Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

vai trò của chính sách tiền tệ trong việc điều tiết hoạt động kinh tế vĩ mô của việt nam giai đoạn 1996-2000

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.64 KB, 40 trang )

§Ò ¸n m«n häc Kinh tÕ ph¸t triÓn
Lª ThÞ Thanh T©m Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 40
Đề án môn học
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế nước ta đang tiến những bước vững chắc với việc cải cách kinh tế theo hướng
mở cửa. Điều đó được thực hiện trên tinh thần “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước” và
trên nguyên tắc “ bình đẳng cùng có lợi”. Chủ trương đó sẽ giúp chóng ta nhanh chóng hoà nhập
với nền kinh tế thế giới, tham gia một cách ngày càng có hiệu quả vào quá trình hợp tác và phân
công lao động quốc tế. Quá trình đó diễn ra cùng với sự phát triển ngày càng lớn mạnh của các mối
giao lưu thương mại giưã Việt Nam với các nước trên thế giới, để ổn định và phát triển kinh tế
Việt Nam theo hướng có lợi thì chúng ta không thể không đề cập đến vai trò điều tiết nền kinh tế
của chính phủ, một trong những công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô mà ta quan tâm ở đây là chÝnh
sách tiền tệ
Sức mạnh của nền kinh tế được thể hiện như thế nào trên thị trường cũng như trên mặt khác,
một nền kinh tế mạnh phải là một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định và để đạt được
điều đó thì chính sách tiền tệ đóng một vai trò rất quan trọng trong việc ổn định đồng tiền trong
nứơc, ổn định tỷ giá hối đoái, ổn định sức mua, giảm lạm phát và thúc đẩy nền kinh tế đi lên.
Giai đoạn trước đây, chính sách tiền tệ của chính phủ chỉ đơn thuần là hoạt động phát hành
tiền của NHTƯ, hiện nay cùng với sự lớn mạnh của hệ thống ngân hàng thì các công cụ của chính
sách tiền tệ được tăng cường nhiều hơn, có tác động lớn hơn tới nền kinh tế và vai trò của nó ngày
càng quan trọng hơn. Từ thực tế đó, việc ngiên cứu chính sách tiền tệ đó có thể hiểu rõ hơn về vai
trò mà em đã chọn đề tài “Vai trò của chính sách tiền tệ trong việc điều tiết hoạt động kinh tế vĩ mô
của Việt Nam giai đoạn 1996-2000” để thông qua đó em có thể đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn
thiện chính sách tiền tệ hiện nay của ta còn nhiÒu bất cập, không phù hợp với nền kinh tế tiền tệ
theo định hướng XHCN.
Việc viết bài này nhằm mục đích nghiên cứu về chính sách tiền tệ trong giai đoạn 1996-
2000. Đưa ra hệ thống các giải pháp nhằm tăng cường vai trò của chính sách tiền tệ dựa trên cơ sở
đường lối phát triển kinh tế Việt Nam.
Bài viết được dựa trên phương pháp biện chứng, logic có tính kế thừa và phát huy, có cân
nhắc và phê phán.
Bài viết giúp chúng ta hiểu rõ các vấn đề lý thuyết và thực tiễn về chính sách tiền tệ của đất


nước ta kể từ khi chính phủ ta áp dụng vào điều tiết kinh tế vĩ mô nhất là giai đoạn 1996-2000 để
hiểu toàn cảnh về nó, về các công cụ của chính sách tiền tệ mà ta đã và đang áp dụng, từ đó phân
tích đánh giá những thành công và những bất cập của chúng ta còn cần phải xử lý trong thời gian
tới.
PHẦN I
1
§Ò ¸n m«n häc Kinh tÕ ph¸t triÓn
Lª ThÞ Thanh T©m Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 40
Đề án môn học
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ CÁC
CÔNG CỤ CỦA NÓ
1. Tổng quan về chính sách tiền tệ
1.1. Vai trò của ngân hàng trung ương đối với chính sách tiền tệ
Lịch sử ra đời của NHTƯ ở các nước trên thế giới không hoàn toàn giống nhau. Điều đó tuỳ
thuộc vào tình hình kinh tế, chíng trị và hoàn cảnh lịch sử mỗi nước, song lý do tương đối phổ biến
là xuất phát từ yêu cầu can thiệp của Nhà Nước vào lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng. Dù với
tên gọi khác nhau (NHTƯ, NHNN, Hệ thống dự trữ liên bang ), nhưng tất cả chúng đều có chung
một tính chất là cơ quan trong bộ máy quản lý Nhà Nước, độc quyền phát hành tiền, thực hiện
nhiệm vụ cơ bản là ổn điịnh giá trị tiền tệ, thiết lập trật tự, bảo đảm sự hoạt động an toàn và ổn định
và hiệu quả của toàn bộ hệ thống ngân hàng nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của mỗi đất
nước.
Hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ là nhiệm vụ trung tâm, là “linh hồn” của NHTƯ
trong lĩnh vực tiền tệ. Điều hành chính sách tiền tệ của NHTƯ trong nền kinh tế thị trường mang
tính chất điều tiết vĩ mô, hướng các tổ chức tín dụng vào thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền
tệ, đồng thời vẫn đảm bảo tính chủ động tronh hoạt động kinh doanh tổ chức tín dụng. NHTƯ
thường không can thiệp và không ra lệnh trực tiếp vào các quyết định tác nghiệp của các tổ chức tín
dụng mà chủ yếu sử dụng các biện pháp tác động gián tiếp để điều chỉnh môi trường và các điều
kiện kinh doanh của các tổ chức tín dụng như: khả năng thanh toán, mặt bằng lãi suất, khối lượng
tiền cung ứng, tỷ giá để thông qua đó đạt tối đa hiệu quả mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Để điều hành chính sách tiền tệ, NHTƯ phải hình thành và sử dụng hệ thống công cụ của

nó. Đặc điểm của các công cụ chính sách tiền tệ là tạo cho NHTƯ khả năng tác động có hiệu lực
đến các yếu tố tiền đề bắt buộc các tổ chức tín dụng phải tự điều chỉnh hoạt của mình theo hướng
chỉ đạo của NHTƯ nhưng vẫn phải đảm bảo quyền tự chủ trong kinh doanh cũng như sự bình đẳng
trong môi trường cạnh tranh giữa các ngân hàng
1.2. Đặc điểm của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống chính sách kinh tế –
tài chính của quốc gia. ở mỗi quốc gia, chính sách tiền tệ do NHTƯ vạch ra và NHTƯ sẽ đưa nó
vào hệ thống thực tế nhằm đạt được các mục tiêu cơ bản của kinh tế vĩ mô. Trên cơ sở đó, tuỳ
thuộc vào từng thời kỳ hình thành của mỗi quốc gia mà xác định đâu là mục tiêu chính.
Một chính sách tiền tệ hoàn hảo sẽ xây dựng một “tứ giác thần kỳ” ứng với một tốc độ lạm
phát 1% - 3%, thất nghiệp vào khoảng 4% trên tổng số lao động, tăng trưởng kinh tế phải đạt từ 3%
- 5% và làm sao cho số dư trong cán cân thanh toán quốc tế chiếm từ 2% - 3% trên GNP. Một quốc
gia sẽ cực kỳ ổn định nếu nó đạt đựoc “ tứ giác thần kỳ” này.
2
§Ò ¸n m«n häc Kinh tÕ ph¸t triÓn
Lª ThÞ Thanh T©m Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 40
Đề án môn học
Vì chính sách tiền tệ là một bộ phận cấu thành trong hệ thống các chính sách kinh tế – tài
chính của quốc gia và trong hệ thống đó, các bộ phận cấu thành có mối quan hệ tác động hữu cơ
với nhau. Do vậy, một chính sách tiền tệ hữu hiệu đòi phải được thiết lập và vận hành trong mối
quan hệ hữu cơ với chính sách khác đứng trên góc độ toàn cục, chứ không nên tồn tại với tư cách là
một yếu tố độc lập mặc dù nó cực kỳ quan trọng.
Tuy nhiên, chính sách tiền tệ có vai trò quan trọng tương đối độc lập với các chính sách
khác xuất phát từ ba luận điểm sau:
- Một là, sẽ không có tăng trưởng kinh tế nếu không có đầu tư
- Hai là, không thể có đầu tư mà không có tiết kiệm
- Ba là, không thể có tiết kiệm nếu thiếu sự ổn định giá cả và tiền tệ.
Chính vì vậy, chính sách tiền tệ có nhiệm vụ tác động vào nhiều hướng tạo ra đầu tư, tạo ra
tiết kiệm và tạo ra sự ổn định về giá cả và tiền tệ.
Như vậy, chính sách tiền góp phần quan trọng vào sự thành công hay thất bại của nền kinh

tế. Một chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ dẫn tới sự khan hiếm về tiền tệ và đắt đỏ về chi phí. Ngược
lại, một chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ làm cho tiền tệ trở nên thừa thãi, kích thích tiêu dùng và tăng
trưởng kinh tế.
2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Mỗi một quốc gia đều có chính sách tiền tệ riêng phù hợp với nền kinh tế đặc thù của mỗi
nước. Tuy nhiên, mỗi chính sách tiền tệ đều hướng vào những mục tiêu chủ yếu sau:
- Ổn định tiền tệ , bảo vệ giá trị đối nội của đồng tiền trên cơ sở kiểm soát được lạm phát.
-Ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền trên cơ sở cân bằng cán cân thanh toán quốc tế và
ổn định tỷ giá hoái đối.
-Tạo sự tăng trưởng kinh tế trong sự ổn định.
-Tạo công ăn việc làm và giảm bớt thất nghiệp.
2.1. Kiểm soát lạm phát
Khi nền kinh tế thế giới sử dụng tiền lưu thông thoát ly chế độ kim bảng vị và thay bằng
tiền không đủ giá thì chứa đựng bên trong nó khả năng tiềm tàng của lạm phát. Vì lẽ đó mà con
người cho rằng lạm phát gần như căn bệnh kinh niên trong nền kinh tế hàng hoá, đặc biệt là nền
sản xuất hàng hoá phát triển ở mức độ cao.
Mỗi nhà kinh tế đều đưa ra những khái niệm về lạm phát theo quan điểm riêng của mình
đứng ở những góc độ khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung lạm phát là sự tăng giá trung bình của
hàng hoá theo thời gian.
Nói đến lạm phát, chúng ta, thậm chí nhiều nhà lãnh đạo của các quốc gia coi như là kể thù
số một. Như vậy hẳn là lạm phát đã gây ra những tác động rất xấu. Thực chất câu trả lời hoàn toàn
không phải là như vậy.
Nếu lạm phát bất thường sẽ phân phối lại thu nhập và của cải giữa các giai cấp khác nhau.
Khi giá tăng một cách bất thường thì người mất là những người đang nắm các tài sản danh nghĩa
còn người được là những người có khoản nợ tính theo các giá trị danh nghĩa. Các điều khoản của
3
§Ò ¸n m«n häc Kinh tÕ ph¸t triÓn
Lª ThÞ Thanh T©m Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 40
Đề án môn học
hợp đồng danh nghĩa ban đầu trong việc mua hoặc bán, cho vay hoặc đi vay, đều có thể được viết

