Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

sáng kiến kinh nghiệm gây hứng thú cho học sinh trong học tập môn tin học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.5 KB, 16 trang )

THPT Cẩm Thuỷ 1

MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ 2
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 2
1. Mục đích nghiên cứu 2
2. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu của đề tài 3
II. TỔNG QUAN VỀ NHỮNG VẤN ĐỂ NGHIÊN CỨU 3
1. Cơ sở lý luận 3
2. Thực trạng hứng thú học tập môn Tin học của học sinh ở trường THPT Cẩm
Thủy 1, Thanh Hóa 4
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 5
I. NHỮNG ĐIỀU KIỆN CỤ THỂ KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 5
1. Thực trạng ban đầu 5
2. Phân tích nhiệm vụ 6
II. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 6
1. Sử dụng giáo án điện tử và tận dụng tối đa các giờ học tại phòng thực hành 6
2. Tích cực dự giờ 7
3. Gây hứng thú cho học sinh trong các tiết học bằng các trò chơi đơn giản 7
4. Gây hứng thú ngay từ phần mở đầu bài học, phần giới thiệu đề mục mới 8
5. Yêu cầu đưa ra của giáo viên phải vừa sức với học sinh 8
6. Gây hứng thú cho học sinh trong các tiết học bằng sơ đồ tư duy 9
7. Thường xuyên củng cố và phát triển hứng thú của học sinh trong giờ học .10
III. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 10
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ 14
II. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ 14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 16
TẠO HỨNG THÚ HỌC MÔN TIN HỌC CHO HỌC SINH LỚP 11 TRƯỜNG
THPT CẨM THỦY 1 TRONG CÁC GIỜ GIẢNG TRÊN LỚP

Giáo viên: Phạm Thị Hường


1
THPT Cẩm Thuỷ 1

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Qua nghiên cứu của các nhà tâm lí học ta biết rằng hứng thú là động lực thúc đẩy chủ thể
tạo ra các sản phẩm góp phần vào sự phát triển của xã hội. Khi được làm việc phù hợp với hứng
thú dù phải khó khăn con người cũng vẫn cảm thấy thoải mái và đạt được hiệu quả cao. Trong
hoạt động học tập, hứng thú có vai trò hết sức quan trọng, nếu không có hứng thú thì hoạt động
khó đạt hiệu quả cao.
Trong các trường Trung học phổ thông (THPT) hiện nay, bên cạnh những học sinh vui
thích, đam mê với việc học tập thì cũng có một bộ phận không nhỏ các em không thích học,
chán học, nguyên nhân là do mất hứng thú học tập. Tình trạng chán học, không thích học do
mất hứng thú học này đã ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả học tập của các em nói riêng và chất
lượng giáo dục ở bậc THPT nói chung, điều này có có ảnh hưởng lớn tới tương lai của các em.
Bởi vì hứng thú học tập, nhất là hứng thú với môn học thường có liên hệ chặt chẽ với việc chọn
nghề. Tin học chính là nền tảng quan trọng để sau này các bạn trẻ làm việc năng động và chuyên
nghiệp hơn.
Tâm lý lứa tuổi học sinh lớp 11, là lứa tuổi nhạy cảm, hiếu động. Nếu giáo viên gây được
hứng thú trong giờ dạy sẽ tạo cho học sinh sự phấn chấn, hào hứng để tiếp thu bài học một cách
có hiệu quả,
Xuất phát từ yêu cầu của việc đổi mới phương pháp là phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của học sinh. Xuất phát từ việc “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Từ
thực tiễn giảng dạy tin học cũng như việc học của học sinh trong các năm qua, đặc biệt là tình
hình và kết quả trong năm học vừa qua tôi nhận thấy rằng việc tạo cho học sinh hứng thú trong
học tập là một điều hết sức cần thiết, bản thân tôi nhận thấy việc gây hứng thú cho học sinh
trong học tập môn Tin học là một trong những giải pháp hết sức quan trọng góp phần nâng cao
chất lượng dạy và học, nếu giáo viên tạo được hứng thú trong giờ dạy sẽ giúp cho học sinh say
xưa hơn trong quá trình học tập. Đây chính là động lực giúp tôi đi sâu nghiên cứu đề tài này.
1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu thực trạng hứng thú học tập của học sinh lớp 11 trường THPT
Cẩm Thủy 1 đối với môn Tin học. Từ tìm ra hình thức thích hợp, xây dựng những
giải pháp gây hứng thú học tập nhằm phát huy tốt năng lực của học sinh lớp 11CA6
đối với môn Tin học nói riệng và đi đến áp dụng cho học sinh lớp 11 đối với môn
Tin học (thậm chí với cả một số môn học khác nói chung) nhằm nâng cao chất lượng học
tập của học sinh THPT.

