Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ cơ sở đoàn ở xã địch quả- thanh sơn - phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.76 KB, 45 trang )


TRUNG ƯƠNG ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH
Học viện thanh thiếu niên Việt Nam

Chuyên đề
tốt nghiệp
ĐỀ TÀI
Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và
bồi dưỡng cán bộ cơ sở Đoàn ở xã Địch quả- Thanh Sơn - Phú
Thọ
Giáo viên hướng dẫn : CAO MINH
Người thực hiện : HÀ XUÂN DUY
Líp : Trung cấp lý luận chính trị và nghiệp vụ
Đoàn Đội - Tỉnh Phú Thọ - Khoá 1
Niên khoá: 2004 -2006
PHÚ THỌ, THÁNG 1 NĂM 2006
1
LỜI CẢM ƠN.
Là một học viên của Học viện TTN Việt Nam học tại Phú Thọ, một cán bộ Đoàn
tương lai, sau hai năm được học tập và nghiên cứu tại học viện, đến nay chương trình học tập
đã kết thúc. Để có được kiến thức toàn diện khi trở thành người cán bộ Đoàn thực thụ đòi hỏi
mỗi học viên trước khi ra trường phải có nhận thức tốt cả về lý luận và thực tiễn công tác, cả
về tình hình kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước và tình hình của tổ chức Đoàn. Đặc biệt
phải nắm bắt được tình hình của tổ chức Đoàn cũng như phong trào thanh thiếu niên trên địa
bàn công tác sau khi tốt nghiệp. Theo kế hoạch học tập và được sự đồng ý của xã Đoàn Địch
Quả, em đã về thực tập tốt nghiệp tại Xã Đoàn 3 tháng, đến nay đã kết thúc và đạt kết quả tốt.
Với mong muốn thử sức mình bằng những kiến thức, lý luận và thực tiễn thông qua
chuyên đề đã lựa chọn: “Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và bồi
dưỡng cán bộ cơ sở Đoàn ở xã Địch Quả - Thanh Sơn - Phú Thọ”
Trong quá trình đi thực tế cơ sở và viết chuyên đề tốt nghiệp tại xã, tôi đã nhận được
sự giúp đỡ tận tình của các đồng chí trong ban thường vụ xã Đoàn; các đồng chí tại cơ sở


Đoàn nơi tôi về thực tế; cấp uỷ Đảng, chính quyền tại địa phương. Đặc biệt là sự giúp đỡ,
hướng dẫn của Cô giáo Cao Minh và các thày cô giáo của Học Viện TTN Việt Nam đã giúp
đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
PHẦN MỞ ĐẦU
2
I . LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Những năm qua, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới đã đạt được những thành quả
quan trọng, góp phần thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển. Công cuộc CNH, HĐH đất
nước do Đảng khởi xướng đã tạo niềm tin tuyệt đối của mọi tầng lớp nhân dân, uy tín của
Đảng được nâng cao trên trường quốc tế. Điều này đã và đang đặt ra những yêu cầu mới cho
phong trào Đoàn nói chung và công tác cán bộ Đoàn nói riêng , đặt ra những tiêu chuẩn, tiêu
chí mới đối với người cán bộ Đoàn và những nội dung mới trong công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ Đoàn bởi vì:
- Khi cơ cấu kinh tế thay đổi đã làm cho những thay đổi lớn về cơ cấu xã hội
Thanh niên trong cơ chế thị trường đòi hỏi hệ thôngtổ chức của Đoàn phải có những
yêu cầu mới về năng lực, phẩm chất của cán bộ Đoàn thanh niên hiện nay.
Khi điều kiện kinh tế- xã hội thay đổi, tạo ra một lớp thanh niên mới năng động, sáng tạo,
có sức khoẻ và tri thức cao. Đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ Đoàn đủ trình độ, năng lực
đáp ứng với trình độ của TN và yêu cầu nhiệm vụ của Đảng. Đó là trình độ lý luận chính trị ,
trình độ môn nghiệp vụ, kỹ năng công tác TTN, trình độ kinh tế, tin học, ngoại ngữ ….
- Từ những yêu cầu mới về phẩm chất năng lực của người cán bộ Đoàn trong thời
kỳ mới đòi hỏi những yêu cầu mới cho công tác đào tạo bồi duỡng cán bộ Đoàn thanh niên
trong thời kỳ CNH- HĐH đất nước.
Trong công tác đào tạo, theo báo cáo nhiệm kỳ VII (1997 - 2002) của BCH Trung ương Đoàn đã
có 971.000 lượt cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng, tăng 65,4% so với nhiệm kỳ VI (1992 - 1997). Tuy
vậy, số lượng này mới chỉ đáp ứng đợc 23,5% nhu cầ đào tạo cán bộ Đoàn chuyên trách. Về kinh phí
đào tạo chỉ đáp ứng được 30% nhu cầu. Những bất cập và tồn tại đó là chúng ta chưa có một cơ chế
chính sách cho đào tạo bồi dưỡng cán bộ đoàn hợp lý, thống nhất và cụ thể.
- Trong thực tế hiện nay công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn nói chung và công

tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ Đoàn cơ sở ở xã Địch Quả nói riêng đang thiếu hệ thống
quan điểm và chính sách cho công tác này Vấn đề đào tạo cán bộ Đoàn đang gặp nhiều
bức xóc
Hiện nay, chưa có một hệ thống các qui định riêng cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn
thanh niên mà các tổ chức Đoàn, các cấp bộ Đoàn chủ yếu dựa vào các chính sách có liên quan mà tổ
3
chức thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng mang tính “vận dông” là chủ yếu. Chính sách đào tạo cán
bộ Đoàn nói riêng chưa thật sự nằm trong mối quan hệ chặt chẽ với chính sách cán bộ của Đảng.
Nội dung đào tạo còn lạc hậu, máy móc không hiệu quả, Hệ thống trường đào tạo cán bộ Đoàn, đội,
hội trong cả nước có nhiều biến đổi .
Tóm lại : Do yêu cầu mới về phẩm chất năng lực của người cán bộ Đoàn; xuất phát từ thực trạng
của công tác đào tạo cán bộ Đoàn hiện nay còn nhiều bất cập, phải đòi hỏi Đảng , nhà nước và Đoàn
thanh niên cần có những chính sách, nội dung đào tạo cụ thể, hiệu quả cho công tác đào tạo bồi dưỡng
cán bộ Đoàn. Vì lý do này mà tôi nghiên cứu đề tài “Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ Đoàn cơ sở ở xã Địch Quả - Thanh Sơn - Phú Thọ”
II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
1-Mục đích của đề tài
Tìm hiểu thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng cán
bộ đoàn cơ sở hiện nay.Trên cơ sở đó tìm ra các giải pháp, kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao
chát lượng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ Đoàn cơ sở với các cấp, ngành liên quan,đặc biệt là
cấp bộ Đoàn để có sự điều hành ,chỉ đạo phù hợp đưa công tác tổ chức và đội ngũ cán bộ
Đoàn cơ sở đạt hiệu quả ,chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu mới trong giai đoạn hiên nay.
1.2. Nhiệm vụ vủa đề tài
- Thực tế hiện nay ở huỵện Đồng Hỷ,chỉ ra những ưu điểm và hạn chế ,qua đó rót ra
những bài học kinh nghiệm.
- Xác định phương hướng ,mục tiêu và những giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách
đào tạo ,bồi dưỡng cho cán bộ Đoàn trong tình hình hiện nay và đề xuất những phương án
,nội dung làm rõ một số vấn đề lý luận về việc nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng cán
bộ đoàn và một cố vấn đề liên quan .
- Phân tích thực trạng ,vận dụng chính sách đào tạo ,bồi dưỡng cho cán bộ Đoàn trong

