Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 6 TRƯỜNG THCS BA CỤM BẮC NÂNG CAO KỸ NĂNG LÀM VĂN MIÊU TẢ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.11 KB, 15 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KHÁNH SƠN
TRƯỜNG THCS BA CỤM BẮC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 6
TRƯỜNG THCS BA CỤM BẮC NÂNG CAO KỸ NĂNG
LÀM VĂN MIÊU TẢ

Giáo viên: Nguyễn Thị Mai Hoa
NĂM HỌC: 2012 - 2013

1


MỤC LỤC
1.

Đặt vấn đề ………………………………………………… Trang 3

2.

Giải quyết vấn đề ………………………………………… Trang 4

2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề…………………………………… Trang 4
2.2. Thực trạng của vấn đề………………………………………Trang 5
2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề……………Trang 7
2.3.1. Cung cấp vốn từ, làm giàu vốn từ cho học sinh……………Trang 7
2.3.2. Rèn kỹ năng viết câu văn…………………………………..Trang 7
2.3.3. Rèn kỹ năng xác định đúng yêu cầu đề bài…………………Trang 7
2.3.4. Hướng dẫn cách tìm ý cho bài văn miêu tả…………………Trang 8


2.3.5. Rèn kỹ năng diễn đạt………………………………………..Trang 8
2.3.6. Rèn luyện kỹ năng dựng đoạn văn………………………….Trang 9
2.3.7. Rèn kỹ năng sử dụng lời văn chuyển cảnh, liên kết đoạn…..Trang 10
2.3.8. Rèn kỹ năng viết mở bài và kết bài…………………………Trang 10
2.3.9. Rèn cho học sinh có ý thức sưu tầm, tích lũy các hình ảnh văn học
Trang 11
2.4 Hiệu quả của SKKN…………………………………………..Trang 13
3. Kết luận ……………………………………………………….Trang 14
4. Kiến nghị, đề xuất ……………………………………………Trang15

2


1. Đặt vấn đề
“Văn học là nhân học”. Văn học có vai trị rất quan trọng trong đời sống
và trong sự phát triển tư duy của con người. Là môn học thuộc nhóm khoa học
xã hội.
Mơn Ngữ Văn trong nhà trường là môn học vừa mang tính nghệ thuật vừa
mang tính khoa học. Nó là chìa khóa để học sinh tiến vào mọi lĩnh vực khoa
học, mọi hoạt động xã hội. Nó có tác dụng sâu sắc và lâu bền đến đời sống tâm
hồn và trí tuệ của các em. Văn học có tác động sâu sắc, mạnh mẽ đến tư tưởng,
tình cảm, cảm xúc của con người.
Có thể nói rằng, mơn Ngữ văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan
điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Môn Ngữ văn thể hiện rõ mối quan hệ
với các môn học khác. Học tốt môn Ngữ văn sẽ tác động tích cực tới các mơn
học khác và ngược lại, các mơn học khác cũng góp phần học tốt mơn Ngữ văn.
Điều đó đặt ra u cầu tăng cường tính thực hành, giảm lý thuyết, gắn học với
hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú, sinh động của cuộc sống.
Đối tượng học sinh ở bậc Trung học cơ sở rất hồn nhiên trong trắng như
vùng đất phù sa màu mỡ phì nhiêu. Giáo viên cùng tồn xã hội phải có trách

nhiệm gieo trồng những hạt giống tốt để thu hoạch hoa thơm trái ngọt về cả tri
thức và đạo đức. Với mơn Ngữ văn thì hạt giống tốt về kiến thức Văn học không
chỉ riêng ý nghĩa sâu sắc từ mỗi bài học hay một khái niệm Tiếng Việt nào đó
mà học sinh cần phải có được những kỹ năng tốt để làm một bài văn một cách
thành thạo. Mặt khác, như chúng ta đã biết, Văn học từ lâu nay đã là một môn
khoa học xã hội sâu sắc song lại là một môn học khiến nhiều học sinh ngại học,
ngại viết. Vậy đối với giáo viên giảng dạy bộ mơn Ngữ văn lớp 6 ngồi việc
cung cấp nội dung bài dạy theo hướng dẫn của sách giáo khoa, chuẩn kiến thức
kỹ năng, sách giáo viên thì phải quan tâm đến phương pháp rèn kỹ năng hành
văn cho học sinh. Cụ thể ở đây là rèn kỹ năng làm bài văn miêu tả.
Việc rèn kỹ năng làm văn miêu tả trước hết rất thiết thực cho phần làm
văn miêu tả và góp phần nâng cao chất lượng bộ môn cho học sinh. Đặc biệt rèn
kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh còn là việc tháo gỡ những vướng mắc,
xóa đi mặc cảm học văn của một số học sinh. Từ đó xây dựng và phát triển tình
u với mơn văn học trong nhà trường cho học sinh. Giúp các em có được từ
tình u với cảnh vật bình thường: dịng sơng, núi rừng, mái trường… cho đến
tình yêu với người thân trong gia đình, bè bạn, thầy cơ… rộng hơn là tình u
q hương đất nước trong tâm hồn các em học sinh. Muốn làm được điều đó
nhất thiết học sinh phải có một phương pháp, kỹ năng trong việc làm một bài
văn miêu tả cụ thể.