ra có tính tới yếu tố lạm phát thông thường nhưng không thể tính tới yếu tố lạm phát bất thường.
Khi đó mọi người nhất là các chủ đầu tư không quan tâm, tin tưởng trong việc tính toán công việc
đầu tư nên không khuyến khích đầu tư.
Nếu lạm phát cân bằng có dự tính trước thì sẽ không ảnh hưởng gì đến sản lượng thực tế,
hiệu quả hoặc phân phối thu nhập. Giả sử một nền kinh tế trong đó lạm phát hàng năm 10% mãi
mãi. Mọi người đều biết trước được điều đó, thấy trước được sự vận động của nó và có thể tính tới
điều đó khi thực hiện hành vi của mình.
Như vậy lạm phát tồn tại rất lâu dài trong nền kinh tế hàng hoá. Bên cạnh tác hại của nó mà
người ta dễ dàng nhận thấy, thì lạm phát trong chừng mực nào đó lại là một yếu tố kích thích kinh
tế tăng trưởng. Các nhà kinh tế học còn gọi đó là liều thuốc bổ tăng trưởng kinh tế. Bởi lẽ, lạm phát
chính là việc đưa một khối lượng tiền ra lưu thông.Trong nền kinh tế thị trường, công việc đưa tiền
ra lưu thông thường thông qua con đường tín dụng. Khi bơm vốn vào nền kinh tế bằng con đường
tín dụng thì sẽ mở mang các doanh nghiệp tạo điều kiện đầu tư chiều rộng và chiều sâu và dẫn tới :
I ↑→ AD ↑→ Y↑, U↓.
Như vậy, nhiệm vụ của NHTƯ là kiểm soát lạm phát, ổ định tiền tệ, tạo tiền đề cho nền
kinh tế phát triển bình thường, đảm bảo đời sống cho người dân lao động. Tuy nhiên, thực chất của
việc kiểm soát lạm phát là chấp nhận sự biến động với biên độ cho phép.
2.2. Ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền
Trong nền kinh tế mở, xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế – tài chính thế giới diễn ra rất
nhanh và sâu sắc. Trước tình hình đó, các nước trên thế giới đều hướng về các thị trường tài chính
quốc tế để theo dõi sự biến động cuả các đồng tiền chủ chốt nhằm tránh các tác dụng tiêu cực của
các biến động trên thị trường tài chính thông qua hệ thống tỷ giá hối đoái. Một sự biến động của tỷ
giá hối đoái Ýt hay nhiều đều ảnh hưởng tới hoạt động kinh tế trong nước tuỳ theo mức độ hướng
ngoại của nền kinh tế.
Tỷ giá hối đoái chịu sự tác động mạnh của khối lượng dự trữ ngoại hối, thị trường hối đoái
và các chính sách hối đoái, tình hình giá cả trong nước. Do đó, một chính sách tiền tệ nhằm ổn định
kinh tế trong nước cần phải đi đôi với những biện pháp nhằm ổn định tỷ giá hối đoái. Do tính chất
tổng hợp, tỷ giá hối đoái ảnh hưởng sâu sắc đến các hoạt động kinh tế của một đất nước, đặc biệt là
hoạt động xuất nhập khẩu.
Chính vì vậy mà hiện nay hầu hết các quốc gia đều thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái thả

nổi có sự can thiệp của Nhà nước. Cùng với lãi suất, nó được coi là mòi neo quan trọng của nền
kinh tế, là tín hiệu hết sức nhạy cảm.
Một tỷ giá hối đoái thấp ( đồng bản tệ có giá trị tăng so với ngoại tệ ) → nhập khẩu ↑, xuất
khẩu ↓ → khối lượng dự trữ ngoại hối dễ bị xói mòn. Ngựoc lại, một tỷ giá hối đoái cao (nghĩa là
đồng bản tệ có giá trị thấp so với ngoại tệ ) → nhập khẩu ↓, xuất khẩu ↑ → những sản xuất có
nguyên liệu nhập khẩu hay thay thế hàng nhập khẩu gặp trở ngại → nhưng khối lượng dự trữ ngoại
tệ có cơ hội gia tăng.
Như phân tích trên, một tỷ giá hối đoái cao hay thấp đều xuất hiện tác động kép – tích cực
và tiêu cực. Do đó nhiệm vụ của NHTƯ là sử dụng những công cụ, chính sách của mình can thiệp,
4
§Ò ¸n m«n häc Kinh tÕ ph¸t triÓn
Lª ThÞ Thanh T©m Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 40
Đề án môn học
giữ cho tỷ giá hối đoái không thăng trầm quá đáng, làm dịu bớt những tình trạng bất ổn định của
nền kinh tế trong nước.
2.3. Tăng trưởng kinh tế
Với bất kỳ một chính sách tiền tệ nào, mục đích cao nhất là làm thế nào để phát triển kinh
tế, gia tăng sản lượng của nền kinh tế. Tuy nhiên, trước khi đề cập đến vấn đề tăng trưởng, mỗi
quốc gia phải nhấn mạnh ba điểm sau:
Thứ nhất: Tăng trưởng chính là sự tăng sản lượng tính trên đầu người, chứ không phải là
sự gia tăng tổng sản lượng. Các nước tìm kiếm sức mạnh kinh tế và quân sự trong nền kinh tế thế
giới có thể quan tâm đến tổng sản lượng. Nhưng ở hầu hết các nước, mục tiêu đều là tăng sản
lượng theo đầu người và tăng mức sống cá nhân tiêu biểu.
Thứ hai: Sự cải tiến năng suất lao động một lần duy nhất chỉ tạo ra sự tăng trưởng kinh tế
tạm thời. Tăng trưởng ổn định đòi hỏi năng suất lao động phải ổn định.
Thứ ba: Mặc dù sự tăng trưởng mang lại lợi Ých có mức sản lượng và tiêu cao hơn trong
tương lai. Tuy nhiên, nó có thể sinh ra mét chi phí ngắn hạn. Ví dụ nếu nền kinh tế ở mức sản
lượng tiềm năng, việc giảm bớt tiêu dùng hiện thời sẽ là cần thiết để dùng một phần lớn hơn các
nguồn lực hiện có vào việc sản xuất những tư liệu sản xuất mới nhằm tạo ra mức sản lượng và tiêu
dùng cao hơn trong tương lai.

Về phương tiện cơ sở tiền tệ, để tăng trưởng kinh tế, NHTƯ thực hiện chính sách tiền tệ nới
rộng. Tác động đó thông qua hai chiều.
Khi khối lượng tiền tệ tăng, tác động nền kinh tế diễn ra dưới dạng sơ đồ:
MS ↑ → i ↓ → I ↑, mở rộng sản xuất → AD↑ → Y ↑.
Nếu tỷ lệ gia tăng tổng sản phẩm xã hội lớn hơn nhịp gia tăng dân số sẽ có tăng trưởng kinh
tế.
Mặc khác, sù gia tăng khối tiền đưa đến tác dụng làm tăng số cầu tổng hợp. Các thành phần
dân cư có tiền nhiều hơn sẽ tăng sức cầu tiêu thụ và hoạt động thương mại trên thị trường tăng giúp
giải quyết hàng tồn đọng, làm cho các doanh nghiệp gia tăng sản xuất, hàng hoá lưu thông, phân
phối với nhịp điệu nhộn nhịp hơn. Kết quả là đến một lúc nào đó doanh nghiệp phải tăng thêm
trang thiết bị, nhà xưởng, đầu tư vào máy móc, kỹ thuật công nghệ. Cả hai sức cầu về sản phẩm
tiêu dùng và đầu tư tăng. Từ đó tổng sản phẩm xã hội tăng. Nếu mức tăng đó lớn hơn nhịp độ gia
tăng dân số sẽ có tăng trưởng kinh tế.
Việc gia tăng khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế trong thời kỳ đầu các quốc gia thường sử
dụng hạn mức tín dụng. Khi nền kinh tế thị trường vận động một cách thuần thục thì việc cung ứng
tiền chủ yếu được thực hiện thông qua các công cụ gián tiếp: dữ trữ bắt buộc, tái chiết khấu, lãi
suất tín dụng và thị trường mở. Bốn công cụ đó cùng tác động vào mức cung tiền tệ cho nền kinh
tế.
2.4. Tạo việc làm, giảm bớt thất nghiệp
Như ta biết trong nền kinh tế thị trường giữa tăng trưởng và suy thoái được diễn ra theo chu
kỳ. Việc toàn dụng nhân công và thất nghiệp luôn đan xen nhau.
5
Đề án môn học Kinh tế phát triển
Lê Thị Thanh Tâm Lớp: Kinh tế phát triển 40
ỏn mụn hc
Tht vy, trong nn kinh t s tỏc ng ca tng cung v tng cu s nh hng n s tng
trng kinh t:
AD = C+ I + G + ( X- M)
AS = f ( T, R, K, L )
Trong thc t, s tng trng kinh t bt c nc no cng khụng th kộo di mói vi thi

gian, lí do s bn l s cu dự tip tc gia tng liờn tc, n mt lỳc no ú nhõn cụng khan him
hn ch mc gia tng sn xut. ú l cha k nguyờn liu cng khan him. S khan him ca yu
t nhõn cụng, nguyờn liu lm tng phớ tn sn xut, nõng cao giỏ thnh v giỏ bỏn trờn th trng.
Vo thi im ny, nu khi lng tin t tip tc gia tng m khụng kim ch dn ti:
AD Y ,PL .
Vi tỡnh hỡnh ú NHT buc phi gim cung tin tng cu gim _ Hot ng kinh t ri
vo tỡnh trng ngng tr.
Trc tỡnh hỡnh ny, cỏc n v sn xut hng hoỏ bỏn chm li, hng tn kho tớch lu ngy
cng nhiu, tt s cú phn ng l gim bt sn xut hng hoỏ, sa thi bt nhõn cụng. Lỳc ny hu
qu : U, Y C kộo theo gim sn lng sn xut. Kt qu nn kinh t ri vo tỡnh trng suy
thoỏi v tht nghip gia tng.
chn ng tỡnh trng suy thoỏi ca nn kinh t, NHT s phi thi hnh chớnh sỏch bnh
trng khi tin t s tỏc ng n nn kinh t nh sau:
MS i, kt hp giỏ lao ng r sau thi gian tht nghip I AD Y,U .
Nh vy, gii quyt vn cụng n vic lm hin nay l mt yờu cu bc thit ca mi
quc gia, c bit l cỏc nc ang phỏt trin. Tuy nhiờn, lao ng l mt hng hoỏ trờn th trng
nờn tht nghip luụn tn ti mt cỏch khỏch quan. Bi l, khi sc lao ng tr thnh hng hoỏ thỡ
cu v sc lao ng luụn cú xu hng thp hn kh nng cung do nhng bin i chu k v c cu
sn xut, s i mi cụng ngh v k thut Bi vy, ngay c khi sn xut phỏt trin, kinh t tng
trng vn luụn cú mt b phn lao ng b tht nghip. Tht nghip s cng tng khi sn xut b
ỡnh tr v ch gim khi sn xut phc hi, kinh t tng trng.
Do ú, nhim v ca chớnh sỏch tin t l hn ch ti a mc tht nghip ch khụng cú
ngha l trit tiờu to nền kinh t phỏt trin cao.
Nhỡn chung, gia cỏc mc tiờu tng trng, lm phỏt v tht nghip cú mi quan h ch c
ln nhau. Khi kim ch c lm phỏt thỡ tng trng chm li dn n s suy thoỏi, tht nghip
cao. V khi m rng u t khc phc suy thoỏi thỡ cụng vic lm c tt hn nhng rt khú
kim ch lm phỏt. Chớnh vỡ vy, s can thip ca Nh nc ch ng iu chnh mi quan h
gia tng trng kinh t, lm phỏt v tht nghip ngy cng tr nờn quan trng trong vic iu tit
v mụ nn kinh t theo c ch th trng. lm c iu ú, Nh nc ó s dng cỏc cụng c
ca chớnh sỏch tin t.




