Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

một số ý kiến nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng giám sát từ xa của thanh tra ngân hàng nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.47 KB, 32 trang )

Lời nói đầu
Đáp ứng nhu cầu mới của nền kinh tế trong nước, bắt nhịp với sự phát triển
không ngừng của nền kinh tế thế giới, nước ta đã và đang thực hiện quá trình đổi
mới toàn diện nền kinh tế từ xuất phát điểm là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu
sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời mở của
nền kinh tế, từng bước hội nhập với khu vực và quốc tế. Quá trình chuyển đổi và
hội nhập đó chính là quá trình từng bước tự do hoá cơ chế quản lý, hoạt động
kinh tế, tài chính, ngân hàng, chuyển từ quản lý trực tiếp sang quản lý gián tiếp
bằng chính sách, cơ chế và pháp luật. Một vấn đề cấp bách đặt ra ở Việt Nam
trong quá trình chuyển đổi và hội nhập là phải đảm bảo cho hoạt động của hệ
thống ngân hàng Việt Nam an toàn. Bời vì hoạt động của ngân hàng là hoạt động
mang tính chất “ mạch máu của nền kinh tế quốc dân” nên mọi sự biến động lớn
đều có ảnh hưởng dây chuyền đến nền kinh tế Việt Nam, do đó trong quá trình
hội nhập với các tổ chức tín dụng quốc tế đòi hỏi phải có chính sách và chiến
lược an toàn trong hoạt động để phát hiện và ngăn chặn kịp thời sự mất cân đối
kinh tế – tín dụng, tiền tệ ở tầm vi mô, vĩ mô cũng như các cuộc khủng hoảng có
thể xảy ra trong quá trình hội nhập và phát triển. Tăng cường hoạt động thanh tra
ngân hàng Nhà nước nói chung và hoạt động giám sát từ xa (GSTX) của thanh
tra ngân hàng Nhà nước nói riêng đối với các tổ chức tín dụng là một biện pháp
vô cùng quan trọng. Các chỉ tiêu giám sát từ xa đưa ra gắn liền với hoạt động
quản lý của ngân hàng Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Có thể nói, những
biện pháp để hoàn thiện phương thức giám sát từ xa của thanh tra ngân hàng nhà
nước đối với các tổ chức tín dụng là nhu cầu hết sức cần thiết, cấp bách và là vấn
đề mới trong quá trình hoàn thiện, phát triển hệ thống ngân hàng. Với lý do này,
em xin đóng góp một sè ý kiến nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng giám
sát từ xa của thanh tra ngân hàng nhà nước. Do kiến thức còn hạn chế, chưa có
điều kiện đi sâu tìm hiểu thực tế, nên các ý kiến của em nêu ra có thể chưa thật
hoàn chỉnh. Vậy em mong có sự giúp đỡ của thầy cô để kiến thức của em về lĩnh
vực này được đầy đủ hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy cô!
Chương I :


Lý luận chung về giám sát từ xa
của thanh tra ngân Hàng

I. KHÁI NIỆM- TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÁM SÁT TỪ XA
Giám sát tài chính đối với các tổ chức tín dụng là một hoạt động thường
xuyên, thuộc chức năng quản lý kinh tế của nhà nước. Tuỳ theo từng giai đoạn
cụ thể, tuỳ theo yêu cầu thực tiễn và mục tiêu chiến lược của từng quốc gia mà
nội dung giám sát tài chính có sự thay đổi. Nó càng trở nên quan trọng sau
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997. Giám sát tài chính đột
nhiên trở thành trung tâm trong hoạch định chính sách của Nhà Nước, đặc biệt
là của những nền kinh tế đang phát triển theo xu hướng mở cửa và hội nhập
quốc tế. Lý do khủng hoảng là trong hàng loạt các nguyên nhân dẫn đến khủng
hoảng thì đa số là sự yếu kém của giám sát tài chính, làm nảy sinh những bất
cập trong giám sát các tổ chức tín dụng.
Ở Việt Nam, cơ quan làm nhiệm vụ giám sát đối với các tổ chức tín dụng
bao gồm thanh tra ngân hàng, bộ tài chính, cơ quan chủ quản của tổ chức tín
dụng. Trong đó thanh tra ngân hàng Nhà Nước Việt Nam giám sát các tổ chức
tín dụng thuộc hệ thống ngân hàng Việt Nam. Vị trí của hệ thống thanh tra
ngân hàng được xác định theo luật ngân hàng nhà nước tháng 12/ 1997 và
pháp lệnh thanh tra thì : Thanh tra ngân hàng là tổ chức thanh tra chuyên
ngành về ngân hàng, thuộc bộ máy của ngân hàng Nhà Nước, thực hiện quyền
thanh tra trong phạm vi quản lý của nhà nước, chịu sự chỉ đạo của thanh tra
nhà nước về công tác tổ chức và nghiệp vụ thanh tra.
2
Nói đến thanh tra chuyên ngành tức là nói đến lĩnh vực chuyên môn mà
thanh tra ngân hàng phải thanh tra, kiểm tra. Lĩnh vực chuyên môn ở đây là tổ
chức và các hoạt động tiền tệ, tín dụng ngân hàng, một lĩnh vực phức tạp và rất
nhạy cảm. Một ngân hàng, một tổ chức tín dụng dù quy mô nhỏ thậm chí một
quỹ tín dụng ở nông thôn nếu không kiểm tra, phát hiện kịp thời những sai
phạm sẽ dẫn đến tình trạng mất khả năg chi trả, khả năng thanh toán, trước hết