3


2. Giải quyết vấn đề
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề
Học sinh tiểu học bước đầu đã được làm quen với dạng văn miêu tả (tả đồ
vật, tả con vật, tả cây cối, tả người...) nhưng lên bậc Trung học cơ sở các em
vẫn còn lúng túng, chưa thành thạo trong việc sử dụng ngơn ngữ thích hợp
để viết bài. Cho nên, rèn luyện để nâng cao kỹ năng làm văn miêu tả cho

học sinh lớp 6 là vấn đề hết sức cần thiết đối với giáo viên nhằm giúp các
em thành thạo sử dụng ngôn ngữ trong văn miêu tả, nâng cao chất lượng
bài làm văn.
Theo "Từ điển Tiếng Việt cơ bản" (Nguyễn Như Ý- chủ biên), "Từ điển
tiếng Việt" (Viện ngôn ngữ học), sách giáo khoa phổ thơng... Nhìn chung, các
định nghĩa đều có cái nhìn giống nhau về ngôn ngữ miêu tả: Miêu tả là dùng
ngôn ngữ hoặc một phương tiện nghệ thuật nào đó làm cho người khác có thể
hình dung được cụ thể sự vật, sự việc, con người. Muốn miêu tả đựơc phải quan
sát, tổ chức sắp xếp các chi tiết theo logic, lựa chọn từ ngữ, cách đặt câu, dựng
đoạn một cách có nghệ thuật... cốt để làm nổi bật cái thần, cái hồn của đối
tượng miêu tả.
Để làm được bài văn miêu tả, thông thường học sinh phải nhớ được các
yêu cầu sau:
Trước hết, ngơn ngữ miêu tả là phải có tính chính xác. Ngơn ngữ miêu tả
chính xác là ngơn ngữ miêu tả sát đúng, cụ thể từng biểu hiện của sự vật, sự
việc, con người (ngay cả ý nghĩ, tư tưởng...). Bởi văn học phản ánh cuộc sống
một cách chân thực, do đó "văn muốn hay là phải đúng" (Lê Q Đơn). Tả con
mèo thì mắt phải trịn, tiếng kêu “meo meo”, ngủ “lim dim”, đi “nhẹ nhàng”…
Tả người thì tùy vào đối tượng đó là ai mà sử dụng ngơn ngữ phù hợp, khơng
thể tả mái tóc, nước da của em bé cũng giống như người lớn được…
Thứ hai, tính hàm súc. Hàm súc nghĩa là súc tích, ít lời mà nhiều ý. Đây là
đặc điểm nổi bật đối với văn miêu tả bởi có thế thì đối tượng cần tả mới nổi bật,
gợi cảm. Nhà văn Tô Hoài tả: "Nhưng hai bên sườn núi trong các lũng vẫn chỉ
sừng sững một màu đá xám ngắt, không thấy đâu một chút vàng lúa chín" (Cứu
đất cứu mường) qua đó mà đó lột tả được cảnh núi rừng miền Tây Bắc.
Thứ ba, tính hình tượng. Ngơn ngữ miêu tả giàu hình tượng là ngơn ngữ
giàu hình ảnh, đường nét màu sắc, âm thanh, nhạc điệu... có khả năng gây ấn
tượng mạnh, tác động sâu xa trong trí tưởng tượng và cảm nhận của người đọc.
Tả con đêm trăng thì “sáng vằng vặc”, tả con suối thì màu “trắng xóa”, chảy
“róc rách”…

Thứ tư, ngơn ngữ phải mang tính truyền cảm. Thơng qua hệ thống tín hiệu
ngơn ngữ, nhà văn phải bộc lộ những cung bậc tình cảm khác nhau, có thể là
niềm vui hay nỗi buồn, yêu thương hay giận hờn... trước đối tượng mình tả. Tứ
đó mà hướng dẫn nhận thức và thôi thúc hoạt động của con người. Hướng dẫn
4