thực đào tạo ,chính sách cán bộ đoàn thanh Niên.
III. KHÁCH THỂ ,ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4
1. Khác thể nghiên cứu
- Công tác tổ chức cán bộ Đoàn trên địa bàn xã Địch Quả.
- Công tác Đoàn-Hội -Đội và phong trào TTN xã Địch Quả.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác Đoàn của các cấp uỷ đảng ,chính quyền xã Địch Quả.
2. Đối tượng nghiên cứu
−Thực trạng công tác tổ chức và công tác cán bộ Đoàn cơ sở ở xã Địch Quả.
Những giải pháp nhằm đổi mới công tác tổ chức và nâng cao công tác cán bộ Đoàn xã
Địch Quả.
3. Phạm vi ngiên cứu
a. Không gian
- Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn xã Địch Quả
b. Thời gian
Đề tài được nghiên cứu trong thời gian từ năm 2002 đến năm 2005
IV. Phương pháp nghiên cứu và kết cấu của chuyên đề
1.1. Phương pháp nghiên cứu
-Nghiên cứu dựa trên phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng ,chủ nghĩa duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin để phân tích ,đánh giá thực trạng vấn đề nghiên cứu.
- Nghiên cứu các quan điểmcủa Đảng ,đường lối chủ trương và chính sách liên quan đế
công tác cán bộ Đoàn -Hội -Đội
-Tiến hành toạ đàm, phỏng vấn đến các đối tượng có liên quan tìm ra thực trạng về
công tác tổ chức và cán bộ Đoàn cơ sở .Qua dó biết được mối quan tâm ,tâm tư, nguyện vọng
của cấp cơ sở .
-Cùng sinh hoạt ,tham gia hoạt động trực tiếp với cán bộ đoàn cơ sở ,chi đoàn cơ sở để
thấy được những ưu khuyết điểm mang tính thực tiễn.
-Phân tích tổnh hợp ,đánh giá rút kinh nghiệm.
1.2 Kết cấu
Chuyên đề kết cấu gồm các phần:

- Phần mở đầu
- Phần thứ hai : Kết quả nghiên cứu của đề tài
- Chương I : Một số vấn đề về Lý luận
5
-Chương II : Thục trạng Công tác đào tạo cán bộ Đoàn ccơ sở hiện nay
- Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị
- Phần thứ ba : Kết luận,
Trong các phần có chia các chương ,các mục ,các tiết và có dang mục tham khảo và
phụ lục.
PHẦN THỨ II
6
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
CHƯƠNG I
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đoàn thanh niên trong sự nghiệp đổi mới đất
nướcvà một số vấn đề lý luận
I . MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG
a. Quan điểm khoa học về cán bộ Đoàn Thanh niên
Để lựa chọn, đào tạo, bồi dỡng và sử dụng cán bộ Đoàn có hiệu quả cũng nh đề ra
được chính sách cán bộ Đoàn đúng đắn, hợp lý thì việc hiện nay quan điểm về khái niệm
người cán bộ Đoàn còn nhiều tranh luận, bỏ ngỏ. Tuy nhiên để hiểu rõ hơn về khái niệm
này chóng ta phải đi từ bản chất của tổ chức Đoàn thanh niên:
Đoàn thanh niên là tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên, có vị trí quan trọng, giữ
vai trò quyết định trong việc phát triển phong trào Thanh thiếu niên và xây dựng tổ chức
Đoàn, Đội , Hội ; Là những người hình thành các chủ trương đồng thời tạo lập một quan hệ
của Đoàn với các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội khác ; Là lực lượng bổ
sung chủ yếu cho cơ quan của Đảng, nhà nước và các tổ chức chính trị, xã hội khác .
Từ quan điểm này ta có thể hiểu khái niệm về cán bộ Đoàn một cách cụ thể như sau:
- Trước hết cán bộ Đoàn Thanh niên phải là cán bộ chính trị - xã hội hay nói cách
khác là loại cán bộ vừa hoạt động chính trị, vừa hoạt động xã hội, vì đối tượng thanh thiếu
niên trong xã hội rất phong phú; Đoàn thanh niên là tổ chức tiên tiến nhất của thanh niên , là

đối tượng dự bị tin cậy của Đảng, đồng thời Đoàn thanh niên cũng lãnh đạo nhiều tổ chức xã
hội khác của thanh thiếu niên ngoài Đoàn ( Hội liên hiệp thanh niên, Hội sinh viên Việt
Nam ), Đoàn tổ chức nhiều hoạt động cho nhiều đối tượng thanh thiếu niên nhằm góp phần ổn
định kinh tế- xã hội.
- Cán bộ Đoàn phải là những người có "cái đầu trẻ"; phải là những người hành
động có tính năng động, sinh hoạt cao. Bởi vì Đoàn thanh niên là tổ chức của những người
trẻ tuổi, là tổ chức năng động sinh hoạt mạnh mẽ nhất trong hệ thống chính trị cho nên
tuổi của cán bộ Đoàn không quá xa so với tuổi của Đoàn viên thanh niên; (trừ một số Ýt
cán bộ nghiên cứu, giảng dạy, hoặc một số chuyên gia). Nếu tuổi cán bộ Đoàn cách biệt
7
so với tuổi đoàn viên thanh niên thì khi tiếp cận với Đoàn viên thanh niên sẽ giảm tính
"xông pha" "lăn lộn" nhạy bén trong hoạt động.
b. Quan điểm về Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Theo từ điển Tiếng Việt :
+ Công tác có nghĩa là công việc của Nhà nước hoặc của Đoàn thể
+ Đào tạo là làm cho trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định
+ Bồi dưỡng là làm cho tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất
Căn cứ theo khái niệm trên ta có thể hiểu khái niệm về công tác Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ
Đoàn như sau :
Công tác Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ Đoàn là công việc của Đoàn thanh niên trong công
tác cung cấp, trang bị cho đội ngũ cán bộ Đoàn những kiến thức, kỹ năng, quan điểm lập
trường, tư tưởng, đạo đức nhằm giúp cho đội ngũ cán bộ Đoàn trở thành những người có
trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức đáp ứng đực yêu cầu đòi hỏi của cán bộ, ĐVTN và tổ
chức Đoàn TN
II . Cơ sở lý luận về công tác cán bộ
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin
- Mác đã khẳng định vai trò của lãnh tụ trong tập thể, trong phong trào và người “ nhạc
trưởng” khác với người khác ở chỗ là phải có những “tư chất đặc biệt” và cần phải có “ Năng
lực tổ chức”
Bàn vấn đề lãnh tụ, cán bộ trong cuốn “Tư bản” Mác viết: “Mọi lao động cộng đồng hoặc

có tính chất xã hội trực tiếp, tiến hành với những quy mô
tương đối lớn đều Ýt nhiều cần sự quản lí Từng người kéo đàn vi-ô-lông riêng rẽ sẽ tự điều
khiển lấy mình, còn dàn nhạc thì cần phải có người nhạc
trưởng
(1)
.
+ “Không có năng lực tổ chức, không thể trở thành người lãnh đạo, quản lí tốt
(3)
.
+ “Mọi công tác quản lí, tổ chức đều đòi hỏi những tư chất đặc biệt, có
người có thể trở thành nhà cách mạng và nhà cổ động rất giỏi nhưng lại là cán bộ hành
chính hoàn toàn không thích hợp.(
3)
.
(
(
,TËp30, tr.546
1)
C. M¸c “T b¶n” tËp I, H. Nxb Sù thËt HN 1953, tr.337.
8
- . Lê-nin cho rằng công tác đào tạo và lựa chọn cán bộ phải thông qua thực tiễn phong
trào : “Chó ý tìm cho ra và thử thách hết sức nhẫn nại, hết sức thận trọng những người có bộ
óc sáng suốt và có bản lĩnh tháo vát trong thực tiễn, những người vừa trung thành với CNXH
vừa có khả năng lặng lẽ (và bất chấp sự ồn ào và hỗn loạn) tổ chức một cách vững vàng và
nhịp nhàng công việc chung một khối người to lớn trong phạm vi tổ chức Xô viết và chỉ những
người như thế mới đề bạt lên chức vụ lãnh đạo lao động của nhân dân, lên chức vụ quản lí.(1)
- Đoàn TNCS phải là trường học cộng sản chủ nghĩa trong công tác giáo dục thực hiện lý
tưởng cách mạng của Đảng cộng sản. Lê nin viết: “Chỉ khi nào Đoàn TNCS gắn liền từng
bứôchcj tập, huấn luyện và giáo dục của mình với cuộc đấu tranh chung của loài người
chống lại bóc lột, thì lúc đó mới xứng đáng danh hiệu là đoàn thể của thế hệ trẻ cộng sản chủ

nghĩa”
2. Tư tởng Hồ Chí Minh về cán bộ, chính sách cán bộ .
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ là sự kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lê nin, cổ học tinh hoa và tổng kết sâu sắc từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Qua kinh
nghiệm thực tiễn đã chỉ rõ, mức chính xác, sự đúng đắn của đường lối chính sách tuỳ thuộc
cuối cùng ở chất lợng của đội ngũ cán bộ và trình độ cán bộ.
- Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh : "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc";
"Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng
hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính
phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng.
Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc.
Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”
(1 0)”