ảnh hưởng đến quyền lợi người gửi tiền, sau nữa là ảnh hưởng đến uy tín của
hệ thống ngân hàng. Nói như vậy để khẳng định rằng : Sứ mệnh của thanh tra
ngân hàng là góp phần bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo vệ
và lơị Ých hợp pháp của người gửi tiền, phục vụ và thực hiện chính sách tiền
tệ quốc gia. Triết lý cơ bản của hoạt động thanh tra ngân hàng là phát hiện,
ngăn chặn, xử lý theo thẩm quyền và kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý
những vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng ( Nếu không kịp
thời thì những hành vi vi phạm có tính chất hành chính và nghiệp vụ có thể sẽ
phát triển thành hành vi phạm tội). Trong việc phát hiện sớm những sai phạm,
đặc biệt phải kể đến vai trò giám sát từ xa của thanh tra ngân hàng, nhất là
trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ tiên tiến hiện đại thì giám sát từ
xa càng trở nên cần thiết.
Vậy giám sát từ xa của thanh tra ngân hàng đối với các tổ chức tín dụng
là gì và vì sao lại có vai trò quan trọng như vậy?
1. Sù ra đời của phương pháp giám sát từ xa.
Phương pháp giám sát từ xa ra đời giữa thập kỷ 70 ở Mỹ. Vào thời điềm
đó nhiều ngân hàng ở Mỹ lâm vào tình trạng khó khăn ngoài tầm kiểm soát
của hệ thống tài chính tín dụng vốn đã rất mạnh và bố trí rộng khắp . Sở dĩ như
vậy là vì thanh tra tại chỗ không thể tiến hành một cách thường xuyên, thời
gian giưua hai lú thanh tra tại chỗ thường có một khoảng trống khá dài. Vì vậy,
cần có một phương thức bổ sung cho phương thức thanh tra tại chỗ. Phương
thức giám sát từ xa xuất hiện từ đó. Tình hình trên tiếp diễn ở nhiều nước
phương thức giám sát từ xa trở nên quan trọng và thực hiện rộng khắp ở các
3
nước trên thế giới nhằm duy trì khả năng thanh tra của ngân hàng, bảo vệ lòng
tin của ngân hành thương mại đối với người gửi tiền.
2. Khái niệm “ Giám sát từ xa”.
Phương thức giám sát từ xa được hiểu là phương thức mà cán bộ thanh
tra ngồi tại trụ sở của cơ quan thanh tra tiếp nhận các thông tin báo cáo để
phân tích, đánh giá tình hình đơn vị thanh tra một cách thường xuyên và có hệ

