Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Khủng hoảng suy thoái kinh tế toàn cầu 2008. Các chính sách kinh tế vĩ mô của Mĩ.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.41 KB, 13 trang )

Kinh tế vĩ mô
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA KINH TẾ HỌC
ĐỀ TÀI: Khủng hoảng suy thoái kinh tế
toàn cầu 2008. Các chính sách kinh tế vĩ mô
của Mĩ.

1
Tiểu luận kinh tế vĩ mô
Giáo viên hướng dẫn : Trần Bá Thọ
Nhóm sinh viên thực hiện : Nhóm sv giảng đường 16-18
Kinh tế vĩ mô
TP.HCM, ngày 20/9/2014
STT Họ và tên MSSV
1 Nguyễn Thị Dung 31131022030
2 Cao Thị Hồng 31131022131
3 Vũ Huỳnh Thanh Trinh 31131021841
2
Danh
sách
sinh
Kinh tế vĩ mô
Mục lục
I. Khái quát về cuộc khủng hoảng suy thoái kinh tế toàn cầu 2008:
I.1. Khủng hoảng kinh tế là gì?
Khủng hoảng kinh tế đề cập đến quá trình tái sản xuất đang bị suy sụp tạm
thời. Còn suy thoái kinh tế là sự tụt giảm các hoạt động kinh tế trên cả nước, kéo
dài nhiều tháng. Suy thoái kinh tế có thể liên quan sự suy giảm đồng thời của
các chỉ số kinh tế của toàn bộ hoạt động kinh tế như việc làm, đầu tư, và lợi
nhuận doanh nghiệp. Các thời kỳ suy thoái có thể đi liền với giảm phát hoặc lạm


phát.
I.2. Đặc trưng tổng quát của khủng hoảng kinh tế 2008
Cuộc khủng khoảng kinh tế thế giới năm 2008-2009 là cuộc khủng khoảng
kinh tế đầu tiên của thế kỷ 21 nhưng không giống các cuộc khủng khoảng kinh
tế trước nó. Có thể gọi đây là cuộc khủng khoảng của các nhà băng, khủng
khoảng tín dụng hay còn gọi là “khủng hoảng tài chính tiền tệ”. Chỉ trong một
khoảng thời gian ngắn cuộc khủng hoảng xuất phát từ Hoa Kỳ đã lan rộng ra
nhiều nước trên thế giới, dẫn tới những đổ vỡ tài chính, suy thoái kinh tế, suy
giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước trên thế giới.Tình hình phá sản
2007-2008 Mĩ là điểm xuất phát là trung tâm của cuộc khủng hoảng. Ngay sau
đó nó nhanh chóng lan ra Châu Âu, Châu Á và toàn thế giới. Nếu khủng hoảng
ở thập niên 70 của thế kỉ XIX có thể đổ lỗi cho các nguyên nhân như chiến tranh
ở Iran, cuộc cách mạng ở một số quốc gia và khủng hoảng chỉ liên quan đến sự
suy giảm GDP. Còn khủng hoảng lần này là tồi tệ nhất, nó tác động đồng bộ lên
nền kinh tế toàn cầu. Có những ngày, những tuần, hàng loạt ngân hàng tuyên bố
phá sản, bị mua lại hoặc bị kiểm soát đặc biệt. Thế giới đã thực sự chao đảo,
nghiêng ngả bởi làn sóng sụp đổ của các nhà băng. Đã từ lâu, trong quan niệm
của một số nhà nghiên cứu cho rằng trong điều kiện hiện nay, khủng khoảng
kinh tế toàn cầu khó hoặc không thể xảy ra. Điều này được lý giải như là sự
thích ứng với điều kiện mới, với hoàn cảnh mới của nền kinh tế TBCN. Hoặc
kinh tế TBCN có sự thích nghi, có sự “tự điều chỉnh” để phù hợp với sự phát
triển không ngừng của kinh tế thế giới. Giai đoạn 1950 - 2010 kinh tế thế giới
cũng xảy ra khủng hoảng, xảy ra suy thoái (khủng khoảng dầu mỏ dẫn đến suy
3
Kinh tế vĩ mô
thoái tại Mỹ năm 1973, suy thoái tại Nhật Bản đầu những năm 90 của thế kỷ
trước, khủng khoảng kinh tế tại Mêhico năm 1994, khủng khoảng tài chính tại
các nước châu Á năm 1997 ) nhưng không lan ra toàn cầu. Điều này đã tạo ra
sự lầm tưởng là kinh tế TBCN hiện đại có khả năng xử lý được khủng khoảng
kinh tế ở cấp độ khu vực, không để xảy ra trong phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên

qua khủng khoảng kinh tế vừa qua đã khẳng định: kinh tế TBCN dù phát triển
đến đâu cùng không tránh khỏi khủng khoảng kinh tế như đã diễn ra suốt 5 thế
kỷ đã qua, khủng khoảng kinh tế vẫn xảy ra kể cả trong phạm vi khu vực cũng
như toàn cầu. Vậy đâu là nguyên nhân và hậu quả của nó như thế nào? Chúng ta
sẽ cùng đi phân tích trong bài viết này.
II. Phân tích khủng hoảng kinh tế 2008
II.1. Nguyên nhân
II.1.1. Nguyên nhân trực tiếp:
- Những yếu kém, hạn chế của pháp luật về sự minh bạch hóa và năng lực
kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước trước những biến đổi sâu rộng
của thị trường trong hơn 20 năm qua.
- Sự nới lỏng của pháp luật bắt đầu từ thập niên 1980:
+ chẳng hạn như việc hủy bỏ đạo luật Glass- Steagal vốn tách biệt ngân hàng
thương mại chuyên thực hiện những hoạt động cho vay an toàn với ngân hàng
chuyên thực hiên những nghiệp vụ đầu tư rủi ro cao, đã góp phần khuyến khích
những hoạt động đầu cơ và tạo điều kiện cho xung đột lợi ích phát triển. Chính
môi trường thiếu minh bạch và thiếu giám sát đã thổi bùng lên bong bóng đầu cơ
bất động sản.
+ Chính sách nới lỏng tiền tệ để khôi phục kinh tế sau cuộc khủng hoảng
2001, kích thích người dân vay tiền mua nhà, và các tổ chức tín dụng thì sẵn
sàng cho vay, đầu tư mạo hiểm.
II.1.2. Nguyên nhân sâu xa:
- Vì sự tham lam của các chủ ngân hàng, các cá nhân và các nhà môi giới
bất động sản:
+ Các chủ ngân hàng đồng loạt cho vay dưới chuẩn với quy mô lớn nhằm
thu về lãi suất cho mình mà không mảy may quan tâm đến khả năng trả nợ của
người đi vay.
+ Các nhà môi giới bất động sản ráo riết dụ dỗ dân chúng mua nhà với lãi
suất ban đầu cực thấp, sau đó tăng dần lên theo lãi suất ngân hàng. Sự tăng lên
đột biến về cầu nhà ở đưa giá nhà lên cao khiến người dân có ảo tưởng rằng giá

nhà cứ lên cao mãi nên đua nhau đi mua nhà không tính đến khả năng trả nợ.
Bên cạnh đó các nhà đầu tư cũng không chịu thua kém, đi mua nhà với hi vọng
4
Kinh tế vĩ mô
sẽ bán được giá cao trong tương lai. Những hoạt động này làm thổi phồng lên
bong bóng bất động sản, gây thiệt hại trên diện rộng.
+ Sự ra đời của các loại chứng khoán phái sinh như CDO ( trái phiếu hay
nghĩa vụ nợ có thế chấp), CMO (trái phiếu hay chứng khoán thế chấp bằng nợ
cho vay mua nhà), MBS ( chứng khoán hóa bảo đảm bằng tài sản thế chấp) =>
dẫn đến giá cả của trái phiếu và cổ phiếu ngày càng rời xa giá trị thực của tài sản
bảo đảm. Tình trạng kinh doanh thua lỗ và sụp đổ hàng loạt theo dây chuyền của
các tổ chức tài chính hàng đầu ở Mỹ. Khi bong bóng bất động sản vỡ, nền kinh
tế bước vào thời kì suy thoái, giá bất động sản giảm mạnh, các tổ chức tín dụng
cho vay phải đối mặt với nguy cơ mất vốn. Các ngân hàng, công ty bảo hiểm, tổ
chức tài chính … đã mua lại các hợp đồng thế chấp và biến chúng thành tài sản
đảm bảo để phát hành trái phiếu ra thị trường tạo ra hiệu ứng sụp đổ dây chuyền
và khiến rủi ro bị đẩy lên cao hơn. Chứng khoán MBS mất giá trên thị trường
khiến các ngân hàng, nhà đầu tư nắm giữ những chứng khoán này bị lỗ và dần
rơi vào tình trạng khó khăn về tính thanh khoản, buộc phải tìm sự cứu trợ từ các
nguồn và thậm chí phải đi đến phá sản.
II.2. Diễn biến
II.2.1. Tại Mỹ:
Năm 2008, bắt đầu những dấu hiệu ảm đạm. Bong bóng nhà đất xuất hiện tại
Mỹ với trên 1 triệu chủ nhà đất đối mặt với nguy cơ tịch thu tài sản thế nợ.
Nhiều ngân hàng vướng phải các khoản nợ dưới chuẩn phải hứng chịu những
khoản thua lỗ nặng.
- Ngày 11/1/2008: Bank of America – ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền
gửi và vốn hóa thị trường – đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại Countrywide
Financial sau khi ngân hàng cho vay thế chấp địa ốc này thông báo phá
sản do các khoản cho vay khó đòi quá lớn.

