Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tiểu luận kinh tế vĩ mô Thực trạng cán cân thanh toán Việt Nam từ năm 2009 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.45 KB, 31 trang )

Cán cân thanh toán Việt Nam
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN























[1]
GVHD: TS. Trần Thị Bích Dung Nhóm 4 – Đêm 4 – K22

Cán cân thanh toán Việt Nam
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU


Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là xu thế của thời đại và diễn ra ngày càng sâu rộng về
nội dung, quy mô trên nhiều lĩnh vực. Trong xu thế đó, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam đã diễn ra từ lâu, kể từ khi Việt Nam khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước
vào năm 1986. Việt Nam đã gia nhập khối ASEAN năm 1995; tham gia vào khu vực mậu dịch tự
do ASEAN (AFTA) năm 1996; ký Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ năm
2000 và ký kết các hiệp định thúc đẩy quan hệ thương mại, đầu tư song và đa phương khác. Đặc
biệt từ năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế
giới (WTO), là mốc son quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, đánh
dấu cho việc hội nhập ngày càng sâu rộng với thị trường quốc tế nói chung và trong lĩnh vực tài
chính ngân hàng nói riêng.
Trong nền kinh tế hội nhập quốc tế, mối quan hệ giữa các quốc gia rất phong phú và đa
dạng, bao gồm: thương mại, đầu tư, du lịch, văn hóa, quân sự, chính trị,…những mối quan hệ này
tạo nên nguồn thu, chi ngoại tệ cho quốc gia và được phản ánh trên cán cân thanh toán. Trong
điều kiện nền kinh tế mở hiện nay, việc theo dõi các nguồn ngoại tệ ra, vào là hết sức quan trọng
để từ đó xây dựng được chính sách đúng đắn, hiệu quả cho nền kinh tế, vì vậy mà vai trò của cán
cân thanh toán trở nên hết sức quan trọng. Vậy thực chất cán cân thanh toán là gì?, có vai trò và
sức ảnh hưởng như thế nào trong nền kinh tế thời kỳ hội nhập hiện nay?. Với đề tài “Cán cân
thanh toán Việt Nam” , sẽ làm rõ một số vấn đề về cán cân thanh toán, tình hình cán cân thanh
toán Việt Nam trong thời gian gần đây cũng như nêu lên các biện pháp nhằm điều chỉnh cán cân
thanh toán Việt Nam. Bài viết gồm 3 phần:
- Phần I : Tổng quan về cán cân thanh toán
- Phần II: Thực trạng cán cân thanh toán Việt Nam - Nguyên nhân và giải pháp cải thiện cán cân
thanh toán Việt Nam
[2]
GVHD: TS. Trần Thị Bích Dung Nhóm 4 – Đêm 4 – K22

Cán cân thanh toán Việt Nam
[3]
GVHD: TS. Trần Thị Bích Dung Nhóm 4 – Đêm 4 – K22


Cán cân thanh toán Việt Nam
[PHẦN I]
TỔNG QUAN VỀ CÁN CÂN THANH TOÁN
I. Lý luận chung về cán cân thanh toán
1. Khái niệm và ý nghĩa kinh tế của cán cân thanh toán
1.1. Khái niệm
Cán cân thanh toán (CCTT) được hiểu là bảng kế toán tổng hợp các luồng vận động về
hàng hoá dịch vụ, tư bản… của một quốc gia với phần còn lại của thế giới trong từng thời kỳ nhất
định. Những giao dịch này có thể được tiến hành bởi các cá nhân, các doanh nghiệp cư trú trong
nước hay chính phủ của quốc gia đó. Đối tượng giao dịch bao gồm các loại hàng hóa, dịch vụ, tài
sản thực, tài sản tài chính, và một số chuyển khoản. Thời kỳ xem xét có thể là một tháng, một
quý, song thường là một năm. Những giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía người cư trú trong
nước tới người cư trú ngoài nước được ghi vào bên tài sản nợ. Các giao dịch đòi hỏi sự thanh
toán từ phía người cư trú ở ngoài nước cho người cư trú ở trong nước được ghi vào bên tài sản
có. Vậy, cán cân thanh toán là một bản đối chiếu giữa các khoán tiền thu được từ nước ngoài với
các khoản tiền trả cho nước ngoài của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định.
Theo Nghị định số 164/1999/NĐ-CP ngày 16/11/2009 của Chính phủ về quản lý cán cân
thanh toán quốc tế của Việt Nam, Cán cân thanh toán của Việt Nam được quy định là bảng tổng
hợp có hệ thống toàn bộ các chỉ tiêu về giao dịch kinh tế giữa Người cư trú và Người không cư
trú trong một thời kỳ nhất định. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được giao là cơ quan
chịu trách nhiệm chủ trì lập, theo dõi và phân tích cán cân thanh toán.
1.2. Ý nghĩa kinh tế của cán cân thanh toán
Thực chất của cán cân thanh toán là một tài liệu thống kê, có mục đích cung cấp sự kê khai
đầy đủ dưới hình thức phù hợp với yêu cầu phân tích những quan hệ kinh tế tài chính của một
nước với nước ngoài trong một thời gian xác định. Do đó, CCTT là một trong những công cụ
quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô. Thông qua cán cân thanh toán trong một thời kỳ, Chính
phủ của mỗi quốc gia có thể đối chiếu giữa những khoản tiền thực tế thu được từ nước ngoài với
những khoản tiền mà thực tế nước đó chi ra cho nước ngoài trong một thời kỳ nhất định. Từ đó,
đưa ra các quyết sách về điều hành kinh tế vĩ mô như chính sách tỷ giá, chính sách xuất nhập
khẩu.

Ngoài ra, CCTT là công cụ đánh giá tiềm năng kinh tế của một quốc gia, giúp các nhà
hoạch định kinh tế có định hướng đúng đắn. Cán cân thanh toán bộc lộ rõ ràng khả năng bền
vững, điểm mạnh và khả năng về kinh tế bằng việc đo lường chính xác kết quả xuất nhập khẩu
hàng hoá và dịch vụ của đất nước đó.
[4]
GVHD: TS. Trần Thị Bích Dung Nhóm 4 – Đêm 4 – K22

Cán cân thanh toán Việt Nam
2. Kết cấu và các cán cân bộ phận của cán cân thanh toán
2.1. Các thành phần của cán cân thanh toán
Cán cân thanh toán của một quốc gia bao gồm bốn thành phần sau:
• Tài khoản vãng lai: Tài khoản vãng lai ghi lại các giao dịch về hàng hóa, dịch vụ và một
số chuyển khoản.
• Tài khoản vốn : Tài khoản vốn ghi lại các giao dịch về tài sản thực và tài sản tài chính.
• Thay đổi trong dự trữ ngoại hối nhà nước
• Mức tăng hay giảm trong dự trữ ngoại hối của ngân hàng trung ương. Do tổng của tài
khoản vãng lai và tài khoản vốn bằng 0 và do mục sai số nhỏ, nên gần như tăng giảm cán cân
thanh toán là do tăng giảm dự trữ ngoại hối tạo nên.
• Mục sai số: Do ghi chép đầy đủ toàn bộ các giao dịch trong thực tế, nên giữa phần ghi
chép được và thực tế có thể có những khoảng cách. Khoảng cách này được ghi trong cán cân
thanh toán như là mục sai số.
2.2. Các bộ phận của cán cân thanh toán
2.2.1. Cán cân vãng lai
Tài khoản vãng lai (còn gọi là cán cân vãng lai) trong cán cân thanh toán của một quốc
gia ghi chép những giao dịch về hàng hóa và dịch vụ giữa người cư trú trong nước với người cư
trú ngoài nước. Những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú trong nước cho người cư
trú ngoài nước được ghi vào bên "nợ" (theo truyền thống kế toán sẽ được ghi bằng mực đỏ). Còn
những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú ngoài nước cho người cư trú trong nước
được ghi vào bên "có" (ghi bằng mực đen). Thặng dư tài khoản vãng lai xảy ra khi bên có lớn
hơn bên nợ. Tài khoản vãng lai bao gồm:

- Cán cân thương mại hàng hóa
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán quốc tế.
Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong
một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập
khẩu) giữa chúng. Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng dư. Ngược
lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng
bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng.
- Cán cân dịch vụ
Bao gồm các khoản thu chi từ các dịch vụ về vận tải, du lịch, bảo hiểm, bưu chính, viễn
thông, ngân hàng, thông tin xây dựng và các hoạt động khác giữa người cư trú với người không
[5]
GVHD: TS. Trần Thị Bích Dung Nhóm 4 – Đêm 4 – K22

Cán cân thanh toán Việt Nam
cư trú. Giống như xuất nhập khẩu hàng hoá xuất khẩu dịch vụ làm phát sinh cung ngoại tệ nên nó
được ghi vào bên co và có dấu dương; nhập khẩu ngoại tệ làm phát sinh cầu ngoại tệ. Các nhân tố
ảnh hưởng lên giá trị xuất khẩu dịch vụ cũng giống như các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất
nhập khẩu dịch vụcũng giống như các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất nhập khẩu hàng hoá.
- Cán cân thu nhập
+ Thu nhập người lao động: là các khoản tiền lương, tiền thưởng và các khoản thu nhập
khác bằng tiền hiện vật người cư trú trả cho người không cư trú hay ngược lại.các nhân tố ảnh
hưởng lên thu nhập của người lao động ở nước ngoài.
+ Thu nhập về đầu tư: là các khoản thu từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp, lãi từ đầu tư giấy tờ
có giá và các khoản lãi đến han phải trả của các khoản vay giữa người cư trú và không cư trú.
- Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều
Các khoản viện trợ không hoàn lại, quà tặng, quà biếu và các khoản chuyển giao khác
bằng tiền, hiện vật cho mục đích tiêu dùng do người không cư trú chuyển cho người không cư trú
và ngược lại. Các khoản chuyển giao vãng lai một chiều phản ánh sự phân phối lại thu nhập giữa
người cư trú với người không cư trú các khoản thu làm phát sinh cung ngoại tệ (cầu nội tệ) nên
được ghi vào bên có (+), các khoản chi làm phát sinh cầu ngoại tệ nên được ghi vào bên nợ (-).

