Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

skkn các BIỆN PHÁP CHỈ đạo HOẠT ĐỘNG dạy học THEO HƯỚNG TÍCH cực HOÁ ở TRƯỜNG THCS BÌNH HOÀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.8 KB, 21 trang )

PHÒNG GD&ĐT BÌNH SƠN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG THCS BÌNH HOÀ Độc lập – Tự do- Hạnh phúc


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:

CÁC BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO HOẠT ĐỘNG
DẠY HỌC THEO HƯỚNG TÍCH CỰC HOÁ
Ở TRƯỜNG THCS BÌNH HOÀ

Người thực hiện: Trương Thị Phú
Chức vụ : Phó hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường THCS Bình Hoà
Năm học 2010-2011
1
PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I/ Lý do chọn đề tài:
Thế kỷ XXI, thế kỷ của toàn cầu hoá và nền kinh tế tri thức đang đặt ra cho
dân tộc và đất nước ta những thách thức và cơ hội mới, đồng thời đòi hỏi ngành
giáo dục phải vươn lên để thực hiện những nhiệm vụ nặng nề, trong đó việc nâng
cao chất lượng dạy học là một nhiệm vụ cơ bản của giáo dục.
Trong thực tế, giáo dục của nước ta nhiều năm qua đã đạt những thành tựu
nhất định trên mọi mặt, song vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém. Nguyên nhân của
những yếu kém đó là do công tác quản lý còn nhiều bất cập, cơ chế quản lý giáo
dục chưa hợp lý, đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất trường học chưa đáp ứng
kịp thời với nhu cầu của sự đổi mới.
Đảng ta đã khẳng định: Việc đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục, nâng
cao chất lượng dạy học là nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục. Báo cáo chính trị
của đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định quan điểm của đảng ta
là: Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực thúc đẩy sự


nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con
người- yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Đồng thời đề ra nhiệm vụ: tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi
mới nội dung, phương pháp dạy học.
Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII cũng khẳng định: “ Phải đổi mới
phương pháp giáo dục- đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện
thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp
tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và
thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh…”.
Định hướng trên đã được pháp chế hoá trong Luật Giáo dục, điều 24.2: “
phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi
dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng, vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh…”.
Để hoàn thành trọng trách lớn lao mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao
phó, ngành giáo dục, các thầy cô giáo đã và đang đổi mới phương pháp dạy và
học theo hướng tích cực- lấy học sinh làm trung tâm, phát huy vai trò chủ động,
sáng tạo của học sinh phù hợp với việc đổi mới chương trình, sách giáo khoa,
đáp ứng mục tiêu giáo dục trong giai đoạn mới.
Tuy vậy, hiện nay trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập
bởi những nguyên nhân sau

- Quan niệm về đổi mới phương pháp dạy học chưa rõ và thống nhất;
- Giáo viên ngại với việc tự đổi mới;
- Điều kiện cơ sở vật chất chưa đảm bảo.
2
Nói cụ thể hơn, giáo viên trực tiếp giảng dạy chưa quán triệt quan điểm đổi
mới, chưa nắm cơ sở lý luận về các phương pháp theo hướng tích cực- lấy học
sinh làm trung tâm; dạy học mấu chốt là phát huy tính chủ động tích cực tự giác
giáo dục của học sinh, dạy học phải làm cho học sinh tự học ngay ở lớp và ở nhà;

phải đầu tư phương pháp nhiều hơn. Về góc độ cán bộ quản lý nhà trường chưa
kiên trì nuôi dưỡng các biện pháp đổi mới phương pháp, chưa triệt để trong công
tác đánh giá cán bộ công chức, thi đua nâng cao chất lượng dạy học. Tổ nhóm
chuyên môn hoạt động chưa thường xuyên, việc hội thảo chuyên đề, thao giảng,
…chưa tìm ra biện pháp hữu hiệu nhằm giải quyết những hạn chế về chuyên
môn, chưa kích thích sự nỗ lực tự học của học sinh. Cơ sở vật chất, thiết bị dạy
học của trường còn thiếu thốn, nghèo nàn. Học sinh ở vùng nông thôn, hoàn
cảnh hết sức khó khăn, điều kiện học tập thiếu thốn, các em còn phải cùng gia
đình vật lộn với cuộc sống, vì vậy thời gian dành cho việc học tập còn quá ít ỏi.
Mặt khác một số học sinh chưa có ý thức tự giác học tập, gia đình chưa quan tâm
đến việc học của con em mà hoàn toàn giao phó cho nhà trường. Đây là một lực
cản lớn trong việc nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường.
Đổi mới công tác quản lý, nâng cao phẩm chất đạo đức, nâng cao hiệu quả,
chất lượng thực của công tác giảng dạy và học tập, thực hiện chủ đề năm học
2010-2011: “ Năm học tiếp tục đổi mới quản lý, nâng cao chất lượng giáo dục”.
Nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của năm học mới là tiếp tục cuộc vận động: “ Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, gắn với yêu cầu đặc thù của
ngành giáo dục và đào tạo là cuộc vận động: “ Hai không” và phong trào thi đua:
mỗi thầy giáo, cô giáo là tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo.
Là người làm công tác quản lý giáo dục ở một địa bàn khó khăn, điều quan
trọng là phải làm sao tìm ra những giải pháp tối ưu, phù hợp với hoàn cảnh của
địa phương mình, trường mình, nhằm giúp cho giáo viên và học sinh khắc phục
khó khăn, vượt lên chính mình để có phương pháp dạy học phù hợp hơn, hiệu
quả hơn. Nâng cao chất lượng giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học: dạy học
theo hướng tích cực hoá- lấy học sinh làm trung tâm; đó là nhiệm vụ trọng tâm
của người cán bộ quản lý trong nhà trường trung học cơ sở.
Xuất phát từ những lý do trên nên tôi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm:
“ Phó hiệu trưởng với các biện pháp chỉ đạo hoạt động dạy học theo hướng tích
cực hoá ở trường trung học cơ sở Bình Hoà” với mong muốn góp phần nâng cao
chất lượng dạy học đáp ứng được yêu cầu phát triển sự nghiệp giáo dục ở địa

phương nói chung và ở trường trung học cơ sở Bình Hoà nói riêng.
II/ Mục đích nghiên cứu:
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “ Phó hiệu trưởng với các biện pháp chỉ đạo
hoạt động dạy học theo hướng tích cực hoá ở trường trung học cơ sở Bình Hoà”
nhằm tìm ra những biện pháp tối ưu góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả
giáo dục của nhà trường.
III/ Đối tượng nghiên cứu: biện pháp chỉ đạo hoạt động dạy học theo hướng
tích cực hoá ở trường trung học cơ sở Bình Hoà.
3
IV/ Nhiệm vụ nghiên cứu:
1. Tìm hiểu cơ sở lý luận của việc quản lý hoạt động dạy học và các vấn đề
lý luận có liên quan đến đề tài.
2. Tìm hiểu thực trạng các biện pháp chỉ đạo hoạt động dạy học theo hướng
tích cực hoá ở trường trung học cơ sở Bình Hoà.
3. Đề xuất một số biện pháp chỉ đạo, quản lý hoạt động dạy học theo hướng
tích cực hoá ở trường trung học cơ sơ Bình Hoà nhằm nâng cao chất lượng
dạy học, thực hiện đổi mới phương pháp dạy học.
V/ Phương pháp nghiên cứu:
1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc tài liệu. Nghiên cứu các Nghị quyết
của Đảng, văn bản, chỉ thị, chủ trương của các cấp quản lý giáo dục có liên quan
đến đề tài.
2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp quan sát sư phạm;
phương pháp điều tra; phương pháp thống kê; phương pháp nghiên cứu
sản phẩm.
3. Phương pháp toán học: thống kê, biểu mẫu, so sánh.
PHẦN II
Chương I
NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Một số khái niệm cơ bản:

Dạy học là một bộ phận của quá trình tổng thể giáo dục nhân cách toàn vẹn;
là quá trình tác động qua lại giữa giáo viên và học sinh nhằm truyền thụ và lĩnh
hội tri thức khoa học, những kỹ năng, kỹ xảo trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn. Trên cơ sở đó hình thành thế giới quan, nhân sinh quan, phát triển năng lực
sáng tạo và xây dựng các phẩm chất, nhân cách người học.
Theo lý luận dạy học cộng tác của giáo sư Nguyễn Ngọc Quang: bản chất
của quá trình dạy học là sự thống nhất biện chứng giữa dạy và học, giữa truyền
đạt và điều khiển trong dạy, giữa lĩnh hội và tự điều khiển trong học, tạo nên một
hệ toàn vẹn. Sự tương tác theo kiểu cộng đồng hợp tác giữa dạy và học là yếu tố
duy trì và phát triển sự thống nhất toàn vẹn của quá trình dạy học( cũng có nghĩa
là của chất lượng dạy học).
4
Quản lý hoạt động dạy học cũng là quản lý quá trình dạy học và cũng chung
mục đích, nhiệm vụ dạy học được thực hiện đồng thời và thống nhất với nhau
trong quá trình dạy của thầy và quá trình học của trò.
Quản lý hoạt động dạy học là quản lý hoạt động dạy của thầy và quản lý hoạt
động học của trò cùng với những điều kiện cơ sở vật chất và những phương tiện
thiết bị phục vụ dạy và học.
Quản lý quá trình dạy học là một hệ thống cân bằng động gồm nhiều thành tố
tác động qua lại lẫn nhau, chế ước lẫn nhau với đời sống xã hội và môi trường
giáo dục theo những quy luật và nguyên tắc nhất định nhằm thực hiện các nhiệm
vụ dạy học có chất lượng và hiệu quả.
Hệ thống các thành tố mục đích, nhiệm vụ dạy học, nội dung, phương pháp,
điều kiện dạy học vận động và kết hợp chặt chẽ với nhau thông qua hoạt động
dạy của thầy và hoạt động học của trò, nhằm tạo ra sản phẩm dạy học ngày càng
tăng về số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế- xã hội,
của công cuộc đổi mới và phát triển giáo dục đào tạo.
Đổi mới phương pháp dạy học là quá trình thay đổi các thành tố trong
phương pháp dạy học, đưa phương pháp dạy học mới vào nhà trường, trên cơ sở
phát huy mặt tích cực của các phương pháp dạy học truyền thống để nâng cao

chất lượng đào tạo nhằm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục trong giai đoạn công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
học sinh trong học tập, tự phát hiện, tự giải quyết các vấn đề học tập và trong
cuộc sống. Đổi mới phương pháp dạy học không bó hẹp trong hoạt động của
giáo viên và học sinh trong các giờ lên lớp mà bao hàm cả đổi mới phương pháp
trình bày nội dung, tài liệu dạy học, đổi mới cách sắp xếp nội dung dạy học cụ
thể nhằm tích cực hoá hoạt động của giáo viên và học sinh trong quá trình hoạt
động dạy học.
Dạy học tích cực hoá là dạy học nhằm tổ chức, hướng dẫn cho học sinh tự
tìm hiểu, phát hiện và giải quyết vấn đề trên cơ sở tự giác và được tự do, được
tạo khả năng và điều kiện chủ động trong hoạt động đó.
Phương pháp dạy học theo hướng tích cực- lấy học sinh làm trung tâm là
một hệ thống những phương pháp như: phương pháp tích cực; phương pháp nêu
và giải quyết vấn đề; phương pháp hợp tác; phương pháp kích thích tư duy;
phương pháp thí nghiệm- nghiên cứu; phương pháp giao tiếp; phương pháp
phỏng vấn; phương pháp trực quan. Ngoài ra còn một số phương pháp hiện đại
khác, nói chung giúp học sinh chủ động sáng tạo trong học tập, giúp người học
bộc lộ những tiềm năng vốn có và phát triển nhân cách của mình.
Dạy học lấy học sinh làm trung tâm là kiểu dạy học lấy tiêu điểm của nó là
bản thân người học sinh. Kiểu dạy học này xây dựng trên cơ sở nhu cầu, hứng
thú, thói quen, năng lực của học sinh ở các trình độ khác nhau. Nhằm làm cho
học sinh lĩnh hội được kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ, phát huy đầy đủ nhất
năng lực của các em.
Các đặc trưng cơ bản của dạy học- lấy học sinh làm trung tâm:
5
- Người học, chủ thể của hoạt động học, tự mình tìm ra kiến thức bằng hành
động của chính mình.
- Người học tự thể hiện mình và hợp tác với các bạn, học bạn.
- Nhà giáo- chuyên gia về việc học là người tổ chức và hướng dẫn quá trình
kết hợp cá nhân hoá với xã hội hoá việc học của người học.

- Người học tự kiểm tra, tự đánh giá, tự điều chỉnh.
Các hình thức hoạt động dạy học lấy học sinh làm trung tâm: dạy học lấy
học sinh làm trung tâm gồm nhiều cách thức hoạt động khác nhau. Trong đó phổ
biến là nghiên cứu, thảo luận, tranh luận, đóng vai, khảo sát thực tế, thuyết minh,
…để tổ chức hoạt động này, sử dụng một số thao tác: đặt câu hỏi, nêu vấn đề,
xây dựng bài, chọn lựa vai, tổ chức làm việc theo nhóm, quan tâm đến từng cá
nhân học sinh.
Phía học sinh cần rèn luyện các kỹ năng: đối thoại, giao tiếp, hợp tác với
bạn, với giáo viên, quan sát phỏng vấn và sử dụng các dụng cụ học tập, học sinh
biết phê phán, nhận xét, đánh giá, phân loại, xếp hạng.
Chương II
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC THEO HƯỚNG
TÍCH CỰC HOÁ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ BÌNH HOÀ
I / Vị trí, quy mô, đặc điểm tình hình của trường trung học cơ sở Bình Hoà:
1. Vị trí:
Trường trung học cơ sở Bình Hoà thuộc xã Bình Hoà, nằm ở khu đông
huyện Bình Sơn, phía bắc giáp xã Bình Phước, phía đông giáp xã Bình Hải, phía
Nam giáp xã Bình Phú và phía tây giáp xã Bình Thanh. Toàn xã có diện tích
1327 ha, số dân: 5884 người với 1515 hộ.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, Bình Hoà là đơn vị xã có
truyền thống đấu tranh bất khuất anh hùng, xóm làng bị bom đạn kẻ thù tàn phá
nặng nề. Do có nhiều đóng góp công sức và sự hy sinh to lớn của quân và dân
Bình Hoà nên xã đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng
vũ trang nhân dân. Hiện nay, cơ sơ hạ tầng của xã còn rất nghèo nàn, hầu hết
nhân dân sinh sống bằng nghề nông nên đời sống còn gặp nhiều khó khăn, điều
này ảnh hưởng lớn đến việc học tập của con em.
2.Quy mô:
2.1- Năm học 2009-2010:
2.1.1- Về học sinh:
Toàn trường có 12 lớp với tổng số học sinh: 432