- 16-17/3/2008, Bear Stearns được bán cho Ngân Hàng Đầu tư Mỹ JP
Morgan Chase với giá 2$/1 cổ phiếu.
- 11/7/2008: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng
IndyMac Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn
nhất từ trước tới nay sau khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ
USD trong vòng 11 ngày.
- 7/9/2008: Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và Bộ Tài chính Mỹ đoạt quyền
kiểm soát hai tập đoàn chuyên cho vay thế chấp Fannie Mae và Freddie
Mac nhằm hỗ trợ thị trường nhà đất Mỹ.
- 11/9/2008: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác để
bán lại chính mình. Cổ phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm 45%.
5
Kinh tế vĩ mô
- 15/9/2008: Đây là ngày tồi tệ nhất tại Phố Wall kể từ khi thị trường này
mở cửa trở lại sau vụ khủng bố 2 tòa tháp đôi tại Mỹ tháng 9/2001.
Lehman Brothers sụp đổ đánh dấu vụ phá sản lớn nhất tại Mỹ; Merrill
Lynch bị Bank of America thâu tóm; American International Group – tập
đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất khả năng thanh toán do những khoản
thua lỗ liên quan.
- 16/9/2008: Ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã đổ hàng tỉ
USD vào các thị trường tiền tệ với nỗ lực hạ nhiệt tình trạng căng thẳng
và ngăn chặn sự đóng băng của hệ thống tài chính toàn cầu. Cổ phiếu
AIG giảm gần 1 nửa. Fed công bố kế hoạch bơm 85 tỷ USD vào AIG và
nắm 80% cổ phần.
- 19/9/2008: Mỹ lên kế hoạch mua lại các tập đoàn tài chính -> thị trường
chứng khoán tăng vọt
- 25/9/2008: JP Morgan Chase & Co mua lại Washington Mutual Inc. một
trong những ngân hàng lớn nhất nước Mỹ.
2.2.2. Tại các nước khác
*) Vì 1 lượng tiền lớn đổ vào Mỹ để đầu tư lại đến từ nhiều quốc gia khác