Nhân tố chính ảnh hưởng lên chuyển giao vãng lai một chiều là lòng tốt, tình cảm giữa người cư
trú và người không cư trú.
2.2.2. Cán cân vốn
Tài khoản vốn (còn gọi là cán cân vốn) là một bộ phận của cán cân thanh toán của một
quốc gia. Nó ghi lại tất cả những giao dịch về tài sản (gồm tài sản thực như bất động sản hay tài
sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ) giữa người cư trú trong nước với người cư trú ở
quốc gia khác. Khi những tuyên bố về tài sản nước ngoài của người sống trong nước lớn hơn
tuyên bố về tài sản trong nước của người sống ở nước ngoài, thì quốc gia có thặng dư tài khoản
vốn (hay dòng vốn vào ròng). Theo quy ước, dòng vốn vào ròng phải bằng thâm hụt tài khoản
vãng lai.
Tài khoản tài chính (hay tài khoản đầu tư) là một bộ phận của tài khoản vốn ghi lại những
giao dịch về tài sản tài chính.
2.2.3. Cán cân cơ bản
Tổng của cán cân vãng lai và cán cân dài hạn gọi là cán cân cơ bản. Tính chất ổn định của
cán cân cơ bản ảnh hưởng lâu dài đến nền kinh tế và tỉ giá hối đoái. Chính vì vậy cán cân cơ bản
được các nhà phân tích và hoạch định chính sách kinh tế quan tâm.
Cán cân cơ bản = các cân vãng lai +cán cân vốn dài hạn
[6]
GVHD: TS. Trần Thị Bích Dung Nhóm 4 – Đêm 4 – K22

Cán cân thanh toán Việt Nam
2.2.4. Cán cân tổng thể
Nếu công tác thống kê đạt mức chính xác tuyệt đối (tức nhầm lẫn và sai sót bằng không )
thì cán cân tổng thể bằng tổng của cán cân vãng lai và cán cân vốn. Trong thực tế do có rất nhiều
vấn đề phức tạp về thống kê trong quá trình thu nhập số liệu và lập CCTT do đó thường phát sinh
những nhầm lẫn và sai sót. Do đó cán cân tổng thể được điều chỉnh lại bằng tổng của cán cân
vãng lai và cán cân vốn và hạng mục sai sót trong thống kê. Ta có :
Cán cân tổng thể = cán cân vãng lai +cán cân vốn + nhầm lẫn và sai sót
2.2.5. Cán cân bù đắp chính thức
Cán cân bù đắp chính thức (OFB) bao gồm các hạng mục :

- Thay đổi dự trữ ngoại hối quốc gia (ΔR)
- Tín dụng với IMF và các ngân hàng trung ương khác (L)
- Thay đổi dự trữ của các ngân hàng trung ương khác bằng đồng tiền của quốc gia lập cán
cân thanh toán (≠)
OFB = ΔR + L + ≠
Một thực tế rằng, khi dự trữ ngoại hối tăng thì chúng ta ghi nợ (-) và giảm thì ghi có (+),
do đó nhầm lẫn thường xảy ra ở đây. Điều này được giải thích như sau : Chúng ta hình dung,
quốc gia Việt Nam được chia thành hai bộ phận gồm NHTW và phần còn lại không bao gồm
NHTW (gọi là nền kinh tế - NKT). Tiêu chí để phân thành NHTW và NKT là: NHTW có chức
năng can thiệp lên cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, còn nền kinh tế thì không có chức
năng can thiệp. Theo quy tắc CCTTQT được lập trên cơ sở của nền kinh tế, do đó, các hoạt động
can thiệp của NHTW trên thị trường ngoại hối (mua bán nội tệ) nhằm tác động lên nền kinh tế,
được xem là quan hệ giữa người cư trú với người không cư trú. Khi NHTW can thiệp bán ngoại
tệ ra, làm cho dự trữ ngoại hối giảm, đồng thời làm tăng cung nội tệ cho nền kinh tế, do đó ta
phải ghi có(+) . Khi NHTW can thiệp mua ngoại tệ vào làm cho dự trữ ngoại hối tăng, đồng thời
làm tăng cầu ngoại tệ đối với NKT , do đó ta phả ghi nợ (-)
2.2.6. Nhầm lẫn và sai sót
OB + OFB = 0 →OB = - OFB → CA+K+OM= - OFB → OM =-(CA+K+OFB)
Đẳng thức cuối cùng cho thấy số dư của hạng mục nhầm lẫn và sai sót chính là độ lệch
giữa cán cân bù đắp chính thức và tổng của cán cân vãng lai và cán cân vốn. Bởi vì cán cân bù
đắp chính thức, cán cân vãng lai và cán cân vốn luôn được xác định (luôn thể hiện là một số cụ
thể trên CCTT), do đó đẳng thức trên được áp dụng số dư nhầm lẫn và sai sót khi lập CCTTQT
trong thực tế.
[7]
GVHD: TS. Trần Thị Bích Dung Nhóm 4 – Đêm 4 – K22

Cán cân thanh toán Việt Nam
3. Thặng dư và thâm hụt cán cân thanh toán
CCTT được lập theo nguyên tắc hạch toán kép, do đó tổng các bút toán ghi có luôn bằng
tổng các bút toán ghi nợ, nhưng có dấu ngược nhau. Điều này có nghĩa là, về tổng thể thì

CCTTQT luôn được cân bằng. Do đó nói đến thặng dư, thâm hụt CCTT là nói đến thặng dư thâm
hụt của một hoặc của một nhóm các cán cân bộ phận chứ không nói đến toàn bộ cán cân.
Về mặt nguyên tắc, thặng dư hay thâm hụt của CCTT được xác định theo hai phương pháp:
 Phương pháp xác định thặng dư thâm hụt của từng cán cân bộ phận.
 Phương pháp tích lũy.
3.1. Thặng dư và thâm hụt cán cân thương mại (TB=X-M)
Cán cân thương mại thặng dư: X > M, cho biết:
- Thu từ người không cư trú > chi cho người không cư trú
- Cung ngoại tệ > cầu ngoại tệ
Cán cân thương mại thâm hụt: X < M, cho biết:
- Thu từ người không cư trú < chi cho người không cư trứ
- Cung ngoại tệ < cầu ngoại tệ
3.2. Thặng dư và thâm hụt cán cân vãng lai
Cán cân vãng lai bao gồm cán cân “Hữu hình” và “Vô hình’, nên nhìn tổng thể thì nó
quan trọng hơn cán cân thương mại.
Công thức xác định: CA = TB + Se + Ic + Tr = Kl + Ks+

R
Cán cân vãng lai thặng dư khi: ( X – M + Se + Ic + Tr ) > 0
Cán cân vãng lai thặng dư (CA > 0) có nghĩa thu từ người không cư trú lớn hơn so với chi
cho người không cư trú. Điều này có nghĩa là giá trị ròng của các giấy tờ có giá do người không
cư phát hành nằm trong tay người cư trú tăng lên.cung ngoại tề lớn hơn cầu ngoại tệ.
Cán cân vãng lai thâm hụt khi: ( X – M + Se + Ic + Tr ) < 0
Cán cân vãng lai thâm hụt ( CA < 0) có nghĩa là thu nhập của người cư trú từ người không
cư trú là thấp hơn so với chi cho người không cư trú. Điều này có nghĩa là giá trị ròng của các
giấy tờ có giá do người không cư trú phát hành nằm trong tay người cư trú giảm xuống, cung
ngoại tệ nhỏ hơn cầu ngoại tệ.
[8]
GVHD: TS. Trần Thị Bích Dung Nhóm 4 – Đêm 4 – K22