thống. Như vậy, hệ thống giám sát từ xa về cơ bản là một hệ thống thông tin,
đó là việc sử dụng phương pháp phân tích bảng cân đối kế toán và các chỉ tiêu
thống kê định kỳ của ngân hàng thương mại để những nhà làm công tác quản
lý vĩ mô nắm một cách thường xuyên tình hình báo động cho ngân hàng
thương mại kiến nghị những biện pháp khắc phục và kịp thời “ chỉ điểm” cho
thanh tra tại chỗ những vấn đề trọng tâm, trọng điểm để tiết kiệm thời gian và
công sức.
Với những đặc điểm như vậy, để làm tốt công tác giám sát từ xa thì
phải đáp ứng các điều kiện sau:
- Một là: Phải có một chế độ thông tin báo cáo rõ ràng, đầy đủ và phải
được các ngân hàng thực hiện đầy đủ đúng quy định.
- Hai là :Phải có kỹ năng phân tích báo cáo và các chỉ tiêu thống kê để
đánh giá hoạt động kinh doanh và tài chính của ngân hàng thương mại một cáh
sâu sắc.
- Ba là: Ngân hàng thương mại phải hạch toán chính xác, báo cáo kế
toán phải được kiểm toán để đảm bảo tính chính xác của số liệu.
- Bốn là: Phải sử dụng hệ thống máy tính để phân tích các chỉ tiêu giám
sát để đảm bảo nhanh chóng chính xác và khách quan.
3. Vai trò “giám sát từ xa”
Hoạt động của tổ chức tín dụng chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố : chủ
quan lẫn khách quan, bên trong lẫn bên ngoài, tích cực lẫn tiêu cực… gây biến
động , dễ gây mất an ninh tài chính cho các tổ chức này, từ đó tác động xấu
đến cả hệ thống của nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế thị trường hiện đại,
khủng hoảng nợ, khủng hoảng tài chính ngân hàng có thể xảy ra. Những dấu
4
hiệu thể hiện nguy cơ mất ổn định, mất an toàn trong hoạt động ngân hàng
Việt Nam như : hiện tượng nợ quá hạn trong các tổ chức tín dụng, hiện tượng
các doanh nghiệp kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng
thua lỗ, tình hình tài chính của các doanh nghiệp yếu kém chứa đựng nguy cơ
mất khả năng thanh toán, hiệu quả sử dụng vốn vay thấp, khó thu hồi vốn để

trả nợ, nợ nước ngoài so với GDP gần vượt quá mức độ an toàn cho phép …
đều là những dấu hiệu thể hiện nguy cơ gây mất cân đối trong hoạt động ngân
hàng ở Việt Nam. Những nguy cơ đó có thể dễ dàng chuyển thành những
cuộc khủng hoảng đe doạ toàn bộ hệ thống ngân hàng. Từ đó cho thấy rằng
việc thiết lập một cơ chế kiếm soát nền kinh tế chặt chẽ, xây dựng một hành
lang an toàn về tài chính, tiền tệ – thị trường là cần thiết, trong đó giám sát từ
xa của thanh tra ngân hàng là một vấn đề bức xúc cần được quan tâm thoả
đáng. Sự cần thiết này cần được luận giải từ những lý do sau:
a. Khả năng xảy ra nhiều rủi ro trong hoạt động của các tổ chức tín
dụng:
Khả năng xảy ra nhiều rủi ro trong hoạt động của các tổ chức tín dụng
xuất phát từ hai phương diện :
- Rủi ro hoạt động: tổ chức tín dụng là những doanh nghiệp hoạt động
kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ – tín dụng, nó cũng như bất cứ ngành kinh
doanh nào cũng có thể gặp rủi ro, có thể mất vốn. Hơn nữa, các tổ chức tín
dụng rất nhạy cảm với những biến động do nã quan hệ với nhiều loại khách
hàng. Hoạt động của nó gắn liền với hoạt động kinh tế xã hội không chỉ ở
trong nước mà còn trong phạm vi quốc tế. Chính vì nội dung đó hoạt động của
các tổ chức tín dụng luôn chức đựng nhiều rủi ro “ tiềm Èn” có thể xảy ra bất
cứ lúc nào. Có nhiều loại rủi ro xảy ra như : rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi
ro hối đoái, rủi ro thanh toán nhưng lớn nhất là rủi ro tín dụng.
- Rủi ro hệ thống: Do đặc thù hoạt động, các tổ chức tín dụng không thể
tự mình chống đỡ mọi rủi ro, nếu có một sự thất thoát dù ở một tổ chức tín
dụng nào, ở một mức độ nhất định nào cũng sẽ đe đoạ đến tính an toàn và ổn
định của cả hệ thống. Tính đặc biệt của rủi ro hệ thống là sự sụp đổ của tổ
5
chức tín dụng này có thể kéo theo sự sụp đổ của hệ thống tín dụng khác. Vì lẽ
đó, cơ quan quản lý nhà nước về hàng chính, tiền tệ cần có một chính sách hợp
lý để phòng ngừa và hạn chế những rủi ro có thể xảy ra. Mét trong những
phương thức quản lý hiệu quả nhất là tăng cường giám sát từ xa đối với các tổ

