Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Tiểu luận kinh tế vĩ mô định chế tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 14 trang )

Bài tiểu luận Kinh tế vĩ mô 1



Giảng đường 67-68-69_Sáng thứ 3



GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI

Nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh nhất thiết phải có nhiều vốn đầu
tư. Tập trung mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân là một biện pháp quan
trọng để tạo ra các nguồn lực tài chính dành cho việc đầu tư trong nước. Để
làm “cầu nối” giữa bên cần vốn và bên có vốn nhàn rỗi nhiều loại hình tài
chính trung gian đã ra đời. Hoạt động của chúng kéo tất cả cá nhân trong nền
kinh tế vào cuộc, tận dụng tất cả mọi khoản tài sản nhỏ nhất bị lãng phí của
từng cá nhân vào việc phục vụ cho sự sáng tạo tạo ra của cải vật chất cho
đời sống con người. Việc thu hút vốn là việc tối quan trọng của các định chế
tài chính, là nguồn sống để các định chế tài chính tồn tại và phát triển. Trong
nền kinh tế thị trường ngày nay thì hầu hết tiền tiết kiệm lưu chuyển trong hệ
thống tài chính đến từ các hộ gia đình, trong khi đó những người vay tiền
chính là các doanh nghiệp, hộ gia đình khác. Xuất phát từ thực tế đó, trong
bài tiểu luận này chúng em xin trình bày về những các thức mà các định chế
tài chính huy động tiền tiết kiệm (S) của các hộ gia đình đem cho các doanh
nghiệp và các hộ gia đình khác vay để đầu tư.
Bài tiểu luận Kinh tế vĩ mô 2



Giảng đường 67-68-69_Sáng thứ 3
I . Bản chất của định chế tài chính


1. Khái niệm
Định chế tài chính là một doanh nghiệp mà tài sản chủ yếu của nó là các tài sản
tài chính hay còn gọi là các hình thức trái quyền – như cổ phiếu, trái phiếu và tài khoản
cho vay – thay vì tài sản thực như nhà cửa, công cụ và nguyên vật liệu. Định chế tài
chính cho khách hàng vay hoặc mua chứng khoán đầu tư trong thị trường tài chính.
Ngoài ra trong các định chế này còn cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính khác từ bảo
hiểm và bán các hợp đồng hưu bổng cho đến giữ hộ tài sản và cung cấp một cơ chế cho
việc thanh toán, chuyển tiền và lưu trữ thong tin tài chính.
Các loại định chế tài chính:
- Ngân hàng thương mại
- Công ty đầu tư
- Ngân hàng tiết kiệm
- Hiệp hội tiết kiệm và cho vay
- Công ty bảo hiểm nhân thọ
- Công ty bảo hiểm tài sản và tai nạn
- Quỹ hưu bổng
- …
2.Hoạt động của các định chế tài chính
Chủ thể vay
tiền (đơn vị
thiếu hụt tiết
kiệm)
Quỹ cho
vay (tín
dụng)




Giấy nợ tài

chính
Các tổ chức trung gian tài
hính (ngân hàng thương
mại, công ty bảo hiểm, quỹ
hưu bổng, định chế tiết
kiệm phi ngân hàng,…

Các định chế tiết kiệm khác
(môi giới/ kinh doanh
chứng khoán, ngân hàng
đầu tư và ngân hàng cầm
cố)
Quỹ cho vay
(tín dụng)






Giấy nợ tài
chính
Chủ thể
cho vay
(đơn vị
thặng dư
tiết kiệm)
Hộ gia đình,
doanh nghiệp
và chính

quyển
Hộ gia
đình,
doanh
nghiệp,
chính
quyền

Bài tiểu luận Kinh tế vĩ mô 3



Giảng đường 67-68-69_Sáng thứ 3
A. NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI

I. Huy động tiền gửi của ngân hàng thƣơng mại
1. Tầm quan trọng của việc huy động vốn của ngân hàng thƣơng mại
Nghiệp vụ huy động vốn tuy không mang lại lợi nhuận trực tiếp cho ngân hàng
thương mại nhưng nó là nghiệp vụ rất quan trọng. Không có huy động vốn xem như
không có hoạt động của ngân hàng thương mại. Một ngân hàng khi được cấp phép
thành lập phải có vốn điều lệ theo quy định. Tuy nhiên vốn điều lệ chỉ đủ tài trợ cho
tài sản cố định như trụ sở, văn phòng, máy móc thiết bị cần thiết chứ chưa đủ vốn để
ngân hàng có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh như cấp tính dụng và các dịch
vụ ngân hàng khác. Để có vốn phục vụ cho các hoạt động này ngân hàng phải huy
động vốn từ khác hàng. Nghiệp vụ huy động vốn, do vậy, có ý nghĩa rất quan trọng
đối với ngân hàng cũng như đối với khách hàng.
1.1 Đối với ngân hàng thương mại
Nghiệp vụ huy động vốn góp phần mang lại nguồn vốn cho ngân hàng thực hiện
các nghiệp vụ kinh doanh khác. Không có nghiệp vụ huy động vốn, ngân hàng
thương mại sẽ không đủ vốn tài trợ cho những hoạt động của mình. Mặt khác