Cán cân thanh toán Việt Nam
3.3. Thặng dư và thâm hụt cán cân cơ bản (BB = CA + Kl)
Khi CA < 0 nhưng (CA + KI )> 0 thì quốc gia không hề chịu rủi ro thanh toán. Chính vì
thế mà nhiều nhà kinh tế cho rằng, cán cân cơ bản phản ánh tổng quát hơn về trạng thái nợ nước
ngoài của một quốc gia so với cán cân vãng lai. Điều này xảy ra là vì: vốn dài hạn có đặc trưng
của sự phân phối lại thu nhập tương đối ổn định trong một thời gian dài giữa một quốc gia và thế
giới.
Thông thường người ta cho rằng một sự xấu đi của cán cân cơ bản là tín hiệu xấu của
nền kinh tế. Tuy nhiên, điều này không nhất thiết phải như vậy, nghĩa là cho dù cán cân cơ bản bị
thâm hụt nhưng đây chưa hẳn đã là điều xấu. Ví dụ, một quốc gia có thể đang bị thâm hụt cán cân
vãng lai & đồng thời có các luồng vốn dài hạn chảy ra, điều này khiến cho cán cân cơ bản trở lên
thâm hụt nặng; nhưng các luồng vốn chảy ra sẽ hứa hện những thu nhập như lãi suất, cổ tức hay
lợi nhuận trong tương lai; những thu nhập mày sẽ góp phần cải thiện thâm hụt hay tạo thặng dư
cán cân vãng lai trong tương lai. Ngược lại thặng dư cán cân cơ bản không nhất thiết là điều tốt.
khi mà luồng vốn ròng dài hạn chảy vào lớn hơn mức thâm hụt cán cân vãng lai thì cán cân cơ
bản trở lên thặng dư.
Ngược lại thặng dư cán cân cơ bản không nhất thiết là điều tốt. khi mà luồng vốn ròng
dài hạn chảy vào lớn hơn mức thâm hụt cán cân vãng lai thì cán cân cơ bản trở lên thặng dư.
3.4. Thặng dư và thâm hụt cán cân tổng thể
Cán cân tổng thể phản ánh bức tranh các hoạt động của Ngân hàng Trung ương trong
việc tài trợ cho sự mất cân đối cuối cùng của nền kinh tế.
OB= X-M + Se + Ic +Tr + Kl + Ks
OB = - OFB
Cán cân tổng thể có ý nghĩa vì: (i) Nếu thặng dư nó cho biết số tiền có sẵn để một quốc
gia có thể sử dụng để tăng dự trữ ngoại hối; (ii) Nếu thâm hụt nó cho biết số tiền một quốc gia
phải hoàn trả bằng việc bán ngoại hối.
Khái niệm thặng dư và thâm hụt cán cân tổng thể chỉ thích hợp đối với quốc gia áp
dụng tỷ giá cố định mà không thích hợp đối với quốc gia áp dụng tỷ giá thả nổi. Sở dĩ vậy là do,
nếu áp dụng tỷ giá thả nổi thì tỷ giá hoàn toàn tự do biến động và như thế thì cán cân tổng thể
luôn có xu hướng vận động về trạng thái cân bằng , vì Ngân hàng trung ương không can thiệp

mua vào hay bán ra đồng tiền của mình, do đó dự trữ ngoại hối không thay đổi.
Trong tỷ giá thả nổi, nếu cầu về một đồng tiền lớn hơn cung của đồng tiền đó thì tỷ giá
của nó sẽ tăng và ngược lại , do đó thông qua cơ chế biến đổi tỷ giá mà cán cân tổng thể sẽ luôn
có xu hướng chuyển về vị trí cân bằng.
[9]
GVHD: TS. Trần Thị Bích Dung Nhóm 4 – Đêm 4 – K22

Cán cân thanh toán Việt Nam
[PHẦN II]
THỰC TRẠNG CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM
NGUYÊN NHÂN - GIẢI PHÁP CẢI THIỆN
II. Thực trạng cán cân thanh toán Việt Nam
1. Tình hình cán cân thanh toán Việt Nam từ năm 2009 đến nay
Theo công bố của Ngân hàng Nhà nước và Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sau khi bị thâm hụt lớn
trong năm 2009, tiếp tục bị thâm hụt trong năm 2010, cán cân thanh toán của Việt Nam đã đạt
thặng dư trong năm 2011, khoảng 1,15 tỷ USD và ước năm 2012 thặng dư 8 tỷ USD; mục tiêu
năm 2013 được xây dựng là tiếp tục thặng dư.
Biểu đồ 1: Cán cân tổng thể từ năm 2005 đến 2012
Nguồn: IMF
Bảng 1: Bảng thống kê tình hình BOP của Việt Nam giai đoạn 2008-2012F
USD million 2008 2009 2010 2011 2012F
Tài khoản vãng lai -10823 -6608 -4276 236 2973
(% of GDP) -11.9 -6.8 -4 0.2 2.2
Cán cân thương mại -12.783 -7607 -5136 -450 3691
Dịch vụ ròng -950 -2421 -2461 -2980 -3616
Thu nhập đầu tư ròng -4401 -3028 -4564 -5019 -5834
Chuyển giao ròng 7311 6448 7885 8685 8732
Tài khoản vốn 12341 7172 6201 6390 9248
FDI ròng 9279 6900 7100 6480 6780
Danh mục đầu tư ròng -578 -71 2370 1412 3274

Đầu tư khác 3640 343 -3269 -1502 -806
Lỗi và sai sót -1044 -9029 -3690 -5475 -1839
Nguồn : www.vietnam-report.com
1. Cán cân vãng lai
Cán cân vãng lai bao gồm một số cân đối chi tiết là cán cân thương mại, cán cân dịch vụ,
cán cân thu nhập dân cư và cán cân chuyển tiền.
Bảng 2: Cán cân vãng lai của Việt Nam giai đoạn 2000-2011
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
[10]
GVHD: TS. Trần Thị Bích Dung Nhóm 4 – Đêm 4 – K22

Cán cân thanh toán Việt Nam
Cán cân vãng lai
( tỷ USD)
-0,49 -0,16 -6,99 -10,79 -6,1 -4,3 -0,236
%GDP -0,9 -0,3 -9,8 -11,9 -6,6 -4,1 -0,5
Nguồn : IMF
a) Cán cân thương mại
Xuất khẩu năm 2012 diễn biến theo hướng tích cực, tăng trưởng xuất khẩu đã vượt mức
kế hoạch đề ra và cao hơn so với kim ngạch xuất khẩu của năm 2011. Theo số liệu của Tổng cục
Hải quan, tính đến ngày 15/11/2012, xuất khẩu đạt 98.555 triệu USD, tăng 18,7% so với cùng kỳ
năm 2011. Trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn khiến cho cầu hàng xuất khẩu
giảm thì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu năm 2012 của Việt Nam dù thấp hơn so với cùng kỳ năm
2011 (tăng 34,7%) vẫn là một kết quả tương đối tốt.
Nhập khẩu 11 tháng đạt 98.729 triệu USD, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó,
kim ngạch nhập khẩu của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 52.037
triệu USD, chiếm tới 52,7% kim ngạch nhập khẩu của cả nước và tăng 23,8% so với cùng kỳ năm
2011.
b) Cán cân dịch vụ
Bảng 3: Cán cân dịch vụ của Việt Nam từ năm 2005 đến năm 2012

Năm
Đơn vị tính :
Triệu USD
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 Ươc
lượng
2012
Khoản thu 4176 5100 6030 7041 5766 7460 8879 9,4
Khoản chi 4395 5108 6924 7956 6895 9900 11859 12,5
Dịch vụ ròng -219 -8 -894 -915 -1129 -2440 -2980 -3,1
Nguồn: IMF & Tổng cục thống kê, 2011
Cán cân dịch vụ của Việt Nam giai đoạn 2000-2012 liên tục trong trạng thái thâm hụt. Trừ
năm 2006, cán cân dịch vụ gần đạt trạng thái cân bằng (thâm hụt rất nhỏ, 8 triệu USD) do những
ảnh hưởng tích cực từ chỉ thị về phát triển dịch vụ của Chính phủ năm 2005 nhằm chuẩn bị cho
quá trình mở cửa tự do hóa dịch vụ của Việt Nam theo Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và tiến
tới gia nhập WTO, từ năm 2007 đến nay, thâm hụt cán cân dịch vụ ngày càng tăng với tốc độ
nhanh, năm 2007 mức thâm hụt là 0,894 tỷ USD, đến năm 2011 là 2,98 tỷ USD, 3 quí đầu năm
2012 mức thâm hụt đã lên tới 2,48 tỷ USD.
[11]
GVHD: TS. Trần Thị Bích Dung Nhóm 4 – Đêm 4 – K22

Cán cân thanh toán Việt Nam
Về cơ cấu xuất khẩu dịch vụ, dịch vụ du lịch luôn chiếm vai trò chủ chốt trong tổng giá trị
xuất khẩu dịch vụ. Năm 2011, dịch vụ du lịch ngày càng tăng và tiếp tục chiếm tỷ trọng cao nhất
(chiếm 63,3% tổng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ), ước đạt 6.014.032 lượt, tăng 19,1% so với năm
2010 (Tổng cục Du lịch, 2011) . Ðứng thứ hai là ngành dịch vụ vận tải (chiếm 27,36% năm 2005
và 28,21% năm 2011 trong kim ngạch xuất khẩu dịch vụ) được coi là lĩnh vực đem lại lợi nhuận
cao mà nhiều doanh nghiệp, tập đoàn nhắm tới, song ở Việt Nam, hiện chưa có cơ sở nào đủ tầm
cỡ kinh doanh logistics theo đúng nghĩa mà mới chỉ tham gia được một vài công đoạn của chuỗi
dịch vụ này.
Khác với xuất khẩu dịch vụ, kim ngạch nhập khẩu dịch vụ chứng kiến sự vượt trội trong

nhập khẩu dịch vụ vận tải tăng lên 69,37% năm 2011 so với nhập khẩu dịch vụ du lịch giảm
xuống còn 14,42% năm 2011. Các ngành dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ tài chính, dịch vụ chính phủ,
dịch vụ bưu chính viễn thông vẫn chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ lần lượt là 4,85%, 1,97%, 1,51%,
0,8% tổng kim ngạch nhập khẩu dịch vụ năm 2011.
c) Cán cân thu nhập
Bảng 4 : Cán cân thu nhập của Việt Nam 2000-2011
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Các khoản thu 0,36 0,67 1,09 1,36 0,8 0,5 0,4
Các khoản chi 1,58 2,1 3,26 5,76 3,8 5 5,4
Thu nhập ròng -1,22 -1,43 -2,17 -4,4 -3,0 -4,6 -5,1
( Đơn vị : Tỷ USD) Nguồn : IMF
Thâm hụt cán cân thu nhập gia tăng do phần thu của các hạng mục thu nhập đầu tư (gồm
thu lãi tiền gửi của hệ thống ngân hàng, thu cổ tức từ hoạt động đầu tư trực tiếp của Việt Nam ra
nước ngoài và đầu tư vào chứng khoán do người không cư trú phát hành) tăng với tốc độ thấp
hơn tốc độ tăng chi của các khoản mục này.
Các khoản thu được phản ánh trong cán cân thu nhập còn bao gồm cả các khoản tiền
lương, tiền thưởng của người cư trú làm việc tại nước ngoài. Trong những năm gần đây thì số
lượng người Việt Nam làm việc tại nước ngoài tăng lên nhanh chóng do những chính sách
khuyến khích xuất khẩu lao động của Nhà nước. Ðây là một trong những biện pháp giúp tạo công
ăn việc làm đồng thời tạo nguồn thu ngoại tệ đáng kể bổ sung và bù đắp cán cân thu nhập và cán
cân vãng lai của Việt Nam.
d) Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều
Bảng 5: Cán cân chuyển giao vãng lai một chiềucủa Việt Nam 2000-2011
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
[12]
GVHD: TS. Trần Thị Bích Dung Nhóm 4 – Đêm 4 – K22