6
NHTƯ Các
NH
Thị tr
ờng vốn
mức cung
tiền tệ
dữ trữ
1 2
Đề án môn học Kinh tế phát triển
Lê Thị Thanh Tâm Lớp: Kinh tế phát triển 40
ỏn mụn hc

Nhỡn khỏi quỏt v vn tin t nh hng nh th no n sn lng v lm phỏt nn kinh t
3. Cỏc cụng c chớnh sỏch v u nhc im ca nú
3.1. Chớnh sỏch lói sut cho vay v lói sut tin gi
Lói sut ngõn hng v thc cht l giỏ v quyn s dng vn bng tin. Nú l tiờu chun
cho vic thc hin cỏc giao dch v quyn s dng vn bng tin gia ngi i vay v ngi cho
vay. V nguyờn tc mc lói sut ph thuc vo tng quan cung cu v vn. Tuy nhiờn, do tớnh c
thự ca kinh doanh ngõn hng nờn mc lói sut huy ng li b chn di bi ch s lm phỏt v b
chn trờn mc lói sut cho vay. n lc lói sut cho vay li ph thuc vo hiu qu chung ca
vic s dng tin vn ca cỏc doanh nghip v ch s giỏ c. Hin nay lói sut do Nh nc khng
ch. Trờn bỡnh din v mụ chớnh sỏch lói sut cú nh hng rt ln n dũng lu chuyn tin t v
do oa nh hng trc tip n kinh doanh ca cỏc Doanh nghip. Vỡ vy, trong vic quy nh v
khng ch lói sut nu vi phm nguyờn tc nờu trờn tt yu s nh hng n mt trong hai phớa v
cui cựng n c hai phớa trong quan h tớn dng v s tng trng nn kinh t quc dõn.
Thụng thng chớnh sỏch lói sut i vay hay lói sut tin gi v lói sut cho vay bin i

cựng chiu, ngha l, c hai mc lói sut u tng hay gim xung ng thi. Khi lói sut tin gi
c nõng lờn thỡ lói sut cho vay cng nõng lờn v ngc li, tu theo chớnh sỏch ca NHT. Tuy
nhiờn,nú vn ng ngc chiu vi giỏ c ca chng khoỏn.
lói sut cú th úng vai trũ nh mt cụng c hu hiu thỡ vic hỡnh thnh lói sut phi
tuõn theo cỏc nguyờn tc sau:
-Lói sut tớn dng danh ngha bỡnh quõn bao gi cng bộ hn li nhun danh ngha bỡnh
quõn.
-Lói sut tớn dng danh ngha phi bng lói sut thc t cng vi mt t l lm phỏt.
7
Tổng mức
cầu
Tổng mức
cung
Tác
động
qua lại
của
ASvàAD
sản l
ợng
thật
công
ăn việc
làm
lạm
phát
3
§Ò ¸n m«n häc Kinh tÕ ph¸t triÓn
Lª ThÞ Thanh T©m Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 40
Đề án môn học

-Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn bao giờ cũng phải bằng lãi suất tiết kiệm có kỳ hạn.
-Lãi suất đồng ngoại tệ bằng lãi suất đồng nội tệ.
-Lãi suất dài hạn bao giờ cũng lớn hơn lãi suất ngắn hạn
-Lãi suất giữa các thành phần kinh tế khác nhau phải giống nhau
-Lãi suất cho vay bình quân phải lớn hơn lãi suất huy động bình quân
Hiện nay, trên thế giới có hai quan điểm về cơ chế hình thành lãi suất
-Quan điểm thứ nhất: Ên định lãi suất, tức là NHTƯ phải quy định lãi suất đối với các ngân
hàng trung gian.
-Quan điểm thứ hai: thả nổi lãi suất, tức là lãi suất do thị trường quyết định
Tuy nhiên tuỳ thuộc vào hoàn cảnh khách quan cũng như chủ quan của từng quốc gia mà có
những chính sách lãi suất phù hợp.
Tóm lại, công cụ lãi suất trong chính sách tiền tệ là một công cụ cực kỳ lợi hại, có sức phản
công rất ghê gớm, một nhà kinh tế người Mỹ đã nói, nó là một công cụ để kích thích sản xuất đồng
thời là một công cụ để làm hạn chế sản xuất, tuỳ thuộc vào sự khôn ngoan hay khờ dại của những
người sử dụng công cụ này.
3.2. Dự trữ bắt buộc
NHTƯ được giao quyền bắt buộc các ngân hàng trung gian phải ký gửi tại NHTƯ một phần
của tổng số tiền mah ngân hàng trung gian nhận được từ dân cư và các thành phần kinh tế theo một
tỷ lệ nhất định. Phần bắt buộc ký gửi đó được gọi là dữ trữ bắt buộc và tỷ lệ phần trăm mà NHTƯ
quy định như trên được gọi là tỷ lệ dữ trữ bắt buộc. Như vậy, tỷ lệ dữ trữ bắt buộc là hệ số giữa số
lượng phương tiện thanh toán cần phải vô hiệu hoá trên tổng số tiền ký thác của khách hàng tại
ngân hàng trung gian.
Mục đích của việc thực hiện dữ trữ bắt buộc là nhằm:
-Giới hạn khả năng cho vay của ngân hàng trung gian và đảm bảo an toàn tiền gửi cho
khách hàng
-Việc tập trung dữ trữ của ngân hàng trung gian ở NHTƯ còn là phương tiện để NHTƯ có
thêm quyền lực điều khiển hệ thống ngân hàng, tạo ra sự lệ thuộc của ngân hàng trung gian đối với
NHTƯ
-Duy trì khả năng thanh toán của các ngân hàng trung gian trong nhiều trường hợp khẩn
cấp như trường hợp xẩy ra đồng loạt rút tiền gửi của công chúng, tránh được cuộc khủng hoảng

ngân hàng
Về nguyên tắc, khi Ên định mức dữ trữ bắt buộc thấp, NHTƯ muốn khuyến khích ngân
hàng trung gian mở rộng mức cho vay của họ tức là muốn gia tăng khối tiền tệ. Điều này sẽ kích
thích được các hoạt động kinh tế, tăng khả năng giao lưu các nguồn vốn tài chính giữa các doanh
nghiệp, thể hiện một chính sách tiền tệ “nới lỏng”. Ngược lại, khi nâng cao mức dữ trữ bắt buộc,
NHTƯ muốn giới hạn khả năng cho vay của ngân hàng trung gian, báo hiệu một chính sách tiền tệ
“thắt chặt” hay giảm thiểu khối tiền tệ. Điều này tác động tới khả năng doanh thu lợi của ngân hàng
trung gian. Chính vì thế, khi tiến hành gia tăng dữ trữ bắt buộc đòi hỏi phải nghiên cứu trước sức
chịu đựng của ngân hàng trung gian đối với mức dữ trữ mới sẽ ban hành.
8
§Ò ¸n m«n häc Kinh tÕ ph¸t triÓn
Lª ThÞ Thanh T©m Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 40
Đề án môn học
Tóm lại, biện pháp thay đổi dữ trữ bắt buộc cần thực hiện một cách thận trọng và muốn có
hiệu quả, cần phải đi kèm với các biện pháp khác. Thời hạn điều chỉnh tỷ lệ dữ trữ bắt buộc thay
đổi tuỳ theo mỗi nước, mỗi thời kỳ khác nhau và đặc biệt là tuỳ thuộc vào trạng thái tiền tệ lạm
phát, giảm phát hoặc không có lạm phát.
3.3. Chiết khấu và tái chiết khấu
Nghiệp vụ của NHTM là kinh doanh tiền tệ, tức là nhận tiền gửi của mọi thành phần và cho
vay phần lớn tiền gửi đó. Nhưng không phải lúc nào hoạt động ngân hàng cũng đều thuận lợi. Có
những lúc người gửi tiền đến rút tiền quá nhiều, ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng kẹt vốn. Những
trường hợp ào ạt rút tiền thường xẩy ra theo những chu kỳ kinh tế. Do đó ngân hàng khó tránh
khỏi tình trạng thiếu khả năng chi trả. Chính vào những lúc khó khăn đó, NHTM tìm đến sự giúp
đỡ của NHTƯ, người cho vay cuối cùng.
NHTƯ sẽ cấp tín dụng cho NHTM qua nhiều hình thức, thông dụng nhất là tái cấp dưới
hình thức chiết khấu và tái chiết khấu các thương phiếu. Khi chấp nhận chiết khấu hay tái chiết
khấu là NHTƯ đã làm tăng khối tiền tệ. Đây là hình thức phát hành tiền được xem là lành mạnh do
được đảm bảo bằng các giấy tờ có giá và khi các chứng khoán đáo hạn NHTƯ sẽ đòi được các món
nợ đã cho vay. Bên cạnh đó, việc cho vay này luôn gán với yêu cầu của nền kinh tế do sự tác động
trực tiếp của quy luật cung cầu.

Thông qua lãi suất tái chiết khấu, NHTƯ có thể khuyến khích giảm hoặc tăng mức cung
ứng tín dụng của NHTM đối với nền kinh tế,đồng thời giảm hoặc tăng mức cung ứng tiền. Khi thực
hiện chính sách “ thắt chặt tiền tệ”, NHTƯ sẽ nâng lãi suất chiết khấu lên. Khi đó, các NHTM sẽ
nâng lãi suất cho vay hoặc hạn chế bớt những co hội cho vay. Và ngược lại, nếu thực hiện chính
sách tiền tệ “ nới lỏng”, NHTƯ hạ thấp lãi suất chiết khấu, NHTM trong trường hợp này, đi vay rẻ
hơn nên có khuynh hướng giảm lãi suất cho vay dẫn đến nhu cầu cho vay gia tăng.
Ngoài ra, chính sách chiết khấu, tái chiết khấu còn là một công cụ đắc lực trong định hướng
phát triển kinh tế. Đối với chính sách kích thích xuất khẩu, NHTƯ sẽ ưu tiên mức tái chiết khấu
các thương phiếu xuất khẩu hoặc nâng hạn mức tái chiết khấu đối với thương phiếu đó.
Như vậy, chiết khấu và tái chiết khấu là hành động mua bán các thương phiếu của NHTƯ
nhằm điều chỉnh mức cung ứng tín dụng của NHTM đối với nền kinh tế, đồng thời qua đó điều
chỉnh cung ứng tiền tệ.
Tuy nhiên, mỗi một công cụ đều có ưu nhược điểm riêng của nó. Cũng vậy tái chiết khấu có
ưu nhược điểm sau:
ưu điểm:
• Các khoản cho vay của NHTƯ đều đảm bảo bằng giấy tờ có giá. Do đó nó có khả năng tự
thanh toán
• Có tính chất tích cực hơn biện pháp tín dụng do chịu sự tác động của quy luật cung cầu.
nhược điểm:
• NHTƯ bị động do yếu tố chủ động vay nằm ở NHTM.
3.4. Nghiệp vụ thị trường mở
9
§Ò ¸n m«n häc Kinh tÕ ph¸t triÓn
Lª ThÞ Thanh T©m Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 40
Đề án môn học
Nếu như công cụ tái chiết khấu là công cụ thụ động của NHTƯ, tức là NHTƯ phải đợi
NHTM có nhu cầu đi vay lại ở NHTƯ mới đÕn để xin tái chiết khấu thì nghiệp vụ thị trường mở là
công cụ chủ động của NHTƯ để điều khiển khối lượng tiền.
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động NHTƯ mua bán giấy tờ có giá với mục đích tác động
đến thị trường tiền tệ, điều hoà cung và cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối dữ trữ của

các NHTM tại NHTƯ, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các ngân hàng này.
Trên thị trường mở. NHTƯ chủ yếu mua bán trái phiếu của chính phủ.Bằng cách mua bán
trái phiếu NHTƯ làm tăng khối lượng dữ trữ của NHTM. Khi đó, NHTM có thể mở rộng khả năng
vay gấp bội lần tuỳ theo mức dữ trữ bắt buộc. Hơn nữa việc NHTƯ mua trái phiếu với lãi suất thấp
góp phần tăng cung tín dụng từ đó làm lãi suất tín dụng hạ thấp, kích thích các doanh nghiệp đi
vay. Đây cũng là một cách gia tăng khối tiền tệ.
Ngược lại, bằng cách bán trái phiếu trên thị trường mở cho bất cứ đối tượng nào, NHTƯ
thu hút tiền vào làm giảm bớt khối tiền tệ. Kết quả làm cho dữ trữ của NHTM tại NHTƯ bị giảm,
từ đó hạn chế khối lượng cấp phát tín dụng của NHTM. Nếu không có sự mua bán trái phiếu không
có NHTƯ tham gia mà chỉ giữa các NHTM với nhau thì khối lượng tiền tệ không thay đổi.
Tuy nhiên, hạn chế của nó là chỉ có thể áp dụng trong điều kiện mà hầu hết tiền trong lưu
thông đều nằm ở tài khoản tại ngân hàng. Do đó, ở Việt Nam công cụ thị trường mở chưa được
thực hiện mà chỉ mới có việc phát hành tín phiếu ngân hàng nhà nước và tổ chức đấu thầu trái
phiếu kho bạc.
Thị trường mở được xem là một trong những cửa ngõ để NHTƯ phát hành tiền vào guồng
máy kinh tế hoặc rút bớt khối lượng tiền tệ lưu thông. Nếu như chính sách chiết khấu, tái chiết
khấu có tác động tổng hợp và có những hạn chế tạm thời thì nghiệp vụ thị trường mở là công cụ tác
động nhanh và linh hoạt.
3.5. Cung ứng tiền mặt pháp định
NHTƯ có thể trực tiếp làm tăng, giảm dữ trữ và cung ứng tiền, bằng các nghiệp vụ trên thị
trường hối đoái và nghiệp vụ cho vay với chính phủ, ngoài nghiệp vụ thị trường mở và cho vay
chiết khấu, tái chiết khấu.
Khi NHTƯ đưa tiền mặt ra mua ngoại tệ, lập tức sẽ làm gia tăng lượng tiền trong lưu thông,
dẫn đến tỷ giá ngoại tệ lên cao, nghĩa là phá giá đồng bản tệ. Ngược lại, khi NHTƯ đem ngoại tệ ra
bán, làm giảm nhanh cung ứng tiền,lượng tiền trong lưu thông giảm đi, tỷ giá ngoại tệ hạ thấp
xuống, tức là nâng giá đồng bản tệ.
Khi ngân sách chính phủ thâm hụt, nhu cầu vay mượn của chính phủ sẽ phát sinh, NHTƯ
thường phải cho chính phủ vay tiền. Lượng tiền cho vay này sẽ làm tăng cung ứng tiền trong nền
kinh tế thông qua việc chi tiêu của chính phủ. Ngược lại, đến khi ngân sách thặng dư, NHTƯ đòi
nợ và chính phủ trả nợ, lượng tiền mặt của chính phủ bị NHTƯ rút về, làm cho cung ứng tiền trong