Giáo viên: Phạm Thị Hường
2
THPT Cẩm Thuỷ 1

2. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Đặc điểm hứng thú học tập đối với môn tin học 11 của học sinh
THPT.
Khách thể nghiên cứu: Học sinh lớp 11 trường THPT Cẩm Thủy 1, Huyện Cẩm Thủy,
Thanh Hóa.
Phạm vi nghiên cứu: 94 học sinh (47 học sinh lớp 11CA5 và 47 học sinh lớp
11CA6) trường THPT Cẩm Thủy 1, Huyện Cẩm Thủy, Thanh Hóa.
II. TỔNG QUAN VỀ NHỮNG VẤN ĐỂ NGHIÊN CỨU.
1. Cơ sở lý luận.
1.1. Các khái niệm cơ bản
• Khái niệm hứng thú
Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, nó có ý nghĩa
đối với cuộc sống và có khả năng mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình
hoạt động.
Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung cao độ, ở sự say mê, hấp dẫn bởi nội dung hoạt
động, ở bề rộng và chiều sâu của hứng thú. Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành
động, làm tăng hiệu quả của hoạt động nhận thức, tăng sức làm việc.
• Khái niệm hứng thú học tập môn Tin học: là thái độ lựa
chọn đặc biệt của người học đối với quá trình của sự lĩnh hội tri thức cũng như kỹ

năng của môn Tin học do thấy được sự hấp dẫn và ý nghĩa thiết thực của môn học
đối với bản thân.
1.2.Tầm quan trọng của hứng thú đối với hoạt động học.
Trong bất cứ công việc gì, nếu có hứng thú làm việc con người sẽ có cảm giác dễ
chịu với hoạt động, nó là động cơ thúc đẩy con người tham gia tích cực và sáng tạo
hơn vào hoạt động đó. Ngược lại nếu không có hứng thú, dù là hành động gì cũng sẽ
không đem lại kết quả cao.
Đối với các hoạt động nhận thức, sáng tạo, hoạt động học tập, khi không có
hứng thú sẽ làm mất đi động cơ học, kết quả học tập sẽ không cao, thậm chí xuất
hiện cảm xúc tiêu cực.
1.3. Khái niệm động cơ học tập
Khi con người có nhu cầu học tập, xác định được đối tượng cần đạt thì xuất hiện
động cơ học tập. Động cơ học tập được thể hiện ở đối tượng của hoạt động học, tức
là những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, những kích thích đối với hoạt động học tập của
các em.
Có thể hiểu động cơ học tập của trẻ như là sự định hướng của các em đối với việc
lĩnh hội tri thức, với việc dành điểm tốt và sự ngợi khen của cha mẹ, giáo viên…

Giáo viên: Phạm Thị Hường
3
THPT Cẩm Thuỷ 1

2. Thực trạng hứng thú học tập môn Tin học của học sinh ở trường THPT Cẩm
Thủy 1, Thanh Hóa.
2.1. Mục đích học tập của học sinh THPT Cẩm Thủy 1
Khi được hỏi về mục đích và nguyên nhân thúc đẩy học tập của gần 100 học sinh
của hai lớp 11CA5 và 11CA6 trường THPT Cẩm Thủy 1 (qua các gợi ý : Học tập để
tiếp thu kiến thức, để làm vui lòng gia đình, để được kính trọng, không muốn thua
kém ai hay học vì tương lai của chính bản thân các em) tôi thấy rằng mục đích học
tập vì tương lai có tỷ lệ cao nhất, tỷ lệ mục đích làm vui lòng gia đình, được mọi

người kính trọng, không thua kém ai thấp hơn.
Qua đó chứng tỏ mục đích học tập chủ yếu của học sinh THPT hiện nay là để
chuẩn bị cho tương lai của chính các em học để thi đỗ đại học, có việc làm tốt, thỏa
mãn ước muốn bản thân, để giúp đỡ gia đình.
2.2. Thái độ và những nguyên nhân khiến học sinh lớp 11 trường THPT Cẩm
Thủy 1 chán, lười học môn Tin học
• Thái độ của học sinh:
Không phải hiện nay mà đã từ lâu sự thay đổi về mặt tâm sinh lý lứa tuổi và một
số học sinh còn xem môn tin học là một môn phụ, các em chỉ quan tâm đến môn học
mà các em đã định hướng cho nghề nghiệp tương lai sau này nên một số học sinh
chưa thực sự hứng thú với môn học, tạo nên tâm lý coi thường trong môn học.
• Nguyên nhân chủ yếu của sự chán, lười học môn tin học
của học sinh lớp 11 THPT Cẩm Thủy 1:
Qua tìm hiểu tôi nhận thấy nguyên nhân chủ yếu của sự chán, lười học môn
tin học của học sinh là vì các lí do sau đây:
+ Do do cảm thấy môn học khó và không có khả năng đối với môn học.
+ Khó tập trung học tập do nhiều yếu tố bên ngoài tác động, không giữ được ý
chí quyết tâm học tập.
+ Do môn học không đủ sức hấp dẫn với học sinh…
2.3. Những lý do để học sinh học môn này tốt hơn
Qua thực tế giảng dạy tôi thấy rằng ngoài những nguyên do gắn liền với mục đích
học tập, còn có một số nguyên do khác như:
+ Giáo viên tạo được không khí học tập vui vẻ, hấp dẫn.
+ Do có các em có niềm đam mê với môn học.
+ Học để tìm tòi những điều mới mẻ, tư duy logic, sáng tạo hơn.
+ Do ý thức bản thân thấy được tầm quan trọng của việc học, v.v
Tóm lại, sau khi tìm được những nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng chán,
lười học và mức độ ảnh hưởng ít hay nhiều của các nguyên do thúc đẩy việc học tập
mà ta có thể đề ra được những biện pháp phù hợp hơn nhằm khuyến khích học sinh
học tập tốt hơn.