thông qua nghiệp vụ huy động vốn ngân hàng thương mại có thể đo lường uy tín
cũng như sự tín nhiệm của khác hàng đối với ngân hàng. Từ đó, ngân hàng thương
mại có các biện pháp không ngừng hoàn thiện hoạt động huy động vốn để giũ
vững và mở rộng quan hệ với khách hàng. Có thể nói, nghiệp vụ huy động vốn
góp phần giải quyết đầu vào của ngân hàng
1.2 Đối với khách hàng
Nghiệp vụ huy động vốn không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng mà
còn có ý nghĩa quan trọng đối với khách hạng. Nghiệp vụ huy động vốn cung cấp
cho khách hàng một kênh tiết kiệm và đầu tư làm cho tiền của họ sinh lợi, tạo cơ
hội cho họ có thể gia tăng tiêu dùng trong tương lai. Mặt khác, nghiệp vụ huy
động vốn còn cung cấp cho khác hàng một nơi để cất trữ và tích lũy vốn tạm thời
nhàn rỗi. Cuối cùng, nghiệp vụ huy động vốn cung cấp cho khách hàng cơ hội tiếp
cận với các dịch vụ khác của ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua ngân
Bài tiểu luận Kinh tế vĩ mô 4



Giảng đường 67-68-69_Sáng thứ 3
hàng và dịch vụ tính dụng khi khách hàng cần vốn cho sản xuất, kinh doanh hoặc
cần tiền cho tiêu dùng.
2. Hoạt động huy động tiền gửi của ngân hàng thƣơng mại
Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi là hình thức huy động vốn cổ điển và mang
tính đặc thù riêng có của ngân hàng thương mại. Do vậy, đây cũng là điểm khác biệt
giữa ngân hàng thương mại và các tổ chức tính dụng phi ngân hàng. Chính vì đặc thù
này, ngân hàng thương mại thường được gọi là tổ chức nhận tiền gửi (depository
institutions) trong khi các tổ chức tính dụng phi ngân hàng được gọi là tổ chức không
nhận tiền gửi (non-depository institutions). Do nhu cầu và động thía nhận tiền gửi
của khác hàng rất đa dạng và khác nhau nên để thu hút được nhiều khác hàng gửi
tiền, ngân hàng thương mại gửi tiền, ngân hàng thương mại phải thiết kế và phát triển
thành nhiều loại sản phẩn tiền gửi khác nhau

2.1 Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi thanh toán
Tiền gửi thanh toán là hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại bằng
cách mở cho khách hàng tài khoản gọi là tài khoản tiền giửu thanh toán.Tài khoản
này mở cho các đối tượng khách hàng, cá nhân hoặc tổ chức, có nhu cầu thực hiện
thanh toán qua ngân hàng
Thanh toán qua ngân hàng là một loại dịch vụ thanh toán, theo đó ngân hàng thực
hiện việc trích chuyển tiền từ tài khoản của đơn vị phải trả, bằng cách ghi nợ vào tài
khoản, sang tài khoản của đơn vị thụ hưởng bằng cách ghi có vào tài khoản.
Để thực hiện nghiệp vụ thanh toán này, đòi hỏi khách hàng phải mở tài khoản tiền
gửi thanh toán ở ngân hàng. Số dư trên tài khoản tiền giửu thanh toán của khách hàng
có thể hình thành từ hai nguồn: (1) do khách hàng nộp tiền mặt vào, (2) do khách
hàng nhận tiền chuyển khoản từ đơn vị khác. Số dư này nhằn duy trì khả năng thanh
toán và chi trả của khách hàng ở bất cứ thời điểm nào.
Tuy nhiên, không phải lúc nào khách hàng cũng có thể sử dụng số dư tài khoản
tiền gửi thanh toán của họ. Do vậy, đôi khi số dư này nhàn rỗi tạm thời cho đến khi
được huy động vào thanh toán. Những lúc tạm thời nhàn rỗi số dư này trở thành
nguồn vốn của ngân hàng, do đó, ngân hàng có thể sử dụng cho hoạt động của mình.
Tuy nhiên, do tài khoản tiền gửi là tài khoản không kỳ hạn, khách hàng có thể rút
Bài tiểu luận Kinh tế vĩ mô 5