chức tín dụng.
b. Giám sát từ xa góp phần quan trọng vào việc đổi mới và nâng cao
hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Kết quả giám sát từ xa chỉ ra mức độ chấp hành, tuân thủ của các tổ
chức tín dụng về những quy chế, chính sách quản lý tài chính của nhà nước và
những quy định của cơ quan giám sát, cơ cấu hợp lý hay không hợp lý, khả
năng thanh toán, tình hình thu chi tài chính và lãi lỗ của kỳ hoạt động… một
cách thường xuyên và nhanh chóng, đỡ tốn kém. Trên cơ sở đó cơ quan giám
sát từ xa đưa ra những định hướng sử lý và giải pháp thích hợp cho tổ chức
tín dụng khắc phục những tồn tại yếu kém kỳ trước, đổi mới và nâng cao hiệu
quả hoạt động thời gian tới.
Cơ chế quản lý tài chính do nhà nước ban hành là phù hợp với từng giai
đoạn nhất định, Trong quá trình hoạt dộng, một số tổ chức tín dụng không thực
hiện đầy đủ các chỉ tiêu an ninh tài chính, đảm bảo an toàn của các cơ quan
giám sát hoặc là ý thức chấp hành chính sách tái chính, pháp luật của nhà nước
không tốt. Thông qua giám sát, cơ quan giám sát sẽ có cách sử lý nghiêm khắc
đối với những tổ chức tín dụng cố ý không chấp hành tốt chính sách tài chính
và chỉ tiêu an toàn. Đồng thời điều đó cũng có thể là quy chế đang có sự bất
cập. Do vậy nhà nước cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với giai
đoạn mới.
c. Thực hiện nội dung giám sát từ xa giúp nhà nước và cơ quan giám
sát hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính và các chỉ tiêu an ninh tài chính đối
với các tổ chức tín dụng.
Cơ chế quản lý tài chính do nhà nước ban hành chỉ phù hợp với từng
giai đoạn nhất định. Trong quá trình hoạt động, một số tổ chức tín dụng không
thực hiện đầy đủ các chỉ tiêu an ninh tài chính, đảm bảo an toàn của các cơ
6
quan giám sát hoặc là ý thức chấp hành chính sách tài chính, pháp luật của
nhà nước không tốt, thông qua giám sát, cơ quan giám sát sẽ có cách sử lý
nghiêm khắc đối với các tổ chức tín dụng cố ý không chấp hành tốt chính sách

tài chính và chỉ tiêu an toàn. Đồng thời điều đó cũng có nghĩa là quy chế đang
có sự bất cập, do vậy nhà nước cần có sự sửa đổi, bổ xung cho phù hợp với
giai đoạn mới.
d. Do sự ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ và
sự biến động của thị trường tài chính quốc tế:
- Khủng hoảng tài chính, tiền tệ có thể xảy ra ở một số khu vực trên thế
giới, vừa gây hiệu ứng di truyền đến nền kinh tế nhiều nước. Nó có ảnh hưởng
đến tất cả các lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là đối với
các tổ chức tín dụng. Bỡi lẽ, tổ chức tín dụng là mắt xích quan trọng của nền
kinh tế đất nước. Tăng cường giám sát từ xa là một trong những biện pháp
làm giảm sự ảnh hưởng, tác động xấu của khủng hoảng tài chính – tiền tệ đến
tổ chức tín dụng nói riêng và nền kinh tế nói chung.
- Hội nhập quốc tế là một tất yếu và trở thành hiện thực. Hoạt động của
các ngân hàng toàn cầu ngày nay đang diễn ra, cạnh tranh gay gắt, chịu nhiều
ảnh hưởng của những biến động thị trường tài chính quốc tế. Với sự xuất hiện
của các công cụ tài chính mới, sự gia tăng nhanh của các dòng tài chính quốc
tế… tất cả các yếu tố đó đều có thể gây khó khăn cho một số tổ chức tín dụng
tầm cỡ, có thể làm chấn động và dẫn tới khủng hoảng hệ thống. Do đó sự ảnh
hưởng của các cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ và sự biến động của thị
trưòng tài chính quốc tế đang đặt ra trước cơ quan giám sát những yêu cầu
hoàn toàn mới và giám sát từ xa trở lên vô cùng quan trọng với phương thức
hoạt động thông qua mạng Internet.
II. CÁC CHỈ TIÊU GIÁM SÁT TỪ XA:
Xuất phát từ những yếu kém của ngân hàng có thể đe doạ đến sự ổn
định tài chính không chỉ trong nước mà cón ảnh hưởng cả phạm vi quốc tế.
Vì thế năm 1975 uỷ ban BASEL được thành lập để hoạt động trong lĩnh vực
7
thanh tra ngân hàng và đã tập hợp các chuẩn mực cơ bản cho hoạt động thanh
tra ngân hàng có hiệu quả gọi là chuẩn mực cơ bản của BASEL.
Để thực hiện giám sát từ xa, có rất nhiều chỉ tiêu để đánh giá hoạt động