Cán cân thanh toán Việt Nam
Chuyển giao tư nhân ( ròng ) 3,15 3,8 6,18 6,8 6,02 7,6 7,6
Chuyển giao chính thức ( ròng ) 0,23 0,25 0,25 0,51 0,4 0,3 0,3

Chuyển giao vãng lai ròng 3,38 4,05 6,43 7,31 6,42 7,9 7,9
( Đơn vị : Tỷ USD ) Nguồn : IMF
Trong giai đoạn 2000 - 2011, cán cân chuyển giao vãng lai của Việt Nam tăng trưởng
nhanh (bình quân tăng trưởng cả giai đoạn là 18,61%), trong đó năm 2007, mức chuyển giao
vãng lai ròng tăng đột biến 58,8% so với năm 2006. Nguyên nhân lượng kiều hối tăng đột biến là
do Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO cộng với sự ổn định về chính trị, tăng
trưởng kinh tế đứng ở mức cao, sự sôi động của thị trường chứng khoán và thị trường bất động
sản, sự cải thiện mạnh mẽ về môi trường đầu tư, thị trường xuất khẩu lao động khởi sắc và mức
độ hội nhập kinh tế quốc tế cao lên.
e) Cán cân chuyển tiền
Trong thành phần này, cán cân chuyển tiền liên tục đạt thặng dư, chủ yếu nhờ lượng kiều
hối của Việt kiều và lao động đang làm việc theo hợp đồng dài hạn ở nước ngoài chuyển về nước
có xu hướng tăng lên qua các thời kỳ: bình quân thời kỳ 1993- 2000 đạt 0,68 tỷ USD/năm, thời
kỳ 2001- 2005 đạt 2,73 tỷ USD/năm, thời kỳ 2006- 2010 đạt 7,07 tỷ USD/năm, năm 2011 đạt 9 tỷ
USD, 6 tháng 2012 đạt khoảng 4 tỷ USD và ước tính cả năm có thể vượt qua mốc 10 tỷ USD, cao
nhất từ trước tới nay.
i) Cán cân vốn và tài chính
− Nguồn vốn FDI:
Bảng 6 : Số liệu nguồn vốn FDI vào việt Nam
Tổng vốn đăng

Vốn
thực hiện
Số dự
án
Triệu USD Triệu USD
1995 415 6937 2556
1996 372 10164 2714
1997 349 5590 3115
1998 285 5099 2367

1999 327 2565 2334
2000 391 2838 2413
2001 555 3142 2450
2002 808 2998 2591
[13]
GVHD: TS. Trần Thị Bích Dung Nhóm 4 – Đêm 4 – K22

Cán cân thanh toán Việt Nam
2003 791 3191 2650
2004 811 4547 2852
2005 970 6839 3308
2006 987 12004 4100
2007 1544 21347 8030
2008 1557 71726 11500
2009 1208 23107 10000
2010 1237 19886 11000
2011 14700 11000
2012 10500
Nguồn :
Giai đoạn hai từ 1995-1997 là những năm diễn ra làn sóng FDI thứ nhất. Giai đoạn này
đã thu hút được 2.130 dự án với vốn đăng ký là hơn 33,4 tỷ USD, vốn thực hiện 12,34 tỷ USD
Giai đoạn 2005-2009, bắt đầu một làn sóng FDI thứ hai vào Việt Nam. Đỉnh điểm là
năm 2008 khi vốn đăng ký đạt hơn 71 tỷ USD. Giai đoạn từ năm 2010 đến nay, do ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu, tình hình thu hút có chiều hướng giảm xuống. Cụ
thể, năm 2011, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đặt mục tiêu thu hút khoảng 20-21 tỷ USD vốn FDI,
nhưng kết quả là chỉ đạt 14,7 tỷ USD. Năm 2012, mặc dù đã giảm mục tiêu thu hút xuống còn
15-17 tỷ USD, nhưng tính đến hết tháng 11, Việt Nam mới thu hút được 12,181 tỷ USD, giảm
21,4% so với cùng kỳ năm ngoái.
Kết thúc năm 2012, mặc dù nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mới tiếp tục
suy giảm nhưng theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các doanh nghiệp FDI đang hoạt động vẫn tăng

vốn mạnh và giải ngân tốt. Cụ thể trong năm qua, có đến 435 lượt dự án FDI đang hoạt động tiếp
tục tăng thêm vốn, mở rộng sản xuất. Tổng vốn đăng ký tăng thêm là 5,15 tỉ đô la Mỹ, tăng 7,4%
về số dự án và tăng 58,5% về vốn so với cùng kỳ năm 2011, ước tính các dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài đã giải ngân được 10,46 tỉ đô la Mỹ, giảm 4,9% so với cùng kỳ năm ngoái, nhưng
đây cũng được xem là kết quả cao trong bối cảnh khó khăn hiện nay.
Tính từ đầu năm 2012 đến nay đã có 8 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt
Nam., Nhật Bản dẫn đầu với tổng số vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm 5,13 tỉ đô la Mỹ,
chiếm 39,5 % tổng vốn đầu tư vào Việt Nam; Singapore đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư đăng
ký cấp mới và tăng thêm là 1,72 tỉ đô la Mỹ, chiếm 13,3 % tổng vốn đầu tư, Hàn Quốc đứng vị trí
thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 1,17 tỉ đô la Mỹ, chiếm 9,1 % tổng
vốn đầu tư ….
− Nguồn vốn FII :
Những năm gần đây, làn sóng đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam có xu hướng
tăng mạnh, nhất là vào cuối năm 2006, khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Luồng vốn FII
tăng mạnh trong năm 2007, khi chiếm tới hơn 50% tổng vốn nước ngoài vào Việt Nam. Khủng
hoảng tài chính năm 2008 khiến dòng vốn này chảy ra khá mạnh, tác động tiêu cực tới sự ổn định
[14]
GVHD: TS. Trần Thị Bích Dung Nhóm 4 – Đêm 4 – K22

Cán cân thanh toán Việt Nam
kinh tế vĩ mô. Tính tới thời điểm cuối năm 2009 trên thị trường chứng khoán Việt Nam đã có
khoảng 12.439 tài khoản giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có trên 1.149 tài khoản là
của các tổ chức nước ngoài bao gồm các quỹ đầu tư và các tổ chức kinh tế khác của nước ngoài.
Mặc dù nhà đầu tư nước ngoài chỉ chiếm khoảng 1,5% số nhà đầu tư tham gia TTCK, nhưng khối
lượng giao dịch lại chiếm tới 20 – 25%.
Về hoạt động thâu tóm, sáp nhập các doanh nghiệp niêm yết trong năm vừa qua tiếp tục
đón nhận dòng vốn ngoại lớn thông qua kênh phát hành riêng lẻ như Vietcombank, Kinh Đô,
Thiết bị Y tế Việt Nhật (JVC), Coteccons, Gò Đàng (AGD), PVI… Hầu hết các thương vụ này
đều có giá trị vài chục triệu USD, thậm chí hơn 500 triệu USD như trường hợp của Vietcombank
và hơn 740 triệu USD như thương vụ của Vietinbank.