Giảng đường 67-68-69_Sáng thứ 3
tiền bất cứ lúc nào mà không cần báo trước với ngân hàng, nên ngân hàng rất khó có
kế hoạch hóa việc sử dụng loại tiền gửi này. Chính vì vậy, đối với loại tiền gửi này
thường ngân hàng trải lãi suất thấp hoặc thậm chí không trả lãi, cho khách hàng. Do
không được hưởng lãi cao nên khách hàng thường duy trì số sư tài khoản tiền gửi
thanh toán không nhiều, chỉ vừa đủ để đáp ứng nhu cầu chi trả hàng ngày của họ.
Mặc dù số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của từng khách hàng thường không lớn,
nhưng do là trung tâm tập trung tiền tệ và cung cấp dịch vụ thanh toán nên ngân hàng

thương mại có số lượng khách hàng rất đông khiến cho tổng số vốn huy động qua
tiền gửi thanh toán của tất cả khách hàng trở nên lớn đáng kể.
2.2 Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi cá nhân
Tài khoản tiền gửi các nhân, như tên gọi của nó, được mở cho khách hàng cá nhân
có nhu cầu sử dụng. Loại tài khoản này thích hợp cho cá nhân có nhu cầu nhận
chuyển tiền vào tài khoản, chẳng hạn nhận tiền lương hàng tháng, nhận chuyển tiền từ
nước ngoài hoặc từ cá nhân khác trong nước. Khi nhận chuyển tiền, khách hàng được
ghi “Có” vào tài khoản, ngược lại khi rút tiền tài khoản được ghi “Nợ”. Số dư trên tài
khoản này là “số dư có” phản ánh số tiền khách hàng còn gửi ở ngân hàng. Đâu chính
là nguồn vốn ngân hàng có thể huy động qua tài khoản này.
Thông thường số dư tài khoản này tăng lên khi khách hàng nhận tiền lương vào
thời điểm trả lương và giảm dần khi khách hàng rút tiền về chi tiêu. Mặc dù số dư tài
khoản tiền gửi cá nhân thường không lớn nhưng với số lượng tài khoản rất lớn, kết quả
là, ngân hàng có thể huy động được khối lượng vốn đáng kể. Chẳng hạn ngân hàng
thương mại ACB có số lượng tài khoản tiền gửi cá nhân là 100 nghìn tài khoản. Trung
bình mỗi tháng tài khoản có số dư hàng tháng là 2 triệu đồng. Như vậy trong tháng
ngân hàng ACB có thể huy động được khối lượng vốn lên đến 200 tỉ đồng. Một con số
rất đáng kể cho thấy vai trò tích tụ và tập trung vốn của ngân hàng.
Trong những năm gần đây, số lượng tài khoản này ở các NHTM không ngừng tăng
lên nhờ có sự phối hợp tốt giữa ngân hàng thương mại với các doanh nghiệp cũng như
các tổ chức khác trong việc triển khai tài khoản và trả lương trực tiếp cho nhân viên
vào tài khoản. Mặt khác, các ngân hàng thương mại đã khá thành công trong việc thay
Bài tiểu luận Kinh tế vĩ mô 6



Giảng đường 67-68-69_Sáng thứ 3
đổi thói quen sử dụng tiền mặt và ngày càng thu hút được nhiều người sử dụng dịch vụ
của ngân hàng. Điển hình là , Ngân hàng Phương Đông – Orientbank đã rất thành
công trong trong việc kết hợp với Đại học kinh tế TPHCM mwor tài khoản và nhận chi

trả tiền lương cho giảng viên và nhân viên của trường Ngoài ra, còn thu hút cả sinh
viên mở tài khoản cá nhân để chuyển tiền và nộp học phí. Tuy nhiên, những nỗ lực này
của các ngân hàng thương mại chỉ thu hút được tần lớp nhân viên, sinh viên và cư dân
đô thị chứ chưa thu hút được đại bộ phận dân chúng sủ dụng tài khoản tiền gửi cá
nhân. Còn một phần lớn tầng lớp dân cư khác như giới hưu trí, dân lao động phổ
thông, nông dân sống ở nông thôn,… vẫn chưa sử dụng phổ biến tài khoản tiền gửi
ngân hàng.
Ví dụ: Nghiên cứu tình huống Orientbank
Năm 2001, trường Đại học kinh tế TPHCM kêu gọi Orientbank mở chi nhánh giao
dịch đặt trong khuôn viên của trường - chi nhánh Nguyễn Tri Phương, đồng thời mở
tài khoản cá nhân cho toàn vộ giảng viên và nhân viên của trường giao dịch. Theo
thỏa thuận giữa hai bên, trường Đại học kinh tế TPHCM ủy quyền cho Orientbank trải
lương cho giảng viên và nhân viên qua tài khoản mở ở Orientbank và Orientbank tiến
hành cấp miễn phí cho giảng viên và nhân viên thẻ ATM để họ có thể rút tiền lương
qua máy ATM đặt trong khôn viên trường. Sự phối hợp này mang lại lợi ích đáng kể
cho cả hai bên và trở thành tình huống điển hình cho các ngân hàng và trường đại học
khác làm theo.
Về phía đại học kinh tế, ngoài lợi ích tài chính, việc này còn giúp nhà
trường cải thiện phần nào hiệu quả quản lý và khắc phục được không ít khó khăn của
việc trả lương qua Phòng tài vụ của trường như trước đây.Mặt khacsgopws phần hạn
chế chu chuyển tiền mặt, vốn gây ra không ít bất tiện. Cụ thể, nhà trường thỏa thuận
và ủy thác cho Orientbank thu học phí của sinh viên và các nguồn thu khác trực tiếp
vào tài khoản của trường mở tại Orientbank. Việc này giảm đáng kể giao dịch tiền mặt
và khối lượng tiền đang chuyển trên đường. ong song đó, từ tài khoản này, Orientbank
nhận ủy thác trả luowng cho giản vên và nhân viên. Kết quả là hầy hết tiền đều chu
chuyển qua Orientbank bằng hình thức chuyển khoản. Số tiền này vì thế cũng luôn
sinh lợi tức (0.25%/tháng) cho trường và những người hưởng lương của trường.
Bài tiểu luận Kinh tế vĩ mô 7