lưu thông giảm theo.
3.6. Kiểm soát tín dụng chọn lọc
10
§Ò ¸n m«n häc Kinh tÕ ph¸t triÓn
Lª ThÞ Thanh T©m Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 40
Đề án môn học
Chính sách kiểm soát tín dụng chọn lọc được áp dụng ở rất NHTƯ, chẳng hạn ở Nhật,
Pháp, Đức,
Chính sách kiểm soát tín dụng chọn lọc sẽ giới hạn mức tín dụng tối đa cấp cho các ngành
mà nhà nước không muốn phát triển nữa, ngược lại, ưu đãi những ngành hoạt động được coi như
ưu tiên,cần yểm trợ tín dụng mạnh hơn. Nếu không có chính sách kiểm soát tín dụng chọn lọc,
ngân hàng trung gian sẽ chỉ hướng tín dụng vào những ngành kinh doanh lớn, xí nghiệp nước
ngoài, mua bán chứng khoán, Ýt chú trọng tới những ngành hoạt động có lợi Ých xã hội.
Để chính sách này thật sự mang tính hữu hiệu, cần phải thường xuyên nâng cao chất lượng
kiểm soát và thanh tra ngân hàng trung gian.
3.7. Ấn định hạn mức tín dụng

Ên định hạn mức tín dụng là việc NHTƯ quy định, một khối lượng tín dụng phải cung cấp
cho nền kinh tế trong một thời gian nhất định và sau đó tìm cách để đưa nó vào nền kinh tế. Biện
pháp này được áp dụng rất lâu và khá phổ biến ở các nước xã hội chủ nghĩa theo cơ chế kế hoạch
hoá tập trung trước đây.
Khi NHTƯ muốn bành trướng khối tiền tệ, khối lượng cho vay ở các ngân hàng trung gian
mở rộng hạn mức tín dụng. Ngược lại, nếu muốn hạn chế tín dụng ở ngân hàng trung gian, giảm
thiểu khối tiền tệ thì NHTƯ sẽ thu hẹp hạn mức tín dụng.
Ngoài những công cụ được trình bày trên đây, còn có các công cụ khác cũng được áp dụng trong
việc thực thi chính sách tiền tệ như : chính sách tỷ giá, Ên định một biên vực bắt buộc trong việc
cho vay, chính sách ngoại hối, dữ trữ ngoại hối
4. Kinh nghiệm thực hiện chính sách tiền tệ ở một số nước trong những
năm 1996 2000
4.1. Tổng quan về nền kinh tế vĩ mô

Trong gần hai thập kỷ 80 và 90, nền kinh tế toàn cầu đã chứng kiến được sự phát triển thần
kỳ của những con hổ và những con rồng Châu Á. Đây là những quốc gi đạt được tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao liên tục trong nhiều năm, một tốc độ phát triÓn mà nhiều nhà kinh tế gọi là tốc
độ mơ ước. Nhưng đồng thời vào tháng 7 – 1997 cả thé giới đã chứng kiến một cuộc khủng hoảng
tài chính tiền tệ mới, bắt nguồn từ cũng những chính con hổ, con rồng này. Có thể nói rằng, những
năm đầu thập kỷ 80 là giai đoạn đặc trưng của nó là các chảy tài chính khổng lồ vào các nước đang
phát triển, mà trong đó chủ yếu là các nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Theo số liệu
Quỹ tiền tệ Quốc tế, đến cuối năm 1993, dòng chảy tài chính quốc tế vào các nước trong khu vực
này chiếm đến 85% tổng lượng tài chính đầu tư vào các nước đang phát triển trên toàn thế giới;
trong giai đoạn 1993 – 1996 này thì con số này giản xuống, nhưng vẫn còn ở mức 50%. Thậm chí
có một vài trường hợp như Malaysia và Thailan,nguồn vốn chiếm đÕn 15% GDP. Sù gia tăng
mạnh mẽ này là do một số nguyên nhân, cả những nguyên nhân bên trong và bên ngoài:
Thứ nhất: Do các quốc gia khá thành công trong việc quản lý kinh tế vĩ mô nhờ theo đuổi
chương trình ổn định hoá nền kinh tế khiến cho các nhà đầu tư không ngừng đổ vốn vào.
11
§Ò ¸n m«n häc Kinh tÕ ph¸t triÓn
Lª ThÞ Thanh T©m Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 40
Đề án môn học
Thứ hai: Do quá trình tự do hoá tài chính tài chính diễn ra quá nhanh đặc biệt là việc cho
phép người nước ngoài mua cổ phiếu và thương phiếu.
Thứ ba: Do lãi suất được duy trì ở mức cao trong khi lãi suất ở Mỹ và các nước công
nghiệp khác giảm làm cho môi trường đầu tư ở các nước này trở nên hấp dẫn hơn
Mặc dù phát triển nhanh một cách kỳ diệu, Đông Nam Á đã lé ra một số điểm dễ bị tổn
thương. Trong số những điểm quan trọng nhất có luồng vốn chảy vào tăng nhanh chóng,các khoản
đầu tư mỗi ngày một thiếu hiệu quả và các chính sách tuy có duy trì được mức độ tăng trưởng
nhưng lại làm tăng khả năng bị tổn thương. Tất cả những vấn đề đó đã được đánh dấu bởi một cuộc
khủng hoảng tiền tệ . Cuộc khủng hoảng đó đã nói lên : Các nước bị khủng hoảng ở Đông Nam Á
đã không chuẩn bị để quản lý quá trình hội nhạp tài chính ngày càng tăng vào giữa những năm
1990. Bị thu hút bởi các thành công trong quá khứ của khu vực, các dòng vốn chảy vào tăng vọt
làm tràn ngập khả năng cho vay một cách có hiệu quả của tổ chức tài chính. Các chính sách kinh tế

vĩ mô đã không điều chỉnh được quá trình bùng nổ và bị ru ngủ bởi bản chất tư nhân của dòng vốn.
Sự hội nhập và toàn cầu hoá đã khiến cho mỗi nước trở thành một “mắt xích” trong guồng
máy hoạt động kinh tế thế giới. Chính vì vậy, sự khủng hoảng tiền tệ năm 1997 đã ảnh hưởng rất
lớn đến nền kinh tế của nhiều nước trong đó có Việt Nam. Đồng thời chính trong giai đoạn 1996 –
2000, sau cuộc khủng hoảng, các nước Đông Nam Á đã từ từ khôi phục lại nền kinh tế của mình.
Từ cuộc khủng hoảng đó, đã đặt ra cho Việt Nam những vấn đề gì ? trong khi: xu thế toàn cầu hoá,
khu vực hoá và quốc tế hoá thị trường nói chung Việt Nam nên nhìn nhận những bài học kinh
nghiệm của các nước đi trước để tránh đi những bước sai lầm, đặc biệt là trong vấn đề thực thi
chính sách tiền tệ.

4.2. Những bài học kinh nghiệm.
Về cơ cấu vĩ mô : Trong suốt gần hai thập kỷ, du các quốc gia này đến chú trọng đến việc
nâng cao tỷ lệ tiết kiệm nội địa.nhưng nếu so sánh với tốc độ tăng trưởng của các ngừn vốn nước
ngoài thì vẫn có sự tương thích đối với tài chính ngân hàng.Bản thân hệ thống tài chính ngân hàng
vẫn còn một số nhược điểm nhất định, vẫn còn yếu kém như cho vay còn phụ thuộc rất nhiều quan
hệ cá nhân, nạm tham nhũng vẫn còn hoành hành, thì việc đầu tư các ngân hàng không đảm bảo
hiệu quả kinh tế. Trong khi đó các quan hệ tài chính chủ yếu dựa vào hệ thống ngân hàng, mà Ýt
dựa vào hệ thống thị trường chứng khoán, hệ thống NHTM được xem như là một cong cụ để thực
hiện các chính sách của Chính phủ, chứ không phải một định chế kinh doanh độc lập trong cơ chế
thị trường.
Trên thực tế, các quốc gia này đã thực hiện một số chính sách tự do hoá tài chính trên cơ sở
hệ thống tài chính yếu kém, các nguồn vốn chu cấp đến mức không thể kiểm soát được, dẫn đến
tình trạng khi các nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút vốn thì khủng hoảng phải là điều tất yếu .
Mô hình phát triển kinh tế của các nước chủ yếu dựa vào xuất khẩu (do chiếm được ưu thế
về sức lao động rẻ), trong đó xuất khẩu vào thị trường như Mỹ, Nhật chiếm tỷ trọng rất lớn. Những
đánh giá lạc quan về triển vọng phát triển theo mô hình này trong một thời gian dài đã làm cho
chính sách của các quốc gia này thiếu hẳn nét linh hoạt. Do vậy, một khi có những biến động bất
lợi từ phía các thị trường lớn thì ngay lập tức sẽ dẫn tới phản ứng dây chuyền đối với ngành sản
xuất công nghiệp.
12

§Ò ¸n m«n häc Kinh tÕ ph¸t triÓn
Lª ThÞ Thanh T©m Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 40
Đề án môn học
Tỷ giá hối đoái cũng là một vấn đề rất nhạy cảm đối với sự tràn ngập của nguồn vốn đầu tư
nước ngoài. Các nguồn tín dụng vay nước ngoài đôi khi được xem là đòn bẩy tích cực cho nền kinh
tế, nhưng bên cạnh đó, nó đòi hỏi phải có một chính sách điều hành tỷ giá thật linh hoạt, thật mềm
dẻo.
Trong một thời gian dài, Chính phủ các quốc gia này đã áp dụng một chính sách làm cho
đồng tiền của mình gắn chặt với đồng USD, việc này đã làm cho nhiều nhà đầu tư ảo tưởng vào
một tỷ giá cố định và bền vững. Các nguồn vốn quốc tế tràn ngập đã làm cho chi phí của các
khoản vay nước ngoài xuống đến mức thấp nhất. Do đó, đến khoảng cuối năm 1996 đầu 1997, với
những thông tin về việc ra đời của đồng EURO đã làm cho nhiều nhà đầu tư bỏ DM và các ngoại tệ
mạnh khác và chuyển sang sử dụng USD. Và tình hình đó đã làm cho các nước Đông Nam Á mất
khả năng thanh toán, các nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút các nguồn vốn ngắn hạn của mình về.
Điều tất yếu đã xẩy ra: khủng hoảng tài chính tiền tệ , vì không một khu vực, một quốc gia nào có
khả năng chống đỡ được với chu chuyển ngược dòng của các nguồn tín dụng quốc tế trong một
thời gian ngắn như vậy.
Mô hình tăng trưởng kinh tế lấy xuất khẩu làm động lực chính là một hướng đi đúng,
nhưng các nước Đông Nam Á chỉ chủ yếu đén lợi thế về sức lao động mà đã quên đi công tác hiện
đại hoá công nghệ sản xuất. Cho đến khi nền kinh tế tăng trưởng đến một mức độ nhất định, thì lợi
thế này sẽ không còn nữa, hàng hoá xuất khẩu do vậy sẽ mất đi tính cạnh tranh và dẫn đến suy
thoái
Thiết nghĩ, những kinh nghiệm thất bại của các quốc gia Đông Nam Á qua cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ vừa qua là những bài học quý giá đối với Việt Nam trong buổi sơ khai của
thị trường chứng khoán và trong xu hướng hội nhập như ngày nay. Qua những bài học kinh nghiệm
này cùng với những khó khăn vướng mắc hiện nay, hy vọng trong thời gian tới, chúng ta sẽ có
những giải pháp thiết thực, những bước đi phù hợp để đưa thị trường chứng khoán Việt Nam ngày
càng phát triển, đưa nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng cao và ổn định.
13
§Ò ¸n m«n häc Kinh tÕ ph¸t triÓn