Giáo viên: Phạm Thị Hường
4
THPT Cẩm Thuỷ 1

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. NHỮNG ĐIỀU KIỆN CỤ THỂ KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Thực trạng ban đầu.
Trường THPT Cẩm Thủy 1 là một trường thuộc khu vực miền núi, nên còn
gặp rất nhiều khó khăn về cơ sở vật chất phục vụ quá trình dạy và học, đặc biệt là
môn Tin học. Năm học 2012 – 2013 toàn trường có 39 lớp, trong đó có 3 phòng máy
vi tính, mỗi phòng có 24 máy và chưa có điều kiện để lắp máy chiếu cho 3 phòng
này. Bên cạnh đó do nguồn điện yếu nên chỉ đủ để 1 phòng hoạt động tốt, trường
mới chỉ có 1 phòng đa năng nên khi giáo viên muốn dạy bằng máy chiếu phải thay
đăng kí để phiên nhau dạy. Không có tranh ảnh phục vụ cho các giờ dạy trên lớp học
bình thường (trong trường hợp mất điện hoặc không có sự can thiệp, trợ giúp của
công nghệ thông tin).
Vào năm học 2012 – 2013 tôi được phân công dạy môn tin học cho 8 lớp 11,
trong đó có hai lớp mà tôi thử nghiệm để nghiên cứu cho đề tài này là lớp 11CA5 và
lớp 11CA6. Nhìn chung các em đều ngoan và có thái độ kính trọng thầy cô giáo, cả
hai lớp đề thuộc nhóm lớp cơ bản tự nhiên. Số tiết dạy học kỳ 1 là 2 tiết/lớp/tuần,
học kỳ 2 còn 1 tiết/ tuần/ lớp.
Khảo sát chất lượng đầu năm: Trong tổng số 97 học sinh của hai lớp 11CA5
và 11CA6 thì số điểm từ trung bình là 53 học sinh, điểm khá là 7, điểm dưới trung
bình là 37 học sinh. Không có học sinh nào được điểm giỏi.
Sau khoảng 3 tuần giảng dạy, trong các giờ học trên mỗi lớp trung bình có
khoảng 02 học sinh vắng mặt, 02 học sinh ngủ gật, 05 - 10 học sinh không chú ý
hoặc giả vờ chú ý, các em không chịu phát biếu ý kiến để xây dựng bài, nhiều học
sinh không chuẩn bị bài ở nhà. Các học sinh khi gọi lên kiểm tra bài cũ thì số lượng
thuộc bài rất ít.

Với đặc thù rất quan trọng của môn Tin học cho học sinh phổ thông là thực
hành trên máy tính là bắt buộc và là một cấu thành của bài giảng lý thuyết ; Đối với
môn tin học sẽ là rất khó dạy khi giáo viên hoàn toàn không được dùng máy tính để
minh họa hay thực hành các thao tác mẫu của bài học. Nếu thầy và trò trên lớp được
học tập hoàn toàn với phấn và bảng (học chay), cộng thêm với điều kiện gia đình,
sự quan tâm về tinh thần từ phía gia đình đối với các em không được đồng đều, sự
khập khiễng về ý thức, nhận thức giữa học sinh ở thị trấn và nông thôn cũng gây
không ít khó khăn cho cả thầy và trò trong quá trình dạy và học.

Giáo viên: Phạm Thị Hường
5
THPT Cẩm Thuỷ 1

2. Phân tích nhiệm vụ
Từ thực tế hiện nay về đổi mới phương pháp dạy học, học sinh tự chủ động
chiếm lĩnh kiến thức, giáo viên là người hướng dẫn điều khiển.
Xuất phát từ tâm lý coi môn tin học là môn phụ nên học sinh không chú ý học.
Việc tạo hứng thú học tập cho các em có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao
hiệu quả chất lượng dạy học. Để cung cấp kiến thức khoa học, giáo dục tư tưởng và
rèn luyện kỹ năng cho học sinh, giáo viên phải làm cho học sinh ham mê hứng thú
học tập, làm cho quá trình học tập của các em trở nên tự giác, tạo nên niềm vui trong
sáng và bổ ích, bồi dưỡng cho các em tinh thần học tập, mạnh dạn trước tập thể, tạo
được hưng phấn đồng đều giữa các em để các em có được sự hòa đồng trong nhận thức và học tập.
Việc tạo hứng thú học tập môn tin học cho các em cần phải căn cứ vào các tiêu chí sau:
+ Học sinh đi học đầy đủ
+ Học sinh thuộc bài khi kiểm tra bài cũ.
+ Học sinh hào hứng phát biểu xây dựng bài.
+ Học sinh tập trung chú ý cao, học bài và làm bài đạt kết quả tốt.
Từ đây ta hoàn toàn có thể xây dựng các biện pháp để giải quyết vấn đề đặt ra.
II. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