+ Tư tưởng của Bác thể hiện ở chỗ, sự nghiệp cách mạng là của quần chúng, song để
quần chúng làm cách mạng thắng lợi, họ cần có một đội ngũ cán bộ lãnh đạo của giai cấp
mình, vì vậy mọi công việc thành công hay thất bại đều phụ thuộc vào cán bộ tốt hay kém.
+ Trong nhiều bài nói và viết, Hồ Chí Minh đã đề cập đến những vấn đề về công tác
cán bộ. Trước hết cần quan tâm đến vấn đề lựa chọn cán bộ. Phải coi đây là vấn đề hết
sức quan trọng và phải được chú trọng thường xuyên . Phải thông qua quần chúng, thông
qua phong trào hành động cách mạng để lựa chọn cán bộ. Cán bộ được lựa chọn phải
thông qua thử thách. Phải thực sự khách quan, vì công việc, vì lợi Ých chung mà lựa chọn
9
cho đúng, cho kịp thời và cho phù hợp.
+ Lựa chọn cán bộ mới chỉ là một khâu trong công tác cán bộ. Lựa chọn tốt nhưng cần
phải có giải pháp đào tạo, huấn luyện tích cực thì cán bộ mới có đủ phẩm chất và năng lực để
đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ chính trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng, chọn
cán bộ cha đủ mà phải huấn luyện cán bộ. Để huấn luyện gì? huấn luyện như thế nào? là vấn
đề cần được xem xét đúng mức. Để huấn luyện cán bộ cần tập trung vào bốn vấn đề cơ bản.
Đó là huấn luyện lý luận, đặc biệt là dạy lý luận Mác-Lênin; huấn luyện công tác; huấn

luyện văn hoá và huấn luyện chuyên môn.
Bác ví huấn luyện như người làm ra hàng. Làm ra hàng phải đúng với nhu cầu của ng-
ời tiêu thụ. Như vậy ngay cả huấn luyện cũng phải theo "đơn đặt hàng" của cơ sở hay của tổ
chức, đoàn thể để có được những cán bộ thích ứng đáp ứng được yêu cầu đó. Ngoài ra "huấn
luyện phải chú trọng việc cải tạo tư tưởng ". Huấn luyện phải hiểu rõ người học để từ đó phát
huy khả năng, năng lực và ưu điểm của họ đồng thời "tẩy rửa" khuyết điểm cho họ. Bác nói:
"phải huấn luyện . Huấn luyện là dạy dỗ, luyện là rèn giũa cho sạch những vết xấu xa trong
đầu óc". Có như vậy cán bộ mới nhanh chóng trưởng thành, mới có khả năng giải quyết
những khó khăn, những thử thách mới đặt ra một cách chóng vánh và có kinh nghiệm.
Khi đề cập đến vấn đề huấn luyện cán bộ, Hồ Chí Minh khẳng định, đào tạo , huấn
luyện cán bộ là việc có tầm quan trọng đặc biệt vì "cán bộ là tiền vốn của đoàn thể. Có vốn
mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi.
Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn"
(11)
. Huấn luyện chính là việc làm cho "vốn"
có giá trị và nguồn "vốn" không bao giờ cạn cho các tổ chức, đoàn thể.
Nói tóm lại : Những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ mang tính
chất toàn diện : Từ tuyển chọn, huấn luyện đào tạo đến sử dụng cán bộ, đây là một quá trình
công tác khép kín có tính lô gic, biện chứng cao. Tư tưởng này đã được Đảng ta vận dụng một
cách triệt để và nó càng được nâng cao hơn trong giai đoạn hiện nay. Đây là những kinh
nghiệm quí báu cho Đoàn thanh niên trong công tác cán bộ của mình, là phương pháp luận
trong sự nghiệp đổi mới công tác cán bộ Đoàn hiện nay.
3. Quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ và công tác cán bộ .
- Một là : Công tác cán bộ phải gắn với đường lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng. Vận
dụng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ, Đảng ta đã xác định,
10
mỗi giai đoạn, mỗi kỳ cách mạng đều cần có một đội ngũ cán bộ thích ứng, có phẩm chất ,
năng lực đáp ứng được sự đòi hỏi của nhiệm vụ từng giai đoạn, từng thời kỳ.
Giữa đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng và cán bộ có mối quan hệ biện chứng. Đ-
ường lối chính trị bao giờ cũng quyết định đờng lối tổ chức và cán bộ. Như vậy, đường lối

chính trị đúng hay sai có tác dụng quyết định đến việc xây dựng và thực hiện chính sách cán
bộ và ngược lại cán bộ tốt hay kém sẽ ảnh hưởng đến việc xác định đường lối, nhiệm vụ chính
trị.
Như vậy khi cách mạng chuyển giai đoạn, đường lối và nhiệm vụ thay đổi, công tác
cán bé cũng phải mới ngang tầm với đòi hỏi của giai đoạn mới.
- Hai là, Xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ phải trên cơ sở giữ vững và tăng
cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Quán triệt quan điểm giai cấp trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ là vấn
đề có tính nguyên tắc. Bất cứ giai cấp nào, chế độ xã hội nào cũng có đường lối cán bộ riêng
của mình, xây dựng đội ngũ cán bộ trung thành và có khả năng thực hiện thắng lợi lợi Ých, lý
tưởng của giai cấp mình.
Quan điểm giai cấp thể hiện ở tinh thần đoàn kết, tập hợp rộng rãi các loại cán bộ,
trọng dụng mọi khâu nhân tài của đất nước, không kể người đó ở trong Đảng hay ngoài Đảng,
thuộc dân tộc , tôn giáo nào, ở trong nớc hay ngời Việt Nam ở nước ngoài. Không định kiến
với những người trong quá khứ có sai lầm nay đã hối cải và sửa chữa.
Ba là: Xây dựng đội ngũ cán bộ phải gắn với xây dựng tổ chức và đổi mới cơ
chế, chính sách.
Đảng ta khẳng định, tổ chức mạnh khiến từng người mạnh và từng người mạnh khiến
cả tổ chức mạnh. Do đó, muốn có cán bộ tốt phải gắn công tác cán bộ với tổ chức, chăm lo
xây dựng tổ chức. Xây dựng tổ chức phải đi đôi với xây dựng con người và xây dựng con ng-
ười phải gắn liền với xây dựng tổ chức. Cán bộ tốt có thể tạo nên một tổ chức mạnh, cán bộ
xấu có thể làm hư hỏng cả một tổ chức bộ máy. Ngược lại, một tổ chức trong sạch, lành mạnh
tạo nên môi trường rèn luyện, đào tạo cán bộ, làm cho cán bộ
trưởng thành và phát triển tốt. Một tổ chức yếu kém có thể làm hư hỏng cán bộ.
Quan điểm này của Đảng còn thể hiện ở chỗ, trên cơ sở nhiệm vụ chính trị mà xây dựng tổ
chức, xác định số lượng cơ cấu, tiêu chuẩn cán bộ. Căn cứ vào đó mới lựa chọn , bố trí cán bộ
11
cho phù hợp. Làm sao cán bộ luôn luôn thích ứng với tổ chức, làm điều kiện cho sự phát triển
của cả tổ chức và cán bộ.
Bốn là : Công tác cán bộ phải gắn liền với phong trào cách mạng của quần chúng.