Lª ThÞ Thanh T©m Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 40
Đề án môn học
PHẦN II
TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐỐI VỚI
SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRONG THỜI KỲ 1996 - 2000
I. THỰC TRẠNG
1. Bối cảnh chung của nÒn kinh tế vĩ mô
Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam thời gian qua, chóng ta đã thu được những
kết quả bước đầu rất khả quan, tạo được niềm tin trong dân chúng cũng như các nhà đầu tư trong
và ngoài nước. Nền kinh tế đạt được nhịp độ tăng trưởng tương đối khá và bắt đầu có tích luỹ, đầu
tư được mở rộng,sản xuất lưu thông phát triển. Tuy nhiên, kể từ tháng 9 năm 1997, do sự tác động
của cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính trong khu vực,nên từ chỗ có mức tăng trưởng liên tục
trong nhiều năm (8% - 9%), nên kinh tế nước ta bắt đầu có dấu hiệu chững lại, mức tăng trưởng
năm 1998 chỉ còn 5,8% và năm 1999 là 4,8%, năm 2000 là 6,75%. Tác động của khủng hoảng tài
chính khu vực đã đưa đến những tổn thất cho nền kinh tế trên các mặt:
-Nguồn vốn đầu tư nước ngoài giảm sút gây ra sự hẫng hụtlớn trong đầu tư phát triển. Một
số ngành kinh tế vốn rất sôi động trước đây như: xây dựng, du lịch cũng gặp những khó khăn nhất
định.
-Thu nhập, sức mua của người dân giảm dẫn đến sức tiêu thụ hàng hoá trên thị trường giảm
sút làm cho các nhà sản xuất và cung cấp dịch vụ gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ sản
phẩm của mình.
-Nền kinh tế từ chỗ luôn đối phó với tình trạng lạm phát, thì nay phải đề phòng với nạn
giảm phát.
14
§Ò ¸n m«n häc Kinh tÕ ph¸t triÓn
Lª ThÞ Thanh T©m Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 40
Đề án môn học
- Chỉ số giá tiêu dùng và dịch vụ liên tục giảm từ tháng 3 đến tháng 10, qua tháng 11 có
tăng chút đỉnh nhưng nhìn chung, chỉ số trượt giá và lạm phát 11 tháng đầu năm 1999 vẫn tiệp tục
giảm 0,4% và năm2000 vẫn ở mức thấp , giảm 0,6% so với 31/12/1999, một hiện tượng chưa từng

thấy trong những năm đổi mới, mở cửa ở nước ta.Trong cơ cấu chỉ số giá tiêu dùng, thì tỷ trọng
nhóm hàng lươnh thực,thực phẩm chiếm 61%, tỷ trọng của 9 nhóm hang khác (công nghiệp, dịch
vụ…) chiếm 31%, nên khi giá lương thực, thực phẩm giảm 10,5%(1999), giảm 2,3%(2000); giá
các mặt hàng khác tăng 2,3%(1999). GIá thóc giảm trong khi chi phí xăng dầu, điện vẫn tăng khiến
cho thu nhập của người nông dân ngày càng thấp. Sức mua của khu vực nông thôn quá yếu đã cản
trở lớn đến chủ trương kích cầu của Nhà nước .
- Thu nhập của đại bộ phận dân cư trong năm không tăng,nhiều người không có việc làm.
Một bộ phận lớn dân cư, nhất là người làm công ăn lương bị giảm thu nhập do đồng tiền mất giá.
- Sức sản xuất trong nước vốn đã yếu kém lại càng đình trệ thêm dưói sức Ðp cạnh tranh
của các mặt hàng buôn lậu, hàng giả tràn lan, đặc biệt tác động của ảnh hưởng bão lụt, thiên tai liên
tục trong các năm qua khiến cho sản xuất nước càng thêm khó khăn
- Một sè Doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả, thua lỗ nhưng vẫn được Nhà nước
cho giảm thuế, khoang nợ, xoá nợ. Lượng hàng hoá của các Doanh nghiệp này làm ra tung vào thị
trường càng góp phần làm cho tổng cung tăng lên. Trong khi đó, thu nhập của người lao động giảm
đã khiến khoảng chênh lệch giữa khối lượng hàng hoá và nhu cầu có khả năng thanh toán ngày
càng lớn
Tình hình nêu trên ngoài tác động khủng hoảng tài chính khu vực, còn bị nền hành chính
mang nặng tính quan liêu với các thủ tục phiền hà trong nước. Đặc biệt, do chóng ta chưa tạo ra
được một hành lang pháp lý, đảm bảo an toàn cho các nhà doanh nghiệp trong kinh doanh.
Bên cạnh những khó khăn, nhưng nền kinh tế trong giai đoạn 1996 – 2000 cũng đã thu
được những kết quả tích cực: kinh tế tăng trưởng khá; văn hoá, xã hội có những tiến bộ; đời sống
nhân dân tiếp tục được cải thiện. Tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng và an
ninh được tăng cường. Quan hệ đối ngoại không ngừng mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được
tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt
Trước những vấn đề kinh tế vĩ mô nêu trên, vai trò của chính sách tiền tệ đã thể hiện như
thế nào ? hoạt động như thế nào ? đã đem lại những kết quả gì ?
2. Chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn 1996 - 2000
Chính sách tiền tệ luôn là công cụ để đạt được các mục tiêu kinh tế. Dó đó, trong mỗi một
thời kỳ, tuỳ thuộc vào điều kiện khách quan cũng như chủ quan của nền kinh tế mà chính sách tiền
tệ có những bước đi thích hợp để phát triển kinh tế

Chóng ta sẽ xem xét sự hoạt động của chính sách tiền tệ trong giai đoạn 1996 – 2000 thông
qua các công cụ sau.
2.1. Công cụ lãi suất
Trong những năm qua chính sách và mức lãi suất đã được thay đổi ngayg càng phù hợp hơn
với tình trạng tương quan cung cầu trên thị trường vốn, với điều kiện giao dịch của hệ thống ngân
15
§Ò ¸n m«n häc Kinh tÕ ph¸t triÓn
Lª ThÞ Thanh T©m Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 40
Đề án môn học
hàng và Doanh nghiệp và những diễn biễn của kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, lãi suất tín dụng ngân
hàng ở Việt Nam hiện nay đang còn bộc lộ nhiều yếu điểm ảnh hưởng xấu tới sự vận động bình
thường của dòng lưu thông tiền tệ trong điều kiện của cơ chế kinh tế thị trường và tới môi trường
kinh doanh của các Doanh nghiệp. Cụ thể:
Từ cuối năm 1995 có sự thay đổi trong chính sách lãi suất và để phù hợp quá trình thay đổi
đó trong năm 1996, NHNN ban hành 4 quyết định điều chỉnh lãi suất, các NHTM cảm thấy hết sức
lúng túng vì phải liên tục điều chỉnh mà trên thực tế tác dụng không có là bao vì biên độ của mỗi
lần điều chỉnh từ 0,1% - 0,2%.
Năm 1998 chính sách lãi suất được thực hiện trong mối quan hệ hài hoà voí tỷ giá nhằm
hạn chế những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đến Việt Nam. NHNN tiếp tục
thực hiện việc kiểm soát lãi suất trên thị trường tiền tệ bằng chính sách quy định trần lãi suất cho
vay đối VNĐ và ngoại tệ; xoá bỏ quy định chênh lệch lãi suất cho vay với lãi suất huy động bình
quân 0,35%/ tháng như năm 1996, 1997; đã xoá bỏ sự phân biệt mức lãi suất cho vay trên địa bàn
nông thôn và thành thị, tự do hoá lãi suất tiền gửi. Trong năm có 2 lần điều chỉnh lãi suất như sau:
-Lần thứ nhất: (ngày 20/1/1998) cho vay ngắn hạn điều chỉnh từ 1%/tháng tăng
1,2%/tháng; cho vay trung hạn điều chỉnh từ 1,1%/tháng tăng 1,25%/tháng; trần lãi suất cho vay
QTDND cở sở cho vay thành vien là 1,5%/ tháng; trần lãi suất cho vay bằng USD vẫn giữ nguyên
8,5%/năm như trước đây.
-Lần thứ hai: (11/9/1998) Trần lãi suất cho vay bằng USD được điều chỉnh từ 8,5%/năm
xuống 7,5%/năm để phù hợp mặt bằng lãi suất LIBOR, SIBOR hiện hành. Cụ thể lãi suất các loại
tiền gửi bằng USD của pháp nhân được quy định :

+ Tiền gửi không kỳ hạn tối đa: 0,5%/năm (giảm 1%/năm)
+Tiền gửi có kỳ hạn đến 6 tháng tối đa :3%/năm (giảm 1%/năm)
+Tiền gửi có kỳ hạn trên 6 tháng : 3,5%/năm(giảm 1%/năm)
Trong năm 1999, trước tình hình thiểu phát, tốc đọ tăng trưởng kinh tế có xu hướng chậm
lại, NHNN đã điều hành lãi suất theo cơ chế lãi suất trần và được điều chỉnh linh hoạt trên cơ sở
bám sát các diễn biến vĩ mô, cung cầu vốn trên thị trương tiền tệ và theo xu hướng nới lỏng tiền tệ,
giảm trần lãi suất cho vay đối với nền kinh tế nhằm thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về các giải
pháp kích cầu: NHNN đã 5 lần điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay VNĐ từ mức 1,25%/ tháng
đối với trung, dài hạn và 1,2%/tháng đối với cho vay ngắn hạn xuống mức thống nhất một mức là
0,85%/tháng đối với khu vực thành thị; trần lãi suất cho vay khu vực nông thôn 1%/tháng; trần lãi
suất cho vay của NHTMCP nông thôn mức 1,15%/tháng;Quý tín dụng nhân dân cơ sở cho vay
thành viên 1,5%/tháng; lãi suất cho vay của Ngân hàng phục vụ người nghèo đối với hộ nghèo là
0,7%/tháng.
Lãi suất huy động ngoại tệ của các pháp nhân cũng được điều chỉnh giảm từ 3%-3,5%/năm
xuống còn 2,5% - 3%/năm.
Từ đầu năm đến cuối tháng 7/2000, NHNN tiếp tục điều hành lãi suất thông qua cơ chế
trần lãi suất cho vay bằng VNĐ, bằng ngoại tệ và lãi suất tiền gửi tối đa bằng Đôla Mỹ đối với
pháp nhân tại tổ chức tín dụng.
Đặc biệt đến ngày 2/8/2000, NHNN đã quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất: chuyển
từ cơ chế điều hành lãi suất sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng VNĐ
và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ
16
§Ò ¸n m«n häc Kinh tÕ ph¸t triÓn
Lª ThÞ Thanh T©m Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 40
Đề án môn học
-Đối với lãi suất VNĐ: lãi suất cho vay không quá lãi suất cơ bản và biên độ do thống đốc
NHNN quy định. Đến cuối năm 2000, lãi suất cơ bản là 0,75%/tháng, biên độ cho vay ngắn hạn là
0,3%/tháng, biên độ cho vay trung,dài hạn là 0,5%/tháng.
-Đối với lãi suất cho vay USD, lãi suất cho vay không vượt quá lãi suất USD trên thị
trường liên ngân hàng Xingapore kỳ hạn 3 tháng đối với cho vay ngắn hạn, kỳ hạn 6 tháng đối với

cho vay trung hạn tại thời điểm cho vay cộng với biên độ do Thống đốc NHNN quy định. Trong
năm 2000, biên độ cho vay ngắn hạn là 1%/năm, biên độ cho vay trung và dài hạn là 2,5%/năm.
1996 – 1997 1998 1999 2000
lãi suất thực dương
Xoá bỏ lãi suất cho vay
thoả thuận, đưa thêm lãi
suất tín dụng khu vực nông
thôn và khu vực QTD vào
hệ thống lãi suất cho vay.
Xoá bỏ việc quy định cụ thể
lãi suất tiền gửi
áp dụng chênh lệch lãi suất
đầu vào đầu ra
Thống nhất lãi suất tín dụng
giữa khu vực thành thị và
khu vực nông thôn.
Tù do hoá hoàn toàn lãi suất
đầu vào
Hợp nhất lãi suất cho vay
ngắn hạn, dài hạn
Xoá bỏ kiểm soát lãi
suất tiết kiệm ngoại tệ
ChuyÓn từ cơ chế lãi
suất trần sang cơ chế
lãi suất cơ bản để điều
tiết
lãi suất tín dụng dài hạn cao hơn lãi suất tín dụng ngắn hạn
2.2 Công cụ dữ trữ
Ngày 1/12/1997 DTBB được thực hiện theo quy chế mới. Quy chế dữ trữ bắt buộc lần này
đã quy điịnh cụ thể hơn, linh hoạt hơn thể hiện ở quy định tiền gửi, dữ trữ bắt buộc tại NHNN được