Trong đó: Khối 6: 3 lớp với 94 học sinh
Khối 7: 3 lớp với 117 học sinh
Khối 8: 3 lớp với 104 học sinh
Khối 9: 3 lớp với 117 học sinh
6
2.1.2- Về giáo viên:
Toàn trường có: 28 cán bộ, giáo viên.
Trong đó: Ban giám hiệu : 02
Giáo viên: 26
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm: 06
Cao đẳng sư phạm: 22
Giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh: 03
Giáo viên dạy giỏi cấp huyện: 19
Có 1 chi bộ với 6 đảng viên
2.2. Năm học 2010-2011:
2.2.1- Về học sinh:
Toàn trường có 11 lớp với tổng số học sinh 389
Trong đó: Khối 6: 2 lớp với 84 học sinh
Khối 7: 3 lớp với 94 học sinh
Khối 8: 3 lớp với 114 học sinh
Khối 9: 3 lớp với 97 học sinh
2.2.2- Về giáo viên
Toàn trường có: 28 cán bộ, giáo viên.
Trong đó: Ban giám hiệu : 02
Giáo viên: 26
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm: 08
Cao đẳng sư phạm: 20
Giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh: 03
Giáo viên dạy giỏi cấp huyện: 19
Có 1 chi bộ với 7 đảng viên.

1. Đặc điểm tình hình :
3.1- Thuận lợi:
- Đội ngũ cán bộ, giáo viên có lòng nhiệt tình, tâm huyết với nghề, có năng
lực chuyên môn vững vàng, luôn có ý thức phấn đấu vươn lên trong mọi mặt
công tác.
- Phần lớn, học sinh ngoan, hiền, có ý thức tự giác trong học tập.
- Được sự chỉ đạo trực tiếp và kịp thời của lãnh đạo phòng giáo dục và đào
tạo trên mọi lĩnh vực.
- Đảng uỷ, chính quyền địa phương và hội cha mẹ học sinh đã xác định rõ
trách nhiệm đối với sự nghiệp giáo dục của xã nhà nên phần nào đã có sự quan
tâm.
3.2- Khó khăn:
- Cơ cấu đội ngũ giáo viên chưa đồng đều: có môn vẫn còn phải dạy chéo ban
như: mĩ thuật.
- Học sinh là con em nông dân với điều kiện kinh tế vô cùng khó khăn, thiếu
thốn về phương tiện học tập, thời gian dành cho việc học rất eo hẹp. Một phần
nhỏ học sinh chưa có thái độ, động cơ học tập đúng đắn, các dịch vụ Intenet làm
ảnh hưởng trực tiếp đến việc giáo dục đạo đức học sinh.
7
- Cơ sở vật chất của nhà trường chưa đáp ứng kịp thời với quy mô phát triển
trường lớp. Toàn trường chỉ có 9 phòng học( không đúng quy cách đối với học
sinh THCS), 1 phòng làm việc và 1 phòng thiết bị, không có các phòng chức
năng. Trang thiết bị dạy học còn nhiều thiếu thốn. Điều đó làm hạn chế rất nhiều
đến chất lượng dạy học, đặc biệt là vấn đề đổi mới phương pháp dạy học.
- Việc kết hợp các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để nâng cao
chất lượng dạy học chưa được thường xuyên, liên tục.
II/ Kết quả nghiên cứu:
1-Thực trạng về chất lượng dạy học
1.1-Hoạt động dạy của thầy:
1.1.1-Việc thực hiện chương trình giảng dạy:

Thông qua việc kiểm tra, đối chiếu giữa sổ ghi đầu bài, sổ báo giảng và vở
ghi của học sinh bản thân tôi nhận thấy 100% giáo viên đều thực hiện đúng, đủ
chương trình theo quy định của Bộ giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, qua trực tiếp
kiểm tra các tiết thực hành bộ môn Sinh, Hoá,…thì chưa thực hiện tốt. Nguyên
nhân là do trường không có phòng thực hành bộ môn, thiếu trang thiết bị nên
hiệu quả tiết thực hành chưa cao.
1.1.2 Việc biên soạn bài giảng:
Biên soạn bài giảng là việc chuẩn bị quan trọng của giáo viên trong giờ lên
lớp. Thực tế cho thấy nếu giáo viên soạn bài tốt thì dẫn dắt học sinh khám phá,
lĩnh hội kiến thức đạt kết quả cao nhất. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào
công tác soạn giảng đã và đang được chú trọng. Năm học 2009-2010 chỉ có 77%
giáo viên sử dụng giáo án vi tính nhưng đến năm học 2010-2011 đã có 90% giáo
viên sử dụng giáo án vi tính. Qua việc kiểm tra định kỳ và đột xuất giáo án của
giáo viên trong 2 năm học , kết quả như sau:
Năm học Tổng số GV Tốt Khá Đạt
TS % TS % TS %
2009-2010 26 22 84,6 3 11,5 1 3,8
HKI
2010-2011
26 23 88,5 2 7,7 1 3,8
1.1.3 Việc sử dụng thiết bị dạy học:
Phương tiện, đồ dùng dạy học là nguồn cung cấp kiến thức, vừa là phương
tiện minh hoạ cho bài học tạo điều kiện cho học sinh dễ dàng lĩnh hội kiến thức
qua lời giảng của giáo viên, học sinh quan sát và sử dung các phương tiện dạy
học qua hướng dẫn của giáo viên để tự lực phát hiện và lĩnh hội kiến thức từ thực
tế.
Để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, nhiều giáo viên đã tận dụng, phát
huy tác dụng của thiết bị trong từng tiết lên lớp. Tuy nhiên hiệu quả sử dụng thiết
bị chưa cao vì chất lượng thiết bị không đạt yêu cầu, mặt khác thao tác của giáo
viên đôi lúc còn lúng túng khi tiếp cận thiết bị . Thực tế cũng cho thấy đối với