− Nguồn vốn ODA :
Bảng 7 : Tình hình vốn ODA cam kết từ năm 2005-2011
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Số vốn cam kết 3.7 4.4 5.4 5 5.9 8 7.9
Đơn vị tính : Tỷ USD Nguồn:Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại – Bộ Tài chính
Qua số vốn ODA cam kết của các nhà tài trợ cho Việt Nam luôn tăng trong nhiều năm
gần đây: từ 2,356 tỷ USD năm 2001 lên 4,4 tỷ USD năm 2006, tăng đến mức 5,427 vào năm
2007. Năm 2009, con số này đã đạt kỷ lục 8,063 tỷ USD, so với năm 2008 tổng vốn cam kết tăng
41%. Đến năm 2011, ODA cam kết tài trợ cho Việt Nam đạt 7,9 tỷ và con số này vẫn duy trì ở
mức 7,4 tỷ USD cho năm tài khóa 2012. Trong khi nền kinh tế còn khó khăn, những con số cam
kết rất ấn tượng trên đã chứng tỏ niềm tin của các nhà tài trợ đối với việc sử dụng và phát huy
hiệu quả nguồn vốn tài trợ cho Việt Nam.
2. Nguyên nhân
a) Đối với cán cân thương mại
Tình trạng thâm hụt cán cân thương mại trong giai đoạn từ năm 2005 -2011 bắt nguồn từ
những nguyên nhân :
- Thứ nhất, tăng trưởng nhập khẩu nhanh hơn xuất khẩu .Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khá cao
nhưng nhìn chung vẫn thấp hơn tốc độ tăng trưởng nhập khẩu. Trong giai đoạn 2000 - 2011,
tốc độ tăng trưởng bình quân của kim ngạch xuất khẩu là 20,02%/năm trong khi đó, kim ngạch
nhập khẩu đạt mức tăng trưởng 21,27%/năm. Xuất khẩu của Việt Nam tuy tăng trưởng tương
đối cao nhưng không vững chắc, thành phần xuất khẩu của Việt Nam chưa đa dạng và phụ
thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu đầu vào nhập từ nước ngoài và một số mặt hàng chủ lực
với giá trị gia tăng thấp. Tình trạng đó dẫn đến kết quả tất yếu là cán cân thương mại rơi vào
trạng thái thâm hụt.
- Thứ hai, nhu cầu nhập khẩu và chi phí nhập khẩu tăng cao. Nền kinh tế Việt Nam đang trong
giai đoạn chuyển đổi. Việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã khiến cho nhu
cầu nhập khẩu máy móc, thiết bị, phụ tùng để mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp, các
ngành đều tăng mạnh. Trong cơ cấu hàng nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2000 - 2011,
[15]
GVHD: TS. Trần Thị Bích Dung Nhóm 4 – Đêm 4 – K22


Cán cân thanh toán Việt Nam
nhóm hàng tư liệu sản xuất luôn chiếm tỷ trọng rất cao, trên 90%. Bên cạnh đó, sau khi Việt
Nam gia nhập WTO, việc dỡ bỏ các rào cản thương mại đã khuyến khích đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam tăng lên, các loại hàng tiêu dùng của nước ngoài đồng loạt đổ bộ vào chiếm lĩnh
thị trường Việt Nam. Lượng hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu cũng tăng mạnh so với trước đó.
- Thứ ba, chính sách tỷ giá của Việt Nam . Chế độ tỷ giá của Việt Nam chưa đảm nhiệm được
chức năng điều chỉnh cán cân thương mại. Trong các năm 2006, 2007 và 2009, tốc độ nhập
siêu ngày càng tăng mạnh nhưng tỷ giá thì hầu như không thay đổi. Hơn nữa, việc Việt Nam
tăng tỷ trọng nhập khẩu ở những thị trường mà đồng bản tệ tăng giá so với đồng USD cũng là
một trong những tác nhân gây ra tình trạng thâm hụt cán cân thương mại.
- Thứ tư, Khủng hoảng kinh tế thế giới làm cho thị trường tiêu thụ của hàng hóa xuất khẩu (XK)
gặp rất nhiều khó khăn và chưa thể phục hồi trong ngắn hạn. Sức tiêu thụ tại các thị trường lớn
như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản,v .v đã giảm đáng kể làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt
Nam rơi vào tình trạng thiếu đơn hàng, đặc biệt là trong dài hạn. Bên cạnh đó, do khó khăn
kinh tế của chính các quốc gia nhập khẩu, mà các quốc gia này đã và đang tiếp tục tăng cường
áp dụng các biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước như hàng rào kỹ thuật, rào cản thương mại,
chống bán phá giá v .v. Điều này đặt các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam trước nguy cơ mất
thị phần tại nhiều thị trường lớn trên thế giới.
- Thứ năm, những lợi thế về nhân công giá rẻ, nguyên liệu dồi dào của hàng hóa Việt Nam trên
thị trường thế giới đang dần mất đi do bản thân các quốc gia XK khác cũng đang áp những
phương thức cạnh tranh nếu không bằng việc cung cấp lao động giá rẻ thì lại thông qua các
biện pháp tích cực nhằm nâng cao năng suất.
Những yếu tố tác động đến sự thặng dư cán cân thương mại trong năm 2012 :
Yếu tố tác động thuận lợi đến tăng xuất, nhập khẩu tuy có, nhưng không nhiều và không
đủ mạnh để lấn át các tác động tiêu cực.
Nhu cầu nhập khẩu và mức giá nhập tăng ở các thị trường lớn đã giúp xuất khẩu của Việt
Nam vào các thị trường này tăng mạnh. Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang các thị
trường mới như Đài Loan, Hàn Quốc, các nước ASEAN đều có mức tăng đáng kể. Không chỉ
xuất khẩu sản phẩm may mặc thành phẩm, sản phẩm sợi của Việt Nam cũng đã tiếp cận được với

các thị trường mới như Thổ Nhĩ Kỳ, Brazil. Sản phẩm dệt may của Việt Nam hiện chiếm khoảng
2,69% thị phần thế giới.
Nhu cầu lương thực, thực phẩm thế giới tăng, nhất là gạo và các mặt hàng nông sản nhiệt
đới của Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho mở rộng thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Môi trường chính trị xã hội ổn định, những thành công trong chính sách xóa đói giảm
nghèo cũng như trong các chính sách kinh tế vượt qua khủng hoảng đã nâng cao uy tín và vai trò
của Việt Nam trên thế giới. Điều đó cộng với sự đóng góp tích cực của Việt Nam trên thế giới
cũng tạo nên những thuận lợi cho việc xuất khẩu của Việt Nam qua các thị trường mới
b) Ðối với cán cân dịch vụ
[16]
GVHD: TS. Trần Thị Bích Dung Nhóm 4 – Đêm 4 – K22

Cán cân thanh toán Việt Nam
Về xuất nhập khẩu dịch vụ, Việt Nam vẫn nhập siêu lớn do thâm hụt thương mại về dịch
vụ vận tải, dịch vụ bảo hiểm…Và dù có xuất siêu về dịch vụ du lịch nhưng cũng không bù đắp
được.
Bên cạnh đó, các ngành dịch vụ như vận tải, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, tài chính,
ngân hàng ở trong nước chưa được phát triển do thời gian hội nhập với quốc tế chưa lâu, hơn
nữa, lại gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ phía các công ty nước ngoài cung cấp giá cả rẻ hơn, đã
có nhiều kinh nghiệm trong các lĩnh vực dịch vụ này và tạo dựng được uy tín trên thị trường. Vì
vậy, nhập khẩu dịch vụ của nước ta vẫn còn khá cao, gây ra khoản thâm hụt lớn trong cán cân
dịch vụ cũng như cán cân vãng lai.
c) Ðối với cán cân thu nhập
Như đã phân tích ở trên, các khoản thu nhập ròng từ đầu tư đóng vai trò đáng kể trong cán
cân thu nhập. Việt Nam là nước có nền kinh tế đang phát triển, cơ sở hạ tầng còn yếu nên rất cần
nguồn vốn đầu tư thông qua hình thức đầu tư trực tiếp và vay nợ nước ngoài. Trong khi thu nhập
từ đầu tư của Việt Nam không lớn (chủ yếu là lãi của các khoản tiền gửi của người Việt Nam tại
các ngân hàng ở nước ngoài nhưng số lượng và giá trị các khoản tiền này không đáng kể, số
lượng các dự án đầu tư trực tiếp của Việt Nam ra nước ngoài cũng rất ít và giá trị không lớn) thì
việc luồng vốn FDI và vay nợ nước ngoài thu hút được trong thời gian qua tăng nhanh sau khi

Việt Nam gia nhập WTO sẽ khiến các khoản lãi đến hạn phải trả và các khoản lợi nhuận phải chia
cho các nhà đầu tư nước ngoài tăng mạnh, dẫn đến sự thâm hụt trong cán cân thu nhập.
Ðối với các khoản thu nhập của người lao động ở nước ngoài, mặc dù số lượng lao động
xuất khẩu của Việt Nam sang các nước khác tăng nhanh qua các năm nhưng hầu hết lao động đều
chỉ ở trình độ phổ thông nên thu nhập từ tiền lương của họ rất thấp. Trong khi đó, các lao động là
người không cư trú ở Việt Nam chủ yếu là đội ngũ lao động có chất lượng cao từ các nước phát
triển nên khoản thu nhập mà phía Việt Nam phải chi trả cho họ là không nhỏ. Ðây cũng là một
nguyên nhân gây nên tình trạng thâm hụt cán cân thu nhập của Việt Nam.
d) Cán cân vốn và tài chính
Nguyên nhân những hạn chế của nguồn vốn FDI:
Có thể khẳng định nguyên nhân chủ yếu là do những yếu kém trong nội tại nền kinh tế
của nước ta. Trước hết, quy mô nền kinh tế của Việt Nam còn nhỏ bé, sức hấp thụ vốn hạn chế
nên thực tế này là rào cản lớn cho việc giải ngân để chuyển số vốn đăng ký thành vốn thực hiện
như mong muốn của chúng ta.
Ngoài ra, hệ thống pháp luật, chính sách về đầu tư vẫn thiếu sự đồng bộ, nhất quán.
Các thủ tục hành chính, hệ thống thuế, hải quan còn bất cập, không đồng bộ cũng là những yếu
tố góp phần làm nản lòng nhà đầu tư khi hoạt động tại Việt Nam.
Hạn chế về kết cấu hạ tầng là một trong những nguyên nhân chính làm chậm các dự án
đầu tư, nhất là sự yếu kém của hạ tầng giao thông làm các nhà đầu tư rất quan ngại bởi sẽ gây ra
nhiều khó khăn trong việc làm ăn và làm giảm lợi nhuận kỳ vọng của họ khi đầu tư vào Việt
Nam.
[17]
GVHD: TS. Trần Thị Bích Dung Nhóm 4 – Đêm 4 – K22