của các tổ chức tín dụng. Nhưng theo các nhà quản trị ngân hàng trên thế giới
cho rằng các chỉ tiêu đó đều xoay quanh 5 nội dung cơ bản sau:
- Vốn của ngân hàng “ Capital”
- Chất lượng tài sản có “ Asset quality”
- Khả năng quản lý “ Management ability
- Khả năng sinh lời “ Earning”
- Khả năng thanh toán “ Liquidity”
Năm yếu tố này gọi tắt là công thức “ CAMEL”
Lý thuyết CAMEL cho rằng : Nội dung trên có vai trò quan trọng quyết
định sự thành bại của mỗi ngân hàng, nếu quản lý tốt năm lĩnh vực đó sẽ giảm
tối thiểu sự đổ vỡ của hệ thống ngân hàng. CAMEL trở thành mục tiêu
chung đối với công tác quản lý và kinh doanh ngân hàng .
1. Mức vốn cần thiết:
Mức vốn thể hiện khả năng bù đắp các khoản lỗ hoặc mất vốn của ngân
hàng, đặc biệt là trong thời kì khó khăn . Mức vốn chính là phần đóng góp của
các chủ sở biệt hữu ( cổ đông, tư nhân hay nhà nước) trong ngân hàng và thể
hiện sự cam kết của chủ sở hữu đối với đối tác – khách hàng; qua đó tạo lập
niềm tin và có sẵn nguồn để có thể sử dụng trong những trường hợp cần thiết .
Mức vốn còn thể hiện được quy mô hoạt động, nhất là khả năng huy động vốn
và cho vay các ngân hàng. Quy định đối với bất cứ ngân hàng nào trên thế
giới đều buộc các ngân hàng duy trì một mức vốn cần thiết được gọi là vốn
bắt buộc. Mức vốn này cho ngân hàng khả năng phòng vệ khỏi các rủi ro bị lỗ
hoặc mất vốn, thậm trí bảo vệ ngân hàng không bị phá sản và bảo vệ quyền
lợi người gửi tiền. Câu hỏi đặt ra ở đây là mức vốn chủ sở hữu như thế nào
được coi là đủ, đảm bảo độ an toàn cho ngân hàng.
Yêu cầu về an toàn vốn do các ngân hàng thuộc các nước nhóm G10
khởi xướng và được uỷ ban quản lý ngân hàng thuộc ngân hàng thanh toán
8
quốc tế ban hành đầu tiên năm 1958 gọi là BASEL. Do tính thiết thực của nó
nên cộng đồng các tổ chức tài chính, ngân hàng ở trên 100 nước khác cũng

hưởng ứng. Để phù hợp với những thay đổi lớn của thị trường, BASEL đã
được cải tiến và sửa đổi lần thứ 2 tháng 1 năm 2001 (gọi là BASEL 2 ).
Theo quy định của ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS), vốn tự có của
ngân hàng bao gồm 2 phần : vốn cấp 1 và vốn cấp 2. Để đảm bảo an toàn, vốn
tự có tôí thiểu phải bằng 8% tổng tài sản có rủi ro. Vốn cấp 2 hạn chế tối đa
bằng 100% vốn cấp 1.
Vốn cấp 1( vốn cốt lõi ) cơ bản tương ứng với vốn chủ sở hữu gồm : vốn
góp ( cổ phần thông thường và ưu đãi), thặng dư vốn, các quỹ dự trữ, lợi
nhuận để lại, phần vốn góp vào các công ty trực thuộc.
Vốn cấp 2 ( vốn bổ sung) gồm : Dự phòng bù đắp rủi ro, quỹ dự trữ đánh
giá lại tài sản, giá trị tăng lên của các trái phiếu đầu tư có khả năng chuyển đổi,
nhưng công cụ vốn lưỡng tính ( vừa có tính chất cổ phiếu, vừa có tính chất trái
phiếu), nợ thứ cấp ( là nợ dài hạn do nhà nước đầu tư bên ngoài đóng góp, có
khả năng chuyển nhượng thành cổ phần thường của ngân hàng.
9