những môn học thực hành, thí nghiệm như Hoá, Lý, Sinh, Công nghệ để có một
8
tiết lên lớp, giáo viên phải mất thời gian chuẩn bị gấp đôi, ba lần thời gian lên
lớp. Mặt khác, nhà trường lại không có phòng thí nghiệm, thực hành nên hiệu
quả các tiết thực hành là không cao.
Từ những thực tế và khó khăn nêu trên làm ảnh hưởng và hạn chế đến việc
đổi mới phương pháp giảng dạy lấy học sinh làm trung tâm.
1.1.4 Việc kiểm tra giờ lên lớp:
Qua kiểm tra giờ lên lớp của giáo viên bằng cách dự giờ thăm lớp, tôi thấy
rằng giáo viên đã đầu tư rất nhiều về “chất xám” và thời gian cho giờ lên lớp.
Hầu hết các tiết lên lớp của giáo viên đều xác định rõ mục tiêu, yêu cầu theo
chuẩn kiến thức, kỹ năng cũng như nội dung, phương pháp bài dạy. Do đó, trong
giờ học luôn gây được không khí sôi nổi, kích thích hứng thú trong học tập của
học sinh. Tuy nhiên, một số ít giáo viên còn chủ quan khi lên lớp, ít chịu khó tìm
tòi, chưa quan tâm nhiều đến đối tượng học sinh yếu kém nên chất lượng dạy
học bộ môn chưa cao.
1.1.5 Việc bồi dưỡng học sinh giỏi:
Trong nhiều năm qua, việc bồi dưỡng học sinh giỏi chưa được tiến hành
thường xuyên, liên tục. Nguyên nhân là do phần lớn đội ngũ giáo viên chưa có
kinh nghiệm trong việc bồi dưỡng, kinh phí hạn hẹp, phong trào thi học sinh giỏi
chưa mạnh mẽ, số lượng học sinh giỏi cấp trường quá ít ỏi. Đặc biệt hai năm học
vừa qua và học kỳ I năm học này công tác bồi dưỡng học sinh giỏi có nhiều tiến
triển, đã được triển khai ở nhiều môn học, tuy thời gian bồi dưỡng ngắn ngủi
nhưng kết quả khá khả quan. Năm học 2007-2008 có 19 học sinh giỏi cấp huyện;
năm học 2008-2009 có 28 học sinh giỏi cấp huyện; năm học 2009-2010 có 36
học sinh giỏi cấp huyện, 6 học sinh giỏi cấp tỉnh, 1 học sinh được tham dự kỳ thi
GTBMTCT cấp THCS khu vực miền Trung và Tây Nguyên
Đây là một sự nỗ lực lớn lao của tập thể giáo viên và học sinh nhà trường.
1.1.6 Công tác phụ đạo học sinh yếu kém:
Qua các năm học, trường luôn có tỉ lệ học sinh yếu kém cao so với toàn

huyện: năm học 2007-2008 có 25,1% học sinh yếu kém; năm học 2008-2009 có
27,7% học sinh yếu kém; năm học 2009-2010 chỉ còn 17,8% học sinh yếu kém
Mặc dù từ đầu năm học nhà trường đã kiểm tra, phân loại và tiến hành dạy phụ
đạo cho các em nhưng chưa đều đặn nên kết quả chưa cao. Nguyên nhân của
tình trạng này là do phần lớn học sinh yếu kém chưa thực sự cố gắng, gia đình
chưa quan tâm, một số giáo viên chưa thực sự quan tâm giúp đỡ học sinh yếu
kém.
1.1.7 Việc đổi mới phương pháp dạy học:
Thông qua việc thường xuyên kiểm tra việc chuẩn bị giờ lên lớp, dự giờ giáo
viên, tôi nhận thấy rằng một số ít giáo viên còn ngại ngần, lúng túng khi sử dụng
phương pháp dạy học mới theo hướng tích cực, lấy học sinh làm trung tâm. Mặt
khác, cơ sở vật chất, trang thiết bị còn thiếu thốn, đời sống giáo viên còn nhiều
khó khăn nên một số tiết lên lớp chưa được đầu tư đúng mức. Bên cạnh đó, học
9
sinh còn nặng tư tưởng thụ động, chưa phát huy mạnh mẽ tính tích cực, chủ
động, sáng tạo. Tuy nhiên phải công nhận rằng việc đổi mới phương pháp cũng
gặp nhiều khó khăn vì nội dung và hình thức sách giáo khoa thiết kế đôi chỗ
chưa phù hợp với phương pháp dạy học tích cực, việc triển khai thực hiện dạy
học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng còn nhiều hạn chế, bất cập.
Nhìn chung, trong những năm qua nhà trường đã phần nào gặt hái được
những kết quả nhất định, tuy nhiên cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa mới có thể đáp
ứng được yêu cầu của sự đổi mới.
1.2 Hoạt động của trò:
Đi đôi với hoạt đôi với hoạt động dạy của thầy là hoạt động học của học
sinh. Sản phẩm của nhà trường là chất lượng đào tạo qua từng năm học và số
học sinh tốt nghiệp ra trường, số học sinh được đỗ vào lớp 10 các trường PTTH
công lập. Kết quả đó phản ánh phương pháp giảng dạy của giáo viên.
*Kết quả xếp loại chất lượng học tập của học sinh trong hai năm học
2008-2009 và 2009-2010 được đánh giá qua biểu mẫu sau:
Năm học

TS
HS
Giỏi Khá T.Bình Yếu Kém
SL % SL % SL % SL % SL %
2008-2009 462 39 8,4 10
1
21,9 194 42,0 107 23,3 21 4,5
2009-2010 432 39 9,0 123 28,5 193 44,7 71 16,4 6 1,4
* Kết quả đạt học sinh giỏi cấp huyện qua các năm như sau:
Năm học Giải nhất Giải nhì Giải ba Khuyến
khích
2007-2008 3 9 7
2008-2009 2 10 16
2009-2010 1 4 18 13
Qua những số liệu đã nêu ở trên ta thấy số lượng học sinh giỏi các cấp tăng
năm sau cao hơn năm trước và chất lượng giải cũng được nâng lên . Nhưng so
sánh kết quả học tập của học sinh thì chất lượng chưa có sự chuyển biến nhiều,
tỷ lệ học sinh yếu kém còn quá cao so với yêu cầu. Đây là nỗi bức xúc rất lớn đặt
ra buộc người quản lý phải nhanh chóng tìm ra biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng học tập đại trà của học sinh.
Nguyên nhân của kết quả trên là do sự nỗ lực rất lớn của giáo viên và học
sinh khi tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi, sự đổi mới công tác quản lý, chú
trọng nâng cao chất lượng mũi nhọn trong nhà trường.
III/ Đánh giá chung thực trạng quản lý hoạt động dạy học trong thời gian
qua:
1/ Đánh giá kết quả thực trạng:
10
1.1/ Ưu điểm:
- Thực hiện tốt quy chế dân chủ trong quản lý, xây dựng khối đoàn kết nội
bộ.