Để đánh giá mức độ hiệu quả của các biện pháp được xây dựng, tôi đã tiến
hành thực hiện với 2 lớp 11CA5 và lớp 11CA6 (học sinh hai lớp có sức học ngang
nhau). Trong đó 47 học sinh lớp 11CA5 được chọn làm nhóm đối chứng và 47 học
sinh lớp 11CA6 được chọn làm nhóm thực nghiệm. Các phương pháp được tôi sử
dụng cho nhóm thực nghiệm như sau:
1. Sử dụng giáo án điện tử và tận dụng tối đa các giờ học tại phòng thực hành.
Giáo án điện tử là phương tiện hỗ trợ cho giáo viên (GV), giúp bài giảng sinh
động hơn, học sinh (HS) hứng thú học tập và dễ dàng tiếp thu bài. Vì vậy, để giúp
HS khắc sâu kiến thức, kích thích nguồn cảm hứng học tập, khi giảng dạy GV cần
phải kết hợp hài hòa giữa màn hình với lời giảng và giữa màn hình với ghi bảng sao
cho linh hoạt uyển chuyển.
Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy hầu hết các em đều rất thích được lên
phòng máy để thực hành, thích được học tại phòng đa năng để được học các bài
giảng điện tử, có âm thanh, hình ảnh, màu sắc sinh động. Nếu chúng ta chuẩn bị
được thật nhiều những giờ dạy trên các phòng này cũng là một trong những biện
pháp tạo hưng phấn cho học trò. Hạn chế đi cách dạy thông báo khô khan, tẻ nhạt,
hay giáo viên chiếu – học sinh chép.
Bên cạnh đó, GV phải thật sự có ý thức học hỏi, khai thác và sử dụng có chọn
lọc những tư liệu quý trên internet. Đừng quá tham lam tư liệu, có bao nhiêu cũng
đưa vào bài giảng, làm cho bài giảng dễ bị loãng.

Giáo viên: Phạm Thị Hường
6
THPT Cẩm Thuỷ 1

2. Tích cực dự giờ
Dự giờ sẽ giúp GV chủ động, tích cực hơn trong bài giảng của mình. Khi
đồng nghiệp đến dự giờ, GV sẽ chuẩn bị bài kỹ hơn, sẵn sàng trao đổi về bài dạy
trước khi lên lớp. Đây là việc làm hết sức thiết thực và cần thiết. Những lớp học có
GV đến dự giờ cũng sẽ sôi nổi, ý thức học tập của HS được nâng cao. Đây là điều

kiện thuận lợi để phát huy được sự sáng tạo trong quá trình giảng dạy và cũng là một
biện pháp quan trọng giúp GV luôn chuẩn bị đầy đủ kiến thức và hồ sơ, sổ sách
trước khi đến lớp, tránh được tình trạng dạy chay, thiếu sự chuẩn bị.
3. Gây hứng thú cho học sinh trong các tiết học bằng các trò chơi đơn giản
Học sinh bao giờ cũng thích vừa học vừa chơi, chơi để lĩnh hội tri thức mới từ
trò chơi, chơi để làm cho không khí lớp học trở nên vui vẻ, tạo ra sự đoàn kết giữa
các em, giảm căng thẳng trong các giờ học. Nếu chúng ta chịu khó nghĩ ra các trò
chơi có hàm ý nội dung cần truyền đạt trong trò chơi ấy chắc chắn các em sẽ tiếp thu
kiến thức một cách hiệu quả và không thấy chán mỗi khi đến giờ tin học, nếu giáo
viên biết cách sắp xếp thời gian hợp lý tổ chức trò chơi cho học sinh thì học sinh rất
hào hứng học
* Ví dụ . Trong giờ “Câu hỏi và bài tập”- Tiết 10 theo PPCT Tin 11 giáo viên
có thể thể cho học sinh chơi trò chơi như sau: Chọn 2 đội lên bảng (khoảng 3 học
sinh/ đội) để viết tất cả các từ tiếng Anh thuộc các kiểu dữ liệu chuẩn và các từ khóa
đã học. Học sinh còn lại dưới lớp được chia ra làm cổ động viên tinh thần cho 2 đội
chơi. Như vậy sau trò chơi các em vừa nhớ hết các từ khóa trong tin học lại vừa bổ
sung thêm vốn từ mới trong Tiếng Anh.
* Ví dụ: Để bước vào tìm hiểu ví dụ sắp xếp một dãy số nguyên bằng thuật
toán tráo đổi (Bài 11. Kiểu mảng, mục 1b, ví dụ 2), để các em hiểu ý tưởng của thuật
toán giáo viên có thể cho khoảng 5 học sinh lên bảng chơi trò xếp hàng, sau đó giáo
viên đưa ra nguyên tắc (cách) xếp hàng sao cho người đứng sau luôn cao hơn người
đứng trước. Cứ lần lượt so sánh từng cặp một nếu thấy thỏa mãn điều kiện đã cho
thì tiến hành đổi chỗ, cứ như vậy cho đến khi hết lượt và lặp lại quá trình này cho
tới khi học sinh thấp nhất sẽ đứng đầu hàng, học sinh cao nhất sẽ đứng cuối hàng,
đảm bảo trong hàng người đứng sau luôn cao hơn người đứng trước.
Như vậy sẽ giảm bớt sự trừu tượng trong cách biểu diễn thuật toán, học sinh
thấy được quy luật của sự đổi chỗ các phần tử và các em bị cuốn vào hoạt động và
lời giảng của giáo viên, từ đó giúp các em hiểu chương trình và không còn tâm lý sợ
tìm hiểu chương trình chỉ toàn các câu lệnh mà các em cho là khô khan, khó hiểu.