học sinh tả con vật thì phải sử dụng những từ ngữ yêu thương, quý mến như:
nhớ, thương, yêu quý... hay tả mẹ thì dùng những từ như: biết ơn, u q,
thương u...
Tính cá thể hố cũng là một u cầu cao đối với văn miêu tả. Mỗi học
sinh do xu hướng, sở trường, thị hiếu, tập quán, tâm lý xã hội, cá tính mà hình
thành giọng điệu riêng, cái vẻ riêng về cách dùng từ, đặt câu, dựng đoạn trong
bài văn. Có như vậy người đọc nhận ra một bài văn có phong cách. Nó tạo nên
giá trị biểu cảm, gợi hình, gợi nét và "gợi cho người đọc cảnh hiện ra y như
thật" (Hà Minh Đức). Ví dụ nhà văn Tơ Hồi tả: "Bây giờ, buổi sáng mùa đông
khô ráo. Từ mặt đất, mây mù dần cất cao như một mành sương cuộn lên, lần
đầu tiên trông thấy đồng lúa chín, rồi nước suối Nậm Giơn óng ánh sáng, rồi
các nóc nhà trong làng nhấp nhơ, rồi thấy ngang lưng quả núi xanh ngắt”.
Như vậy, rèn luyện nâng cao kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 6
là một trong những vấn đề cần thiết trong dạy học mơn Ngữ văn. Bởi nếu khơng
thì học sinh viết bài tùy tiện, tùy hứng dẫn đến chất lượng bài văn kém và kéo
theo các dạng văn khác các em cũng không thể làm tốt được, bởi văn miêu tả
còn được vận dụng trong các dạng văn khác nữa như văn kể chuyện, trần thuật,
phát biểu cảm nghĩ, tưởng tượng…
2.2. Thực trạng của vấn đề
Văn học là một bộ môn nghệ thuật sáng tạo ngôn từ đầy giá trị. Có thể coi
mỗi một tác phẩm văn học là một viên ngọc trong cuộc sống, nó bay bổng tạo
nên những khúc nhạc làm cho cuộc sống đời thường thêm chất thơ. Để rồi từ đó
các em nói ra, viết ra những điều mà các em đã học đã cảm nhận trong cuộc

sống xung quanh thường ngày, tự các em tạo nên những tác phẩm nghệ thuật
“bé con” có giá trị. Đó là một việc làm mà mọi giáo viên đang tìm hướng đi nhẹ
nhàng nhất và có hiệu quả nhất cho riêng mình.
Trong các mơn học của bậc Trung học cơ sở thì Ngữ văn là môn học giữ
vị trí quan trọng, bởi nó là công cụ để giao tiếp và tư duy. Đó là môn học góp
phần hình thành và phát triển ở học sinh 4 kỹ năng: nghe – nói – đọc – viết.
Trong môn Ngữ văn thì phân môn Tập làm văn lại chiếm một vị trí khá quan
trọng vì nó là sự tích hợp 4 kỹ năng của học sinh.
Trong đời sống, muốn người khác công nhận ra những điều mình đã nhìn
thấy, đã sống, đã trải qua… chúng ta phải miêu tả. Trong văn học, các câu
chuyện, các cuốn tiểu thuyết, thậm chí ngay cả trong văn nghị luận hay văn viết
thư, nhiều lúc ta cũng chen vào các đoạn văn miêu tả. Vì thế, có thể nói văn
miêu tả có một vị trí quan trọng trong sáng tác văn chương. Cũng vì thế văn
miêu tả chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình Tập làm văn lớp
6.
Theo chương trình sách giáo khoa lớp 6, tồn bộ chương trình Tập làm
văn học kỳ II là văn miêu tả. Bao gồm các kiểu bài: tả cảnh và tả người. Như
vậy, việc rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh là một việc làm vô cùng
5


quan trọng và cần thiết. Điều đó tạo tiền đề vững chắc để học sinh làm được
những bài văn hay, câu văn súc tích, giàu hình ảnh, diễn đạt rõ ý, cảm xúc chân
thật, sinh động và sáng tạo. Để tạo điều kiện cho học sinh có những cơ sở học
tốt tất cả các kiểu bài miêu tả (kể cả tả cảnh và tả người) đòi hỏi người giáo viên
phải đổi mới phương pháp dạy học. Lấy học trò làm trung tâm, còn thầy chỉ là
người tổ chức hướng dẫn, trò tự khám phá và lĩnh hội tri thức. Có như vậy thì
mới nâng cao được hiệu quả và chất lượng giảng dạy.
Nhìn nhận vấn đề một cách cụ thể hơn chúng ta thấy: chương trình Ngữ
văn lớp 6 so với chương trình tiểu học mà các em đã làm quen có nhiều những