Phải thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào hành động cách mạng của quần chúng để
tuyển lựa, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ.
Phong trào cách mạng của quần chúng là trường học lớn của cán bộ. Hoạt động cách
mạng của quần chúng là nơi giáo dục, rèn luyện, đào tạo, đánh giá, sàng lọc, tuyển chọn cán
bộ.
Cán bộ và phong trào cách mạng của quần chúng có mối quan hệ biện chứng, nên khi
tiến hành công tác cán bộ phải kết hợp với phong trào cách mạng của quần chúng mới có hiệu
quả. Giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng, nâng cao bản lĩnh chính trị phẩm chất đạo đức, lối sống
và năng lực của cán bộ không chỉ qua lý thuyết, trường lớp, mà trước hết, quan trọng hơn hết
là phải qua hoạt động hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của quần chúng.
Năm là : Đảng lãnh đạo thống nhất công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng
thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị, tôn trọng pháp
luật và điều lệ của tổ chức quần chúng.
Đảng ta là Đảng cầm quyền vì vậy Đảng phải trực tiếp nắm vấn đề cán bộ, bao gồm cả
việc định ra đường lối, chính sách cán bộ và quyết định bố trí cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong
các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Chuẩn bị cán bộ cho cả hệ thống chính trị
trên mọi lĩnh vực, đảm bảo thực hiện có kết quả đường lối chính trị của Đảng. Đảng thường
xuyên kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ của các ngành, các cấp, coi đấy là một trong
những công việc quan trọng bậc nhất của lãnh đạo.
Những quan điểm trên của Đảng về công tác cán bộ đợc vận dụng trong mọi thời kỳ
cách mạng nước ta đó là cả một quá trình vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ. Quán triệt
những quan điểm này trong điều kiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá sẽ tạo điều kiện xây
dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất , năng lực trình độ cần thiết thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ chính trị của Đảng.
3 Vai trò của người cán bộ Đoàn thanh niên trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
.3.1. Vai trò của cán bộ Đoàn trong hệ thống chính trị.
12
Đoàn thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh là một thành viên trong hệ thống chính trị
Việt Nam . Đoàn lấy mục đích, lý tưởng của Đảng Cộng Sản Việt Nam làm mục đích cho

chính mình. Đó là lấy chủ nghĩa Mác-Lê - Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho
xây dựng cơ sở lý luận và hành động thực tiễn của mình. Đoàn lấy lập trường của giai cấp
công nhân làm lập trường của mình trong đấu tranh cách mạng. Đoàn thừa nhận sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam - lãnh tụ chính trị của mình.
Đoàn thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh đợc Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Đảng xác định Đoàn là lực lượng cách mạng
hùng hậu nhất . Là đội quân xung kích, đội dự bị tin cậy của Đảng. Đảng tin tưởng tuyệt đối
vào lực lượng cách mạng trẻ là Đoàn thanh niên.
- Đảng ta khẳng định: cán bộ Đoàn là một bộ phận của cán bộ Đảng, xây dựng Đoàn
vững mạnh là một nhiệm vụ quan trọng trong xây dựng Đảng: Cán bộ Đoàn là uồn bổ sung
cán bộ cho cán bộ Đảng, Nhà nước và các tổ chức khác. Đảng có trách nhiệm đào tạo, bồi dư-
ỡng, sắp xếp, sử dụng đội ngũ cán bộ Đoàn thanh niên trong các thời kỳ cách mạng và nhất là
trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định " Bồi dưỡng
thế hệ cách mạng nay cho tới sau là một việc quan trọng và cần thiết".Đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ Đoàn là đào tạo bồi dưỡng cán bộ nguồn cho Đảng, Nhà nước
3.2 Vai trò của cán bộ Đoàn trong thanh thiếu niên .
Cán bộ Đoàn , người "thủ lĩnh" của Đoàn viên thanh niên, là người định ra chủ
trương, nghị quyết hoạt động đồng thời cũng là người chỉ đạo tổ chức các hoạt động nhằm
thực hiện các chủ trương, nghị quyết đó. Là những người vừa lãnh đạo, tổ chức quản lý, vừa
giáo dục , thuyết phục và là người bạn, đồng nghiệp tin cậy của thanh thiếu niên . Tính "Thủ
lĩnh" còn được thể hiện tính chủ động của cán bộ Đoàn, đó là tính tập trung, tính "Thủ trưởng
" trong cơ quan của Đoàn Thanh niên . Để được lớp trẻ tin yêu và quí mến, cán bộ Đoàn cần
phải đảm bảo một số yêu cầu sau :
- Cán bộ Đoàn Thanh niên phải được xuất thân từ phong trào , được quần chúng thanh
niên bầu ra phải có tín nhiệm trong đoàn viên thanh thiếu niên . Thanh niên phải tin tưởng,
bày tỏ quan điểm , lý tưởng , lập trường của mình.
- Cán bộ Đoàn là người đại diện cho các cấp Bộ đoàn, cho đoàn viên thanh niên bày tỏ
thái độ, lý tưởng, trách nhiệm của mình trước Đảng, trước dân tộc , là người bảo vệ mọi quyền
13
lợi của tuổi trẻ: quyền được học tập, quyền được việc làm thu nhập; quyền tự do bình

đẳngtrước pháp luật …….
- Cán bộ Đoàn là người đoàn kết , tập hợp mọi tầng lớp thanh thiếu niên vào tổ chức.
Là người có ảnh hưởng lớn trong xã hội, là trung tâm đoàn kết thanh thiếu niên , đa họ vào tổ
chức để giáo dục . Giúp thanh thiếu niên phát huy được mọi tài năng, năng lực của mình; phát
hiện các tài năng trẻ cho Đoàn cho xã hội trong mọi lĩnh vực. Là người đại diện cho Đoàn
trong các tổ chức quần chúng thanh niên như: Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam; Hội Sinh
viên Việt Nam ; Hội nghề nghiệp, Hội Phụ nữ trẻ…
3.1. Vai trò của người cán bộ Đoàn Thanh niên trong sự nghiệp đổi mới đất
nước.
- Là đội ngũ cán bộ tiếp thu nhanh, tuyên truyền quảng bá, và định hướng tư tưởng
quần chúng thanh thiếu niên về tư duy đổi mới, sự nghiệp đổi mới đất nước của Đảng đến
Đoàn viên, thanh thiếu niên một cách chính xác và nhanh chóng , rộng rãi nhất.
- Là đội ngũ cán bộ xung kích trên mọi lĩnh vực trong công cuộc đổi mới đất nước; là
những người cán bộ trẻ tuổi, năng động, sáng tạo và nhận thức nhanh.
- Là lực lượng lao động trẻ, có kiến thức , có khoa học , có trình độ và tay nghề cao; là
lực lượng lao động làm ra nhiều sản phẩm cho xã hội, không những sản phẩm vật chất mà
còn sản phẩm văn hoá , chính trị và tinh thần.
- Là lực lượng cán bộ bổ sung cho Đảng, cho Chính phủ và dân tộc hùng hậu nhất, tinh
nhuệ nhất: Đã có trên 90% Bí thư Đoàn Thanh niên tham gia quản lý, điều hành đất nước;
Đoàn là một thành viên trong hệ thống chính trị, hệ thống quản lý của địa phương. Nhiệm vụ
của Đoàn nói chung và của người cán bộ Đoàn các cấp nói riêng là tổ chức, quản lý và giáo
dục đoàn viên thanh thiếu niên. Đây cũng là một công việc giúp Đảng, giúp Nhà nước quản lý
đào tạo con người , quản lý đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước.
4. Những yêu cầu mới đặt ra về phẩm chất, năng lực cán bộ Đoàn Thanh niên trong cơ
chế thị trường và hội nhập quốc tế .
- Người cán bộ Đoàn hiện nay cần phải có sự phát triển về thể chất và tinh thần đáp ứng đ-
ược nhiệm vụ được giao.
14
+ Phải có sức khoẻ tốt: để không những đảm bảo công việc hàng ngày mà còn phải đáp ứng
những công việc tập trung có cờng độ lao động cao, làm việc trong các đièu kiệnkhó khăn,