Giáo viên: Phạm Thị Hường
7
THPT Cẩm Thuỷ 1

4. Gây hứng thú ngay từ phần mở đầu bài học, phần giới thiệu đề mục mới
Rõ ràng ngay từ bước chân của giáo viên vào lớp với thái độ vui vẻ thân mật
đối với học sinh đã tạo nên không khí hào hứng chung của cả lớp để chuẩn bị bước
vào bài học mới, sự hứng thú học tập chỉ thực sự bắt đầu với phần giới thiệu gây hấp
dẫn đối với học sinh.
* Ví dụ 1: Để bước vào tiết học “Cấu trúc rẽ nhánh” (tiết 11 Tin học 11) giáo
viên vào lớp trên tay cầm một cành táo nhỏ (có từ hai nhánh trở lên, giáo viên cố ý
để nhánh thứ nhất chỉ toàn quả chín, nhánh thứ hai toàn các quả chưa chín) chìa ra
và hỏi:
Các em biết cô đang cầm trên tay vật gì không nào? (Có thể có rất nhiều câu
trả lời đúng thậm chí sai nhưng sẽ tạo được không khí vui tươi, rộn ràng vào đầu tiết
học, gây được sự tò mò, suy nghĩ và sự tập trung ở học sinh), và sẽ hấp dẫn hơn khi
cô giáo nói thêm: Đây là một cành táo có cả quả xanh và quả chín, nếu bạn nào thích
ăn quả chín thì hái ở nhánh đầu tiên, nếu bạn nào thích ăn quả chưa chín hẳn thì hái
ở nhánh thứ hai. Và đương nhiên nếu bạn nào không thích ăn táo thì sẽ không được
hái.
Như thế tiết học sẽ trở nên vui hẳn ra. Sau đó giáo viên giới thiệu thêm nhiều
trường hợp có dạng mệnh đề: nếu…thì…, hoặc nếu…thì…nếu không thì… để học
sinh hiểu khái niệm rẽ nhánh.
Việc gây hứng thú ngay từ phần mở đầu bài học còn có thể thực hiện dưới dạng cho
học sinh chơi trò chơi giải ô chữ với các từ chìa khóa có liên quan tới bài học mới, đây cũng
là một hình thức mà các em rất hào hứng tham gia.
Ví dụ 2. Để bước vào mục cấu trúc chung của một chương trình, giáo
viên có thể đưa ra một câu đó đơn giản mà học sinh nào cũng có thể trả lời
được. “Cô đố các em biết một bài văn gồm có mấy phần, kể tên?”, từ đó giáo
viên dẫn dắt đến các thành phần của một chương trình: Gồm có hai phần: Phần

khai báo và phần thân.
Bên cạnh đó việc đánh giá công bằng, khuyến khích trong việc kiểm tra
miệng đều là những yếu tố góp phần tạo nên không khí hào hứng chung của cả lớp
để chuẩn bị bước vào bài học mới.
5. Yêu cầu đưa ra của giáo viên phải vừa sức với học sinh.
Thực chất của việc học tập là chuỗi vấn đề được đặt ra, được nhìn nhận, rồi được nhận
thức ở mức độ cao hơn. Khi giáo viên giúp các em nắm được cái cốt lõi của một nội dung
sẽ kích thích các em suy luận và tìm tòi, phát triển một nôi dung khác. Phát huy tính tích
cực, chủ động sáng tạo của học sinh