khái niệm trừu tượng. Riêng làm văn, địi hỏi các em phải có cách viết già dặn
hơn, sinh động hơn và đặc biệt trong văn miêu tả phải có hình ảnh sống động,
thuyết phục lịng người. Điều đó khơng thể đi từ lý thuyết sang thực hành ngay
được, bởi tư duy của lứa tuổi các em học sinh lớp 6 còn là tư duy cụ thể, chưa
tiếp nhận ngay được những kiến thức trừu tượng. Cảm nhận của các em còn đơn
giản, cụ thể, vốn từ, vốn hiểu biết phần nhiều còn nghèo nàn… do vậy mà bài
viết của các em thơ sơ chưa có nhiều tính hình ảnh, sáng tạo nghệ thuật.
Thực sự mà nói thì các em đã quá quen với việc thực hành viết văn dạng
văn bản mẫu và tái tạo văn bản tương tự mẫu ở cấp tiểu học. Cho nên việc sáng
tạo một văn bản nghệ thuật đối với các em học sinh lớp 6 là vơ cùng khó khăn.
Hơn nữa sự say mê đọc tư liệu văn học của các em học sinh thời nay quả là ít ỏi,
hầu như là khơng có bởi những thơng tin hiện đại: hoạt hình, truyện tranh, dịch
vụ Internet tràn lan cuốn hút… Điều đó đương nhiên làm nghèo nàn vốn ngôn từ
nghệ thuật quý giá của văn học trong mỗi học sinh.
Trường THCS Ba Cụm Bắc là một trường vùng sâu, vùng xa, có nhiều
học sinh là người dân tộc Raclai nên việc tiếp thu kiến thức cịn gặp nhiều khó
khăn đặc biệt là khả năng diễn đạt. Khi vào thực tế giảng dạy, tôi thấy phần lớn
học sinh còn lúng túng, vụng về, gặp nhiều khó khăn khi làm văn miêu tả nói
chung văn tả cảnh nói riêng. Sớ học sinh làm được một bài văn hay, có sáng tạo
rất ít. Hầu hết khi miêu tả các em chỉ đưa ra những nhận xét chung chung, câu
văn thì rườm rà hoặc cộc lốc, diễn đạt ý thì lủng củng…
Xuất phát từ những cơ sở mang tính lý luận và thực tiễn như trên tơi nghĩ:
q trình “nâng cao kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 6” là một việc
làm thiết thực nên làm và làm một cách cặn kẽ để có hiệu quả tốt nhất. Giúp các
em biết cách diễn đạt, dùng câu từ chính xác, dễ hiểu, ngắn gọn mà rõ ràng, xóa
đi mặc cảm ngại học văn, tự tin, phấn khởi và yêu thích văn miêu tả trong phân
môn Tập làm văn. Bên cạnh khơi dậy trong các em tình u với mơn học cịn là
tình u với con người, thiên nhiên, cảnh vật đồ vật xung quanh.

6



2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
2.3.1. Cung cấp vốn từ, làm giàu vốn từ cho học sinh
Học sinh hiểu thêm một từ mới là hiểu thêm một khái niệm mới. Mà ngôn
ngữ gắn chặt với tư duy. Ngơn ngữ phát triển thì tư duy cũng phát triển theo.
Làm giàu vốn từ cho học sinh nhất là những từ tượng hình, tượng thanh, từ gợi
tả màu sắc… để giúp các em viết tốt thể loại văn miêu tả.
Có nhiều đề tài nhỏ để gợi cho học sinh tìm từ.
Ví dụ: Khi học văn tả người, giáo viên có thể cho học sinh tìm các từ
miêu tả về hình dáng như: tìm từ đơn, từ phức để miêu tả khn mặt, mái
tóc, đơi mắt, nụ cười, giọng nói, dáng đi…
2.3.2. Rèn kỹ năng viết câu văn
Luyện cho học sinh viết đúng câu ngữ pháp. Đầu tiên, học sinh chỉ cần
viết câu văn có đầy đủ bộ phận chủ ngữ và vị ngữ, diễn đạt câu văn sáng
sủa, ngắn gọn. Biết dùng dấu câu, ngắt câu đúng chỗ, ý tưởng muốn diễn
đạt sẽ rõ ràng hơn, người đọc sẽ hiểu được ý tưởng của mình. Tiếp theo là
hướng dẫn học sinh cách dùng dấu phẩy, sử dụng trạng ngữ để mở rộng
câu.
Ví dụ: Cho học sinh so sánh hai cách diễn đạt.
Cách 1: “Những chiếc xe đạp cọc cạch chạy. Mấy con bò đang gặm cỏ.
Em đã là học sinh lớp 6. Em nhớ thầy Đệ, người thầy làm Tổng phụ trách Đội
rất vui tính.”
Cách 2: “Trên con đường bon bon đến trường, những chiếc xe đạp cọc
cạch chạy. Xa xa, trên thảm cỏ xanh mượt, mấy con bò đang gặm cỏ ngon lành.
Thời gian thấm thoắt thoi đưa, mới ngày nào… giờ em đã là học sinh lớp 6.
Những buổi chiều sinh hoạt Đội làm lòng em lại nao nao nhớ về thầy Đệ, người
thầy rất vui tính năm xưa.”
Qua hai cách diễn đạt trên học sinh sẽ dễ dàng nhận ra câu văn có sử
dụng bộ phận trạng ngữ, dùng dấu câu thích hợp thì nội dung sẽ cụ thể và

sinh động hơn.
Cụ thể trong quá trình giảng dạy, giáo viên rèn luyện cho học sinh kỹ
năng làm bài văn miêu tả đặc biệt là tả cảnh như sau:
2.3.3. Xác định đúng yêu cầu đề bài
Ví dụ: đề bài: “Em hãy miêu tả quê hương em vào một buổi chiều
nắng đẹp”
Giáo viên cho học sinh thấy: đây là một đề bài dạng miêu tả cảnh
tổng hợp. Thế nào là cảnh tổng hợp? Giáo viên chỉ cho học sinh thấy, xác
định cảnh tổng hợp nhờ những từ ngữ: một miền quê, quê hương em, cảnh
nơi em ở… Cảnh tổng hợp là gồm nhiều cảnh nhỏ, cảnh lẻ. Những cảnh
7