môi trường khắc nghiệt.
+Phải có sự vững chãi về tinh thần: là điều kiện để có những ý nghĩ đúng, hành động độc
lập, không trông chờ, ỷ lại lệ thuộc vào người khác. Nó là cơ sở của niềm tin, của định h-
ướng,tính ổn định, tính chủ động
+ Phải có sự phát triển sâu sắc về thế giới nội tâm: Là để cảm nhận sự phong phú của cuộc
sống, dễ tiếp cận được nhiều đối tượng, nắm bắt được tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của
thanh thiếu niên và qui luật tình cảm riêng của từng đối tượng
- Người cán bộ Đoàn phải có tri thức, kinh nghiệm phù hợp với đòi hỏi của thanh niên và
xã hội giao cho
+ Tri thức và kinh nghiệm của người cán bộ Đoàn mang tính tổng hợp cao: Vì công tác
Đoàn thực chất là công tác con người mà con người ở đây là con người trẻ tuổi ở mọi lĩnh
vực, mọi đối tượng. Do vậy người cán bộ Đoàn không chỉ có kỹ năng nghiệp vụ công tác mà
còn phải ham hiểu các kiến thức về một số chuyên ngành có tính tổng hợp trong khoa học
quản lý, giáo dục, pháp luật, chuyên môn.
+Tri thức và kinh nghiệm của người cán bộ đoàn hiện nay thiên về xã hội và vấn đề
xã hội, về con người và vấn đề con người nhất là trong công cuộc tiến hành đổi mới
+ Tri thức và kinh nghiệm về chính trị là vốn tri thức chi phối toàn bộ các
tri thức, kinh nghiệm khác của người cán bộ Đoàn : Đó là hệ thống tri thức và phương pháp
luận chủ nghĩa Mác – Lê nin và tưởng Hồ Chí Minh
+Tri thức và kinh nghiệm của người cán bộ Đoàn là sự hoà quỵện giữa tri thức lý luận và
kinh nghiệm thực tiễn, tri thức khoa học và kinh nghiệm bản thân. Chỉ có như thế người
cán bộ Đoàn mới va đảm bảo được tính chung vừa đúng với tính cá biệt, vừa đảm bảo tính
khoa học vừa bảo đảm tính thực tế.
+ Bộ phận trực tiếp quyết định hiệu quả công tác của người cán bộ Đoàn là
Tri thức và kinh nghiệm lãnh đạo – quản lý nhất là những tin tức thời sự, thông tin nhanh,
thông tin lãnh đạo, chỉ đạo, kiến thức quản lý kinh tế, quản lý xã hội, tâm lý, luật pháp…
- Người cán bộ Đoàn phải có lập trường chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, phát
triển theo yêu cầu nhiệm vụ thực tiễn : Đó là tình yêu sâu sắc với con người, nhất là con người
nghèo khổ bất hạnh; đó là tính nhân văn cộng sản chủ nghĩa trong tình hình đổi mới. Lý tưởng
15

cách mạng của người cán bộ Đoàn phải được xây dựng trên nền tảng lý luận và phương pháp
luận Mác xít
- Người cán bộ Đoàn cần phải có năng lực về thẩm mỹ và phát triển năng lực thẩm mỹ
tương ứng với yêu cầu nhiệm vụ được giao : Đó là sự hiểu biết về cái đẹp, sự đam mê về cái
đẹp hoà quyện với đam mê công việc, nhạy bén với các giá trị thẩm mỹ trong các vấn đề
chính trị- xã hội. Hệ thống giá trị văn hoá thẩm mỹ của người cán bộ Đoàn hiện nay mang tính
thực tiễn trực tiếp, mang đậm bản sắc văn hoá dan tộc và chủ nghĩa nhân văn cộng sản.
5 - Đặc trưng, tiêu chuẩn của người cán bộ đoàn trong điều kiện mới
* Đặc trưng của người cán bộ Đoàn
Đặc trưng là những nét riêng về phẩm chất và năng lực của người cán bộ Đoàn đảm bảo
tiến hành những hoạt động nghiệp vụ được thuận lợi, là những đặc điểm cần thiết để phân biệt
giữa cán bộ Đoàn với cán bộ của các tổ chức khác. Vậy những đặc trưng của
người cán bộ đoàn là:
a) Tự nguyện, nhiệt tình và ham thích các hoạt động xã hội. Lao động của người cán bộ
Đoàn rất khác với lao động của cán bộ các tổ chức, các ngành nghề khác, là loại lao động đòi
hỏi sự tự nguyện, nhiệt tình cao. Nếu không có sự tự nguyện và lòng nhiệt tình, người cán bộ
Đoàn sẽ hoạt động như một viên chức, khó có thể thâm nhập vào đời sống thanh niên, vượt
qua đợc những khó khăn và không thể có sáng kiến trong hoạt động.
Nội dung của đặc trưng:
- Cán bộ Đoàn là người được đoàn viên thanh niên tín nhiệm lựa chọn và họ vui vẻ, tự
nguyện chấp nhận sự lựa chọn đó.
- Cán bộ đoàn làm việc không chỉ bằng những chương trình kế hoạch khuôn mẫu có sẵn
của cấp trên mà còn xuất phát từ những nhu cầu, nguyện vọng của thanh niên ở địa phương,
đơn vị. Do tự nguyện, nhiệt tình nên cán bộ tự tìm việc làm, tự nảy sinh những sáng kiến mới,
độc đáo, đem lại những hiệu quả thiết thực cho công tác thanh thiếu niên, thực sự là ngọn cờ
tập hợp thanh niên ở địa phương, đơn vị.
b) Nắm vững những đặc điểm tâm lý thanh niên, biết giao tiếp với thanh niên, có
tri thức và kỹ năng tổ chức các hoạt động thanh thiếu niên và nghiệp vụ xây dựng Đoàn, Hội.
16
Hiểu thanh niên và biết cách hoạt động trong thanh niên là đặc trưng có tính "nghề nghiệp"

của cán bộ Đoàn. Nó là sắc thái rất riêng để phân biệt cán bộ Đoàn với cán bộ của các tổ chức
khác.
c) Có nghề chuyên môn, có hiểu biết về kinh tế, tự đảm bảo được cuộc sống của bản
thân và gia đình ổn định. Đặc trưng này của người cán bộ đoàn mới xuất hiện trong một số
năm gần đây do những đòi hỏi khách quan của công tác Đoàn trong thời kỳ xây dựng đất n-
ước. Cán bộ Đoàn cần đợc trẻ hóa, lưu chuyển nhanh, cần có nghề để việc chuyện đổi được
thuận lợi. Cần có nghề, có hiểu biết về kinh tế kỹ thuật để tổ chức thanh niên tham gia phát
triển kinh tế - xã hội.
d) Trình độ học vấn phù hợp với trình độ chung của thanh niên và có những tri thức cơ
bản về chính trị, văn hóa, pháp luật, về đường lối đổi mới của Đảng, biết ngoại ngữ và sử
dụng được các phương tiện kỹ thuật hiện đại, thông dụng. Đặc trưng này phản ánh một cách
khách quan nhu cầu của thời đại, của đất nước đi vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đối với cán bộ Đoàn. Không có một vốn tri thức phong phú, không thể tiếp xúc với thanh
niên, hơn thế nữa càng không thể tổ chức được các hoạt động hấp dẫn thanh niên.
đ) Phong cách sống, làm việc năng động, trung thực, nhân ái: Công cuộc đổi mới đời
sống xã hội và tốc độ phát triển của thế giới hiện đại tất yếu dẫn đến sự ra đời một thế hệ
thanh niên năng động, làm việc có hiệu quả và chất lượng cao. Tuổi trẻ cũng đòi hỏi rất cao ở
cán bộ Đoàn tính trung thực, dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải, bảo vệ lợi Ých của quần chúng,
sống nhân ái, vị tha, thương yêu chia sẻ vui buồn với tuổi trẻ.
Những đặc trưng này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tính tự nguyện, nhiệt tình,
ham thích hoạt động thanh niên đã bao hàm trong đó sự hiểu biết về thanh niên và công tác
thanh niên v.v Công nhận tính khách quan của những đặc trưng này là cơ sở quan trọng
trong việc hình thành những quan niệm mới về cán bộ Đoàn. Không thể lựa chọn người không
tự nguyện làm cán bộ Đoàn, càng không thể chọn người có trình độ mọi mặt quá thấp làm cán
bộ Đoàn. Tổ chức Đoàn không thể là nơi tạm trú để giải quyết việc làm cho những thanh niên
thất nghiệp, càng không thể là nấc thang danh vọng cho những
người muốn leo cao.
* Tiêu chuẩn cán bộ Đoàn:
17
Tiêu chuẩn là những chỉ số chuẩn mực, làm thước đo đánh giá sự vật, tiêu chuẩn chỉ ra