Giáo viên: Phạm Thị Hường
8
THPT Cẩm Thuỷ 1

*Ví dụ: Trong tiết học “Kiểu mảng” – Tiết 34, sau khi học sinh đã học tốt bài
kiểu mảng thì giáo viên yêu cầu các em làm thêm bài tập tương tự trên máy tính.
(Chẳng hạn từ bài toán tìm số lớn nhất của dãy số nguyên hãy suy ra cách viết
chương trình tìm số bé nhất có trong dãy, hoặc từ bài toán sắp xếp dãy số tăng dần
các em hãy suy ra cách viết chương trình sắp xếp dãy số thành dãy giảm dần….)
Với yêu cầu đơn giản như vậy các em sẽ cảm thấy việc giải các bài toán tương
tự các bài toán đã có là vừa sức, kích thích sự ham muốn giải các bài tập mà lâu nay
các em cho là tự mình rất khó có thể giải quyết. Điều này sẽ làm các em có được
niềm vui trước sản phẩm tinh thần của chính mình, tạo được tâm lý thoải mái, vui vẻ
trong các em. Giúp các em chủ động giải bài tập, có thể giải theo cách tương tự bài
giáo viên ra hoặc giải theo cách của các em nghĩ ra
6. Gây hứng thú cho học sinh trong các tiết học bằng sơ đồ tư duy
Từ trước tới nay, chúng ta ghi chép thông tin bằng các ký tự, đường thẳng, con số. Với
cách ghi chép này, chúng ta mới chỉ sử dụng một nửa của bộ não - não trái, mà chưa hề sử
dụng kỹ năng nào bên não phải, nơi giúp chúng ta xử lý các thông tin về nhịp điệu, màu sắc,
không gian và sự mơ mộng.

Theo Tony Buzan - là người sáng tạo ra
phương pháp tư duy Mind Map (bản đồ
tư duy): “với cách thể hiện gần như cơ
chế hoạt động của bộ não, bản đồ tư duy
sẽ giúp học sinh sáng tạo hơn, tiết kiệm
thời gian, ghi nhớ tốt hơn, nhìn thấy bức
tranh tổng thể, ngoài ra còn có thể tổ chức
và phân loại suy nghĩ của học sinh”.
*Ví dụ: Khi trình bày “Bài 6- Phép toán, biểu thức, câu lệnh gán” (Tiết 6) tôi
không trình bày theo cách chia bảng thành các cột, mỗi cột trình bày nội dung một
vấn đề mà có thể trình bày một bản đồ tư duy lên bảng: Nội dung chính của bài được
đặt tại vị trí trung tâm của sơ đồ, các đơn vị kiến thức được trình bày theo các nhánh,
các nhánh này lại được chia thành nhiều nhánh con, chúng được thể hiện với các
màu phấn khác nhau, từ đó có thể bổ sung, chỉnh sửa sao cho hoàn thiện, với cách
trình bày như thế giúp học sinh sáng tạo hơn, ghi nhớ tốt hơn, khi kiểm tra bài cũ các
em thuộc và nhớ lâu hơn. tăng khả năng hiểu và đọc hiểu của học sinh, giúp các em
thấy thú vị khi học tập
Nếu ta sử dụng phần mềm vẽ bản đồ tư duy để thiết kế và sử dụng nó để trình
chiếu lại càng làm cho học sinh hứng thú hơn. Dưới đây là một thiết kế của tôi bằng
bản đồ tư duy Imindmap 6.0.1

Giáo viên: Phạm Thị Hường
9
THPT Cẩm Thuỷ 1

Khi học thì học sinh không cần vẽ giống giáo viên mà có thể vẽ theo ý mình,
miễn là các em biết dùng các đường nét, màu sắc khác nhau để thể hiện các nội dung
khác nhau. Chính vì vậy các em càng thấy hào hứng hơn mỗi khi học bộ môn tin
học, thậm chí thiết nghĩ nếu em nào vận dụng tốt phương pháp này cho các môn học
mang nặng tính lý thuyết thì sẽ giúp các em rất nhiều trong quá trình ghi nhớ và

phân loại kiến thức.
7. Thường xuyên củng cố và phát triển hứng thú của học sinh trong giờ học.
Việc gây hứng thú cho học sinh trong giờ học không chỉ một lần mà phải rèn
luyện thường xuyên từ phút đầu đến phút cuối giờ học. Hơn nữa phải làm cho mức
độ hứng thú ngày càng tăng đến nỗi các em không để ý thời gian trôi đi nhanh chóng
và khi giờ học kết thúc học sinh vẫn còn cảm thấy luyến tiếc.
III. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học vừa qua với sự áp dụng các biện pháp nói trên đối với những học
sinh lớp 11CA6 (thuộc nhóm thực nghiệm), tôi nhận thấy đa số học sinh đều rất
hứng thú học tập, không khí các giờ học vui vẻ, sôi nổi hơn do các em tích cực xây
dựng bài, số lượng học sinh làm việc riêng trong giờ gần như không còn, qua kiểm
tra và thi học kỳ điểm khá giỏi tăng lên rõ rệt, điểm yếu kém không còn nhiều. Quá
trình thực hiện của tôi diễn ra như sau:
Từ thực trạng đã nêu ở trên, sau 3 tuần đầu tôi bắt đầu áp dụng triệt để và liên
tục một số các biện pháp đã nêu đối với lớp 11CA6, tôi thấy các em có sự tiến bộ
nhiều hơn thể hiện ở thái độ và ý thức với môn học.
Sau 6 tuần thực hiện thường xuyên biện pháp giảng dạy mới tôi thấy có kết
quả rõ rệt, không khí học tập sôi nổi hơn, học sinh phát biểu xây dựng bài nhiều hơn,
học sinh được kiểm tra bài cũ thuộc bài nhiều hơn.