tính bình quân trong cả kỳ duy trì. Tỷ lệ dữ trữ bắt buộc được áp dụng chung cho các TCTD và các
loại tiền gửi huy động có lỳ hạn dưới 12 tháng là 10%, đối với ngân hàng cổ phần nông thôn và
QTDND tạm thời chưa phải thực hiện dữ trữ bắt buộc. NHNN không trả lãi cho tiền gửi dữ trữ bắt
buộc, đối với tiền dữ trữ bắt buộc gửi vượt được hưởng lãi suất 0,2%/tháng(VNĐ) và hưởng lãi
suất 4,86%/năm(ngoại tệ USD). Đồng thời, những TCTD thiếu tiền dữ trữ bắt buộc trong kỳ duy trì
thì bị phạt theo mức 200% lãi suất cho vay tái cấp vốn của NHNN(đối với dữ trữ bắt buộc bằng
VNĐ), 200% trần lãi suất cho vay bằng USD
Trong năm 1999, để thực hiện mục tiêu nới lỏng tiền tệ nhằm kích cầu, tạo đà phát triển
kinh tế, NHNN đã hai lần điều chỉnh giảm tỷ lệ dữ trữ bắt buộc đối với các TCTD từ mức 7%
xuống còn 5% trên tổng số dư của tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng đối với các NHTM quốc
doanh, NHTM cổ phần đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh và công ty
tài chính(riêng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam là 3%); từ 5% xuống 1%
đói với NHTM cổ phần nông thôn, ngân hàng hợp tác, QTDNDTƯ và QTDNN khu vực
Trong năm 2000, việc thực nhiện dữ trữ bắt buộc tiếp tục áp dông quy chế ban hành theo
quyết định số 51/99/QĐ-NHNN ngày 10/2/1999
-Tỷ lệ dữ trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VNĐ: tiếp tục áp dụng như năm 1999 và 5%
đối với các NHTMQD,NHTMCP đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài ngân hàng liên doanh và
17
§Ò ¸n m«n häc Kinh tÕ ph¸t triÓn
Lª ThÞ Thanh T©m Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 40
Đề án môn học
cônh ty tài chính; 1% đối với NHTMCP nông thôn, ngân hàng hợp tác, QTDNDTƯ và QTDND
khu vực;0% đối với QTDNN cơ sở,HTX tín dụng, ngân hàng phục vụ người nghèo.
-Tỷ lệ dữ trữ bắt buộc đối với tiền fửi bằng ngoại tệ:để tạo tín hiệu hạn chế của cá TCTD
huy động tiền gửi bằng ngoại tệ ra nước ngoài. Ngày 10/10/2000, điều chỉnh tỷ lệ dữ trữ bắt buộc
đối với tiền gửi bằng ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng của NHTMQD, NHTMCP
đô thị, NHTMCP nông thôn, ngân hàng HTX, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên
doanh, công ty tài chính, QTDNDTƯ và QTDNN đo thị từ 5% lên 8%. Ngày 1/12/2000, NHNN
một lần nữa nâng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc đối vơí tiền gửi bằng ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ hạn
dưới 12 tháng lên 12%.

2.3. Công cụ tái cấp vốn và tái chiết khấu
Trong năm 1998 NHNN thực hiện tái cấp vốn ngắn hạn nhằm bù đắp khó khăn tạm thời về
thanh toán cho các NHTM theo các hình thức:
- Cho vay thế chấp chứng từ
- Cho vay thế cháp bằng tiền gửi ngoại tệ của các NHTM tại NHNN
Lãi suất tái khấu được điều chỉnh từ mức 1%/tháng lên 1,1%/tháng, thấp hơn trần lãi suất
cho vay ngắn hạn là 0,1%/tháng
Năm 1999 NHNN đã 4 lần giảm lãi suất cho vay tái cấp vốn từ mức 1,1%/tháng đầ năm
xuống còn 0,5%/tháng.Đông thời NHNN đã ban hành quy chế về nghiệp vụ chiết khấu của NHNN
đối với các ngân hàng nhằm thực hiện chính sách tiền tệ và tạo khả năng cân đối vốn hoạt động
cho vay của các ngân hàng. Các giấy tờ có giá ngắn hạn được chiết khấu tại NHNN là tín phiếu kho
bạc thông qua đấu thầu tại NHNN, tín phiếu NHNN và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác được quy
định trong từng thời kỳ. Lãi suất chiết khấu được công bố là 0,45%/tháng.
2.4. Tỷ giá
Trong thời gian 1996 – 1997, chính sách điều hành tỷ giá được linh hoạt hơn theo cơ chế
thị trường, nhằm khuyến khích hoạt động xuất khẩu, bảo đảm hạn chế nhập khẩu. Quý 1/1997
NHNN đã chủ động điều chỉnh tỷ giá mở rộng biên độ so với tỷ giá chính thức từ ± 1% lên ± 5%.
Tỷ giá USD/VNĐ có xu hwongs nhích lên, hầu hết các NHTM niêm yết sát trần tỷ giá.
Năm 1998, trước những tác động bất lợi từ cuộc khủng hoảng khu vực đến Việt Nam,
NHNN đã thực hiện biện pháp điều hành tỷ giá linh hoạt và kịp thời đạt được những mục tiêu đề ra
đồng thời không gây sốc lớn trong nền kinh tế. Trong năm 1998, tỷ giá chính thức đã được điều
chỉnh 2 lần: Lần thứ nhất vaod ngày 16/2/1998, tỷ giá chính thức tăng từ mức 11.175 VND/USD
lên 11.800 VND/USD với biên độ giao động ±10%( tăng 5,6 % so với đầu năm). Đến ngày
7/8/1998 NHNN điều chỉnh tăng lần thứ hai đưa tỷ giá chính thức lên 12.998 VND/USD(tăng
16,3% so với đầu năm ), đồng thời biên độ giao dịch được điều chỉnh giảm từ +10% xuống 7% để
thu hẹp dần khoảng cách giữa tỷ giá chính thức với tỷ giá trên thị trương ngoại tệ liên ngân hàng.
Sau hai lần điều chỉnh tỷ giá phản ánh sát hơn tương quan cung cầu ngoại tệ trên thị trường, góp
phần hạn chế việc đầu cơ ngoại tệ làm tăng doanh sè giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng giảm bớt sức Ðp đối với dữ trữ ngoại tệ của Nhà nước .
18

§Ò ¸n m«n häc Kinh tÕ ph¸t triÓn
Lª ThÞ Thanh T©m Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 40
Đề án môn học
Năm 1999, NHNN thực hiện một bước đổi mới cơ bản về điều hành tỷ giá từ quản lý có
tính chất hành chính sang điều hành theo hướng thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Ngày
26/2/1999, thay bằng việc công bố tỷ giá chính thức, NHNN công bố tỷ giá giao dịch bình quân
trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Tỷ giá hàng được áp dụng làm cơ sở để các TCTD được
phép kinh doanh ngoại tệ, xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ; áp dụng để tính thuế XNK. Trên cơ sở
tỷ giá giao dịch thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch gần
nhất trước đó do NHNN công bố, các TCTD được quy định tỷ giá giao dịch không vượt quá 0,1%
so với tỷ giá này. Việc thay đổi về cơ chế quản lý, điều hành tỷ giá đã tạo quyền chủ động cho các
NHTM trong việc tự quy định tỷ giá giữa VND với các ngoại tệ khác. Với cơ chế điều hành mới, tỷ
giá của Việt Nam được hình thành trên cơ sở giao dịch trên thị trường và phản tương đối khách
quan sức mua của ĐViệt Nam so với ngoại tệ, tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp chủ động hơn
trong kinh doanh đồng thời vẫn đảm bảo được vai trò kiểm soát của Nhà nước.
Trong năm 2000, NHNN tiếp tục thực hiện điều hành tỷ giá dưới hình thức hàng ngày
NHNN công bố tỷ giá chính thức là tỷ giá giao dịch bình quân giữa VND với USD trên thị trương
ngoại tệ liên ngân hàng của ngày làm việc trước đó. Các NHTM được xác định tỷ giá giao dịch
không vượt quá 0,1% tỷ giá do NHNN công bố: Tỷ giá bình quân do NHNN công bố hàng ngày
tăng đều đặn( từ khoảng 1 – 5 VND/USD) và tăng mạnh vào những tháng cuối năm( 7 – 12
VND/USD). Đến ngày 29/12/2000, tỷ giá được công bố là 14.501 VND/USD, tỷ giá trên thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng là 14.515 VND/USD, tăng 3,45% so với đầu năm. Đối với tỷ giá kỳ hạn, từ
tháng 9/2000, mức chênh lệch giữa tỷ giá kỳ hạn và hoán đổi với tỷ giá giao ngay đã được điều
chỉnh giảm ở tất cả các kỳ hạn với mức giảm từ 0,38% đến 1,83%. Viêc điều chỉnh tỷ giá nêu trên
được thực hiện để phù hợp với xu hướng giảm lãi suất trên thị trường.
2.5. Chính sách quản lý ngoại hối
Trước diễn biến phức tạp của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực,NHNN đã kịp
thời có những giải pháp về tiền tệ và tỷ giá nhằm giảm thiểu tác động của cuộckhủng hoảng tài
chính toứi sự ổn định kinh tế vĩ mô và hoạt động của hệ thống Ngân hàng, đồng thời tạo môi
trường kinh tế đối ngoại thuận lợi, bên cạnh đó cơ chế quản lý ngoại hối cũng có những thay đổi

đáng kể, cụ thể trong năm 1998 đã tăng cường khả năng kiểm soát luồng ngoại tệ của NHNN, Thủ
Tướng Chính Phủ đã ban hành quyết định về nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ của người cư trú
là tổ chức. Đây là một giải pháp tình thế để giảm bớt căng thẳng giữa cung và cầu ngoại tệ. Mặt
khác, để tăng cường khả năng hoà hợp quốc tế, Chính Phủ đã ban hành cơ chế quản lý ngoại hối
mới thay thế cơ chế quản lý ngoại hối cũ, thể hiện ở Nghị định 63/NĐ-CP ngày 17/8/1998. Việc
ban hành nghị định 63 nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế,
từng bước thực hiện khả năng chuyển đổi của đồng Việt Nam trong các hoạt động ngoại hối và
hoàn thiện hệ thống quản lý ngoại hối của Việt Nam, tăng cường giám sát và quản lý ngoại hối của
Nhà nước.Công tác quản lý nợ nước ngoài cũng từng bước hoàn thiện.Ngày 7/11/1998, CP đã ban
hành Nghị định số 90/NĐ-CP thay thế nghị định số 58/CP về quản lý vay trả nợ nước ngoài. Kết
quả dư nợ ngắn hạn vay nước ngoài của năm 1998 chỉ bằng 46% năm 1997.
Trong năm 1999, trọng tâm của công tác quản lý ngoại hối là tiếp tục thực hiện chủ trương
cải cách các thủ tục hành chính, nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước nhưng vẫn đảm bảo tính
19
§Ò ¸n m«n häc Kinh tÕ ph¸t triÓn
Lª ThÞ Thanh T©m Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 40
Đề án môn học
chủ động, linh hoạt cho các Doanh nghiệp. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân thực
hiện các quy định của Nhà nước về quản lý ngoại hối, NHNN đã tiến hành hệ thống hoá lại các văn
bản về quản lý ngoại hối, thay thế một số văn bản cũ, ban hành các văn bản mới mang tính chất
hướng dẫn. Cùng với việc hướng dẫn các quy định, NHNN tiếp tục tăng cường kiểm soát vay, trả
nợ nước ngoài, quản lý kinh doanh vàng…Trong năm 1999, NHNN cũng đã thực hiện điều chỉnh
tỷ lệ kết hối ngoại tệ từ 80% các nguồn thu vãng lai của doanh nghiệp xuoóng 50% để tăng cường
tính chủ động trong việc sửdụng ngoại tệ của các doanh nghiệp, từng bước tiến tới tự do hoá các
giao dịch ngoại tệ.
Năm 2000, chính sách quản lý ngoại hối tiếp tục đổi mới theo hướng nới lỏng các giao dịch
vãng lai, khuyến khích thu hút nguồn vốn ngoại tệ vào Việt Nam thông qua việc cho phép được
nhận tiền chuyển từ nước ngoài về bằng ngoại tệ hoặc VND,không phải đóng thuế, cho phép người
cư trú là cá nhân được gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ không kể nguồn gốc tại các TCTD được phép,
được hưởng lãi suất bằng ngoại tệ, được rót ra cả gốc và lãi bằng ngoại tệ, bán ngoại tệ cho các