chất lượng cần đạt tới của sự vật.
. Xác định tiêu chuẩn người cán bộ Đoàn.
a) Tiêu chuẩn chung.
- Có lập trường chính trị vững vàng, kiên định lý tưởng XHCN, quyết tâm thực hiện
thắng lợi công cuộc đỏi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
- Có đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật, đoàn két nội bộ tốt: có lối sống trung
thực, lành mạnh, không cơ hội, cá nhân chủ nghĩa , có bản lĩnh đấu tranh với các hiện tượng
tiêu cực, bảo vệ quyền lợi, chính đáng của cán bộ, đoàn viên, thanh thiếu niên.
- có kiến thức, năng lực tham mưu, khả năng tiếp thu và tổ chức triển khai thực hiện
các chủ trương công tác , Nghị quyết của Đoàn, chương trình công tác của đơn vị trong phạm
vi trách nhiệm được giao. Có trình độ chuyên môn phù hợp với lĩnh vực mình công tác.
- Có nhiệt tình và trách nhiệm với sự nghiệp giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ, được rèn
luyện từ thực tiễn phong trào thanh thiếu nhi , được quần chúng tín nhiệm.
b. Tiêu chuẩn cụ thể
* Bí thư Đoàn cơ sở;
- Tốt nghiệp PTTH trở lên.
- Có khả năng tổ chức các hoạt động cụ thể.
- Có trình độ, kỹ năng và nghiệp vụ công tác thanh, thiếu niên.
- Tuổi không quá 35.
Ngoài ra, căn cứ vào chức trách, nhiệm vụ của từng chức danh cụ thể, vị trí công tác cụ
thể mà xây dựng các tiêu chuẩn, để từ đó có giải pháp tuyển chọn, đào tạo, và sử dụng hợp lý.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN CÔNG TÁC CÁN BỘ
Công tác Đoàn và phong trào thiếu nhi ở xã Địch Quả trong những năm liên tục có
những bước phát triển góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị ,các mục tiêu kinh tế-xã hội
của huyện ,đóng góp xứng đáng vào phong trào chung của tỉnh và tuổi trẻ cả nước. Công tác
tuyên truyền giáo dục ,kết hợp với việc rèn luyện thanh niên qua các phong trào hành động
cách mạng đã phát huy tinh thần xung phong tình nguyện của đoàn viên thanh niên, nâng cao
đáng kể chất lượng đoàn viên và chất lượng cán bộ Đoàn.Công tác tổ chức dược đẩy mạnh
18
với 3 giải pháp :công tác Đoàn cơ sở ,đặc biệt là công tác cán bộ được triển khai đồng bộ

nhằm xây dựng cơ sở Đoàn ngày càng vững mạnh.
Trong công tác xây dựng tổ chức Đoàn ,đặc biệt là nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở
Đoàn luôn được xã Địch Quả quan tâm nên đã có những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên,
bên cạnh dó, nhiều tổ chức cơ sở Đoàn còn bộc lọ nhiều hạn chế ,yếu kém cần sớm khắc phục
nhất làtổ chức cơ sở trên địa bàn ,thi trấn.
Nhìn chung, nội dung và phương thức hoạt động của tổ chức Đoàn chưa phù hợp với
cơ chế mới nên hiệu quả tập hợp ,giáo dục thanh niên còn thấp ,vị trí chính trị ,tính tiên tiến
chưa thể hiện rõ trong thanh niên và trong xã hội.ở nhiều nơi ,các nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt Đoàn còn buông lỏng, công tác quản lý đoàn viên thiếu chặt chẽ,công tác Đoàn còn
nhiều hạn chế và bất cập như: việc tiêu chuẩn hoá cán bộ Đoàn và công tác cán bộ Đoàn cơ sở
nói riêng chưa được làm rõ gây khó khăn cho cơ sở trong quá trình tuyển chọn cán bộ Đoàn
,chưa tạo dựng cơ chế phù hợp để tháo gỡ khó khăn trong việc quy hoạch và chung chuyển
cán bộ ,chưa có cơ chế thống nhất từ tỉnh đến cơ sở về công tác đào, bồi dưỡng cán bộ
Đoàn ,nhất là chưa triệt để khai thác tận dụng công xuất đào tạo của các trường đào tạo ,bồi
dưỡng cán bộ thuộc trung ương và tỉnh Phú Thọ trong việc đào tạo,bồi dưỡng và tập huấn cán
bộ Đoàn .Nên cán bộ Đoàn cơ sở còn thiếu về số lượng , yếu về trình độ, kỹ năng nghiệp vụ
và năng lực chỉ đạo hoạt động còn hạn chế
Có thể nói, một trong những nguyên nhân khiến cho tổ chức cơ sở Đoàn hoạt động yếu
kém đó là: Chất lượng đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở còn nhiều hạn chế .Chính vì thế Nghị quyết
kỳ họp thứ 4 BCH trung ương Đoàn(khoá 7) đã khẳng định : “trước yêu cầu và tình hình của
nhiệm vụ mới ,việc không ngừng nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đoàn trung tâm là củng
cố ,xây dựng cơ sở Đoàn trên địa bàn dân cư là cần thiết và cấp bách ,là điều kiện có ý nghĩa
quyết định cho sự tồn tại và phảt triển cuỉa tổ chức Đoàn TNCS Hồ chí minh.”
Từ những cơ sở đã được đưa ra ở trên ,em đã chọn đề tài: thực trạng và giải pháp nâng
cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ Đoàn cơ sở “làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
II. CÔNG TÁC ĐÀO ĐẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ ĐOÀN THANH NIÊN
CỦA ĐẢNG TA QUA CÁC THỜI KỲ
19
Nghiên cứu các văn kiện – Nghị quyết của Đảng từ năm 1930 (mở đầu là án nghị quyết
về cộng sản thanh niên vận động tháng 10 năm 1903) và nhà nước ta (Mở đàu là Nghị định về