Giảng đường 67-68-69_Sáng thứ 3
Về phía Orientbank, lợi ích chủ yếu là huy động được khối lượng tiền gửi
khá lớn từ trường và những người hưởng lương của trường. Ngoài ra, Orientbank còn
có được những lợi ích mà các ngân hàng khác không thể nào có được đó là quảng bá
hình ảnh và thương hiệu Orientbank cho đối tượng khách hàng rất tiềm năng: Giảng
viên và sinh viên của trường.
Từ kinh nghiệm thành công này, Orientbank có thể mở rộng hợp tác sang
các trường đại học khác, trong khi các ngân hàng thương mại khác bắt đầu dòm ngó
và nghĩ đến việc thâm nhập vào các trường đại học để cạnh tranh với Orientbank. Sự
thâm nhập của các ngân hàng thương mại vào các trường đại học góp phần đánh dấu
cột mốc quan trọng trong đổi mới hoạt động ngân hàng.
2.3 Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi tiết kiệm
2.3.1 Tiết kiệm không kỳ hạn
Sản phẩm tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn được thiết kế cho đối tượng khách
hàng, cá nhân hoặc tổ chức, có tiền tạm thời nhàn rỗi mốn gửi ngân hàng vì mục
tiêu an toàn và sinh lợi nhưng không thiết lập được kế hoách sử dụng tiền gửi
trong tương lai. Đối với khách hàng khi chọn lựa hình thức tiền gửi này thì mục
tiêu an toàn và tiện lựi quan trọng hơn mục tiêu sinh lợi. Đối với ngan hàng, vì
loại tiền gửi này khách hàng muốn rút bất cứ lúc nào cũng được nên ngân hàng
phải đảm bảo tồn quỹ để chi trả và khó lên kế hoạch sử dingj tiền gửi để cấp tín
dụng. Do vậy, ngân hàng thường trả lãi suất rất thấp cho loại tiền gửi này.
Mặc dù số dư trên toàn khoản tiền gửi tiết kiệm không kì hạn của khác hàng
thường không lớn (do chỉ hưởng mức lãi suất thấp) nhưng nếu ngân hàng thu hút
được số lượng khác hàng khá lớn thì tổng khối lượng vốn huy động được cũng trở
nên đáng kể.

2.3.2 Tiết kiệm định kì
Khác với tiền gửi tiết kiệm không kì hạn, tiền gửi tiết kiệm định kì được thiết
kế dành cho những khách hàng cá nhân và tổ chức có nhu cầu gửi tiền vì mục đích

an toàn, sinh lợi và thiết lập kế hoạch sử dụng tiền trong tương lai. Đối tượng
khách hàng chủ yếu của loại tiền gửi này là các cá nhân muốn có thu nhập ổn định
Bài tiểu luận Kinh tế vĩ mô 8



Giảng đường 67-68-69_Sáng thứ 3
và thường xuyên đáp ứng cho việc chi tiêu hằng tháng hoặc hằng quý. Đa số
khách hàng thích lựa chọn hình thức này là công nhân, viên chức hưu trí. Mục tiêu
của họ khi lựa chọn hình thức này là lợi tức có được theo định kì. Do vậy lãi suất
đóng vai trò quan trọng để thu hút được đối tượng khác hàng này. Dĩ nhiên lãi suất
trả cho loại tiền gửi tiết kiệm định kì cao hơn so với lãi suất trả cho tiền gửi không
kì hạn. Ngoài ra mức lãi suất còn thay đổi tùy thuộc vào loại kì hạn gửi tùy theo
loại đồng tiền tiết kiệm (VND, USD, EUR hay vàng) và tùy theo uy tín và rủi ro
của ngân hàng nhận tiền gửi.
Tiền gửi tiết kiệm được phân thành nhiều loại căn cứ vào thồi hạn hoặc
phương thức trả lãi. Việc phân chia này làm cho sản phẩm tiền gửi của ngân hàng
trở nên đa dạng và phong phú có thể đáp ứng được nhu cầu gửi tiền đa dạng và
phong phú của khách hàng.