- Đội ngũ giáo viên ngày càng được nâng cao về trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, học sinh có tinh thần học tập, chất lượng ngày càng được cải thiện.
- Trường đã có những bước tiến mới trong việc thực hiện đổi mới phương
pháp dạy học, lấy học sinh làm trung tâm và đạt được những kết quả khả quan:
Giáo viên đã vận dụng phương pháp trong hoạt động dạy học, phát huy vai trò
chủ động, tích cực sáng tạo của học sinh trong hoạt động tổ nhóm. Đồ dùng dạy
học sử dụng tương đối có hiệu quả tạo sự hứng thú học tập trong học sinh.
- Công tác kiểm tra, đánh giá được tiến hành thường xuyên. Giáo viên được
thao giảng, hội thảo, viết sáng kiến kinh nghiệm.
1.2/ Những tồn tại, hạn chế:
Việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học tích cực- lấy học sinh làm
trung tâm còn gặp nhiều khó khăn, bất cập:
- Việc triển khai chưa đồng bộ, cơ sở vật chất phục vụ cho việc đổi mới chưa
kịp thời, còn quá thiếu thốn. Giáo viên chưa được trang bị lý luận dạy học theo
phương pháp mới một cách tường tận nên còn lúng túng. Một số giáo viên tuổi
đời cao còn có tư tưởng bảo thủ, một số có chú ý đến vai trò của học sinh nhưng
thầy vẫn là người truyền đạt kiến thức chứ không chuẩn bị cho học sinh sớm
thích nghi với đời sống xã hội, còn quan tâm nhiều đến lý thuyết, chưa chú trọng
đến kỹ năng thực hành và giải quyết các vấn đề thực tiễn. Mặt khác, năng lực
chuyên môn của giáo viên không đồng đều.
- Việc tổ chức lớp học luôn được tiến hành trong phòng học, học sinh được
ngồi cố định theo sơ đồ lớp. Việc học còn nặng về học chữ và thi cử.
Trong công tác quản lý hoạt động dạy học nhằm nâng cao chất lượng giảng
dạy của giáo viên và học tập của học sinh, bản thân tôi đã không ngừng sáng tạo,
đổi mới quản lý công tác chuyên môn, tập thể hội đồng sư phạm nhà trường đoàn
kết, tận tuỵ hết mình với sự cố gắng nỗ lực của học sinh, mà nhà trường đã đạt
được những thành tựu đáng kể, chất lượng dạy học được đánh giá đúng thực chất
và từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, chất lượng dạy học vẫn còn những hạn
chế nhất định đòi hỏi phải có biện pháp chỉ đạo kiên quyết và phù hợp nhằm
nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học trong thời gian tới.

2/ Nguyên nhân tạo nên thực trạng:
Nguyên nhân khách quan:
- Quan điểm chỉ đạo, đường lối của Đảng, Nhà nước về công tác giáo dục
hiện nay : “ Giáo dục- đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Song việc chỉ đạo chưa
sâu sát, chưa đúng mức về con người, cơ sở vật chất, trang thiết bị cho việc dạy
và học. Nguồn kinh phí đầu tư cho phục vụ giảng dạy còn quá ít chưa đáp ứng
yêu cầu.
11
- Môi trường giáo dục và điều kiện kinh tế nơi khó khăn sẽ ảnh hưởng nhiều
đến chất lượng giáo dục.
Nguyên nhân chủ quan:
- Công tác dự giờ, thao giảng, báo cáo chuyên đề còn ít.
- Một số giáo viên còn hạn chế về năng lực tổ chức, hướng dẫn học sinh học
theo phương pháp mới.
- Điều quan trọng là cơ sở vật chất chưa đảm bảo, không có phòng chức năng,
thiết bị chưa đảm bảo về số lượng và chất lượng, chưa có phòng thư viện,…nên
hạn chế trong việc nắm bắt thông tin, kiến thức, nâng cao tay nghề,…của giáo
viên và học sinh.
- Một điều không thể không nói đến là hiện nay đời sống của giáo viên có
được nâng lên một bước, nhưng thật sự chưa đảm bảo, do vậy việc đầu tư cho
nghiên cứu, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn vẫn chưa nhiều. Thường là chỉ
hoàn thành nhiệm vụ, còn sự cống hiến cho sự nghiệp giáo dục khó lòng đạt đến.
Từ đó giáo viên đổi mới phương pháp giáo dục diễn ra chậm và ít hiệu quả.
Như vậy, con đường để chất lượng học sinh tăng lên không ngoài việc tự
nỗ lực của bản thân học sinh dưới sự hướng dẫn của thầy cô giáo bằng con
đường tự học- tự nghiên cứu là chính, thầy cô giảng dạy phải đổi mới phương
pháp dạy học- lấy học sinh làm trung tâm.
Chương III
NHỮNG BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC THEO
HƯỚNG TÍCH CỰC HOÁ Ở TRƯỜNG THCS BÌNH HOÀ

Từ thực trạng đã nêu trên, là người làm công tác quản lý trường học, tôi luôn
ý thức rằng: chất lượng dạy học là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại của một
nhà trường. Nó phản ánh được năng lực tổ chức lãnh đạo của người cán bộ quản
lý trường học và xuất pháp từ cơ sở lý luận và thực trạng trên đây, bản thân tôi
đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm khắc phục những tồn tại, yếu kém và
phát huy những mặt mạnh, mặt tốt hco công tác chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy
12
học, đổi mới phương pháp, dạy học tích cực hoá- lấy học sinh làm trung tâm ở
trường THCS Bình Hoà như sau:
I/ Biện pháp quản lý hoạt động dạy của giáo viên:
1. Thiết lập và thực hiện các loại kế hoạch dạy học:
- Trong quản lý nhà trường thì biện pháp quản lý bằng kế hoạch được xem là
quan trọng nhất. Vì vậy, ngay từ đầu năm học người quản lý phải xây dựng kế
hoạch hoạt động cho cả năm học, từng học kỳ, tháng, tuần một cách chi tiết, cụ
thể trên cơ sở những kết quả đã đạt được trong năm học trước và tình hình thực
tế của nhà trường trong năm học này.
- Phổ biến kế hoạch của nhà trường đến từng bộ phận, cá nhân giáo viên và
học sinh, giao mức phấn đấu cho từng đối tượng. Các tổ, bộ phận, giáo viên làm
kế hoạch cụ thể để thực hiện.
- Phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể trong trường tổ chức, phát động, sơ, tổng
kết các đợt thi đua. Hằng tháng, rà soát lại tiến độ thực hiện kế hoạch đồng thời
triển khai những nội dung cần thiết trong thời gian tiếp theo.
2. Xây dựng đội ngũ, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ sư phạm:
- Tổ chức, chỉ đạo các nội dung và hình thức học tập, bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ như: báo cáo điển hình, báo cáo tham luận, hội thảo, toạ đàm, dự giờ
thao giảng, dạy mẫu,…Mỗi tháng tổ chức thao giảng một lần ở tất cả các bộ
môn, làm sao cho mỗi giáo viên trong một học kỳ phải được dạy thao giảng một
lần. Qua đó, giáo viên có điều kiện để học hỏi, nâng cao năng lực chuyên môn.
- Tạo mọi điều kiện thuận lợi để giáo viên có thể tham gia học các lớp bồi
dưỡng về chuyên môn. Qua từng học kỳ, chỉ đạo cho các tổ chuyên môn tổng