tổ chức tổng Đoàn Thanh Niên Việt Nam thánh 6 năm1946)cho đến những văn kiện nới nhất
là nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp Hành TƯđảng khoá VII về công tác thanh niên
,Quyết định 770-ttg của thủ tướng chính phủ ngày 20-12-1994 về tổ chức và chính sách đối
với thanh niên xung phong ,chóng ta thấy Đảng và nhà nước ta cũng như chủ tịch Hồ Chí
minh luôn quan tâm đến vấn đề thanh niên ,công tác thanh niên ,công tác cán bộ thanh niên
,công tác cán bộ thanh niên.
Từ việc đánh giá đúng đắn vi trí ,vai trò to lớn của người cán bộ Đoàn thanh niên
trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta .Từ ngày ra đời đến nay ,Đảng và nhà nước đã có
nhiều chủ trương ,chính sách vân động đào tạo ,bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Đoàn thanh
niên,xây dựng và phát triển phong trào thanh niên.
Ngay từ khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ra đời ,chủ tịch Hồ Chí Minhđã
nói :Kiến thiết cần có nhân tài .Trong điều kiện cách mạng vừa mới thành công ,ngân sách
quốc gia vô cùng eo hẹp ,nhưng Nhà nước đã cho mở tất cả các trường tiểu học ,trung học
,bình đân học vụ dể xoá nạn mù chữ.Một số trường Đại Học đã được thành lập (tại Hà Nội )
trong đó có hệ thống trường đào tạo cán bộ thanh thiếu niên ,bắt đàu mọt sự nghiệp giáo dục
mới của Nhà Nước công nông.Đông thời ,phong trào chốnga giặc đói trong cả nứơc được
phát động rộng rãi ,đặc biệt với tầng lớp thanh niên đã giúp cho khá đông thanh niên thoát
khỏi nạn mù chữ và nặn đói đang lan tràn khắp nơi.
Trong 2 cuộc kháng chiến kéo dài ,mặc dù phải đồng sức người ,sức của để dánh thắnh
kẻ thù ngoại xâm ,Đảng và nhà nước vẫn dành nhiều sự quan tâmvà chăm lo tới sự nghiẹp
giáo dục ,đào tạo ,bồi dưỡng nhân tài cho đất nước .Sự nghiệp giáo dục của đất nước đã được
đào tạo trong hoàn cảnh khó khăn ,thiếu thốn ,trong sự ác liệt của chiến tranh .Nhiều thanh
niên đã được Đảng và Nhà nước cho đi đào tạo tại nước ngoài ỏ các cấp học nhác nhau
như:trung cấp kỹ thuật ,học nghề .đại học ,sau đại học đẻ chuẩn bị cho công cuộc xây dựng
lại đất nước sau nàyđúng với tư tưởng “ vì lợi Ých trăm năm phải trồng người”của bác.
Bước vào giai đoạn xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN,Đảng và nhà nước ta rất chú
trọng đến vấn đề phát triển ,đào tạo ,bồi dưỡng tài năng trẻ cho đát nước ,bồi dưỡng cán bộ
cho Đảng ,cho Đoàn.Từ nghị quyết 26,nghị quyết 25 của Bộ chính chị khoá V và VI đến hội
nghị ban chấp hành lần thứ 4 (khoáVII) đều coi vấn đề đào tạo, bồi dưỡng và khuyến khích
20

tài năng trẻ là1 trong những chính sách quan trọng đối với thế hệ trẻ. nghị quyết 4 đã đặt ra
yêu cầu : hình thành một lớp nam nữ thanh niên ưu tú, vững vàng về chính trị, kiên định con
đường XHCN, tiêu biểu cho thế hệ trẻ,trở thành những nhà lãnh đạo ,quản lý doanh nghiệp
giỏi ,những chuyên gia xuất sắc trên mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội,những tri thức uyên
bác chiếm lĩnh đỉnh cao của khoa học ,những nghệ sỹ có tài năng ,những người lao động có
tay nghề cao
Hiện nay,có những vấn đề đang đặt ra trong chính sách thanh niên và cán bộ thanh
niên.Vấn đề đàu tiên, có thể thấy rõlà những tư tưởng ,quan điểm của Đảng và nhà nước ta về
thanh niên và cán bộ thanh niên là hoàn toàn đúng đắn ,sáng tạo ,có cơ sở khoa học va thực
tiễn .Nhưng những quan điểm tư tưởng đó chư đựoc quán triệt .Chúng ta chưa thấy hết tính
đặc thù của công tác thanh niên và giải quyết vấn đề thanh niên ,cán bộ thanh niên nên thiếu
sự quan tâm thường xuyên.
Trong giai đoạn hiên nay,nhiều chủ trương, chính sách đó đã trở nên không còn phù
hợp và thích ứng với hoàn cảnh, điều kiện mới. Nhìn chung các chủ trương, chính sách đối
với thanh niên vẫn tập chung chủ yếu vào nội dung xét vị trí, vai trò, trách nhiệm và nghĩa vụ
với thanh niên trước dân tộc mà chưa chú ý đầy đủ đến việc đảm bảo lợi Ých cho thanh niên,
đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn bị cho thanh niên hành trang vào đời, đủ sức đảm nhận trọng thách
thức tương lai của còn đất nước và dân tộc.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý công tác thanh niên, phong trào thanh niên, các cấp uỷ
đảng còn chung chung,thiếu sâu sát ,các cấp chính quyền có phần buông lỏng ,thiếu nhưng
chương trình ,kế hoạch và giai pgáp cụ thể ,giải quyết kịp thời ,có hiệu quả những vấn đề xã
hội cấp bách của thanh niên.Chậm chễ trong việc thể chế hoá Nghị quyết củaĐảng,thiếu đầu
tư thích đáng và chưa đồng bộ.
Trong chính sách giáo dục ,đào đạo và bồi dưỡng thanh niên ,nói chungđã quan tâm
đền vấn đề giáo dục văn hoá ,nâng cao trình độ chuyên môn và dạy nghề cho thanh
niên.Nhiều hình thức tổ chức giáo dục đào tạo đã được phát triển ,mở rộng ,tạo điều và khả
năng đáp ứng nhu cầu học tập trong thanh niên tuy nhiên ,chính sách khuyến khích ,đào tạo
bồi dưỡng và sử dụng tài năng trẻ chưa dồng bộ.
Mét trong những vấn đề không thể thiếu được trong công tác thanh niên là giáo dục
phẩm chất đoạ đức ,tư tưởng chính trị .Song trên thực tế ,vấn đề này lâu nay chua được quan

tâm đầy dủ ,thiếu chương trình ,chính sách và giải pháp cụ thể,có hiệu quả.nhiều việc làm
21
trong công tác giáo dục còn mang nặng tính hình thức ,chưa thiết thực,đồng bộ. Những việc
làm có ảnh hưởng trực tiếp đến giáo dục phẩm chất đạo đức ,nhân cách của thanh niên chưa
được đấu tranh, ngăn chặn kịp thời và đồng bộ như sách báo, phim ảnh, băng ca nhạc, băng
hình có nội dung xấu .Vai trò ,trách nhiệm của gia đình được đề cao.
CHƯƠNG II
thực trạng chất lượng đào đaọ, bồi dưỡng cán bộ Đoàn Thanh Niên trên địa
bàn huyện đồng hỷ hiện nay
1. Tình hình đội ngũ cán bộ Đoàn nói chung
.1.1. Cơ cấu , tổ chức, trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ Đoàn
22
Theo thống kê của an tổ chức TƯ Đoàn, số lượng đoàn viên, chi đoàn và cán bộ Đoàn
hiện nay ngày một tăng,chất lượng cán bộ ngày được nâng cao (số liệu được cập nhật đến
tháng 6/2003).
s Cấp bộĐoàn Số lượng
cán bộ
Trình độ chuyên môn Chính trị
Trên
ĐH
Đ H -CĐ TH PTTH C.N& C.
C
trung
cấp
Sơ cấp
1Chi đoàn
(bí thư)
204.936 8,36% 12,61% 71,52% 0,26% 11,82% 26,17%
2Đoàn cơ sở
(Bí thư)