3. Các biện pháp thu hút tiền gửi khách hàng của ngân hàng thƣơng mại.
3.1 Phát triển đa dạng hóa sản phẩm tiền gửi
- Đa dạng hóa sản phẩm theo loại đồng tiền gửi
- Đa dạng hóa sản phẩm tiền gửi theo số dư
- Đa dạng hóa sản phẩm theo nhóm khách hàng
3.2 Tối đa hóa sự tiện lợi cho khách hàng
- Mở rộng mạng lưới chi nhánh để đưa dịch vụ tiền gửi đến sát địa bàn dân cư
- Phát triển công nghệ hiện đại để khách hàng có thể giao dịch qua điện thoại hoặc
internet.
- Tạo cho khách hàng tâm lý thoải mái và thỏa mãn khi bước chân đến gửi tiền

3.3 Nâng cao trình độ tư vấn và kĩ năng bán hàng cho nhân viên
3.4 Xây dựng hình ảnh và thương hiệu ngân hàng
3.5 Khuyến mãi thu hút tiền gửi

II. Huy động vốn qua phát hành các loại giấy tờ có giá.
Bài tiểu luận Kinh tế vĩ mô 9



Giảng đường 67-68-69_Sáng thứ 3
Giấy tờ có giá là chứng nhận của các tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn
trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong thời hạn nhất định, điều kiện trả
lãi và các điều khoản cam kết khác giữa các tổ chức tín dụng và người mua
1. Huy động vốn ngắn hạn thông qua phát hành các loại giấy tờ có giá
Tại sao phải huy động vốn ngắn hạn thông qua các loại giấy tờ có giá? Điều này
trước hết xuất phát từ nhu cầu đầu tư ngắn hạn của các nhà đầu tư rất khác nhau
nên cần có nhiều hình tước khác nhau để thu hút. Thứ đến là, do tập quán và trình
độ phát triển của thị trường vốn ngắn hạn. Cụ thể:
- Huy động vốn thông qua giấy tờ có giá thích hợp hơn ở những nước có nền
tiền tệ phát triển. trong khi huy động tiền gửi tiết kiệm thích hợp hơn ở những
nước có thị trường tiền tệ chưa phát triển.
- ở những nước có thị trường tiền tệ phát triển, giấy tờ có giá thường có tính
thanh khoản cao hơn tiền gửi tiết kiệm. trong khi ở những thị trường tiển tệ
kém phát triển thì ngược lại.
a) Huy động vốn ngắn hạn thông qua phát hành kì phiếu
Kì phiếu là một loại giấy tờ có gia do ngân hàng phát hành để huy động vốn
ngắn hạn, trong đó ngân hàng cam kết sẽ trả lãi được hưởng và vốn gốc cho
nhà đầu tư khi kì phiếu đến hạn
b) Huy động vốn ngắn hạn thông qua phát hành chứng chỉ tiền gửi
Ngoài kì phiếu, các ngân hàng thương mại còn có thể phát hành các chứng chỉ

tiền gửi để huy động vốn ngắn hạn. Ở Việt Nam thời gian qua các ngân hàng
thương mại cổ phần ít khi sử dụng các công cụ huy động vốn ngắn hạn này.
Trong khi các ngân hàng thương mại nhà nước sử dụng thường xuyên hơn
2. Huy động vốn trung và dài hạn thông qua phát hành các loại giấy tờ có giá
Với nhu cầu vốn dài hạn lên đến 10, 15 hoặc 20 năm, rõ ràng các ngân hàng
thương mại không thể sử dụng các hình thức huy động tiền gửi hay phát hành các
loại giấy tờ có giá ngắn hạn được. Trong trường hợp này, ngân hàng có thể phát
hành trái phiếu. Bằng việc phát hành trái phiếu ngân hàng thu về một khối lượng
nguồn vốn dài hại dưới hình thức nợ vay. Tuy nhiên phát hành trái phiếu không
làm tăng vốn chủ sở hữu mà chỉ làm tăng nợ dài hạn của ngân hàng.
Bài tiểu luận Kinh tế vĩ mô 10