Giáo viên: Phạm Thị Hường
10
THPT Cẩm Thuỷ 1

Hết học kỳ I không còn học sinh nào ngủ gật trong giờ. Điều đặc biệt là tỉ lệ
học sinh yếu, kém giảm đáng kể và tỉ lệ học sinh đạt điểm trung bình, khá tăng lên
khá rõ so với đầu năm học. Lớp thực nghiệm đã có 01 HS đạt điểm giỏi. Cứ liên tục
thực hiện các biện pháp gây hứng thú trong các giờ học cho các em đến cuối năm
học thì kết quả lại càng đáng mừng hơn.
Cuối năm học lớp 11CA5 vẫn còn hiện tượng học sinh làm việc riêng trong

giờ, số lượng học sinh xây dựng bài không cao hơn thời điểm trước là bao, nhưng
lớp 11CA6 đã không còn học sinh nào ngủ gật hoặc vắng học, số học sinh thuộc bài
cũ tăng lên nhanh, số học sinh đóng góp xây dựng bài khoảng gần một nửa lớp, đăc
biệt căn cứ vào kết quả kiểm tra đánh giá chất lượng năm học thì sự phân hóa về tỉ lệ
điểm khá, giỏi ở hai lớp càng có sự chênh lệch rõ ràng. Để minh chứng cho điều đó
ta có thể theo dõi các tổng hợp sau đây:
Bảng 1. Kết quả thu được sau thực nghiệm tính đến hết học kỳ 1
Thời điểm
Trước thực nghiệm Sau thực nghiệm
Nhóm đối
chứng
Nhóm thực
nghiệm
Nhóm đối
chứng
Nhóm thực
nghiệm
Số HS vắng học trung bình
trong giờ
2 2 1 0
Số HS ngủ gật trung bình
trong giờ
2 3 2 0
Số HS không chú ý 4-7 5-10 3 - 4 3- 4
Số HS thuộc bài cũ 3- 5 2- 5 4- 6 8-10
Số HS xây dựng bài trung bình
trong giờ
3 3 4 7
Số HS đạt điểm giỏi 0 0 0 1
Số HS đạt điểm khá 4 3 6 10

Số HS đạt điểm trung bình 25 25 29 27
Số HS bị điểm yếu, kém
18 19 12 9
Bảng 2. Kết quả thu được kể từ đầu kỳ II đến cuối năm học
Thời điểm
Hết học kỳ 1 Hết năm học
Nhóm đối Nhóm thực Nhóm đối Nhóm thực

Giáo viên: Phạm Thị Hường
11
THPT Cẩm Thuỷ 1


Tiêu chí
chứng nghiệm chứng nghiệm
Số HS vắng học trung bình
trong giờ
1 0 1 0
Số HS ngủ gật trung bình
trong giờ
2 0 1 0
Số HS không chú ý
3 - 4 3- 4 2- 3 1
Số HS thuộc bài cũ
4- 6 8-10 4-10 12-15
Số HS xây dựng bài trung
bình trong giờ
4 7 6 15
Số HS đạt điểm giỏi
0 1 1 2

Số HS đạt điểm khá
6 10 8 20
Số HS đạt điểm trung bình
29 27 33 22
Số HS bị điểm yếu, kém
12 9 6 3
Dựa vào kết quả thống kê ở hai bảng trên ta có thể vẽ biểu đồ so sánh kết quả
học tập giữa hai lớp ở các giai đoạn như sau:

Giáo viên: Phạm Thị Hường
12
THPT Cẩm Thuỷ 1

Tóm lại:
Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy rằng: So với đầu năm học thì số học sinh lớp
11CA6 bị điểm kém giảm từ 19 HS xuống còn 3 HS; nhưng lớp 11CA5 số học sinh
bị điểm kém có giảm nhưng ít hơn (từ 18 HS xuống còn 6 HS);
Số học sinh được điểm trung bình trở lên ở lớp 11CA6 tăng cao so với đầu
năm học, số học sinh được điểm giỏi và khá cao gấp đôi so với lớp 11CA5.
Như vậy, sự tăng lên rõ rệt về thành tích của các học sinh nhóm thực nghiệm
so với các học sinh nhóm đối chứng đã cho thấy hiệu quả của việc áp dụng các
phương pháp gây hứng thú trong các bài giảng tin học 11 được đề trình bày trong đề
tài này có tính thực tiễn cao, có thể áp dụng rộng rãi cho học sinh các lớp 11 trường
THPT Cẩm Thủy 1 nói riêng và học sinh các lớp 11 của các trường miền núi nói
chung.