nhỏ, cảnh lẻ của quê hương thường là: cánh đồng, dịng sơng, con đường…
Sau đó giúp học sinh miêu tả cảnh cụ thể ở thời gian nào? Cảnh đó như thế
nào? Việc xác định đúng yêu cầu của đề giúp các em rất nhiều trong việc
định hình được đối tượng miêu tả.
2.3.4. Hướng dẫn cách tìm ý cho bài văn miêu tả
Khi học sinh đã xác định đúng yêu cầu của đề, xác định chính xác đối
tượng miêu tả nhưng chắc chắn chưa thể định hình được hướng đi cho bài viết.
Để giúp học sinh định hình đúng hướng đi của bài viết văn miêu tả cần hướng
dẫn cho học sinh bước tìm ý:
Nhất thiết phải theo một trình tự: tìm ý bao qt của cảnh chung khơng
gian sẽ tả, sau đó cụ thể sẽ có những cảnh nào? Cảnh như thế nào?
Bao quát không gian tả cảnh được coi là một thao tác sơ thảo của bức
tranh miêu tả. Vậy học sinh cần phải nắm được cách viết phần bao quát cảnh
không gian như thế nào? Thực tế cho thấy học sinh thường viết cộc lốc, cụt
ngủn, có khi chỉ được một, hai câu cho phần tả bao quát. Giáo viên nên hướng
dẫn học sinh:
Để tả cảnh bao quát, trước hết phải có câu xác định vị trí miêu tả khái

quát. Thường là một vị trí cao hơn, xa cảnh trung tâm để có thể chụp được tồn
cảnh miêu tả vào tầm mắt của người quan sát một cách tương đối trọn vẹn.
Sau câu văn giúp được người đọc biết được vị trí của người quan sát là
những lời văn nhận xét, đánh giá khái quát đầy nghệ thuật về cảnh chung
đó. Nên lưu ý học sinh: lời nhận xét đánh giá là những lời văn sử dụng linh
hoạt các biện pháp tu từ sao cho cảnh nổi lên sống động, tự nhiên, hồn hậu,
trong sáng… sát với yêu cầu của đề.
Ví dụ: đứng trên đỉnh đèo, ngắm nhìn tồn cảnh làng q, em như đang
dắm mình trong chốn bồng lai tiên cảnh của một miền quê yên bình, trù phú
giữa chờn vờn sương sớm….
2.3.5. Rèn kỹ năng diễn đạt
Tìm được đặc điểm tiêu biểu của cảnh sẽ tả đã là một bước quan trọng
song chưa phải là đã tả cảnh. Miêu tả cảnh là dựng lại được một cách sống động,
chân thực, nghệ thuật.
Qua chấm bài văn của học sinh, tực tế đáng buồn là vốn ngôn từ của các
em rất nghèo nàn, diễn đạt lủng củng, thường xuyên xảy ra hiện tượng bí từ,
dùng sai nghĩa, lặp từ, lặp ý… Vì vậy giáo viên cần phải trau dồi ngôn từ
nghệ thuật cho học sinh. Đầu tiên, tạo được trong lịng học sinh sự u thích
ngơn từ nghệ thuật. Giáo viên cung cấp và phân tích một số tư liệu được
chọn lọc trong các tác phẩm của nhà văn.
Ví dụ: Miêu tả cảnh trong vườn dưới nắng chiều.
8


“Chiều buông, ánh mặt trời trở nên vàng sậm hơn, ánh chiều trải vàng trên
cành lá, mái nhà một màu vàng óng nom đẹp lạ, vườn cây nhà em cũng vậy.
Giàn bầu xanh tươi, lá non màu xanh nhạt, lá già thì xanh thẫm, ánh nắng chiều
chiếu xuống giàn bầu, bí, cái lá xanh ngắt lọc qua một lượt hắt một màu xanh
ngọc bích xuống vườn. Nhãn, bưởi, mít và các loại cây khác nữa tất cả đều xanh
um tùm, nhìn như chiếc ơ khổng lồ. Đó là màu xanh no nắng, no gió, no thức