Giảng đường 67-68-69_Sáng thứ 3
a) Huy động vốn dài hạn bằng phát hành trái phiếu chuyển đổi
Trái phiếu chuyển đổi là loại trái phiếu mà tổ chức phát hành bán cho nhà đầu
tư trong đó có thỏa thuận đến một thời điểm nào đó sau khi phát hành các nhà đầu
tư có quyền chuyển đổi thành cổ phiếu theo một tỉ lệ chuyển đổi nào đó.
Loại trái phiếu này được xem như là một dạng chứng khoán lai, do vừa có các
tính chất của một chứng khoán nợ đồng thời vừa có tính chất của một chứng
khoán vốn. Nó rất phổ biến ở những nước có thị trường vốn phát triển, nhưng
chưa được phổ biến lắm ở Việt Nam
b) Huy động vốn dài hạn bằng phát hành cổ phiếu
Cổ phiếu nói chung là chứng nhân đầu tư vào công ty cổ phần. Các ngân hàng
thương mại cổ phần cũng là một dạng công ty cổ phần, do đó có thể phát hành cổ
phiếu để huy động vốn cổ phần. Do cổ phần, phần hùn vốn bằng nhau trong công
ty là một khái niệm vô hình nên cổ phiếu cần thiết như là một tờ giấy cần thiết để
hữu hình hóa số cổ phần mà một cổ đông nào đó nắm giữ



B. CÁC ĐỊNH CHẾ TÀI CHÍNH PHI NGÂN HÀNG
1. Quỹ đầu tƣ
Quỹ đầu tư là một mô hình định chế tài chính trung gian tập trung những
nguồn vốn nhỏ bé, lẻ tẻ của nhiều người lại để đầu tư trung và dài hạn, đặc biệt là
các dự án có nhu cầu vốn lớn trong nền kinh tế quốc dân hoặc để đầu tư vào chứng
khoán.
Quỹ đầu tư là một dạng doanh nghiệp thuộc loại công ty cổ phần, nó phát
hành và bán cổ phiếu để lấy vốn hoạt động. nguồn vốn hình thành quỹ đầu tư rất
phong phú, đa dạng: các tập đoàn tư bản, các công ty, dân chúng,… có vốn nhàn
rỗi dùi nhiều hay ít để có thể trở thành các chủ sở hữu quỹ đầu tư bằng việc mua cổ
phiếu do quỹ đầu tư phát hành. Việc đầu tư bỏ vốn mua các cổ phần của quỹ đầu tư
và có các chuyên gia nhận điều hành số vốn đó để nhận tiền lương. Các chuyên gia
quản lý quỹ đầu tư phải nghiên cứu thị trường và ra quyết định đầu tư. Không
giống như các loại dịch vụ khác là phải đáp ứng nhu cầu là phải đáp úng nhu cầu
Bài tiểu luận Kinh tế vĩ mô 11



Giảng đường 67-68-69_Sáng thứ 3
mong đợi của người mua, các quỹ đầu tư do không thể biết trước diễn biến chính
xác của nền kinh tế và thị trường chứng khoán, nên quỹ dầu tư ko thể hứa hẹn chắc
chắn rằng sẽ có một tỉ lệ thu nhập cố định nào đó, mà các nhà đầu tư sẽ cùng nhau
chhia sẻ khoản thu nhập hoặc lỗ, lợi tức và chi phí.
Quỹ đầu tư là một doanh nghiệp đặc biệt, nó không dùng vốn của mình để
mua máy móc, thiết bị, các yếu tố sản xuất khác để tiến hành các hoạt động sản
xuất kinh doanh, mà nó dùng vốn để đầu tư dài hạn thông qua góp vốn liên doanh,
mua cổ phần hoặc các loại chúng khoán khác với mục đích thu lợi nhuận.
Do phạm vi hoạt động rất rộng lớn như vậy nên quỹ đầu tư đã trở thành
“công ty của các công ty”, là chủ thể sở hữu một phần hay toàn bộ nhiều công ty và

nó có khả nawg chi phối các công ty này thông qua cá công cụ tài hính, kinh
nghiệm và năng lực quản lý của các quỹ đầu tư.
2. Hiệp hội cho vay và tiết kiệm (Saving and Loan associations)
Ra đời từ năm 1831 ở Lyon và Philadelphia, hiệp hội cho vay và tiết kiệm chủ
yếu cho vay để mua nhà, đất trả chậm đối với những đối tượng có thu nhập thấp
trong xã hội. Hiệp hội bao gồm nhiều loại họa động dưới những tên gọi và những
nghiệp vụ khác nhau tùy theo luật lệ của địa phương sở tại. Những nguyên tắc hoạt
động có nhiều điểm giống nhau.
Khi mới thành lập, phần lớn những hiệp hội là những tổ chức có tính cách
tương trợ. Lúc ban đầu, hơn một thế kỉ nay một nhóm người đồng ý bỏ chung tiền
tiết kiệm và mỗi hội viên của nhóm cam kết đóng góp đều dặn theo một thời biểu
định sẵn để có đủ tiền cho một vài người trong nhóm vay cất nhà. Người vay mượn
đầu tiên, rồi kế tiếp cam kết hoàn tiền lại đều đặn cho hiệp hội để hiệp hội có đủ
tiền để tài trợ cho hội viên khác xây cất nhà. Khi mọi hội viên đã được thỏa mãn
nhu cầu về nhà ở, hiệp hội coi như chấm dứt hoạt động.
Hình thức đi đến quyết định cho vay cũng rất khác lạ. có ít nhiều tương tự với
hình thức “chơi hụi” ở Việt Nam. Người muốn vay tiền của hiệp hội trước hết phải
là thành viên của nó. Các thành viên này mỗi tháng đóng vào một khoản tiền nhất
định (thường là nhỏ), những khoản tiền nộp vào này được xem là tiền gửi, có lãi
suất hàng tháng đàng hoàng. Các khoản đóng góp hàng tháng này của thành viên
Bài tiểu luận Kinh tế vĩ mô 12