trên thế giới, đặc biệt là châu Á và các nước có nhiều dầu lửa, khủng hoảng ở
Mỹ đã gây ra phản ứng dây chuyền đến một loạt các nước khác.
- Tại châu Âu: + bão nổi ở Iceland
+ Chính phủ Iceland quốc hữu hóa 2 ngân hàng nước này trong tình trạng
ngân sách không có tiền.
+ Nhiều ngân hàng ở Anh gặp khó khăn về tiền mặt
+ 2/8/2008 Nothern Rock đã thiếu tiền mặt trầm trọng. Người dân nối đuôi
nhau đến rút tiền.
+ 9/8/2008 ngân hàng Halifax bank đã sát nhập với ngân hàng LOYDS TSB
do thua lỗ nặng trong việc cho vay thế chấp bất động sản.
+ Tại Thụy Sĩ, ngân hàng UBS gạch bỏ 44 tỉ USD chủ yếu là do bất động
sản dưới chuẩn
+ Tại Pháp, ngân hàng BNP của Pháp đóng 3 quỹ đầu tư trị giá khoảng 2,2
tỷ USD tại Mỹ
-Tại châu Á, một số nền kinh tế như Nhật Bản, Đài Loan, Singapore và
Hong Kong rơi vào suy thoái.
+10/10/2008: tập đoàn bảo hiểm có lịch sử hoạt động 98 năm tại Nhật là
Yamato Life Insurance Co. chính thức đệ đơn xin được bảo hộ phá sản do các
khoản nợ vượt tài sản 11,5 tỷ Yen.
+27/10 kinh tế Hàn Quốc báo động đỏ khi đồng won mất giá 40% kể từ đầu
năm 2008
6
Kinh tế vĩ mô
II.3. Hậu quả
II.3.1. Đối với Mỹ:
Cuộc khủng hoảng 2008 tác động xấu, rộng và sâu lên nhiều lĩnh vực của
Mỹ đã khiến nước này bước vào thời kì tồi tệ nhất trong lịch sử kể từ thập
niên 1930.
- Hàng loạt các tổ chức tài chính khổng lồ và lâu đời bị phá sản đã đẩy kinh
tế Mỹ vào tình trạng đói tín dụng. Ví dụ như các ngân hàng hàng đầu thế

giới như Lehman, Merrill Lynch… tuyên bố phá sản hoặc bị bán rẻ cho
nước ngoài.
- Tình trạng đói tín dụng lại ảnh hưởng đến khu vực sản xuất khiến doanh
nghiệp phải thu hẹp sản xuất, sa thải lao động, cắt giảm các hợp đầu nhập
đầu vào. Thất nghiệp gia tăng ảnh hưởng tiêu cực đến thu nhập, và qua đó
tới tiêu dùng của các hộ gia đình lại làm cho các doanh nghiệp khó bán
được hàng hóa. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản hoặc có nguy cơ bị phá
sản, trong đó có cả 3 nhà sản xuất ô tô hàng đầu của Mỹ là General
Motors, Ford Motor và Chrysler LLC.Tiêu dùng giảm, hàng hóa ế thừa
dẫn tới mức giá chung của nền kinh tế giảm liên tục, đẩy kinh tế Mỹ tới
nguy cơ giảm phát.
- GDP của Mỹ tăng trưởng âm 6,2% trong quý 4/2008. Đây là mức sụt
giảm mạnh nhất của kinh tế Mỹ kể từ 1982.
Nhìn vào đồ thị, thấy rằng năm 2008, kinh tế Mỹ có mức tăng trưởng GDP
chỉ đạt 1,1%, mức thấp thứ hai kể từ mức thấp nhất 2001 ( năm xảy ra thảm
kịch 11/9).
- Đồng đô la Mỹ lên giá. Đồng đô la Mỹ là phương tiện thanh toán phổ biến
nhất thế giới hiện nay, nên các nhà đầu tư toàn cầu đã mua đô la để nâng
7
Kinh tế vĩ mô
cao khả năng thanh khoản của mình, đẩy đô la Mỹ lên giá. Điều này làm
cho xuất khẩu của Mỹ bị thiệt hại.
II.3.2. Đối với thế giới:
Mỹ là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi kinh tế
suy thoái, xuất khẩu của nhiều nước bị thiệt hại, nhất là những nước theo hướng
xuất khẩu ở Đông Á như: Nhật Bản, Đài Loan, Singapore và HongKong rơi vào
suy thoái. Các nền kinh tế khác đều tăng trưởng chậm lại.
Châu Âu vốn có quan hệ kinh tế mật thiết với Mỹ chịu tác động nghiêm
trọng cả về tài chính lẫn kinh tế. Nhiều tổ chức tài chính ở đây bị phá sản đến
mức trở thành khủng hoảng tài chính ở một số nước như Iceland, Nga. Các nền