Cán cân thanh toán Việt Nam
Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ, song nhân lực có trình độ quản lý và tay
nghề cao lại rất thiếu. Để có thể chọn lọc được các dự án FDI phù hợp với lợi ích dài hạn của
quốc gia cần phải có bộ máy thẩm định, đánh giá có năng lực. Tuy nhiên, không phải địa phương
nào cũng có đủ năng lực đánh giá dự án. Trách nhiệm về việc ra quyết định phê duyệt dự án sai
cũng ít bị truy cứu và có biện pháp xử lý thích đáng. Công tác giám sát của các cơ quan quản lý

nhà nước còn những bất cập. Do đó, việc phân cấp quản lý đầu tư và xây dựng cho các bộ, ngành,
địa phương hiện nay mặc dù được coi là rất đúng đắn, nhưng lại đang tiềm ẩn những rủi ro, hạn
chế hiệu quả của dòng vốn FDI.
Nguyên nhân những hạn chế của nguồn vốn FII :
Công tác thu thập dữ liệu và bảo vệ nguồn vốn FII phục vụ cho điều hành chính sách
kinh tế vĩ mô không thể thực hiện được một cách chính xác.
Việc phân công trách nhiệm, cơ chế phối hợp hoạt động giữa các cơ quan quản lý nhà
nước trong công tác quản lý vốn FII còn chưa hợp lý. Chưa có sự phân định rõ ràng giữa hoạt
động quản lý, giám sát hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài và hoạt động quản lý dòng
vốn và phối hợp, chia sẻ thông tin trong quản lý vốn FII đã hạn chế đến việc tham vấn, hoạch
định chính sách vĩ mô để điều tiết các dòng vốn này cũng như hoạt động TTCK.
Hệ thống công nghệ thông tin, nhân sự phục vụ công tác quản lý, giám sát dòng vốn
FII còn hạn chế.
Thị trường tài chính chưa phát triển, còn thiếu tính đồng bộ và yếu tố phát triển bền
vững. Đây vừa là nguyên nhân, vừa là hạn chế trong việc thu hút dòng vốn FII cũng như duy trì
sự ổn định của dòng vốn này.
Một số cơ quan quản lý nhà nước chưa hiểu rõ về vốn FII, nắm bắt chưa đầy đủ về cơ
chế vận hành của dòng vốn này. Dòng vốn FII mang lại nhiều kết quả tích cực nhưng cũng tiềm
tàng rủi ro nhất định. Vì vậy, thách thức đặt ra cho các cơ quan quản lý nhà nước là phải giám sát
được dòng vốn này và không nên ngăn cản bằng biện pháp hành chính.
Nguyên nhân những hạn chế của nguồn vốn ODA:
 Các vướng mắc do nguyên nhân chủ quan:
- Thời gian chuẩn bị dự án và chuẩn bị thực hiện dự án kéo dài, bao gồm từ khâu đề
xuất ý tưởng dự án cho đến khi ký kết điều ước cụ thể về ODA thường mất khoảng từ 2-3 năm,
dẫn đến việc dự án phải điều chỉnh thiết kế, thay đổi phương án công nghệ dự kiến, tổng mức đầu
tư thay đổi do biến động về giá cả và chi phí giải phóng mặt bằng tăng.
- Nguồn nhân lực tham gia triển khai dự án hạn chế ,cán bộ dự án và tham gia dự án
thiếu kinh nghiệm. Hầu hết các cán bộ đều chưa có kiến thức, kỹ năng kinh nghiệm về dự án và
phải vừa làm vừa học.Năng lực của các Ban QLDA còn có nhiều hạn chế. Đặc biệt ở các khâu
như: lập kế hoạch, quản lý rủi ro trong quá trình triển khai, kỹ năng theo dõi, đánh giá

[18]
GVHD: TS. Trần Thị Bích Dung Nhóm 4 – Đêm 4 – K22

Cán cân thanh toán Việt Nam
- Quá trình phối kết hợp giữa các bên liên quan trong triển khai dự án chưa tốt, tính chủ
động của các chủ dự án chưa cao, việc định hướng triển khai đôi khi còn lúng túng, quá trình
triển khai các gói thầu chậm do lúng túng trong việc xây dựng đầu bài, xác định nhiệm vụ cho
từng gói thầu.
- Chưa có hướng dẫn chung của Chính phủ trong việc thẩm định, phê duyệt và triển
khai đối với loại hình dự án mới mà Bộ Tài chính đáng chủ trì triển khai theo cách thức Chính
phủ đứng ra đi vay và cho các doanh nghiệp và các địa phương vay lại nhằm thực hiện đầu tư
phát triển cơ sở hạ tầng của các địa phương, cơ cấu các khoản nợ của doanh nghiệp và thực hiện
tái cấu trúc doanh nghiệp.
- Công tác chấp hành báo cáo theo quy định của Chính phủ của các chương trình, dự án
còn thấp. Báo cáo thường nộp chậm, thiếu thông tin, dẫn đến khó khăn trong công tác theo dõi,
đánh giá của Bộ Tài chính.
 Các vướng mắc do nguyên nhân khách quan:
- Đối với các chương trình, dự án sử dụng ODA vay thì các cấu phần chính của dự án
là mua sắm hệ thống công nghệ thông tin (IT) và các Thiết bị nghiệp vụ, chiếm khoảng 80% tổng
kinh phí tài trợ của dự án, trong khi vấn đề tuyển chọn tư vấn kỹ thuật cho các cấu phần này cũng
đang bị vướng mắc, quá trình tuyển chọn thường khó khăn do khan hiếm nguồn chuyên gia tư
vấn có chất lượng và phù hợp.
- Các gói thầu khi tiến hành đấu thầu xong phải điều chỉnh giá gói thầu (do trượt giá
hoặc do ước lượng giá trong dự án HTKT chưa sát).
- Qui trình thủ tục của Chính phủ Việt Nam và của nhà tài trợ còn nhiều khác nhau nên
còn vênh nhau trong thực hiện các hoạt động.
- Vai trò điều hành và tính tự chủ của Việt Nam trong một số các dự án HTKT còn
thấp. Đặc biệt là đối với các dự án HTKT của ADB, Nhật Bản và một số các nhà tài trợ song
phương khác.
- Tính chất hợp tác và chất lượng tư vấn của Trưởng nhóm Dự án của một số chương

trình, dự án còn thấp, đặc biệt là đối với các dự án sử dụng vốn vay của WB (dự án Hiện đại hoá
hải quan và dự án Hiện đại hoá quản lý thuế).
e) Cán cân tổng thể
● Thứ nhất, nhu cầu đầu tư và tiêu dùng gia tăng sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
● Thứ hai, nhu cầu nhập khẩu cao nhờ được tài trợ bởi luồng vốn nước ngoài như
nguồn vốn đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp và các khoản vay nước ngoài.
● Thứ ba, giá cả hàng hoá quốc tế tăng cao, đặc biệt là giá các nguyên vật liệu đầu vào
cho sản xuất đã khiến kim ngạch nhập khẩu tăng mạnh;
[19]
GVHD: TS. Trần Thị Bích Dung Nhóm 4 – Đêm 4 – K22

Cán cân thanh toán Việt Nam
● Thứ tư, nhập khẩu tăng mạnh và cao hơn nhiều so với xuất khẩu chứng tỏ khi thực
hiện các cam kết đa phương trong WTO, giảm nhiều dòng thuế đã làm cho hàng hoá nước ngoài
vào Việt Nam, trong khi đó muốn tăng trưởng xuất khẩu lại cần có thời gian.
● Thứ năm, lạm phát trong nước cao hơn lạm phát của các đối tác thương mại, trong
khi tỷ giá danh nghĩa giữa VND và USD và tỷ trọng thương mại của Việt Nam với các nước
tương đối ổn định khiến VND lên giá thực, tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu.
3. Giải pháp cải thiện cán cân thanh toán Việt Nam
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay, mặc dù có nhiều chuyển biến tích cực song
vẫn còn nhiều mặt hạn chế như áp lực lạm phát tăng cao, sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt
Nam về hàng hóa xuất khẩu còn kém, mức tiết kiệm trong nước còn rất thấp, thiếu vốn đầu tư, tỷ
lệ thất nghiệp vẫn còn cao, nhập siêu vẫn kéo dài…Định hướng điều chỉnh cán cân thanh toán
của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay:
- Tăng cường hơn nữa thu hút vồn đầu tư nước ngoài bằng cách nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
nhằm cải thiện cán cân thanh toán, tăng cường dự trữ ngoại tệ và phục vụ cho phát triển kinh tế.
- Trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam mặc dù cán cân vãng lai đã có chiều hướng được cải thiện
tuy nhiên chỉ trong thời gian ngắn cũng chưa tạo được độ chắc chắn trong thời gian sắp tới. Vì
vậy, mục tiêu là phải tiếp tục đảm bảo thặng dư cán cân vãng lai trong tương lai (không bao gồm
các khoản trả lãi) đủ để hoàn trả các khoản nợ hiện tại. Nhưng sự đảo ngược trong các chính sách

kinh tế (như một sự thắt chặt đột ngột) kèm theo một sự khó khăn vĩ mô như giảm mạnh các hoạt
động kinh tế và tiêu dùng thì sự thiếu hụt cán cân vãng lai của Việt Nam trong hiện tại mới được
coi là có khả năng chịu đựng.
3.1. Các giải pháp tác động trực tiếp lên cán cân vãng lai
Các biện pháp này bao gồm chính sách hạn chế nhập khẩu, chính sách khuyến khích xuất
khẩu và chính sách thu hút chuyển giao vãng lai từ nước ngoài về Việt Nam. Đây là những biện
pháp chuyển dịch chi tiêu có chọn lọc và nhằm mục đích kiểm soát các nhân tố cụ thể trong cán
cân thanh toán.
3.1.1. Chính sách nhập khẩu
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay, do luồng vốn đầu tư vào trong nước ngày
càng tăng mạnh kèm theo nhu cầu nhập khẩu lớn để tăng trưởng kinh tế nên Chính phủ đã phải
thực hiện một số nới lỏng trong chính sách hạn chế nhập khẩu. Thêm nữa, Việt Nam đang tăng
cường chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nên việc sử dụng các hạn chế thương mại sẽ dần dần
được loại bỏ. Như vậy, trong tương lai, việc sử dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu sẽ rất khó
thực hiện và có thể không thể thực hiện nữa.
Để vừa đảm bảo các mục tiêu kinh tế, vừa giảm bớt được tình trạng nhập siêu trong giai
đoạn hiện nay,Việt Nam cần thực hiện các việc sau:
[20]
GVHD: TS. Trần Thị Bích Dung Nhóm 4 – Đêm 4 – K22