Giảng đường 67-68-69_Sáng thứ 3
họp thành một quỹ tiền lớn. Hiệp hội bắt đầu xét đến việc cho vay. Hàng tháng
cũng có nhiều thành viên đăng kí vay. Danh sách vay được đưa ra trước tất cả mọi
thành viên để quyết định. Mỗi thành viên xin vay tiền lần lượt đề xuất mức lãi suất
mà mình có khả năng trả cho tiền được vay. Người nào đề xuất mức lãi cao nhất sẽ
được vay trong đợt ấy.

3. Các công ty bảo hiểm
Thoạt đầu các công ty bảo hiểm ra đời do nhu cầu ổn định sản xuất, kinh
doanh và đời sống với chức năng chủ yếu và duy nhất là lá chắn phòng ngừa sự mất
ổn định trong đời sống kinh tế xã hội, khắc phục những rủi ro hoặc tai nạn bất ngờ.
Lúc này, người ta chưa nghĩ tới vai trò của các công ty bảo hiểm như một tổ chức
tài chính trung gian, thực hiện chức năng thu hút vốn tiết kiệm của xã hội, phục vụ
yêu cầu của các doanh nghiệp.
Ngày nay, cá công ty bảo hiểm là hình thức điển hình của dạng công ty tài
chính ở hầu khắp các nước công nghiệp trên thế giới. Hoạt động bảo hiểm rất rộng,
nó đi vào từng lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Ở những nước phát triển, hầu
hết mọi tài sản đều được bảo hiểm.
Với mục đích nhân đạo của mình, bảo hiểm chia sẻ rủi ro của một người hay
của số một ít người cho cả cộng đồng những người có khả năng gặp rủi ro cùng
loại; bằng cách mỗi người trong cộng đồng góp một số tiền nhất định vào một quỹ
chung và từ quỹ chung đó bù đắp thiệt hại cho thành viên trong cộng đồng không
may bị thiệt hại do rủi ro đó gây ra. Các công ty bảo hiểm đưa ra rất nhiều hình
thức bảo hiểm như là bảo hiểm kinh doanh, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,… để
đáp ứng những nhu cầu khác nhau của con người, từ đó huy động được số vốn lớn
từ nhiều cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức,…. Với nguồn vốn hoạt động rất dồi dào
và khá dễ dàng từ sự đóng góp tự nguyện của các thân chủ, các công ty nhanh
chóng dùng vốn ấy đem cho bay hoặc đầu tư để tạo lãi. Do tập trung được nguồn
vốn lớn từ tất cả các pháp nhân và nhân thể trong xã hội, ngoài nghĩa vụ để lại một
số vốn cần thiết để chi trả bảo hiểm thường xuyên, các công ty bảo hiểm tích cực
tham gia vào các hoạt động mua bán tín phiếu, gởi vào tài khoản tiền gởi ngân
hàng, mua cổ phiếu, trái phiếu.
Bài tiểu luận Kinh tế vĩ mô 13