kết, đúc rút những kinh nghiệm về chuyên môn.
- Nhận thức sâu sắc về đổi mới phương pháp, tiếp cận với phương pháp dạy
học theo hướng tích cực hoá- lấy học sinh làm trung tâm. Cụ thể những dấu hiệu
cơ bản trong quá trình lên lớp như sau:
+ Thầy nói ít hơn, trò nói nhiều hơn.
+ Thầy viết ít hơn, trò được suy nghĩ nhiều hơn.
+ Thầy thiết kế trong giáo án những hoạt động của thầy và trò trên lớp tổ
chức cho học sinh thu thập thông tin và biết xử lý các thông tin đó.
+ Thầy là trọng tài khi học sinh tranh luận giúp học sinh hoàn thành việc học
tập.
+ Hình thức tổ chức đa dạng hơn.
+ Học sinh tự đánh giá kết quả học tập của bản thân và bạn mình.
+ Không khí học tập sôi nổi, hứng thú, tích cực dưới sự hướng dẫn của thầy.
Ngoài ra, người thầy còn biết sử dụng thiết bị dạy học hiện đại, tranh ảnh,
biết làm đồ dùng dạy học, biết phân xử công minh,…
3. Xây dựng và thực hiện nề nếp dạy học:
Chương trình dạy học là pháp lệnh của Nhà nước do Bộ Giáo dục&Đào tạo
ban hành. Do vậy, phải thực hiện nghiêm chỉnh, không được thay đổi, thêm bớt
làm sai lệch:
- Phải làm cho toàn thể giáo viên nắm vững toàn bộ chương trình dạy học.
13
- Cần chỉ đạo chặt chẽ việc xây dựng và thực hiện kế hoạch bộ môn của từng
lớp, đồng thời tiến hành kiểm tra thường xuyên việc thực hiện. Kịp thời phổ biến
những thay đổi nếu có về những sửa đổi trong chương trình sách giáo khoa.
- Chỉ đạo giáo viên thực hiện tính pháp chế của chương trình, tránh trường
hợp dạy học tuỳ tiện như dạy dồn, dạy ép, cắt tiết,…
- Thường xuyên kiểm tra giờ dạy ở trên lớp và tiến độ thực hiện chương trình
giảng dạy của mỗi giáo viên, việc thực hiện các quy chế chuyên môn cho từng
môn học. Kiểm tra việc chấm, chữa bài và đánh giá học sinh thông qua bài kiểm
tra và sổ ghi điểm.

4. Chỉ đạo biên soạn bài giảng và quản lý giờ lên lớp:
- Bài giảng là công cụ làm việc giáo viên trên lớp được coi là bản thiết kế xác
định rõ mục đích yêu cầu của bài dạy về tri thức, tư tưởng, kỹ năng. Đồng thời
vạch ra con đường dẫn dắt người học khám phá, tiếp thu tri thức đạt kết quả cao
nhất. Soạn bài là việc chuẩn bị quan trọng của giáo viên trong giờ lên lớp. Soạn
bài cùng với việc chuẩn bị các thiết bị dạy học là hai công việc chủ yếu để nâng
cao chất lượng bài dạy, giờ dạy. Khuyến khích giáo viên áp dụng công nghệ
thông tin vào việc soạn giảng. Soạn bài theo phương pháp tích cực thể hiện:
+ Những dự kiến của giáo viên phải tập trung chủ yếu vào các hoạt động của
học sinh, từ đó hình dung mình sẽ phải tổ chức các hoạt động của học sinh như
thế nào.
+ Giáo viên phải suy nghĩ công phu về những khả năng diễn biến các hoạt
động, đề ra cho học sinh, dự kiến những giải pháp điều chỉnh để không bị “ cháy
giáo án”.
+ Bài học xây dựng từ những đóng góp của học sinh thông qua hoạt động do
giáo viên tổ chức, tăng cường mối liên hệ ngược từ trò đến thầy và mối liên hệ
ngang giữa trò với trò, đòi hỏi người giáo viên phải có kinh nghiệm sư phạm mới
làm chủ được tiết dạy.
- Giờ lên lớp thực chất là quá trình tổ chức nhận thức cho học sinh, là một tập
hợp gắn bó chặt chẽ những phương pháp, phương tiện và kỹ thuật giúp học sinh
tự tìm ra kiến thức. Giờ lên lớp giữ vai trò quyết định chất lượng dạy học. Cần
phải:
+ Làm cho giáo viên nhận thức về tầm quan trọng của giờ lên lớp
+ Tạo ra khả năng, điều kiện để giờ lên lớp của giáo viên có chất lượng. Muốn
vậy, phải có đủ điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện dạy học thiết yếu phục vụ
giờ lên lớp.
+ Quản lý chặt chẽ giờ giấc của giáo viên, thường xuyên dự giờ thăm lớp để
kiểm tra sự chuẩn bị giờ lên lớp, từ đó kịp thời phát hiện và uốn nắn những sai
sót của giáo viên trong quá trình lên lớp.
+ Dùng thời khoá biểu, lịch báo giảng và sổ đầu bài để quản lý giờ lên lớp, qua

đó kiểm soát được tiến độ thực hiện chương trình các môn học.
+ Phát phiếu( không cần ghi tên) để học sinh có thể trình bày tâm tư, nguyện
vọng hoặc tình hình giảng dạy của giáo viên trên lớp.
5. Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học:
14
Ngành giáo dục đào tạo nước ta đã và đang hướng tới một phương pháp dạy
học tích cực theo quan điểm: “ lấy học sinh làm trung tâm”. Thực hiện phương
pháp này sẽ phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học
sinh, coi trọng việc rèn luyện cho học sinh phương pháp tự học. Học sinh vừa
nắm được kiến thức, vừa nắm được phương pháp đi tới kiến thức để phát triển tư
duy, đồng thời rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn chuẩn bị năng
lực thích ứng với đời sống xã hội. để thực hiện được mục đích trên đòi hỏi giáo
viên và học sinh phải tích cực điều chỉnh mối quan hệ thầy trò trong quá trình
dạy học, phải có sự làm việc nhịp nhàng giữa thầy và trò thông qua các hoạt
động theo nội dung bài học. Mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh là quan hệ
hợp tác, thân ái, thông hiểu lẫn nhau. Muốn vậy, người phó hiệu trưởng cần phải:
- Tích cực tuyên truyền làm cho cán bộ, giáo viên và học sinh thấy được việc
đổi mới phương pháp dạy học có vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao
chất lượng dạy học.
- Giúp cho giáo viên thấy rằng cần phải tăng cường khả năng tự bồi dưỡng
nâng cao năng lực chuyên môn, năng động sáng tạo trong việc tìm ra các phương
pháp, hình thức tổ chức dạy học thích hợp. Phải đầu tư “ chất xám” nhiều hơn
nữa vào quá trình dạy học. Bởi vì hướng dẫn học sinh tìm ra kiến thức còn khó
hơn nhiều việc thuyết trình kiến thức đó cho học sinh.
- Hướng dẫn việc đổi mới về hình thức tổ chức dạy học: kết hợp sử dụng
giảng dạy trên lớp với các hình thức ngoài lớp, tăng cường hoạt động tự học cá
nhân của học sinh, tổ chức học tập theo nhóm nhỏ,…Đồng thời, đổi mới phương
tiện dạy học bằng cách tăng cường sử dụng các đồ dùng dạy học, sử dụng phiếu
học tập,…phục vụ cho từng tiết lên lớp.
- Xây dựng các điển hình tiên tiến về đổi mới phương pháp dạy học trong nhà