kinh tế lớn nhất khu vực là Đức và Ý rơi vào suy thoái, và Anh, Pháp, Tây Ban
Nha cùng đều giảm tăng trưởng. Khu vực đồng Euro chính thức rơi vào cuộc
suy thoái kinh tế đầu tiên kể từ ngày thành lập.
Các nền kinh tế Mỹ Lating cũng có quan hệ mật thiết với kinh tế Mỹ nên
cũng bị ảnh hưởng xấu khi các dòng vốn ngắn hạn rút khỏi khu vực và khi giá
dầu giảm mạnh. Ecuador tiến đến bờ vực của 1 cuộc khủng hoảng nợ.
Kinh tế các khu vực trên thế giới tăng chậm lại khiến lượng cầu về dầu mỏ
cho sản xuất và tiêu dùng giảm cũng như giá dầu mỏ giảm. Điều này lại làm cho
các nước xuất khẩu dầu mỏ bị thiệt hại. Đồng thời, do lo ngại về bất ổn định xảy
ra đã làm cho nạn đầu cơ lương thực nổ ra, góp phần dẫn tới giá lương thực tăng
cao trong thời gian cuối năm 2007 đầu năm 2008, tạo thành một cuộc khủng
hoảng giá lương thực toàn cầu. Nhiều thị trường chứng khoán trên thế giới gặp
phải đợt mất giá chứng khoán nghiêm trọng. Các nhà đầu tư chuyển danh mục
đầu tư của mình sang các đơn vị tiền tệ mạnh như dollar Mỹ, yên Nhật, franc
Thụy Sĩ đã khiến cho các đồng tiền này lên giá so với nhiều đơn vị tiền tệ khác,
gây khó khăn cho xuất khẩu của Mỹ, Nhật Bản, Thụy Sĩ và gây rối loạn tiền tệ ở
một số nước buộc họ phải xin trợ giúp của Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Hàn Quốc rơi
vào khủng hoảng tiền tệ khi won liên tục mất giá từ đầu năm 2008.
II.4. Chính sách kinh tế vĩ mô của Mỹ
Cuộc khủng hoảng tài chính tác động tiêu cực đến nền kinh tế thế giới,
thương mại toàn cầu và đầu tư sụt giảm. Để khắc phục những hậu quả này, Mỹ
đã sử dụng những chính sách gì? Và tác dụng thực tế của những chính sách ấy?
8
Kinh tế vĩ mô
II.4.1. Chính sách
a. Chính sách tài khóa: Chi ngân sách và thuế
- 3/10/2008, tổng thống Bush đã kí Emergency Economic Stabilization Act
of 2008 cho phép thực hiện kích thích 700 tỷ dollar để chi cho các chương
trình kích thích tiêu dùng như trợ giúp cho người thất nghiệp, hỗ trợ dinh
dưỡng cho người nghèo và người có thu nhập thấp, phát triển cơ sở hạ

tầng.
- 13/2/2008, Tổng thống Bush đã ký Economic Stimulus Act of 2008 theo
đó chính phủ sẽ áp dụng một chương trình kích cầu tổng hợp trị giá 168 tỷ
đô la chủ yếu dưới hình thức hoàn thuế thu nhập cá nhân.
- 17/2/2009, Barack Obama đã ký Luật tái đầu tư và phục hồi cho phép
Chính phủ thực hiện gói kích thích thứ 2 kể từ khi khủng hoảng nổ ra.
b. Chính sách tiền tệ: cung tiền và lãi suất
- Ngay khi khủng hoảng tín dụng nhà ở nổ ra, Cục dự trữ liên bang ( Fed)
đã bắt đầu can thiệp bằng cách hạ lãi suất và tăng mua chứng khoán đảm
bảo bằng tài sản thế chấp MBS. Sau đó vì tình hình kinh tế không có
chuyển biến tốt nên cơ quan này tiếp tục tiến hành các biện pháp nới lỏng
tiền tệ để tăng thanh khoản cho các tổ chức tài chính. Cụ thể là lãi suất
cho vay qua đêm liên ngân hàng được giảm từ 5,25% qua 6 đợt xuống còn
2% chỉ trong vòng chưa đầy 8 tháng( 18/9/2007 – 30/4/2008), sau đó tiếp
tục giảm và đến 16/12/2008 chỉ còn 0,25%, mức lãi suất thấp kỉ lục.
- Fed còn thực hiện nghiệp vụ thị trường mở ( mua lại trái phiếu chính phủ
Mỹ hiện có)
- 6/10/2008: FED công bố kế hoạch mua 1 lượng lớn các khoản nợ ngắn
hạn từ các công ty nhằm khai thông thị trường tiền tệ đang đóng băng.
- 9/11/2008: Tập đoàn bảo hiểm khổng lồ AIG có thêm hỗ trợ tài chính của
Chính phủ Mỹ, nâng tổng khoản tiền nhận cứu trợ lên 150 tỷ USD
( khoản cứu trợ ban đầu từ 85 tỷ USD).
- 23/11/2008: Các cơ quan quản lý tài chính chủ chốt của Mỹ, gồm Bộ Tài
chính, FED và Hãng bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC) thông báo các
biện pháp lập lại ổn định tại Citigroup Inc. Bộ Tài chính sẽ bỏ ra 20 tỷ từ
gói 700 tỷ USD để hỗ trợ thanh khoản cho ngân hàng có mạng lưới dịch
vụ rộng nhất thế giới này. Trước đó Citi đã nhận 25 tỷ USD và là 1 trong
những ngân hàng đầu tiên nhận hỗ trợ của Chính phủ Mỹ.
9
Kinh tế vĩ mô