Cán cân thanh toán Việt Nam
Thứ nhất, ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến phục vụ cho công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Về khoa học kỹ thuật thì Việt Nam phát triển chậm hơn
so với các nước phát triển trên thế giới, vì vậy việc tiếp thu những công nghệ tiên tiến, hiện đại
nhằm phục vụ đẩy mạnh năng suất lao động và hiệu quả sản xuất là nhu cầu cần thiết.
Thứ hai, khuyến khích gia tăng sử dụng vật tư, thiết bị trong nước đã sản xuất được để tiết
kiệm ngoại tệ và phát triển hàng hóa sản xuất trong nước. Thực hiện các chính sách giảm chi
ngoại tệ nhập khẩu với những ngành nhập khẩu các trang thiết bị chuyên dụng, thiết bị và vật liệu
rẻ tiền mau hỏng, để tránh biến Việt Nam trở thành bãi rác thải công nghệ của thế giới.
Thứ ba, thúc đẩy phát triển sản xuất nguyên liệu trong nước thay thế nhập khẩu như bông,

nguyên liệu thuốc lá, ngô, đậu tương… Là một nước mà cơ cấu sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm
tỷ trọng khá lớn, tuy nhiên những nguyên liệu phục vụ chế biến như trên chúng ta vẫn phải nhập
khẩu từ nước ngoài. Vì vậy, cần có những biện pháp tạo điều kiện về mặt định hướng, kỹ thuật
cũng như cơ chế giải quyết đầu ra cho các sản phẩm mà trong nước có thế mạnh để hạn chế nhập
khẩu những nguyên liệu thô để sản xuất trong nước, vừa làm giảm nhập siêu và đồng thời giá cả
trong nước cũng rẻ hơn, giảm giá thành sản phẩm và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa
trong nước.
Thứ tư, hạn chế tối đa việc nhập khẩu hàng tiêu dung đặc biệt là các hàng tiêu dung xa xỉ
và kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu ô tô và linh kiện xe hai bánh gắn máy. Đồng thời, quan tâm
tới thị trường tiêu thụ khá lớn trong nước, nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm thu hút tại thị
trường trong nước, có các chương trình như “ Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”,
nâng cao tinh thần quốc gia nhằm tác động giảm xu hướng sính ngoại của người Việt Nam.
Nói chung, những biện pháp hạn chế nhập khẩu chỉ là tạm thời, hiệu quả không cao và có
thể ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. trong tình thế hiện nay, để giảm được thâm hụt
thương mại, Việt Nam có thể tập trung vào các biện pháp nhằm đẩy mạnh tốc độ xuất khẩu thay
vì việc tập trung để giảm nhập khẩu thay vì việc tập trung để giảm nhập khẩu như trước đây.
3.1.2. Chính sách khuyến khích xuất khẩu
- Tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng phát triển, cải tiến chế độ phân phối, chế
độ xuất nhập khẩu, tạo ra một sự phân phối nhịp nhàng, chặt chẽ giữa các doanh nghiệp cùng làm
nhiệm vụ kinh doanh xuất nhập khẩu với cùng một ngành hàng, không phân biệt đó là doanh
nghiệp nhà nước hay tư nhân nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để nâng cao vị thế và sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, trong tiến trình hội
nhập, Việt Nam cần phấn đấu thực hiện những mục tiêu như: đẩy mạnh hợp tác kinh tế và kỹ
thuật trên cơ sở tự nguyện cùng có lợi với tất cả quốc gia trên mọi lĩnh vực, thúc đẩy tự do hóa
thương mại bằng các biện pháp giảm bớt thuế, dần tiến tới phi thuế; hủy bỏ việc cấm xuất khẩu,
cấm nhập khẩu; tăng năng suất lao động, giảm bớt chi phí sản xuất hàng hóa để tăng sức mạnh về
giá; đơn giản hóa thủ tục xuất nhập khẩu, thủ tục đầu tư, thủ tục hải quan, ngoại hối, ngân hàng.
[21]
GVHD: TS. Trần Thị Bích Dung Nhóm 4 – Đêm 4 – K22


Cán cân thanh toán Việt Nam
- Tăng cường đầu tư nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của hàng hóa xuất
khẩu. Tập trung các luồng vốn đầu tư nước ngoài vào sản xuất các mặt hàng phục vụ cho xuất
khẩu. Đặc biệt chú trọng những ngành hàng có khả năng tăng trưởng ổn định, sử dụng nhiều lao
động và nguyên liệu trong nước, đặt yêu cầu năng cao tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa lên hàng
đầu, gắn sản xuất với yêu cầu của thị trường về chất lượng và mẫu mã sản phẩm… Đồng thời
chuyển dịch mạnh cơ cấu đầu tư theo hướng tăng đầu tư Nhà nước để phát triển các ngành dịch
vụ và một số ngành sản xuất với công nghệ cao nhằm đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ cho phù hợp
với xu hướng phát triển kinh tế dịch vụ và kinh tế tri thức.
- Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, phát triển và đa dạng hóa với những mặt hàng chủ
lực, gắn yêu cầu của thị trường đối với tường loại sản phẩm chính. Về đổi mới cơ cấu hàng xuất,
Việt Nam cần phải chuyển nhanh và mạnh sang phần lớn hàng chế biến, giảm mức tối đa xuất
hàng nguyên liệu và hàng sơ chế.
- Chính phủ cần quan tâm đến việc phát triển các doanh nghiệp tư nhân có tiềm năng, nhất
là các doanh nghiệp trong các ngành chế tạo có định hướng xuất khẩu cao. Hỗ trợ nhiều hơn cho
các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân để phát triển các mặt hàng mới và thị trường mới.
- Việt Nam cần mở rộng thị trường xuất khẩu. Thực hiện phương châm đa dạng hóa, đa
phương hóa thị trường và đối tác, hạn chế việc xuất khẩu một mặt hàng bị phụ thuộc vào một số
thị trường,chú trọng các thị trường có sức mua lớn như: Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Đông
Nam Á đồng thời tìm cách thâm nhập và gia tăng sự hiện diện của hàng hóa Việt Nam ở các thị
trường châu Phi, Mỹ La tinh; tăng cường các hình thức buôn bán hàng đổi hàng…
- Chính phủ cũng nên tăng cường rà soát và xác định cụ thể những nguyên nhân làm chậm
trễ hoặc cản trở việc thực hiện các chính sách hỗ trợ và khuyến khích xuất khẩu để xử lý kịp thời.
Đồng thời thực hiện bổ sung, sửa đổi các cơ chế, chính sách, quy định chưa hợp lý; tiếp tục cải
cách hành chính tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu.
3.1.3. Giải pháp cải thiện cán cân dịch vụ
Thứ nhất, du lịch là một ngành dịch vụ có tiềm năng phát triển ở nước ta, mang lại nguồn
thu ngoại tệ lớn. Bởi vậy, để cải thiện cán cân dịch vụ, cần đẩy mạnh phát triển ngành du lịch
thông qua một số biện pháp:
- Thực hiện chủ trương đa dạng hóa các sản phẩm và hình thức du lịch.