ni cây. Vườn cây lao xao, gió thoảng đâu đây mùi hương quả chín, hương
hoa ngọt lịm…”
Sau mỗi đoạn văn như thế giáo viên phân tích những hình ảnh ngơn
từ nghệ thuật sáng giá sao cho tạo được hứng khởi ở học sinh, kích thích
các em thích tìm, viết những lời văn hay.
Sau khi tạo hứng thú cho học sinh qua cách tiếp xúc với các tư liệu chọn
lọc mới cho các em luyện tập diễn đạt bằng hình thức giáo viên đưa ra một loạt
hình ảnh, yêu cầu học sinh dùng lời văn kết hợp các biện pháp nghệ thuật so
sánh, nhân hóa, sử dụng những từ láy gợi hình để tập diễn đạt.
Ví dụ: Hình ảnh cánh đồng: Cánh đồng rộng, trải dài, mơn mởn dang tay
ơm lấy xóm làng như người mẹ hiền trìu mến ơm con.
Ở giai đoạn rèn luyện kỹ năng diễn đạt này giáo viên đặc biệt chú ý đến
các biện pháp nghệ thuật: so sánh, nhân hóa…trong các câu văn. Có thể nói so
sánh hay để tạo những nốt luyến cho những bản nhạc ngôn từ, những nét đậm
của bức tranh ngôn ngữ. Hướng cho chọ sinh luyện tập cách dùng các biện pháp
nghệ thuật khác nhau sao cho thật đa dạng, phong phú, gợi cảm, tạo ấn tượng
cho người đọc.
Ví dụ:
Dịng sơng q em dưới đêm trăng mềm mại như một áng tóc trữ tình.
Cổng trường đang dang rộng vịng tay đón chúng em vào lớp.
Bơng hoa hồng xinh đẹp đang tươi cười và thì thầm tỏa hương thơm
Các bạn sinh đang nô đùa trên sân trường tựa như một đàn bướm
xinh tung tăng bay lượn
2.3.6. Rèn luyện kỹ năng dựng đoạn văn
Dựng đoạn văn chính là cách sắp xếp các lời văn diễn đạt sao cho hợp lý,
logich, chặt chẽ, mạch lạc. Học sinh thường lúng túng khơng biết tả cảnh cụ
thể là cảnh gì? Tả như thế nào? Theo trình tự từ đâu? Chính vì điều này
nên trong bài viết của các em thường sa vào kể lể, liệt kê cảnh một cách
tràn lan, không làm nổi bật được những đặc trưng của cảnh, không tạo
được ấn tượng cho người đọc về cảnh được tả. Để khắc phục tình trạng này

giáo viên nên hướng cho học sinh hình dung mỗi một cảnh nhỏ sẽ viết thành
một đoạn văn trọn vẹn. Trong đoạn văn đó sẽ đi từ khái quát đến cụ thể.
Bao giờ câu đầu đoạn cũng là câu miêu tả khái quát cảnh đó.
9


Ví dụ: Tả khái qt cảnh dịng sơng: dưới chân em là dịng sơng hiền hịa
chảy như một tấm lụa mềm mại trải dài xa tít.
Sau câu tả khái quát là các câu miêu tả cụ thể theo trình tự từ gần đến xa
theo tầm mắt.
Ví dụ: Mùa này sơng lưng chừng nước, nước sơng trong xanh in bóng
mây trời sâu thẳm. Trên mặt sơng có những chiếc lá như chiếc thuyền tý
hon dập dềnh trên sóng nước bao la.
Trong quá trình miêu tả cụ thể giáo viên lưu ý cho học sinh trình tự miêu
tả cho phù hợp với vị trí quan sát kết hợp lời văn so sánh, lời văn nhận xét, đánh
giá và sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú. Ý câu trước và câu sau logich với
nhau tạo độ kết về mặt nghĩa, những câu đoạn cuối thường là những câu có ý
nghĩa sâu sắc, làm đậm nét cho bức tranh miêu tả.
Cứ như vậy giáo viên cho học sinh luyện viết thành nhiều đoạn cho nhiều
cảnh.
2.3.7. Rèn kỹ năng sử dụng lời văn chuyển cảnh, liên kết đoạn
Lời văn chuyển cảnh khơng nhiều nhưng có tác dụng rất lớn trong việc
liên kết, liên hoàn mạch văn. Có các cách chuyển cảnh:
Các cảnh nhỏ được nối tiếp nhau một cách tự nhiên theo mơ típ liên cảnh
(cảnh kề gần nhau theo tầm quan sát).
Ví dụ: Chỉ một lát con đường đã dẫn đến ngôi trường dấu yêu. Ngôi
trường mang tên… Sân trường…. Cây bàng…
Chuyển cảnh theo gam màu.
Ví dụ: Nắng nhưng khơng chói chang gắt gỏng, mưa nhưng không ào ào
đột ngột bất chợt đến rồi đi và bằng lăng đã nhạt dần sắc tím. Thời gian chuyển

động chầm chậm từ hạ sang thu…
Chuyển cảnh bằng cách nối âm thanh với khơng gian.
Ví dụ: Trong khơng gian ẩm ướt của sương sớm, cả làng quê đang
yên bình trong giấc ngủ bỗng bừng tỉnh bởi tiếng gà gáy râm ran báo
sáng…
Chuyển cảnh bằng cách liên tưởng theo sự quan sát qua các giác
quan khác nhau: Thính giác, thị giác, khứu giác, vị giác…
Ví dụ: Vườn cây lao xao, gió thoảng đâu đây mùi hương quả chín, hương
hoa thơm ngọt lịm. Tiếng chim líu lo như đem hương thơm ấy bay cao, bay
xa….
2.3.8. Rèn kỹ năng viết mở bài và kết bài
Giáo viên đưa ra cách mở bài để học sinh luyện tập.
Mở bài trực tiếp: giới thiệu thẳng (trực tiếp) vào đối tượng cần miêu tả.
10