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài…Trong năm 2000, NHNN đã phối hợp với Bộ Tài Chín
thực hiện mua bán ngoại tệ từ NSNN nhằm bổ sung nguồn ngoại tệ để điều tiết thị trường, đáp ứng
cho nhu cầu nhập khẩu.
Vay và trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp được kiểm soát theo hạn mức vay nước
ngoài của doanh nghiệp đã được TTCP phê duyệt nhằm hỗ trợ nhu cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế
và đảm bảo các chỉ tiêu an toàn về nợ nước ngoài. NHNN đã phối hợp với các ngành liên quan tập
trung giải quyết nợ cũ với nước ngoài. Bên cạnh việc tiếp tục thực hiện biện pháp kết hối từ năm
1997, NHNN đã thực hiện linh hoạt nhiều biện pháp khác thông qua điều hành tỷ giá linh hoạt đã
tăng cường tính minh bạch trong hoạt động quản lý ngoại hối của NHNN, tác động tích cực đến sự
phát triển của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Điều này góp phần giảm sự mất cân đối cung cầu
ngoại tệ trên thị truờng, giải quyết khó khăn về cầu ngoại tệ của các doanh nghiệp, giảm sức Ðp lên
tỷ giá hối đoái, từ đó đẩy mạnh XNK, tăng nguồn thu ngoại tệ từ kiều hối.
2.6. Chính sách tín dụng
Mét trong những chức năng cơ bản của chính sách tiền tệ và hệ thống NHTM là đảm bảo
vốn kinh doanh cho các doanh nghiệp. Muốn vậy, chính sách tiền tệ và kinh doanh của hệ thống
NHTM phải hướng vào việc thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi khơi thông cho dòng chảy của vốn
đến với các doanh nghiệp phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh. Song trong thời gian 1997, dòng
vốn Êy bị tức nghẽn mà biểu hiện nổi bật là: Ngân hàng ứ tiền còn doanh nghiệp thì thiếu vốn.
Trong bối cảnh trên Nhà nước cho phép HTNH chuyển 20% vốn huy động ngắn hạn sang dài hạn.
Năm1998, chính sách tín dụng của NHNN nhằm hướng các TCTD thực hiện theo luật các
TCTD. Về huy động vốn, các TCTD căn cứ vào trần lãi suất cho vay đÓ Ên định các mức lãi suất
huy động phù hợp với tình hình cung cầu vốn tín dụng. Về nghiệp vụ cho vay,Thống Đốc NHNN
ra quyết định số 324/1998/QĐ-NHNN ngày 30/9/1998 đã ban hành quy chế cho vay của TCTD đối
với khác hàng, quy định cho vay bằng VND và ngoại tệ và thay thế thể lệ tín dụng quy định tại các
văn bản ban hành trong thời gian thực hiện Pháp lênhj Ngân hàng, HTX tín dụng và công ty tài
chính. Chính sách đổi mới này đã nâng cao quyền tự chủ cho các TCTD, đồng thời xoá bỏ cơ chế
xin, cho và sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào quyền tự chủ kinh doanh của TCTD.
20
§Ò ¸n m«n häc Kinh tÕ ph¸t triÓn
Lª ThÞ Thanh T©m Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 40

Đề án môn học
Về phạm vi đã mở rộng đối tượng khách hàng vay vốn của các TCTD. Loại cho vay,
phương thức cho vay được đa dạng hoá để TCTD áp dụng linh hoạt phù hợp với từng khách hàng
có đặc điểm chu kỳ sản xuất kinh doanh khác nhau.
Để thoá gỡ khó khăn cho khách hàng trường hợp không trả nợ đúng hạn do nguyên nhân
khách quan, ngoài biện pháp cho gia hạn nợ, TCTD được phép thoả thuận điều chỉnh kỳ hạn nợ;
TCTD được quyền xem xét cho miễn giảm lãi tiền vay theo quy chế, nếu khách hàng bị rủi ro thiệt
hại về tài sản có liên quan đến vốn vay do nguyên nhân khách quan.
Trong năm 1999, chính sách tín dụng đã thực thi với các giải pháp đồng bộ nhằm mở rộng
tín dụng, chú trọng kết hợp với nâng cao chất lượng tín dụng phù hợp với chủ trương, chính sách
“kích cầu” của Chính phủ nhằm góp phần ngăn chặn đà sút giảm nhịp độ tăng trưởng kinh tế.
-Bên cạnh quy chế tín dụng số 324/1998/QĐ-NHNN, để đáp ứng yêu cầu mở rộng đầu tư ở
khu vực nông nghiệp – nông thôn, ngày 30/3/1999,TTCP đã ban hành quyết định số 67/QĐ-TTg về
một số chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn, trong đó quy định: mở
rộng cho vay trung, dài hạn, cho vay đối với cả dự án xây dựng CSHT nông thôn, NHNN quy định
trần lãi suất cho vay đối với khu vực nông thôn lớn khu vực thành thị để tạo điều chuyển phân bổ
khối lượng vốn ngày càng lớn đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn; chương trình cho vay xoá đói,
giảm nghèo được triển khai ngày càng sâu rộng.
-Tín dụng xuất khẩu: NHNN đã khuyến nghị các NHTM tăng cường cho vay và có chính
sách khách hàng ưu đãi đối với doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu nhằm góp phần
chặn đứng tình trạng giảm nhịp độ tăng trưởng kinh tế và khắc phục sự mất cân đối về cán cân
thương mại.
-Tín dụng tiêu dùng: Thực hiện các giải pháp kích cầu của Chính phủ, NHNN đã khuyến
khích các TCTD tăng cường cho vay tiêu dùng đối với cá nhân, hộ gia đình nhưng phải đảm bảo
chất lượng tín dụng.
-Tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ: Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày
càng tăng đối với sự phát triển nền kinh tế, đối tượng khách hàng quan trọng của các TCTD. Vì
thế, cơ chế tín dụng hiện hành áp dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng bình đẳng như đối
với các doanh nghiệp khác.
Năm 2000, cơ chế tín dụng ngân hàng đã tiếp tục hoàn thiện góp phần mở rộng đầu tư tín

dụng cho mọi thành phần kinh tế, đưa dư nợ tín dụng cho nền kinh tế tăng gấp 2 lần so với năm
1999. Cơ sở pháp lý của hoạt động tín dụng ngân hàng đã được đổi mới tương đối đồng bộ, có tính
“ đột phá”, tạo môi trường thông thoáng, an toàn, phù hợp với cơ chế thị trường. Đây chính là nhân
tố quan trọng làm cho tăng trưởng tín dụng cao. Cùng với việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất,
quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng trước đây sửa đổi và thay thế bằng quy chế mới ban
hành kèm theo quyết định số 284/1998/QĐ-NHNN1 ngày25/8/2000. Theo đó, đối tượng cho vay
đã được mở rộng; đối với cho vay ngoại tệ, đối tượng cho vay bằng ngoại tệ tong nước cũng được
mở rộng. Bên cạnh đó, cơ chế bảo đảm tiền vay đã được CP và NHNN ban hành có hiệu lực thi
hành vào đầu năm 2000. Theo đó,TCTD áp dụng các biện pháp bảo đảm đã tạo sân chơi bình đẳng
cho các TCTD và khách hàng cho vay. Ngoài ra chính sách tín dụng đối với nông nghiệp và nông
thôn đã được chú trọng thông qua việc CP ban hành chính sách tín dụng đối với chủ trang trại,
nâng mức cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với hộ nông dân từ 10 triệu lên 20 triệu
VND…Kết quả là tỷ lệ tăng tín dụng cho lĩnh vực này đến cuối năm 2000 là 32%.
21
§Ò ¸n m«n häc Kinh tÕ ph¸t triÓn
Lª ThÞ Thanh T©m Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 40
Đề án môn học
II. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TỪ VIỆC ĐIỀU TIẾT CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ TRONG GIAI ĐOẠN 1996 - 2000

1. Những thành công
1.1. Hạn chế được sự ảnh hưởng cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ của các nước
khu vực Đông Á
Vào năm 1998 khu vực tiền tệ ngân hàng phải đối mặt với những hệ quả nghiêm trọng của
cuộc khủng hoảng Châu á, áp lực giảm giá VND xuất hiện không chỉ bắt nguồn từ các hoạt động
hữu hình, cụ thể là tình trạng xấu đi nhanh chóng của hoạt động đối ngoại(năm1997, giá kim ngạch
xuất khẩu chỉ tăng 22% so với mức tăng 33,2% năm 1996; số vốn đăng ký đầu tư trực tiếp được
cấp giấy phép chỉ bằng 73% năm 1996), mà hiệu ứng tâm lý lan truyền về sự phá giá của VND tiếp
theo làn sóng phá giá mạnh của hầu hết các đồng tiền Châu á đã gây ra những bất ổn trên thị trường
ngoại hối. Giá VND mặc dù đã được điều chỉnh giảm thông qua việc nới rộng biên độ giao động tỷ

giá ngày 12/10/1997 song các áp lực giường như lại cá xu hướng tăng lên. Tỷ giá liên ngân hàng
luôn ở mức trần cho phép và tỷ giá thi trường tự do còn biến động cao hơn mức trần tới gần 9%
ngày 23/10/1997 và tới 15% vào giữa tháng 12 năm 1997.
Trong bối cảnh như vậy, việc còn duy trì kiểm soát lãi suất là rất thiết thực, vì NHTƯ có
thể ngay lập tức tăng giá trị tương đối của việc nắm giữ đồng nội tệ bằng cách tăng lãi suất các tài
sản tài chính của hệ thống ngân hàng. Thực tê, NHNNVN đã phải sử dụng chính công cụ này để
hạn chế các dòng dịch chuyển nguồn tiền tệ, cụ thể là:
+Tăng trần lãi suất tín dụng từ 1,1% lên 1,2%/tháng đối với tín dụng ngắn hạn và từ 1,2%
lên 1,25%/ tháng đối với tín dụng dài hạn.
Nâng lãi suất tái cấp vốn của NHNN cho các tổ chức tín dụng từ 0,9% lên 1,1%/tháng theo
quyết định số 40/1998/QĐ ngày 17/1/1998.
+ Giảm lãi suất ngoại tệ theo quyết định 309/1998/QĐ - NHNN1 ngày 10/9/1998. Theo
quyết định này, trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ áp dụng đối với các loại hình không kỳ hạn, kỳ hạn 6
tháng và trên 6 tháng giảm xuống các mức tương ứng là 0,5%/năm; 3%/năm và 3,5%/năm.
Hơn thế nữa, khủng hoảng kinh tế Châu á đã làm bùng phát nợ có vấn đề của hệ thống
ngân hàng. Cuối năm 1997, tỷ lệ nợ quá hạn của hệ thống ngân hàng là trên 12%. Vấn đề nghiêm
trọng hơn là cũng do khủng hoảng, sức mua giảm, cùng với cung vượt quá cầu trong lĩnh vực BĐS,
giá hàng hoá thế chấp, cầm cố giảm mạnh(khoảng 30 – 50%), nên nợ mất khả năng thu hồi gia tăng
(khoảng 50% nợ quá hạn). Nếu việc kiểm soát lãi suất được xoá bỏ hoàn toàn thời kỳ này thì hoạt
động hệ ngân hàng sẽ bị đẩy vào tình trạng rất rủi ro, đặc biệt là đang tồn tại sự bảo đảm ngầm của
Nhà nước. Lãi suất tín dụng có thể bị đẩy lên cao vì chính các khách hàng cũng muốn theo đuổi các
hoạt động mạo hiểm để cải thiện những khó khăn tài chính do điều kiện bất ổn kinh tế trong ngoài
nước gây ra và bản thân ngân hàng cũng có động cơ theo đuổi các hoạt động maọ hiểm để bù lỗ.
Việc xoá bỏ chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra vào năm 1998 cũng là phù hợp. Một mặt,
các TCTD cần tự chủ động trong từng trường hợp quyết định mức lãi suất tiền gửi để hạn chế sự
dịch chuyển tiền tệ. Mặt khác, tình trạng tài chính của các TCTD không như nhau được phơi bầy
trong thời kỳ khủng hoảng, hạn chế việc áp dụng các kiểm soát như nhau đối với lãi suất kinh
doanh của các TCTD.
22
§Ò ¸n m«n häc Kinh tÕ ph¸t triÓn