trường để rút kinh nghiệm và làm nòng cốt cho việ đổi mới phương pháp dạy
học trong phạm vi toàn trường. Khuyến khích, tạo điều kiện giúp đỡ giáo viên
trong trường áp dụng phương pháp dạy học mới ngày càng rộng rãi, thường
xuyên và có hiệu quả hơn.
- Việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học còn phải dựa trên mục tiêu,
nội dung bài học, phương tiện, thiết bị dạy học và đối tượng học sinh. Tuỳ tình
hình cụ thể người thầy có thể đưa ra một số phương pháp tối ưu phù hợp với
hoàn cảnh trường, lớp nhằm phát huy cao nhất khả năng tích cực, chủ động của
trò trong quá trình phát hiện tìm tòi kiến thức.
- Song song với việc đổi mới phương pháp dạy học thì phải cải tiến hệ thống
kiểm tra, đánh giá, học sinh chính là người tự kiểm tra và đánh giá về những kiến
thức mình đã khám phá ra. Đề kiểm tra đưa ra theo nhiều hình thức trắc nghiệm,
tự luận, lý thuyết, thực hành,…đảm bảo khách quan và có tính chính xác cao.
Nội dung kiểm tra phù hợp với đặc thù bộ môn, nội dung chương trình và những
điều kiện cụ thể của nhà trường. Câu hỏi kiểm tra đánh giá phải tạo điều kiện cho
học sinh bộc lộ được các năng lực bản thân. Đánh giá không phải qua khâu kiểm
tra đầu giờ mà tiến hành suốt trong tiết học, qua quá trình học tập.
15
Như vậy, muốn nâng cao chất lượng dạy học nhất thiết phải đổi mới phương
pháp, dạy học theo hướng tích cực hoá và phải thật sự coi đây là một cuộc cách
mạng trong hoạt động dạy học. Cải tiến phương pháp dạy học là tiền đề có ý
nghĩa quyết định đến việc nâng cao chất lượng dạy học.
6. Xây dựng, sử dụng và bảo quản các thiết bị dạy học:
Đây là một vấn đề hết sức khó khăn đối với hoàn cảnh của trường: chỉ có một
phòng thiết bị, thư viện chật chội không có các phòng thực hành bộ môn nên
không thuận tiện cho việc bảo quản và sử dụng. Do vậy phải làm tốt công tác
tham mưu để tranh thủ sự giúp đỡ, tạo điều kiện của các cấp quản lý giáo dục
cũng như địa phương trong việc tăng cường cơ sở vật chất, xây dựng và tăng
cường hệ thống thiết bị, thư viện, phòng thực hành, thí nghiệm,…
Phát động phong trào tự làm và sử dụng đồ dùng dạy học để tránh tình trạng

“ dạy chay”. Tổ chức kiểm tra dạy học phải gắn bó chặt chẽ với thiết bị dạy học.

7. Chỉ đạo công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu kém:
Đây là một công tác vô cùng quan trọng đã được thực hiện trong nhiều năm
học và đạt hiệu quả nhất định. Muốn tăng tỷ lệ học sinh giỏi và giảm tỷ lệ học
sinh yếu kém cần phải có những biện pháp hữu hiệu hơn nữa:
- Ngay từ đầu năm học, sau khi khảo sát chất lượng học sinh toàn trường, tiến
hành phân loại học sinh theo các mức độ: khá, giỏi; trung bình; yếu, kém.Từ đó,
phát hiện kịp thời và có kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi và phụ đạo học sinh
yếu kém.
- Lựa chọn những giáo viên có năng lực, nhiệt tình để giảng dạy theo chương
trình đã được biên soạn trước. Công việc này phải được tiến hành thường xuyên,
liên tục có sự kiểm tra của ban giám hiệu, tổ chuyên môn.
- Chỉ đạo việc ra đề kiểm tra, thi cử, tổ chức coi thi nghiêm túc, chấm bài,
đánh giá học sinh một cách chính xác, khách quan, công bằng và kịp thời.
- Kiểm tra, theo dõi chặt chẽ tình trạng dạy thêm, học thêm ngoài nhà trường.
II/ Biện pháp quản lý hoạt động học của học sinh:
Hoạt động dạy của giáo viên gồm việc tổ chức hướng dẫn hoạt động học tập
của học sinh. Vì thế người quản lý thông qua hoạt động dạy của giáo viên để
quản lý hoạt động học của học sinh. Chúng ta đã biết rằng đổi mới phương pháp
dạy học là đổi mới cách dạy của thầy và cách học của trò. Muốn đổi mới cách
dạy thì không thể không đổi mới cách học. Như vậy, cần phải có những biện
pháp thiết thực nhằm cải tiến cách học của trò:
1. Tổ chức hoạt động dạy học hướng vào mục tiêu của bậc học:
Làm cho học sinh nhận thức rõ mục tiêu của bậc học là giúp học sinh phát
triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ, có những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và
hướng nghiệp, có một số kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ đó tổ chức các hoạt động dạy học phù hợp với
trình độ nhận thức, đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh trung học cơ sở.
2. Nâng cao tinh thần làm chủ quá trình học tập của học sinh:

16
- Học sinh phải có vở bài soạn cho tất cả các môn học, dưới sự hướng dẫn của
giáo viên ở trên lớp, học sinh sẽ tự soạn bài mới ở nhà, tự tìm tòi, khám phá kiến
thức. Với cách học như vậy sẽ phát huy được tinh thần tự học của các em.
- Trong từng lớp, phân chia học sinh thành những nhóm theo địa bàn dân cư
để các em có điều kiện trao đổi, cùng nhau học hỏi, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
- Xây dựng động cơ, thái độ học tập đúng đắn trong từng học sinh giúp các
em tự giác, không học đối phó, không chạy theo “điểm số”.
- Phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong các hoạt động giáo dục.
3.Xây dựng và thực hiện nề nếp học tập:
- Thành lập tổ cờ đỏ của lớp, của trường nhằm kiểm tra về giờ giấc ra vào
lớp, tránh tình trạng học sinh đi trễ, về sớm, bỏ giờ,…
- Ban cán sự bộ môn từng lớp phải kiểm tra nghiêm túc việc thực hiện truy
bài 15 phút đầu buổi học, đảm bảo học sinh trong lớp phải thuộc và làm bài
trước khi đến lớp.
- Trong các giờ học ở trên lớp, học sinh phải nghiêm túc, sôi nổi xây dựng
bài, ghi chép bài đầy đủ, phát huy tính tích cực, sáng tạo theo quan điểm “ lấy
học sinh làm trung tâm”.
4.Hướng dẫn tổ chức các hình thức học tập phù hợp:
Ở trên lớp học, tuỳ từng điều kiện cụ thể giáo viên có thể tổ chức các hình
thức dạy học cho phù hợp. Tuy nhiên, để phát huy vai trò của người học, thầy
nên tổ chức hoạt động theo nhóm để mọi người đều tham gia, cùng chia sẻ kinh
nghiệm, thảo luận, trao đổi giải quyết những vấn đề khó hoặc mở rộng, nâng cao
những vấn đề cần thiết.
5- Chỉ đạo công tác thi đua:
- Giáo viên chủ nhiệm lớp kết hợp với tổ cờ đỏ thường xuyên theo dõi việc
thực hiện nội quy trường lớp, nề nếp học tập và xếp loại thi đua trong từng tuần,
tháng, học kỳ và cả năm.
- Đối với những đợt chào mừng các ngày lễ lớn cần phát động phong trào thi
đua để dấy lên không khí học tập sôi nổi như: đăng ký buổi học tốt, tiết học tốt,