Hệ sè an toàn vốn theo Basel 1 so với Basel 2
Tổng vốn tự có
Hệ số an toàn vốn (CAR) =
Tổng các tài sản có rủi ro
Vốn tự có
Basel 1 Basel 2
Tổng vốn cấp 1 và vốn cấp 2 Khái niệm không đổi so với Basel
1
Tổng tái
sản có rủi
ro
- chỉ tiêu bao gồm rủi ro tín
dụng.
- Tính bằng giá trị tài sản đó

nhân với mức độ rủi ro của
tài sản đó.
- Đối với rủi ro tín dụng có
bốn mức rủi ro : 0%, 20%,
50%, 100%
Phân định mức rủi ro không
có mối quan hệ với kinh
nghiệm thực tế.
- Ngoài rủi ro tín dụng còn bao
gồm rủi ro thị trường và rủi ro tác
nghiệp .
- Tính bằng yêu cầu về vốn đối
với rủi ro thị trường và rủi ro tác
nghiệp nhân với 12.5 ( để đáp ứng
CAR là 8% và cộng với tổng tài
sản có rủi ro tính theo rủi ro tín
dụng.
- Đối với rủi ro tín dụng có 5 mức
rủi ro: 0%, 20%,
50%,100%,150%.
- Mức rủi ro phụ thuộc vào xếp
hạng độ tín nhiệm và đánh giá tình
hình thực tế.
Ngay từ đầu, Basel đã đưa ra khái niệm yêu cầu về an toàn vốn điều
chỉnh theo rủi ro . Basel chia làm 2 chỉ đơn thuần làm tinh xảo hơn cách thức
đo lường và tính toán những rủi ro này. Giúp các ngân hàng quản lý rủi ro
10
nhạy bén hơn, nhờ vào quy định buộc họ áp dụng một hệ thống đo lường và
quản lý rủi ro phức tạp.
2. Đánh giá chất lượng tài sản có .

Để đánh giá chất lượng tài sản có phải tập chung xem xét các khía cạnh:
- Mức độ rủi ro trong các loại tài sản có.
- Hoạt động kiểm tra, kiểm soát tín dụng.
- Chính sách trích lập nguồn thu lãi ổn định.
- Khả nămg tạo nguồn thu lãi ổn định.
Và thông thường đánh giá các hệ số quan trọng như: Nợ quá hạn trên
tổng dư nợ, dự phòng rủi ro trên nợ quá hạn, các khoản xoá sổ trên tổng dư nợ

3. Đánh giá khả năng thanh toán :
Để có cách nhìn thấu đáo về khả năng thanh toán cần xem xét các chỉ
tiêu cơ bản:
- Tài sản có thanh toán trên tổng dư nợ tiền gửi. Tỷ lệ này lớn hơn 40%
có thể coi là an toàn.
- Tài sản có thanh khoản trên tổng tài sản có.
-Tổng dư nợ cho vay dòng ( sau khi trích dự phòng rủi ro) Trên tổng dư
nợ tiền gửi. Tỷ lệ cho phép theo thông lệ là 1.
- Tiền gửi của các ngân hàng khác trên tổng tiền gửi của các ngân hàng
khác
4. Đánh giá khả năng sinh lời: Là việc đánh giá khả năng tạo ra
nguồn thu và tính bền vững của các nguồn thu đó.
Để đánh giá được các khả năng sinh lời của ngân hàng, có thể xem các
chỉ tiêu cơ bản sau:
- Lợi nhuận ròng trên tài sản có bình quân ( ROA).
Nếu ROA > 0,5% thì ngân hàng đó được coi là sinh lời cao( ví dụ năm
2000 Citigroup có ROA= 1,56%, HSBC có ROA= 0,98%…)
- Lợi nhuân ròng trên vốn tự có bình quân ( ROE)
-Thu nhập lãi ròng trên tổng thu nhập tài sản có bình quân.
11
-Cổ tức trên mỗi cổ phiếu.
5. Đánh giá khả năng quản lý:

Đánh giá khả năng quản lý được thể hiện chủ yếu thông qua đánh giá tính
hiệu quả của hoạt động ngân hàng. Đánh giá tính hiểu quả ở đây chủ yếu tập
trung vào vấn đề thu nhập và chi phí. Muốn vậy cần xem xét các chỉ tiêu cơ
bản:
- Hệ số chi phí hoạt động trên thu nhập hoạt động các ngân hàng hoạt
động hiệu quả thường có tỷ lệ này dưới 60%.
-Thu lãi ròng trên thu nhập hoạt động. Tỷ lệ này khoảng 60%- 70% là
tốt.
Nói tóm lại, đánh giá hiệu qủa hoạt động của một ngân hàng thương mại
theo tiêu chuẩn quốc tế như trên là một vấn đề tương đối toàn diện. Đó là cơ sở
để thanh tra ngân hàng thuộc ngân hàng nhà nước Việt Nam đề ra các chỉ tiêu
trong việc thực hiện giám sát từ xa đối với các tổ chức tín dụng.
12
Chương II.
CÁC CHỈ TIÊU GIÁM SÁT TỪ XAVÀ
NHỮNG THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC CỦA GIÁM SÁT TỪ XA
TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY Ở VIỆT NAM
I. CÁC CHỈ TIÊU GIÁM SÁT TỪ XA.
Ở Việt nam cũng dựa vào lý thuyết CAMEL, giám sát từ xa được thanh
tra ngân hàng nước Việt Nam áp dụng đã ban hành quy chế và văn bản hướng
dẫn thực hiện (quy chế số 1525/CV- TTR 1 ngày 22/12/1995).
Nội dung các chỉ tiêu của giám sát từ xa của thanh tra ngân hàng nhà
nước Việt Nam.
1. Về cơ cấu tài sản nợ, có.
1.1 Tài sản nợ: đánh giá các chỉ tiêu:
- Vốn huy dộng chủ yếu ở thị trường I ( thị trường khách hàng không
phải tổ chức tín dụng) hay thị trưòng II ( thị trường liên ngân hàng).
- Vốn không kỳ hạn và ngăn hạn chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng
nguồn.
- Diễn biến tăng, giảm của các khoản vốn theo thời gian, theo kỳ hạn và

lãi suất, nguồn vốn có chi phí cao chiếm tỷ lệ như thế nào trong tổng nguồn ?
- Khả năng huy dộng vốn của cá tổ chức tín dụng trong hiện tại và tương
lai.
- Uy tín của các tổ chức tín dụng trên thị trường có khả năng huy động
vốn, mức độ vốn huy động được có phù hợp với tình hình phát triển kinh tÕ
trên địa bàn hay không?
- Kiểm tra vốn ngắn hạn dùng để cho vay trung và dài hạn theo quy định
của ngân hàng nhà nước.
I.2 . Tài sản có.
Giám sát các nội dung:
13
- Tổ chức tín dụng đó hoạt động chủ yếu ở thị trường I hay thị trường II.
- Khối lượng vốn đầu tư vào mỗi ngành, mỗi lĩnh vực kinh tế như thế
nào?
- Các khoản tín dụng bảo lãnh lớn phát sinh trong vòng 15 ngày, có giá
trị từ 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng trở lên gồm các chỉ tiêu :
* Đối tượng khách hàng được cấp tín dụng , bảo lãnh.
* Sè tiền vay bảo lãnh phát sinh trong vòng 15 ngày.
* Giá trị tài sản thế chấp, cầm cố.
* Khả năng trả nợ của khách hàng.
- Dư nợ tín dụng đối với khách hàng từ 5 năm vốn tự có của các tổ chức
tín dụng trở lên, gồm các chỉ tiêu:
* Khách hàng được cấp tÝn dông.
* Tổng dư nợ tín dụng.
* Giá trị tài sản thế chấp, cầm cố.
* Loại cho vay ( ngắn, trung, dài hạn)
2. Chất lượng tài sản có.
2.1 Đánh giá chất lượng hoạt động cấp tín dụng thông qua các chỉ
tiêu:
- Nợ quá hạn( Bao gồm nợ quá hạn hạch toán ở tài sản nợ quá hạn, nợ