- 25/11/2008: Gói giải pháp mới với tổng số tiền lên đến 800 tỷ USD được
công bố.
- 13/1/2009: Tổng thống đắc cử Mỹ Obama yêu cầu quốc hội nước này giải
ngân tiếp 350 tỷ USD tỏng Chương trình cứu trợ các tài sản đang gặp khó
khăn TARP trị giá 700 tỷ USD giúp nước Mỹ đối phó khủng hoảng tài
chính.
- Đầu tháng 2/2009: Bộ trưởng tài chính Mỹ Timothy Geithner vừa mới tiết
lộ một kế hoạch cứu trợ ngân hàng toàn diện trị giá ít nhất 1,5 nghìn tỷ
USD với các mục tiêu sẽ hâm nóng lại thị trường tín dụng, củng cố các
ngân hàng và hỗ trợ tích cực cho những người sở hữu nhà và các doanh
nghiệp nhỏ; và đồng thời với việc triển khai này là áp dụng các tiêu chuẩn
mới và cao hơn về tính minh bạch cũng như trách nhiệm giải trình.
- Tung ra các gói nới lỏng định lượng QE1, QE2, QE3.
c. Chính sách ngoại thương: tác động đến cán cân thương mại, cán cân thanh
toán thông qua tỉ giá hối đoái, thuế xuất nhập khẩu, hạn ngạch
- Obama thông qua chính sách “ Đồng đô la yếu”, là động lực chính chuyển
đổi từ 1 nền kinh tế nhập khẩu cao với tỉ lệ tiết kiệm thấp sang nền kinh tế
hướng xuất khẩu với tỉ lệ tiết kiệm cao. Mục tiêu là tăng cường xuất khẩu,
giảm nhập khẩu.
II.4.2. Kết quả của các chính sách
Những nỗ lực khắc phục hậu quả sau khủng hoảng suy thoái 2008 của Cục
dự trữ Liên bang Mỹ FED và của chính phủ Mỹ cuối cùng cũng được đền đáp.
Đến hết năm 2012, tăng trưởng GDP của Mỹ là 2,8%, tăng 0,6 điểm phần trăm
so với số liệu đã được công bố. GDP của Mỹ trong cả năm 2012 đạt 15.700 tỷ
USD.
Năm 2013, thâm hụt ngân sách giảm xuống dưới 1000 tỷ USD. Cán cân thu
chi ngân sách của chính phủ liên bang trong 7 tháng đầu của tài khóa 2013, bắt
đầu từ tháng 10/2012, thâm thủng tổng cộng 487,6 tỷ USD, giảm 32% so với
mức thâm hụt 720 tỷ USD cùng kỳ tài khóa trước.
Trong một dấu hiệu khác phản ánh đà phục hồi khá hơn của nền kinh tế, Bộ