Lª ThÞ Thanh T©m Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 40
Đề án môn học
Có thể nói, cơ chế lãi suất thích hợp cùng với các biện pháp tiền tệ, ngoại hối hành chính
được áp dụng rất thành công trong việc duy trì sự hoạt động và tính ổn định của thị trường ngoại
hối cũng như giá trị VND. Kết quả này được thể hiện một phần ở sự dịch chuyển cơ cấu tiền gửi
ngân hàng. Tiền gửi nội tệ trong 11 tháng đầu năm 1998 đã tăng 18,8% so với mức giảm là 1,9%
trong tháng 1
- Việc còn duy trì kiểm soát thay vì thả nổi hoàn toàn lãi suất hạn chế phần nào những tác
động tiêu cực của giảm phát trong năm 1999.
Nền kinh tế rơi vào suy thoái, khu vực sản xuất thực sự gặp khó khăn. Vì vốn vay chiếm 80
– 90% vốn sản xuất nên các áp lực giảm lãi suất nảy sinh trong khu vực sản xuất.
Ngược lại, trong khu vực ngân hàng, các áp lực tăng lãi suất lại chiếm ưu thế, vì:
Thứ nhất, thực hiện các quy chế lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng:
+ Thực hiện qui chế trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
+ Trích nộp chi phí bảo hiểm tiền gửi
Thứ hai, chi phí cho nguồn vốn ngoại tệ mà các ngân hàng đã huy động nhưng không cho
vay được cũng là một kênh đội chi phí hoạt động ngân hàng lên.
Có thể nói, với những mâu thuẫn trên đây, việc còn duy trì kiểm soát lãi suất thay vì xoá bỏ
hoàn toàn là hợp lý. Trên thực tế, NHNN đã phải liên tục điều chỉnh giảm trần lãi suất tín dụng do
sự trì trệ trong nền kinh tế mà biểu hiện cụ thể là tình trạng lạm phát âm kéo dài liên tục trong 8
tháng năm 1999, trong khi các TCTD lại miễn cưỡng chấp hành và đôi khi còn vi phạm bằng đặt ra
các chi phí lãi suất.
1.2. Góp phần thúc đẩy tăng trưởng

Giai đoạn 1996 – 2000 là những năm không dễ dàng cho sự ổn định phát triển kinh tế xã
hội. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á đã lan sang nhiều nước, cùng với những yếu kém
nội tại của nền kinh tế chưa khắc phục được, thêm vào đó thiên tai, hạn hán, lũ lụt liên tiếp đã đặt
Việt Nam trước những thách thức. Với nhứng khó khăn như vậy, bằng sự chỉ đạo điều hành năng
động, kiên quyÕt của Chính phủ và những nỗ lực của các cấp, các ngành nền kinh tế vẫn đạt được
tộc độ tăng trưởng khả quan.

Năm 1996 1997 1998 1999 2000
Tốc độ tăng
trưởng (%)
9,34 8,15 5,76 4,77 6,75
Tốc độ kinh tế trong những năm 1998, 1999, 2000 có xu hướng giảm, nhưng với điều kiện
khách quan cũng như chủ quan trên để đạt được những kết quả đó cũng nói lên được sự góp phần
to lớn của chính sách tiền tệ . Đồng thời cũng chững tỏ sự trưởng thành và lớn mạnh của hệ thống
ngân hàng.
1.3. Góp phần chuyển dịch cơ cÊu
Trong thời gian qua,cơ cấu nền kinh tế quốc dân được chuyển dịch theo hướng : kinh tế
quốc oanh vẫn giữ vị trí quan trọng trong các khâu then chốt. Cơ cấu ngành kinh tế cũng chuyển
dịch theo hướng mong đợi.
23
§Ò ¸n m«n häc Kinh tÕ ph¸t triÓn
Lª ThÞ Thanh T©m Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 40
Đề án môn học
Năm 1996 1997 1998 1999 2000
Nông lâm nghiệp và thuỷ
sản
27,76 25,77 25,78 25,43 24,3
Công nghiệp và xây dựng 29,73 32,08 32,49 35,5 36,61
Dịch vô 42,51 42,15 41,73 40,67 39,09
Toàn bộ cơ cấu kinh tế ngành bước đầu chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các ngành
công nghiệp và dịch vụ. Trong nông nghiệp, tỷ trọng của cây công nghiệp và chăn nuôi tăng khá.
Sự chuyển dịch cơ cấu trên đây phù hợp với định hướng của Đảng và Nhà nước ta, phù hợp với
bước đi của nền kinh tế thị trường theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, và giữ vai trò chủ đạo
của kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế quốc dân.
Trong sự chuyển dịch trên đây, hệ thống ngân hàng đã có những đóng góp quan trọng. Cơ
cấu tín dụng ngân hàng đã tăng dần cho lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh, trong khi bảo đảm có
chọn lọc việc duy trì những doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh có hiệu quả. Đồng thời cho thấy

rằng, Ngân hàng đã chú trọng bám sát vào tình hình kinh tế vĩ mô mà có những biện pháp thích
hợp tạo điều kiện sản xuất hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp gặp được thuận lợi. Sự tăng
trưởng tín dụng vào các định hướng của nền kinh tế quốc dân đã tạo nên cơ cấu tín dụng ngày càng
hợp lý, thúc đẩy từng bước sự thay đổi cơ cấu kinh tế.
1.4. Góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Cùng với việc mở rộng cho vay đÕn tất cả các thành phần kinh tế, hệ thống ngân hàng đặc
biệt quan tâm đầu tư phát triển khu vực nông nghiệp và nông thôn, quan tâm đến cho vay khuyến
khích xuất khẩu, cho vay ứng dụng tiến bộ khoa học và áp dụng công nghệ mới. Hoạt động tín
dụng chuyển đổi theo hướng tăng dần tỷ trọng cho vay trung và dài hạn, đáp ứng yêu cầu đầu tư
phát triển của nền kinh tế.
Nhiều công cụ và hình thức huy động vốn đa dạng đã được đưa vào áp dụng trong hệ thống
ngân hàng. Nhờ đó, vốn hoạt động của ngân hàng tăng liên tục với tỷ lệ khá cao. Nguồn vốn trong
nước được tăng trưởng cùng với nguồn vốn từ nước ngoài là điều kiện cơ bản, đã góp phần tích cực
tăng đầu tư, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2. Những hạn chế và nguyên nhân
Chính sách tiền tệ của NHNN thời gian qua đã góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu của
chính sách tiền tệ quốc gia, tuy nhiên trong việc vận hành các công cụ của chính sách tiền tệ đang
bộc lộ những thiếu sót nhất định. Hiện tượng thiếu lành mạnh trong hệ thống tài chính – tiền tệ nói
chung và sự thiếu nhất quán về một số mặt chính sách vĩ mô trong đó có chính sách tiền tệ, đe doạ
sự ổn định kinh tế về trung hạn và dài hạn. Tình hình xấu đi càng bộc lộ rõ những khó khăn và tồn
tại trong việc hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ. Chúng ta hãy xem xét một số vấn đề chủ
yếu sau:
24
§Ò ¸n m«n häc Kinh tÕ ph¸t triÓn
Lª ThÞ Thanh T©m Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 40
Đề án môn học
2.1. Hạn chế của cơ chế điều chỉnh trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ ở
Việt Nam
Trong thực tế NHTƯ có thể điều hành chính sách tiền tệ thông qua công cụ trực tiếp hoặc
công cụ gián tiếp.Hiện nay NHNN Việt Nam đang sử dụng một hệ thống các công cụ chính sách

tiền tệ trực tiếp bao gồm: hạn mức tín dụng, lãi suất, tỷ giá. Bên cạnh đó, các công cụ gián tiếp như
dữ trữ bắt buộc và chính sách tái cấp vốn, nhưng hiệu quả tác động còn hạn chế. ĐÓ bổ trợ cho các
công cụ trên, NHNN Việt Nam còn sử dụng một loạt chính sách điều chỉnh trực tiếp như chính
sách tín dụng, chính sách quản lý ngoại hối.
Cơ chế điều chỉnh trực tiếp đã đem lại sự thành công đáng kể cho chính sách tiền tệ trong
thập kỷ 90 khi nhìn vào các chỉ số phản ánh sự biến động của các mục tiêu vĩ mô: lạm phát, sản
lượng và công ăn việc làm. Chính sách tiền tệ đã đạt hiệu quả tối đa của nó: tỷ lệ lạm phát dưới một
chữ số cùng với tốc độ tăng trưởng bình quân 8,6% trong gần 10 năm. Điều này dương như trái với
kết luận của các nhà kinh tế học hiện đại khi cho rằng, chính sách tiền tệ chỉ có thể ảnh hưởng đến
các yếu tố thực của nền kinh tế như sản lượng hoặc công ăn việc làm trong thời gian ngắn từ một
đến hai năm. Về mặt dài hạn, các yếu tố có xu hướng quay về mức tự nhiên của nó, do đó mọi sự
thay đổi của khối lượng tiền cung ứng không gây nên những ảnh hưởng đến sản lượng và thất
nghiệp, ngoại trừ sự biến động của giá cả.
Thực chất hiệu quả bền vững của chính sách tiền tệ trong thời gian qua không chỉ kết quả
của chính sách tiền tệ, mà còn là kết quả của việc Chính Phủ Việt Nam đã sử dụng các giải pháp
cải cách mạnh mẽ có khả năng mở rộng liên tục mức sản lượng tiềm năng
Nếu quan niêm rằng mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị tiền tệ với ý
nghĩa là ổn định tỷ lệ lạm phát ở mức thấp thì trong thời gian qua, mục tiêu này chưa được thực
hiện một cách hoàn hảo: tỷ lệ lạm phát biến động tương đối mạnh và khó dự đoán từ năm này sang
năm khác. Những tác động về hiệu quả và phân phối lại của lạm phát do ảnh hưởng đến giá trị thực
của các chỉ tiêu giá trị nảy sinh từ mức lạm phát cao, mà chủ yếu từ sự bất ổn định của tỷ lệ lạm
phát. Và điều quan trọng hơn là bắt đầu từ năm 1996, mặc dù tổng phương tiện thanh toán tăng liên
tục, nhưng giá cả có xu hướng giảm ở các tháng đầu năm 1996,1997,1998 và sự giảm giá này diễn
ra hầu hết các tháng trong năm 1999 và trong năm 2000 vẫn ở mức thấp, giảm 0,6% so với
31/12/1999. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng giảm mạnh từ năm 1998 mặc dù năm 2000 có xu
hướng tăng. Điều này chứng tỏ chính sách tiền tệ của NHNN tá ra lúng túng và thiếu chủ động
trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng để đảm bảo cho nó phù hợp với nhu cầu về tiền tệ của nền
kinh tế.
Lý do chủ yếu dẫn đến tình trạng này có lẽ xuất phát từ hạn chế vốn có của cơ chế điều
chỉnh trực tiếp trong chính sách tiền tệ mà ngày càng bộc lộ rõ nét.

Một là, các công cụ trực tiếp không cho phép NHNN có thể điều chỉnh linh hoạt vốn khả
dụng trong điều kiện ứ thừa. Tình trạng dữ trữ không mong muốn ở các NHTM bắt đầu từ 1994 và
kéo dài cho đến nay. Lý do ban đầu có lẽ bởi duy trì lãi suất tiền gửi cao cùng với việc khống chế
trần tín dụng trong những năm 94 –96. Tuy nhiên, lya do chủ yếu của tình trạng này từ năm 1997
đến nay lại nằm ở sự giảm sút tổng cầu của nền kinh tế, phản ánh nhu cầu tiền tệ, đặc biệt nhu cầu
về giao dịch. Thực tế này làm cho các nhtm phải chịu áp lực rất mạnh về chi phí vốn đồng thời làm
giảm thiểu tính hiệu quả của chính sách tiền tệ. Ngoài dữ trữ bắt buộc(thay đổi rất chậm), NHNN
không có công cụ để hấp thụ lượng vốn khả dụng thừa một cách chủ động. Thực tế năm 1996,
25

×