Giáo viên: Phạm Thị Hường
13
THPT Cẩm Thuỷ 1


C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
I. NHỮNG KẾT LUẬN
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận khoa học và thực tiễn giảng dạy khối lớp 11
trong 2 năm học, kết quả đạt được qua việc áp dụng các biện pháp nói trên, bản thân
tôi đi đến những kết luận sau đây:
1. Để tạo hứng thú đối với học sinh thì trước hết phải gây hứng thú cho học
sinh ngay từ phần mở đầu bài học, phần giới thiệu đề mục mới.
2. Tiến hành thường xuyên việc dự giờ của các đồng nghiệp lẫn nhau để học
hỏi kinh nghiệm và tăng cường sự chuẩn bị chu đáo cho các bài dạy.
3. Giáo viên cần phải khơi dậy sự yêu thích môn học bằng việc đầu tư thời
gian thiết kế các giáo án điện tử, các sơ đồ tư duy. Trong quá trình giảng dạy giáo
viên phải biết phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh
4. Phương tiện dạy học phải đầy đủ, tuy nhiên không lạm dụng công nghệ
thông tin để xa vào tình trạng chiếu - chép
5. Trong các tiết học phải tạo cho các em sự hứng thú từ đầu cho đến hết tiết
học, tạo cho các em sự hứng thú vui tươi, học để mà vui - vui để mà học, tránh gò ép
đối với học sinh.
6. Trong mỗi giờ học sau mỗi thành quả đạt được của học sinh nếu kèm theo
lời khen ngợi, biểu dương của giáo viên nữa càng khuyến khích các em mạnh dạn
hơn trong việc xây dựng bài.
7. Thường xuyên củng cố và phát triển hứng thú của học sinh trong giờ học
Tin học nếu không các sẽ dễ làm các em quay trở lại sự chán và lười học.
II. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
Muốn thực hiện những nội dung trên có hiệu quả đòi hỏi mỗi giáo viên phải
không ngừng nâng cao kiến thức, học hỏi trên mọi phương tiện thông tin để tạo cho
mình một trình độ chuyên môn vững vàng, thường xuyên học hỏi rút kinh nghiệm ở
các đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường, Giáo viên cần phải nắm đặc trưng của
bộ môn, có phương pháp dạy học linh hoạt và sáng tạo, phải tìm mọi cách để cải tiến
cách dạy từng phần nhỏ theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, bổ
sung sáng tạo thêm nhiều thủ pháp sinh động, hấp dẫn, đa dạng hóa cách thức truyền

đạt ở mỗi bài học. Khơi dậy sự yêu thích môn học, bởi theo tôi “phần lớn các yếu tố
làm cho học sinh hứng thú học tập đều phụ thuộc vào vai trò của giáo viên”.
Trong điều kiện nghiên cứu đề tài còn hạn chế, phạm vi hẹp, thời gian công
tác chưa lâu. Những cách thức, những cung bậc gây hứng thú cho học sinh trong học
tập môn tin học là hết sức phong phú. Mỗi người có một phương pháp, biện pháp
của riêng mình.

Giáo viên: Phạm Thị Hường
14
THPT Cẩm Thuỷ 1

Những kết luận của đề tài dù sao cũng là những ý kiến của riêng cá nhân tôi,
vì vậy sẽ không tránh khỏi những thiếu sót và hạnh chế. Rất mong nhận được sự
đóng góp của các quý thầy cô, mong rằng có những ý tưởng hay hơn, bổ ích hơn, để
bổ sung chỉnh sửa nhằm để đề tài này thêm hoàn thiện, để tôi có thêm hành trang
phục vụ chuyên môn của mình ngày càng tốt hơn trong những năm học tới.
*Kiến nghị :
- Việc tạo hứng thú cho học sinh phải tiến hành thường xuyên liên tục và
phong phú về hình thức.
- Vì đây là một môn học mang tính đặc thù riêng nên cần phải có phòng học
chức năng riêng biệt, môi trường trong lành, thoáng mát, đầy đủ tiện nghi và đồ
dùng dạy học.
- Cần trang bị thêm một số tranh ảnh, tài liệu phục vụ cho môn học để việc
dạy và học ngày càng hiệu quả hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết:

Phạm Thị Hường

Giáo viên: Phạm Thị Hường
15
THPT Cẩm Thuỷ 1

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Đức Lâm, Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, Khoa sư phạm, Đại
học Đà Lạt.
2. Nguyễn Quan Uẩn (Chủ biên), 1997, Tâm lý học đại cương - NXB ĐHQG Hà Nội.
3. Hồ Ngọc Đại, 1983, Tâm lý học dạy học - NXB giáo dục.
4. Tuvanhuongnghiep.vn/cam-nang/cam-nang-huong-nghiep/hung-thu-hoc-tap/
hung-thu-nghe-nghep
5. www.thanhnien.com.vn- Bài “Tạo hứng thú học tập cho học sinh” (Ngô Mã
Thiên, Minh Luân)
6. Tuyển tập báo cáo hội sinh viên NCKH lần thứ 8 ĐH Đà Nẵng năm 2012.
Ngoài ra:
- Sử dụng các tài liệu chuyên môn có liên quan.
- Tham khảo các phương pháp dạy học tích cực, dạy học bằng hoạt động, dạy
học bằng bản đồ tư duy, trên mạng Internet.
- Tham khảo các bài viết của các đồng nghiệp trên thư viện bài giảng điện tử
baigiang.violet.vn

Giáo viên: Phạm Thị Hường
16

×