Lao động Mỹ ngày 1/8 cho biết số công nhân Mỹ bị thất nghiệp trong tuần trước
là thấp nhất trong vòng hơn 5 năm qua. Số liệu Báo cáo cho thấy số công nhân
Mỹ nộp đơn xin hưởng trợ cấp thất nghiệp lần đầu chỉ ở mức 326.000 người,
giảm 19.000 người so với tuần trước nữa và thấp hơn dự báo 345.000 người của
các chuyên gia kinh tế. Đây là số lượng công nhân nộp đơn xin hưởng trợ cấp
thất nghiệp lần đầu thấp nhất kể từ tháng 1/2008, thời điểm nền kinh tế lớn nhất
thế giới bắt đầu rơi vào cuộc suy thoái tệ hại nhất kể từ thập niên 1930.
10
Kinh tế vĩ mô
Từ đầu năm 2013 tới nay, trung bình mỗi tháng kinh tế Mỹ tạo ra được
202.000 việc làm. Tổng số công nhân Mỹ bị sa thải từ đầu năm 2013 đến nay là
523.362 người, mức thấp nhất kể từ năm 1997.
Bộ Lao động cho biết việc làm tại Mỹ trong tháng 7 tăng thêm 162.000 số
việc làm. Như vậy tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ đã xuống mức 7,4%, thấp nhất kể từ
năm 2008.
Chiều hướng cho thấy thị trường lao động Mỹ vẫn đang được mở rộng và
không có dấu hiệu chậm lại cho dù tốc độ tăng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
trong quý II vừa qua chỉ đạt 1,7%.
III. Kết luận
Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới 2007-2010 đã tác động sâu rộng
vào mọi mặt của nhiều nền kinh tế trên thế giới. Nhiều quốc gia đã và vẫn đang
gánh chịu những tổn thất nặng nề do cuộc khủng hoảng này gây ra: đổ vỡ tài
chính, suy thoái kinh tế, suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất
nghiệp. Tuy nhiên, cùng với những nổ lực đối phó mang tính toàn cầu của các
nước, vào cuối năm 2009 đầu năm 2010, Kinh tế thế giới đã bước đầu có những
dấu hiệu phục hồi: từ mức tăng trưởng âm năm 2008, năm 2009 kinh tế thế giới
tăng trưởng ở mức 1.1% và Theo dự báo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) thì kinh
tế thế giới năm 2010 sẽ tăng trưởng 3,1%. Mặc dù vậy vẫn là thấp hơn nhiều so
với mức trên 5% của hai năm 2006, 2007 và các mức 4,9% và 4,5% của năm
2004, 2005 (là giai đoạn trước khi cuộc khủng hoảng nổ ra). Tuy nhiên đây cũng

là một dấu hiệu khả quan cho thấy kinh tế thế giới đang ở vào giai đoạn phục
hồi. Cùng với sự phát triển năng động của các nước Châu Á (đặc biệt là Trung
Quốc) cũng như sự ấm dần lên của thị trường chứng khoán, dầu mỏ toàn cầu,
các chuyên gia dự đoán kinh tế thế giới sẽ tiếp tục phục hồi nhanh trong những
năm tới.
Cũng qua cuộc khủng hoảng này, các nước tự rút ra cho mình bài học kinh
nghiệm:
- Thứ nhất, phải có tính tư lợi luôn luôn đúng, mà ở đây, chính bởi lòng
tham của chủ các ngân hàng cùng các nhà môi giới bất động sản đã dẫn
đến bùng nổ cuộc khủng hoảng kéo dài trầm trọng.
- Thị trường tự do và tăng cường vai trò điều tiết của chính phủ, gióng lên
hồi chuông cảnh báo về năng lực của các tổ chức có trách nhiệm kiểm tra,
giám sát hoạt động kinh doanh của các tổ chức tài chính.
11
Kinh tế vĩ mô
- Tổ chức xếp hạng tín dụng và rủi ro đạo đức, ở cuộc khủng hoảng này, vì
sự đánh giá cao của các tổ chức như AIG về tính thanh khoản của các
ngân hàng, về khả năng trả nợ của người đi vay cho nên tình trạng cho
vay dưới chuẩn diễn ra ồ ạt, các nhà đầu cơ đi mua ráo riết mua các chứng
khoán phái sinh MBS,… dẫn đến hậu quả tài chính nghiêm trọng
- Những mô hình chỉ có giá trị giới hạn: khủng hoảng xảy ra với quy mô
lớn khiến các nhà cầm quyền trở nên lúng túng, các chính sách kinh tế vĩ
mô được đem ra dựa theo học thuyết của Keynes, nhưng trên thực tế vẫn
không khôi phục hoàn toàn được nền kinh tế.
12
Kinh tế vĩ mô
IV. Tài liệu tham khảo
- />2008-2010-19155/
- />nam-2008-61934/
13

×