng kinh
tế trầm trọng, với một hệ thống ngân hàng suy sụp, đồng nội tệ (đồng sucre) mất giá,
và sự chống đối của người dân bản xứ. Khi Tổng thống Jamil Mahuad thông cáo ý
định Đô la hoá vào tháng 1 năm 2000, quá trình này đã bắt đầu được tiến hành, đất
nước đã đang trong quá trình Đô la hoá một cách mạnh mẽ. Tuy nhiên thông cáo của
tổng thống đã dẫn đến một cuộc đảo chính, và tổng thống đã phải từ chức. Chính
quyền dân sự được tái lập vào tháng 2, nghị viện Ecuador thông qua luật cho phép
được Đô la hoá toàn phần.
Trước khi đổi hệ thống tiền sang Đô la, Ecuador đã thử tiến hành nhiều biện pháp
hối đoái khác nhau như tỉ giá cố định, chính sách ghìm tỉ giá. Tất cả các biện pháp này
đều không có hiệu quả và đến nay quyết định Đô la hoá vẫn được coi là hợp lý đối với
Ecuador.
El Salvador
Cuối tháng 11 năm 2000 nghị viện El Salvador thông qua luật thực hiện Đô la
hoá toàn phần trong cả nước. Bắt đầu từ ngày mùng 1 tháng 1 năm 2001 các máy đếm
tiền tự động đều được nạp chương trình để phát ra đồng Đô la và tất cả các tài khoản
ngân hàng đều chuyển sang Đô la. Sự thay đổi này không hẳn do nguyên nhân khủng
hoảng kinh tế trầm trọng như trường hợp của Ecuador. Trên thực tế, lạm phát ở
Salvador thấp, chỉ khoảng 1.3% trong vòng 1 thập kỷ trước. Đô la hoá thật ra la để thu
hút đầu tư nước ngoài vào El Salvador.
Cũng như người dân Ecuador, người Salvador không ngạc nhiên mấy khi nghe
quyết định Đô la hoá vì tỉ giá giữa đồng nội tệ colon và Đô la đã được cố định trong
suốt 8 năm.Ngân hàng trung ương Salvador ước tính gần 70% số tiền đang được sử
dụng tại thời điểm đó là Đô la.Cũng như trường hợp trên, lợi ích của Đô la hoá còn cần
được xem xét thêm. Tuy nhiên cũng đã có những dấu hiệu tốt: ngày El Salvador tiến
16
hành chuyển đổi sang đồng tiền mới lãi suất tiêu dùng và vay mua nhà giảm từ 17%
xuống 11%.
Các trường hợp khác
Vài năm trước đây, Mỹ thông báo là Đô la sẽ được coi là đồng tiền chính thức
của Đông Timor, nước vừa tuyên bố độc lập khỏi Indonesia. Tháng 12 năm 2000,
Guatemala thông qua luật cho phép được sử dụng Đô la rộng rãi, tuy không tuyên bố
hẳn là sẽ Đô la hoá toàn phần. Một loạt các nước khác cũng đã cân nhắc về quyết định
Đô la hoá ví dụ như Costa Rica, Honduras, Nicaragua…
TÓM LẠI
Như vậy, ta có thể kết luận rằng Đô la hóa không phải là một hiện tượng tốt,
nhưng cũng không phải là một hiện tượng hoàn toàn xấu (hay không có lợi), và cần
phải tránh bằng mọi cách, tùy theo cách nhìn nhận, lựa chọn, cũng như năng lực thực
thi của mỗi quốc gia, những mục tiêu ưu tiên, trong từng thời kỳ cụ thể. Và thực tế là,
dù muốn hay không, gửi ngoại tệ vào ngân hàng là một trong những lựa chọn hấp dẫn
đối với nhà đầu tư ở mọi nơi và trở thành phổ biến, không thể thiếu (hoặc cấm đoán
được) cùng với quá trình toàn cầu hóa.
17
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG ĐÔ LA HÓA TẠI VIỆT NAM
2.1. Tình hình kinh tế Việt Nam và quá trình xâm nhập của đồng Đô la vào nƣớc
ta.
2.1.1. Tình hình kinh tế Việt Nam
Năm 1986, Việt Nam bắt đầu công cuộc Đổi Mới, một công cuộc đổi mới kinh tế
chính trị tự thân đánh dấu quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1990 đến 2010, nền
kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng với tốc độ trung bình hàng năm là 7,3%, thu nhập
bình quân đầu người tăng gần gấp năm lần. Sự chuyển đổi của Việt Nam, từ một nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường và từ một đất nước rất
nghèo trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình thấp trong vòng chưa đến 20 năm
– đã trở thành một phần trong các sách giáo khoa về phát triển.
Nhưng một sự chuyển đổi khác của Việt Nam để trở thành một nền kinh tế công
nghiệp, hiện đại hầu như mới chỉ bắt đầu. Theo Chiến lược Phát triển Kinh tế Xã hội,
Việt Nam mong muốn đạt được mức thu nhập bình quân đầu người 3.000 Đô la Mỹ
vào năm 2020. Điều này có nghĩa là mức thu nhập bình quân đầu người phải tăng gần
10% mỗi năm đòi hỏi Việt Nam phải nhân rộng và duy trì được thành tựu kinh tế mà
mình đã đạt được trong mười năm qua trong vòng mười năm tiếp theo. Để đạt được
mục tiêu này, theo Chiến lược Phát triển Kinh tế Xã hội, Việt Nam cần phải bình ổn
kinh tế vĩ mô, xây dựng cơ sở hạ tầng tiêu chuẩn thế giới, xây dựng nguồn nhân lực có
trình độ, kỹ năng và tăng cường các thể chế kinh tế thị trường của mình.
Đạt được những nguyện vọng này không phải là điều dễ dàng. Việt Nam đã phải
trải qua những cơn sóng gió chưa từng có trong nền kinh tế vĩ mô trong những năm
gần đây lạm phát hai con số, tiền đồng mất giá, nguồn vốn tháo chạy và suy giảm dự
trữ ngoại hối làm xói mòn lòng tin của nhà đầu tư. Tăng trưởng nhanh cũng làm bộc lộ
những vấn đề mang tính cơ cấu. Chất lượng và tính bền vững của tăng trưởng vẫn là
nguyên nhân gây quan ngại nặng nề do tăng trưởng kinh tế sử dụng quá nhiều tài
nguyên, ô nhiễm cao và hàng xuất khẩu thiếu đa dạng và ít có giá trị gia tăng, tỉ trọng
đóng góp của năng suất vào tăng trưởng ngày càng giảm. Năng lực cạnh tranh của Việt
Nam đang bị đe dọa bởi sản xuất điện không theo kịp nhu cầu, chi phí hậu cần và giá
cả bất động sản leo thang, tình trạng thiếu lao động có kỹ năng ngày càng phổ biến
2.1.2. Những con đường đồng Đô la xâm nhập vào Việt Nam.
Thời kì trước năm 1975, Đô la Mỹ tham gia vào nền kinh tế Việt Nam dưới dạng
những khoản viện trợ của Chính phủ Mỹ cho chính quyền miền Nam Việt Nam.
Sau năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, cuộc chiến tranh lạnh khiến thế
giới chia thành hai cực, nửa này đóng cửa với nửa kia; vì vậy, ở Việt Nam, đồng Đô la
Mỹ không còn đóng một vai trò đáng kể.