Mở bài gián tiếp: Lấy một sự vật khác để nói đến sự vật mình định
miêu tả. Trích dẫn một vài câu văn, câu thơ, một nhận xét nào đó để đi vào
đối tượng cần tả hoặc nêu lại một kỷ niệm, một cảm xúc đã gắn bó với
mình…
Ví dụ: Cứ mỗi lần nghe câu hát “quê hương là chùm khế ngọt, cho con
trèo hái mỗi ngày, quê hương là đường đi học, con về rợp bướm vàng bay...” là
trong lòng em lại xốn xang một cảm giác nhớ quê đến lạ kỳ! Quê hương em
– một vùng đất yên bình, tươi đẹp…
Sau khi luyện cho học sinh cách viết mở bài, giáo viên tiếp tục luyện
cho các em cách viết kết bài.
Kết bài không những đủ ý chốt của bài viết mà còn tạo nên độ lắng
cho nốt trầm xao xuyến vang vọng trong tâm hồn người đọc. Thông thường
kết bài phải bộc lộ rõ suy nghĩ, cảm nhận về đối tượng cần tả.
Ví dụ: Ánh mặt trời dần buông. Đêm đến, bầu trời như mặc một

chiếc áo nhung đính những hạt kim cương lấp lánh. Cả làng quê chìm vào
giấc ngủ - quê hương em, nơi in đậm ký ức tuổi thơ.
2.3.9. Rèn cho học sinh có ý thức sưu tầm, tích lũy các hình ảnh văn
học:
Giáo viên yêu cầu mỗi học sinh có một “sổ tay văn học”. Qua các tiết
giảng văn, qua việc đọc thêm các bài văn, bài thơ ngoài sách giáo khoa, giáo
viên giúp học sinh phát hiện và ghi lại những “lời hay ý đẹp” vào quyển số cá
nhân của mình. Bởi vì sưu tầm, tích lũy, ghi chép những câu văn hay, những câu
thơ giàu hình ảnh, cảm xúc… lâu dần sẽ thấm hình ảnh văn học được tích lũy
giống như ngun vật liệu thì “ tịa lâu đài văn học” của các em càng to, càng
đẹp. Điều này sẽ làm tăng vốn từ của các em giúp các em mau tiến bộ để từ đó
có kỹ năng viết tốt.
Ví dụ: Sau khi học xong bài “Cô Tô” (Nguyễn Tuân), giáo viên hướng
dẫn học sinh chọn và chép ra đoạn văn hay nhất tả cảnh mặt trời mọc trên biển:
“Sau trận bão, mặt trời nhú lên dần dần rồi lên cho kỳ hết. Tròn trĩnh phúc hậu
như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm
và đường bệ đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân
trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng. Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ
trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới
trên muôn thuở biển Đông”
* Lưu ý: Văn miêu tả gắn chặt với tâm hồn cũng như với óc quan sát tinh
tế của con người. Chính những kết quả quan sát đã giúp cho học sinh những cảm
nhận về sự vật, hiện tượng cần miêu tả. Vì vậy, một trong những điều quan
trọng khơng thể thiếu được khi cho học sinh viết bài văn miêu tả đó là phải biết
quan sát và ghi chép. Qua trực quan học sinh biết tả bao quát, biết tả cụ thể từng
bộ phận và nêu được đặc điểm nổi bật của cảnh được tả. Chính điều này đã
11


khích lệ khả năng muốn được bộc lộ của các em, tăng cường khả năng thực hành

ngôn ngữ để các em biết diễn đạt những suy nghĩ, cảm xúc của mình bằng lời
nói, từ đó viết nên bài viết một cách mạch lạc, rõ ràng.
Ngoài ra, để một bài văn miêu tả giàu tính chân thực và sinh động, giáo
viên hướng dẫn các em khi miêu tả cần khéo léo, kết hợp và vận dụng linh hoạt
các biện pháp nghệ thuật: so sánh, nhân hóa hay sử dụng nhiều những từ ngữ gợi
tả, gợi cảm, từ láy, từ tượng hình, từ tượng thanh….Từ đó các em sẽ có những
bài viết thực sự chân thực, sinh động.
Để rèn luyện các kỹ năng trên, giáo viên có thể thực hiện trong các tiết
giảng dạy thơng qua các bài dạy: Tìm hiểu chung về văn miêu tả; Quan sát,
tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong văn miêu tả; Luyện nói về quan sát,
tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong văn miêu tả; Phương pháp tả cảnh;
Phương pháp tả người; Luyện nói về văn miêu tả; Ôn tập văn miêu tả. Tùy nội
dung cụ thể của từng bài học mà giáo viên có thể linh hoạt lựa chọn rèn một
trong số các kỹ năng trên cho phù hợp. Đặc biệt, để rèn luyện tốt các kỹ năng
trên giáo viên có thể áp dụng trong các tiết trả bài, các tiết dạy vào buổi chiều.