Giảng đường 67-68-69_Sáng thứ 3

Ngay từ khi mới bắt đầu phát triển, các công ty bảo hiểm đã phân thành 2
nhóm: nhóm công ty bảo hiểm sinh mạng và nhóm công ty bảo hiểm tài sản, bảo
hiểm rủi ro.
Hầu hết các công ty bảo hiểm sinh mạng để có khuynh hướng sử dụng tiền
bảo hiểm để đầu tư vào tài sản dài hạn, thí dụ như chứng khoán dài hạn của chính
phủ hoặc cho vay cầm cố. Do số lượng người tử vong hằng năm thường không
nhiều, lượng tiền mặt phải chi ra vì trác nhiệ bảo hiểm thường không lớn, vì thế các
công ty này nắm trong tay một nguồn vốn lớn, ổn định và rất lâu dài, còn hơn cả
tiển gởi có kì hạn. Việc đầu tư vào chứng khoán dài hạn trơi nên điều đương nhiên
để có lãi suất cao.
Ngược lại, cá công ty bảo hiểm tài sản như xe cộ, nhà cửa và các phương tiện
khác hoặc bảo hiểm rủi ro, thường xuyên hơn dẫn tới việc lượng tiền bảo hiểm phải
chi trả hàng tháng thậm chí đến hàng tuần là rất cao. Vì thế các công ty bảo hiểm
thuộc hai nhóm sau tất ít dám dùng vốn để đầu tư vào loại tài sản lâu dài. Thông
thường họ chỉ đầu tư vào chứng khoán ngắn hạn hoặc các loại tài sản dễ thanh toán
và tiêu thụ để bất cứ lúc nào cần tiền mặt vù trác nhiệm bảo hiểm họ có thể bán các
loại tài sản ấy một các dễ dàng ra thị trường để lấy tiền chi trả.
Trong những năm gần đây, các công ty bảo hiểm vẫn tiếp tục như là một bộ
phận huy động tiền để dành của đại đa số nhân dân để rồi cung ứng một cách rất
quan trọng cho nhu cầu đầu tư các mặt trong nền kinh tế.
4. Các quỹ trợ cấp và hƣu trí
Kế hoạch làm lợi từ những đồng lương hưu ít ỏiđã bắt đầu ở Hoa kì từ năm
1870 và lan rộng sang các nước khác từ đầu thế kỉ 20. Những người đã vè hưu đang
hoặc đang được nhận trợ cấp có thể gửi tiền vào quỹ này thông qua cơ quan trả hay
cấp hàng tháng. những người chưa về hưu có thể yêu cầu cơ quan hoặc xí nghiệp
trả trợ cấp lương hưu cho mình, bắt đầu (hàng tháng hoặc hàng năm) chuyển dần số
tiền mình được hưởng khi về hưu và một quỹ hưu nào đó do mình chỉ định. Các tổ
chức này được hình thành bắt nguồn từ thực tế là ngày càng có nhiều người muốn
tiết kiệm để dự phòng cho lúc về hưu sau này. Nguyên tắc hoạt động của các tổ
chức này cũng rất đơn giản: huy động từng phần trong thời gian lao động và có thu

Bài tiểu luận Kinh tế vĩ mô 14



Giảng đường 67-68-69_Sáng thứ 3
nhập để trả từng phần khi về hưu hoặc mất sức lao động. những chi tiết cụ thể về
huy động vốn và trả vốn có thể rất đa dạng và phong phú nhằm thỏa mãn yêu cầu
của người gửi tiền.
Về phương diện cung ứng vốn tài chính các quỹ này đóng vai trò rất quan
trọng, vì tong quá trình huy động vốn thì số tiền đóng góp và tiền trả thu lãi vượt
quá số tiền lương phải trả hưu trí, các qũy này sẽcòn một khoản vốn dự trữ khá lớn
để xâm nhập vào thị trường tài chính (mua các khoản tín phiếu, trái phiếu hoặc bỏ
vốn vào các tổ chức tài chính khác). Quỹ hưu trí sẽ bắt đầu tính lãi suất cho đương
sự kể từ ngày nhận tiền. Sau đó dùng vốn nói trên để đầu tư vào chững khoán để
tạo ra lãi cho quỹ. Vì tiền lương hưu và lãi suất phải trả hàng tháng hoặc hàng năm
là một con số hầu như được xác định trước và rất định kì,cho nên phần lớn số vốn
của quỹ được xem như có thời gian rất chủ động và rất dài. Do vậy, các quỹ thường
đầu tư vào chứng khoán hoặc tài khoản dài hạn để có lãi cao.
Các công ty hoặc đơn vị kinh doanh ở các nước công nghiệp phát triển luôn
luôn thành lập cho mình một quỹ trợ cấp và hưu trí (Retirement and Pension
Funds) như thế. Thay vì sẽ trả tiền hưu hoặc trợ cấp cả gói, họ thường trả hàng
háng, rồi dùng lượng vốn ấy để kinh doanh hoặc đầu tư. Bằng cách như vậy, các
quỹ không những tạo thêm vốn hoạt động cho nền kinh tế và thị trường tài chính
nói riêng mà còn tạo thêm lợi tức cho những người đã về hưu hoặc có trợ cấp, giúp
họ có một cuộc sống về già sung túc hơn. Đầu tư chủ yếu để làm ra lợi tức của nó
là vào chứng khoán hoặc các tài khoản sinh lãi ổn định khác. Nó cho vay rất ít, chỉ
trong trường hợp có tính an toàn cao. Các quỹ này có nhiều điểm tương đồng với
các công ty bảo hiểm sinh mạng ở phần trên.






×