27.874 29,3% 27,5% 80,8% 1,66% 30,6% 30,88%
3Huyện đoàn 3782 46,6% 41,2% 91,1% 7,06% 46,4% 26,2%
TT Cấp bé Số lượng Trình độ chuyên môn Chính trị
Đoàn cán bé
Trên
ĐH - CĐTrung cấpPTTH
CN & Trung
cấpcấp Sơ cấp
1 Chi đoàn (BT)204.94 8,36% 12,61%
71,52
0,26% 11,82% 26,71%
2
Đoàn cơ sở
(BT) 27.874 29,3% 27,5% 80,8% 1,66% 30,6% 30,88%
3 Huyện đoàn 3782 46,6% 41,2% 91,1% 7,06% 46,4% 26,2%
Căn cứ vào con số thống kê và căn cứ vào hoạt động, chế độ chính sách đối với cán bộ
Đoàn hiện nay, ta có thể chia đối tượng nghiên cứu ra thành 4 cấp :
• Cấp cơ sở (xã, phường, thi trấn và tương đương)
• cấp huyện (huyện, thị và tương đương )
• Cấp tỉnh (Tỉnh, thành và tương đương)
• Cấp trung ương.
Nhìn chung,ở mỗi cấp do yêu cầu công việi, chế độ tuyển dụng,đào tạo bồi dưỡng khác
nhau. ở đây chúng ta đi sâu nghiên cứu đối với cấp cơ sở và cấp huyện. Nhìn chung đọi ngũ bí
thư đoàn cơ sở đã được công tác, phấn khởi, nhiệt tình và được đoàn viên thanh niên tín nhiệm.
Tuy nhiên, đi vào cụ thể từng lĩnh vực, từng đối tượng ta thấy còn một số bất cập sau.
+ ở vùng sâu, vùng xa còn một sồ bí thư đoàn chưa hết PHTH đã gây rất nhiều khó
khăn trong việc tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ và triển khai nghị quyết, triển khai công việc.
23
+ Thu nhập của cán bộ Đoàn cơ sở thấp, không đảm bảo chính sách và sự luân chuyển
cán bộ chậm nên hiện nay rất khó thu hút người có trình độ, bằng cấp ,năng lực cán bộ Đoàn

cơ sở. Chế độ phụ cấp còn quá thấp, quá tuỳ tiện, không thông nhất toàn quốc như ở Hà Nội: bí
thư Đoàn cơ sở(483.000đ) phó bí thư Đoànccơ sở (120.000đ)uỷ viên ban chấp hành Đoàn cơ
sở (100.000đ) và bí thư chi Đoàn (10.000đ); ở TP Hồ Chí Minh: bí thư Đoàn cơ sở 520.000đ ,
PBTlà 180.000đ, uỷ viên BCH Đoàn cơ sở 120.000đ, BT chi đoàn 80.000đ.
+khu vựcCNVC, hầu hết bí thư làm công tác Đoàn kiêm nhiệm, thời gian giành cho
công tác Đoàn quá eo hẹp. Việc tập hợp ĐVTN vào hoạt động tập thể rất khó khăn. Nhưng
nhìn chung cán bộ Đoàn khối này có trình độ chuyên môn nên việc thuyên chuyền có nhiều
thuận lợi .
Về thực chất hiện nay, cán bộ cơ sở Đoàn còn rất nhiềukhó khăn bất cập. Cán bộ Đoàn
thường xuyên biến động, đặc biệt ở cấp chi Đoàn do chuyển công tác, đi học xa, đi làm ăn
xa trình độ cán bộ Đoàn được nâng cao song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu năng lực tham
mưu, khả năng tổ chức hoạt động thực tiễn còn hạn chế, một số cán bộ Đoàn còn tỏ ra yếu
kém, tụt hậu so với thanh niên. Đời sống cán bộ Đoàn còn nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến kết
quả hoạt động công tác Đoàn.
Đối với cán bộ cấp huyện, về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu công tác, đượcđào tạo
tương đối toàn diện. Tuy nhiên đối với cán bộ Đoàn cấp huyện cũng không Ýt vấn đề được đặt
ra và phải quan tâm :
+Mặc dù đã thu hút được nhiều sinh viên chính quy về huyện Đoàn, công tác nhưng
trong khi đó nguồn lấy từ cơ cở nên còn 20%. Điều này ảnh hưởng lớn đến việc phát huy khả
năng kinh nghiệm chỉ đạo cấp cơ sở của huyện Đoàn và đặt ra trách nhiệm lớn hơn cho cấp
huyện trong việc đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn sốcán bộ Đoàn chưa qua trường lớp đào tạo
và thực tế công tác Đoàn.
+Việc đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển của cán bộ Đoàn cấp huyện vẫn còn nhiều bất
cập :về ngân sách đào tạo lại, về chuyên môn, chuyên ngành của cán bộ không có đầu ra ơ cấp
huyện (kỹ sư giao thông ,cơ khí, hoá chất, hoá simh ). Do vậy, hiện nay số cán bộ cấp huyện
công tác lâu năm quá tuổi còn nhiều, số cán bộ có chuyên môn năng lực phù hợp với công tác
Đoàn cấp huyện hiện nay lại không muốn về huyện Đoànvì không đảm bảo về thu nhập và tâm
lý sợ không giải quết thoả đáng đầu ra của cán bộ Đoàn .
24
+Đối với đội ngũ Bí thư , Ban chấp hành cấp huyện hiện nay tuy đã được nâng cao về

trình độ chính trị , nâng lực công tác, chu trình trẻ hoá còn chậm (còn trên 30%tuổi ttừ 37-41)
và trình độ chính trị tuy đạt 76-38% trình độ chung và sơ cấp so với yêu cầu là còn rất thấp
chưa cân đối trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Số lượng uỷ viên BCH cơ cấu còn nhiều không
phát huy được tác dụng, hiệu quả còn mang tính hình thức.
2.2-Đặc điểm chung của Huyện Đồng Hỷ:
2.2.1- Vị trí và đặc điểm tự nhiên:
Đồng Hỷ là một huyện nằm trên các tuyến đường bộ ,đường thuỷ ,có nhiều thuận lợi
trong việc giao lưu kinh tế văn hoá. Từ năm 1985 đến nay, huyện Đông Hỷ bao gồm 17 xã, 3
thị trấn (Chùa Hang,Trại Cau,Sông cầu). Diện tích tự nhiên là 461,77 trong đó diện tích canh
tác hơn 5000 ha. Huyện lỵ được đặt tại xã Đồng Bẩm. Về phía Đông, huyện giáp với tỉnh Bắc
Giang; phía Tây giáp với huyện Phú Lương; Phía bắc giáp với huyện Võ Nhai; Phía nam giáp
với thành phố Thái nguyên và huyện Phú Bình.
Địa hình Đồng Hỷ chia thành 2 vùng rõ rệt : phía đông bắc và tây bắc là vùng rừng núi,
phía nam và tây nam là vùng trung du. Nằm trong vùng khí hậu gió mùa nhiệt đới Đồng Hỷ có
bốn mùa rõ rệt. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 22°C. Lượng mưa trung bình hàng nămlà
2200 mm.
Đồng Hỷ có 3 con sông lớn, Sông Cầu bắt nguồn từ xã Bằng Phúc huyện Chợ Đồn ),
qua vùng Bạch Thông, Phú Lương, Võ Nhai. Đến địa phận Đồng Hỷ, dòng sông chảy qua các
xã; Vân Lăng, Hoà Bình, Minh lập, Huống Thượng rồi đổ về Phú Bình, Phổ Yên sang vùng
Bắc Ninh.
Sông Cầu bắt nguồn từ Ba Lá ( Định Hoá ) chảy qua các huyện Định Hoá, Đại Từ,
Đồng Hỷ, đổ vào Hồ Núi Cốc và theo hướng Tây Bắc - Đông Nam , đi vào địa phận thành phố
rồi xuông huyện Phổ Yên .
Sông Linh Nham chảy từ Khe Mo, Hoá Trung, qua Linh Sơn rồi hợp lưu với Sông Cầu .
Ngoài đường sông, Đồng Hỷ nằm trên hai trục đường chính Quốc lộ số 3 từ Hà Nội đến
thành phố Thái Nguyên, qua địa phận huyện Đồng Hỷ lên Bắc Cạn ,Cao Bằng Quốc lộ 1B
Từ thành phố Thái Nguyên theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, qua huyện Đồng Hỷ lên
Võ Nhai, Bắc Sơn, Lạng Sơn . Nhờ hai tuyến đường bộ quan trọng này, việc giao thông giữa
Huyện Đồng Hỷ với các đại phận trong và ngoài tỉnh tương đối thuận lợi. Bên cạnh đó là các
25

×