- Nhà nước nên có chiến lược khai thác hiệu quả các điểm du lịch vốn đã có tiếng và được
nhiều du khách nước ngoài biết đến.
- Mặt khác, cần nâng cao trình độ quản lý, nghiệp vụ du lịch cho đội ngũ cán bộ, lao động,
hướng dẫn viên trong ngành du lịch song song với việc tuyên truyền giáo dục nhận thức cho nhân
dân để mỗi người dân phải có thái độ thiện chí và lòng hiếu khách, chú trọng đến công tác tuyên
truyền quảng bá về đất nước, văn hóa, con người Việt Nam.
[22]
GVHD: TS. Trần Thị Bích Dung Nhóm 4 – Đêm 4 – K22

Cán cân thanh toán Việt Nam
Thứ hai, nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng thâm hụt cán cân dịch vụ của Việt Nam là
do nước ta phải nhập khẩu rất nhiều dịch vụ từ nước ngoài, đặc biệt là các dịch vụ liên quan tới
ngoại thương như vận tải, bảo hiểm, ngân hàng, tài chính… Với một nền kinh tế còn non trẻ như
Việt Nam thì năng lực cạnh tranh của các ngành dịch vụ còn yếu so với thế giới là điều dễ hiểu.
Trong thời gian tới, Việt Nam cần có những biện pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các
ngành dịch vụ non trẻ đó, trong đó tập trung đầu tư trang thiết bị, cơ sở hạ tầng.
3.1.4. Biện pháp cải thiện cán cân thu nhập
Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động:
- Cần đẩy mạnh xuất khẩu lao động trên nhiều lĩnh vực, ngoài những lĩnh vực được xem
là truyền thống với lao động xuất khẩu ở Việt Nam như xây dựng, đánh bắt thủy hải sản, cơ khí…
Việt nam cần chú ý tới các lĩnh vực mới mà lao động Việt Nam có khả năng đáp ứng như nhân
viên tạp vụ nhà hàng, công nhân làm trong các khu công nghệ cao, sản xuất hàng trang trí nội thất
cao cấp.
- Cần đa dạng hóa thị trường lao động, giữ vững những thị trường truyền thống như Ðài
Loan, Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản… và tìm kiếm, thúc đẩy xuất khẩu lao động vào các thị
trường mới tiềm năng như Mỹ, châu Âu, Trung Ðông, đây là những thị trường có nền kinh tế
phát triển và có chế độ đãi ngộ tốt, mức lương trả cho lao động cao.
- Tăng cường chất lượng nguồn lao động. Muốn có thu nhập cao thì người lao động phải
có trình độ tay nghề vững, có tinh thần trách nhiệm và ý thức kỷ luật tốt. Vì vậy, Nhà nước và các
doanh nghiệp xuất khẩu lao động cần phải tuyển chọn, bồi dưỡng và đào tạo bài bản cho người

lao động để có thể đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi ngày càng khắt khe của các thị trường xuất
khẩu, đặc biệt là các thị trường giàu tiềm năng nhưng khó tính như Mỹ, Nhật, các nước châu Âu.
3.1.5. Giải pháp thu hút chuyển giao vãng lai từ nước ngoài vào Việt Nam.
Do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, thị trường trong nước và thị
trường ngoài nước được mở rộng và gắn kết với nhau nên lượng người Việt Nam sinh sống tại
nước ngoài và lao động xuất khẩu ngày càng tăng lên. Và thực tế cho thấy, số tiền do những
người Việt Nam ở nước ngoài gửi về nước luôn là nguồn tài trợ quan trọng cho thâm hụt cán cân
vãng lai. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang diễn ra, nguồn kiều hối gửi về Việt
Nam đã bị giảm sút do phần còn lại của thế giới cũng lâm vào tình trạng khó khăn. Để có thể khai
thác triệt để nguồn ngoại tệ này, Chính phủ cần có những biện pháp nhằm khắc phục một số
vướng mắc hiện tại. Các biện pháp có thể áp dụng như thiết lập thêm mấy kênh chuyển tiền mới
giúp cho kiều bào an tâm chuyển tiền, nâng cao chất lượng dịch vụ chuyển tiền, đơn giản hóa các
thủ tục có liên quan tới hệ thống ngân hàng, cải thiện môi trường đầu tư, khuyến khích kiều bào
tăng cường đầu tư vào thị trường trong nước, tiếp tục thực hiện chính sách thu hút kiều hối thông
thoáng…
[23]
GVHD: TS. Trần Thị Bích Dung Nhóm 4 – Đêm 4 – K22

Cán cân thanh toán Việt Nam
3.1.6. Các giải pháp điều tiết kinh tế vĩ mô của Chính phủ
Việc điều tiết cán cân vãng lai thông qua các chính sách tỷ giá, chính sách tài khóa và
chính sách tiền tệ phải phù hợp với tình hình hiện tại và các đặc điểm riêng của nền kinh tế Việt
Nam.
- Về chính sách tỷ giá, đối với nền kinh tế đang phát triển và còn nhiều bất ổn như Việt
Nam, cần duy trì chế độ tỷ giá linh hoạt có sự can thiệp của Nhà nước, điều chỉnh dần theo mức
tăng của giá cả, hướng tỷ giá chính thức của Việt Nam sát với giá trị thực của nó. Trong điều kiện
Việt Nam hiện nay, không nên thực hiện chính sách phá giá đồng Việt Nam quá nhiều để bù đắp
thâm hụt cán cân thương mại thông qua việc đẩy mạnh xuất khẩu, bởi vì ngoài yếu tố tỷ giá, việc
thúc đẩy xuất khẩu còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như: chất lượng, cơ cấu hàng xuất
khẩu… Mặt khác, việc tăng tỷ giá sẽ làm giá các yếu tố nhập khẩu đầu vào tăng lên, dẫn đến giá

thành sản phẩm tăng, giảm sức cạnh tranh và đến lượt nó là yếu tố cản trở tăng xuất khẩu. Tỷ giá
tăng cũng là nguyên nhân trực tiếp làm cho gánh nặng về nợ của các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu và các nhà đầu tư tăng lên.
- Về chính sách tài khóa, Việt Nam có thể tăng các rào cản phi thuế quan đối với hàng
nhập khẩu như sử dụng biện pháp cấp phép nhập khẩu, hạn ngạch thuế quan (theo cam kết gia
nhập WTO, Việt Nam đã bảo lưu được quyền áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với 4 nhóm mặt
hàng là: đường, trứng gia cầm, lá thuốc lá và muối), các loại phí phụ thu… Tuy nhiên, việc áp
dụng các biện pháp này phải được xem xét trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên của WTO và
phải tuân thủ lộ trình giảm thuế đã cam kết. Bên cạnh đó, kiểm soát chi tiêu của Chính phủ, nâng
cao hiệu quả đầu tư công cũng là biện pháp quan trọng phải tính đến.
- Về chính sách tiền tệ, do tỷ giá được điều chỉnh linh hoạt theo hướng sát với giá trị thực
của nó, vai trò của tỷ giá như là chiếc neo danh nghĩa nhằm kiểm soát lạm phát không còn nữa,
đồng thời để hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, Việt Nam nên thực hiện chính sách tiền tệ
hướng vào mục tiêu kiểm soát lạm phát (áp dụng chính sách mục tiêu lạm phát); trong đó đặc biệt
lưu ý vai trò của lãi suất là công cụ điều hành của chính sách tiền tệ.
3.2. Các giải pháp đẩy mạnh cán cân vốn và tài chính
Cũng như các nước đang phát triển khác, Việt Nam đứng trước hai vấn đề quan trọng có
liên quan đến vốn đầu tư để đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững:
- Tỷ lệ huy động vốn trong nước thông qua kênh tiết kiệm và các khoản thu của Nhà
nước không đáp ứng đủ nhu cầu vốn đầu tư.
- Tình trạng nhập siêu không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa đất nước
dẫn đến thâm hụt cán cân vãng lai và sự thiếu hụt ngoại tệ trong một thời gian dài.
Cả 2 vấn đề này có thể giải quyết bằng cách thu hút vốn ngoài nước, trong đó có FDI và
ODA.
[24]
GVHD: TS. Trần Thị Bích Dung Nhóm 4 – Đêm 4 – K22

Cán cân thanh toán Việt Nam
3.2.1. Thu hút và sử dụng vốn có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI)
Trong các luồng vốn nước ngoài vào, đầu tư nước ngoài và đầu tư trực tiếp được coi là

luồng vốn không tạo ra dư nợ nên Chính phủ cần tập trung khai thác luồng vốn này. Để thu hút
được nhiều vốn FDI, Chính phủ có thể thực hiện có biện pháp sau:
- Tìm kiếm thị trường và đối tác mới.
- Nâng cao vị thế của Việt Nam trên thị trường thế giới.
- Tạo lập môi trường đầu tư tốt nhất: đảm bảo tính minh bạch và ổn định của luật pháp để
các nhà đầu tư có thế tính được xu thế phát triển của dự án đầu tư.
- Nâng cao chất lượng quy hoạch tổng thể thu hút vốn FDI phù hợp.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đã được cấp phép triển khai nhanh hoạt động xử lý
linh hoạt chuyển đôi các hình thức đầu tư.
- Đáp ứng đủ nguồn vốn đối ứng.
3.2.2. Quản lý, sử dụng vốn viện trợ phát triển chính thức(ODA)
So với FDI, Việt Nam sẽ tiếp nhận nguồn vốn ODA sớm hơn. Nhưng thực chất nguồn vốn
ODA là nguồn vốn ưu đãi vì chỉ có khoảng 10-15% là viện trợ không hoàn lại. Vì vậy, việc quản
lý và sử dụng có hiệu quả vốn này là hết sức cần thiết.
- Sức hấp dẫn của ODA nằm ở chỗ khâu lập hồ sơ nhanh chóng, sát với nhu cầu thực tế,
các chủ dự án có năng lực cao. Vì vậy, chính phủ Việt Nam cần giải quyết các vấn đề này để thu
hút thêm nhiều ODA phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
- Thực hiện nghiêm chỉnh các nghi quyết của Đảng và Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước, bao gồm cả những công ty lớn trong hầu hết các ngành kinh tế chủ chốt.
- Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn quan trọng này, bao gồm cả yêu cầu về giải ngân,
Chính phủ cần đổi mới công tác tổ chức điều hành các dự án công trình quan trọng quốc gia có sử
dụng nguồn vốn ODA.
- Nâng cao nhận thức và thống nhất quan điểm về vốn ODA.
- Để cải thiện tình hình giải ngân và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA, chính phủ cũng
cần tiếp tục cải thiện cơ sở pháp lý nhằm tạo môi trường rõ ràng hơn và thuận lợi hơn cho quản lý
và sử dụng ODA.
3.2.3. Giải pháp tăng tiết kiệm
[25]
GVHD: TS. Trần Thị Bích Dung Nhóm 4 – Đêm 4 – K22


×