bông hoa điểm tốt,…Qua mỗi đợt thi đua có sơ kết, đánh giá, khen thưởng, tuyên
dương, phê bình để thúc đẩy phong trào học tập ngày càng đi lên.
- Giáo viên chủ nhiệm xây dựng nội dung theo chỉ đạo của ban giám hiệu và
có hình thức tổ chức giờ sinh hoạt lớp nhằm đánh giá tổng kết các mặt hoạt động
trong tuần có tuyên dương kịp thời gương người tốt, việc tốt và xử lý những
trường hợp vi phạm.
- Qua từng học kỳ, nhà trường có phần thưởng xứng đáng cho các em gương
mẫu toàn diện và học sinh nghèo vượt khó, đó chính là động lực thúc đẩy các em
ngày càng cố gắng hơn.
6- Chỉ đạo tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp: đây là hoạt động hỗ
trợ học tập, giáo dục toàn diện học sinh do Hiệu trưởng- Tổng phụ trách Đội-
17
Giáo viên chủ nhiệm phối hợp tổ chức. Thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp giúp học sinh:
- Làm quen với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
- Tạo kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hoạt động tập thể.
- Dễ dàng hoà mình với đời sống tập thể.
PHẦN III
KẾT LUẬN CHUNG
I/ Đánh giá chung:
Từ những vấn đề đã nêu ở trên, tôi nhận thấy hoạt động dạy và học trong
trường trung học cơ sở là một hoạt động trọng tâm, vì vậy người quản lý phải
làm tốt các biện pháp đã đề ra để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đáp
ứng được mục tiêu mà Đảng, Nhà nước và ngành Giáo dục& Đào tạo đã đề ra.
Thực tế, trong giai đoạn hiện nay, nền giáo dục Việt Nam đang có những
chuyển biến mạnh mẽ, là người cán bộ quản lý giáo dục, cần phải quán triệt các
Nghị quyết của Đảng về đổi mới giáo dục, thực hiện theo Luật giáo dục: “
Phương pháp dạy học phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng
tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn
lên”. Việc đổi mới phương pháp là cần thiết, phương pháp dạy học- lấy học sinh

làm trung tâm cần phải áp dụng ngay trên cơ sở phát huy mặt tích cực của
phương pháp truyền thống. Nâng cao hiệu quả giáo dục.
Muốn nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường trung học cơ sở, người
phó hiệu trưởng phải đặc biệt quan tâm đến hai hoạt động chủ yếu, đó là dạy và
học, phải thường xuyên quan tâm đến hoạt động dạy của giáo viên và tổ chức
quản lý một cách khoa học, cụ thể. Tuy nhiên, cũng cần chú trọng đến việc quản
lý hoạt động học tập của học sinh thì mới đạt đến mục tiêu mong muốn.
Các hoạt động dạy học phải được tổ chức quản lý và đầu tư thường xuyên.
Người phó hiệu trưởng phải nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ của mình, quản lý
tốt kế hoạch dạy học đề ra nhằm góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất
lượng dạy học và hiệu quả giáo dục. Chất lượng dạy học là thước đo giá trị, là
một trong những tiêu chí cơ bản để đánh giá sự phát triển của nhà trường.
Người phó hiệu trưởng muốn quản lý, chỉ đạo tốt hoạt động dạy học theo
hướng tích cực hoá thì phải thường xuyên học tập, bồi dưỡng, nâng cao trình độ
chuyên môn, vững vàng về nghiệp vụ quản lý giáo dục. Phải năng động, sáng
tạo, luôn khám phá, tìm tòi những nội dung, giải pháp thiết thực phù hợp với
điều kiện của trường mình quản lý. Phải nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ quản lý
một cách khoa học. Có kế hoạch toàn diện tác động tích cực, trực tiếp vào hoạt
động dạy học. Đồng thời, phải vận dụng linh hoạt sức mạnh tổng hợp của các lực
lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường vào hoạt động dạy học.
Đáp ứng được những vấn đề này thì chất lượng dạy học trong nhà trường
trung học cơ sở sẽ ngày càng được nâng cao rõ rệt nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ
18
“ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” cho đất nước, góp phần
thúc đẩy sự nghiệp giáo dục của nước nhà.
II/ Những tồn tại của đề tài :
- Do thời gian hạn chế nên phạm vi nghiên cứu của đề tài chưa rộng, nội
dung chưa sâu sắc, còn mang nặng tính lý thuyết.
- Tài liệu tham khảo không nhiều.
- Đề tài sáng kiến kinh nghiệm chỉ được nghiên cứu ở một trường cụ thể nên

việc thu thập thông tin chưa được toàn diện, còn mang nặng tính chủ quan, phiến
diện.
III/ Kiến nghị:
- Đề nghị các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nước ở địa phương và ngành cần quan
tâm nhiều hơn nữa, tạo điều kiện về việc xây dựng cơ sở vật chất cũng như cung
cấp trang thiết bị dạy học để đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học.
- Các cấp lãnh đạo ngành Giáo dục&Đào tạo nên tổ chức các chuyên đề về
quản lý trường học ở các huyện để cán bộ quản lý được cập nhật những thông
tin, kiến thức mới nhất về quản lý, từ đó sẽ ứng dụng vào thực tiễn ở nhà trường.
DUYỆT CỦA HIỆU TRƯỞNG NGƯỜI THỰC HIỆN
Nguyễn Minh Hoàng Trương Thị Phú

DUYỆT CỦA PHÒNG GD&ĐT
PHẦN IV
TÀI LIỆU THAM KHẢO
19
1. Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX; X
2. Điều lệ trường trung học.
3. Giáo trình bồi dưỡng phó hiệu trưởng trường trung học cơ sở( Sở giáo dục
và đào tạo Hà Nội- 2005)
4. Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học cơ
sở( Bộ giáo dục và đào tạo – 2004).
5. Mô hình dạy học tích cực lấy người học làm trung tâm( Trường CBQL-
GD ĐT- 1996)
6. Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục năm 1997 của trường Cao
đẳng sư phạm Quảng Ngãi.
7. Các tập san nghiên cứu giáo dục của Sở Giáo dục- đào tạo Quảng Ngãi.
MỤC LỤC
Phần I: Những vấn đề chung Trang 1
Phần II:

Chương I: Những cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu Trang 4
Chương II: Thực trạng quản lý hoạt động dạy học theo hướng Trang 6
tích cực hoá ở trường THCS Bình Hoà.
20
Chương III: Những biện pháp chỉ đạo hoạt động dạy học theo Trang 13
hướng tích cực hoá ở trường THCS Bình Hoà.
Phần III: Kết luận chung Trang 19
Phần IV: Tài liệu tham khảo Trang 21

21

×