12


2.4. Hiệu quả của SKKN
Qua q trình thực hiện, tơi nhận thấy rằng với những giải pháp cơ bản
nêu trên đã mang lại hiệu quả đáng kể.
Học sinh bước đầu đã biết viết bài văn miêu tả đúng yêu cầu.
Một số bài viết có ngơn ngữ khá hay, sinh động, khả năng dùng từ, diễn
đạt câu, chuyển ý linh hoạt, nhịp nhàng.
Điều đáng mừng là đã phá bỏ được mặc cảm của học sinh với môn Văn
trừu tượng là môn ngại nghĩ, ngại viết và không biết viết thế nào cho đúng. Đã
có một số em sáng tạo được những tác phẩm “bé con” giá trị của mình thể hiện
trong các bài viết định kỳ.
Bài viết Tập làm văn miêu tả số 05 khơng có điểm giỏi. Cụ thể số điểm

như sau:

Tổng số: 71 HS
Khối
6

Điểm giỏi

Điểm khá

Điểm trung bình

Điểm yếu

Điểm kém

0

10

35

17

09

Sau khi áp dụng các giải pháp nhằm nâng cao kỹ năng làm văn miêu tả, số
điểm của học sinh ở bài viết Tập làm văn số 06 như sau:

Tổng số: 71 HS

Khối
6

Điểm giỏi

Điểm khá

Điểm trung bình

Điểm yếu

Điểm kém

07

14

25

17

08

13


3.

Kết luận


Niềm vui của mỗi giáo viên Ngữ văn đứng lớp khơng chỉ là chất lượng
tính bằng con số của mỗi năm, mà chính là những ánh mắt long lanh vì đã hiểu
bài, những bàn tay tự viết ra được những lời văn óng ánh, những nụ cười thiện
cảm với mơn Văn từ phía học sinh. Đó là điều vơ cùng quý giá.
Kỹ năng viết bài Tập làm văn nhằm rèn luyện cho học sinh khả năng viết
bài văn theo đề bài đã cho. Bài viết Tập làm văn là sự kết tinh nhiều mặt của kỹ
năng: kỹ năng phân tích đề; kỹ năng tìm ý, chọn ý; kỹ năng dùng từ, đặt câu,
viết đoạn, viết bài; nâng cao năng lực sử dụng ngôn ngữ của học sinh. Viết tốt
một bài văn sẽ dần dần nâng cao vốn sống, vốn hiểu biết của học sinh.
Ngữ văn là môn học quan trọng trong nhà trường. Là mơn học vừa hình
thành nhân cách vừa hình thành tâm hồn. Trong thời đại hiện nay, khoa học kỹ
thuật phát triển rất nhanh, môn Ngữ văn sẽ giữ lại tâm hồn con người, giữ lại
những cảm giác nhân văn để con người tìm đến với con người, trái tim hòa nhịp
đập trái tim. Với sáng kiến kinh nghiệm này, kết quả học tập môn Ngữ văn
(phân mơn Tập làm văn) của học sinh có tiến bộ trơng thấy, các em đã bắt đầu
u thích, ham mê học Văn.
* Bài học kinh nghiệm:
Giáo viên phải thực sự kiên trì, mẫu mực trong cách dùng từ. Bên cạnh đó
giáo viên cần phải kiên trì trong việc kiểm tra, đánh giá, chỉnh sửa các phần viết
luyện kỹ năng của học sinh.
Giáo viên phải kiên trì hơn trong việc sưu tầm, chọn lọc tư liệu giá trị để
cung cấp cho các em đồng thời tìm cách hướng các em biết vận dụng sáng tạo
những tư liệu để biến thành cách diễn đạt riêng của bản thân.
Giáo viên tích cực sưu tầm tư liệu miêu tả thành những cuốn tư liệu quý
để lưu giữ trong tủ sách của Nhà trường.
Học sinh phải nhiệt tình, tự giác trau dồi vốn từ, ngơn từ nghệ thuật bằng
cả trái tim. Ngồi ra, phải biết quan sát, lựa chọn những hình ảnh tinh tế về đối
tượng miêu tả để học tập, vân dụng vào q trình viết bài.
Mỗi học sinh cần tích cực rèn luyện trí liên tưởng, tưởng tượng, năng lực
so sánh, ví von, nhập tâm vào cảnh được tả để bài viết có cảm xúc chân thật,

cuốn hút người đọc.

14


4.

Kiến nghị, đề xuất

Thư viện nhà trường nên có thêm tranh ảnh phục vụ tốt cho quá trình dạy
học văn miêu tả để học sinh có cái nhìn trực quan về đối tượng cần tả.
Thư viện nên có một tủ sách tham khảo trong đó có sách tham khảo của
bộ môn Ngữ văn (dành cho cả giáo viên và học sinh).

Ba Cụm Bắc, ngày 10 tháng 4 năm 2013
XÁC NHẬN CỦA BGH

Người viết

NGUYỄN THỊ MAI HOA

15



×