chờ xử lý, nợ cho vay được khoanh) so với tổng dư nợ cho vay, cho thuê. Chất
lượng tín dụng được đánh giá tốt khi tỷ lệ này ở dưới mức 5 năm và nợ quá
hạn khó đòi chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nợ quá hạn.
- Diễn biến và mức độ biến động ở các kỳ trước so với hiện nay, sự biến
động đó do nguyên nhân gì? Trên cơ sở đó mới có những đánh giá chính xác
về chất lượng tín dụng của ngân hàng.
- Mối quan hệ giữa dự phòng phải thu khó đòi so với tổng tài sản có
phải tích dự phòng, chất lượng tín dụng được đánh giá tốt khi tỷ lệ tài sản có
phải trích lập dự phòng so với tổng tài sản có và tỷ lệ các khoản phải xoá nợ so
với tổng dư nợ ở mức độ thấp.
14
- Xem xét cơ cấu đầu tư tín dụng ở các lĩnh vực truyền thống hay lĩnh
vực mới; Đầu tư tín dụng có tập chung vào một lĩnh vực nào không?
- Giám sát việc đầu tư tín dụng ở các đối tượng chịu sự điều chỉnh của
luật các tổ chức tín dụng ( theo điều 78 về hạn chế tín dụng ) ở mức độ cho
phép của luật.
- Giám sát cho vay đối với một số khách hàng theo quy định của luật các
tổ chức tín dụng và quy định của thống đốc ngân hàng nhà nước.
2.2. Đánh giá các hoạt động kinh doanh khác của tổ chức tín dụng.
- Kiếm soát các hoạt động kinh doanh ngoại hối của tổ chức tín dụng
theo các quy định của chính phủ và thống đốc ngân hàng nhà nước.
- Kiếm soát giới hạn góp vốn, mua cổ phần đối với doanh nghiệp và tổng
góp vốn mua cổ phần của tổ chức tín dụng đối với doanh nghiệp so với vốn tự
có của tổ chức tín dụng. Khi đánh giá hiệu quả của hoạt động , mua cổ phần,
cần phải so sánh lợi nhuận thu được từ hoạt động này so với mặt bằng lợi
nhuận thu được từ hoạt động từ các hoạt cấp tín dụng của ngân hàng.
- Hoạt động bảo lãnh : Kiểm soát giới hạn bảo lãnh tối đa với một khách
hàng và tổng mức bảo lãnh của một tổ chức tín dông so với vốn tự có của tổ
chức tín dụng theo quy định của thống đốc ngân hàng nhà nước.
3. Tình hình thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh:

3.1. Đánh giá cơ cấu, diễn biến của các khoản mục thu – chi.
- Kiểm tra tính đầy đủ và hợp lý của các khoản thu nhập, chi phí và diễn
biến so với kỳ trước.
- Đánh giá tính tương đối các khoản thu nhập, chi phí so với mức độ sử
dụng vốn với khối lượng vốn huy động.
- Kiểm tra việc trích lập dự phòng phải thu khó đòi so với việc phân loại
tài sản “có” có đầy đủ không?
- Đánh giá các khoản thu nhập là thường xuyên hay không thường
xuyên.
- Xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập.
3.2. Tính toán một số tỷ lệ phản ánh kết quả kinh doanh :
15
- Lợ nhuận ròng trước thuế so với tổng tài sản “ có”.
- Thu nhập lãi ròng ( thu nhập lãi – chi phí) so với bình quân tài sản có
sinh lời.
- Lợi nhuận ròng trước thuế so với vốn chủ sở hữu
-Lợi nhuận ròng trước thuế so với vốn cổ phần.
- Dự phòng phải thu khó đòi thực tế so với số phải dự phòng.
4.Vốn tự có:
Giám sát việc thực hiện quy định về các tỷ lệ để bảo đảm an toàn trong
hoạt động của các tổ chức tín dụng.
- Tỷ lệ an toàn tối thiểu = vốn tự có/ tài sản”có” rủi ro ≥ 8%.
Trong đó vốn tự có bao gồm: Vốn điều lệ, quỹ bổ sung vốn điều lệ, trừ
vốn góp mua cổ phần với các tổ chức tín dụng khấc.
- Giám sát việc chuyển nhượng cổ phần có ghi tên theo quy định của
ngân hàng nhà nước.
- Giám sát mức độ góp vốn , mua cổ phần của doanh nghiệp.
- Giám sát mức độ vốn pháp định của mỗi loại hình tổ chức tín dụngvốn
điều lệ ghi trên số sách kế toán tối thiểu phải bằng vốn pháp định do chính phủ
quy định tại nghị định số 82/1998/NĐ - CP, ngày 03/01/1998.

5. Việc đảm bảo khả năng chi trả:
Đánh giá khả năng chi trả của tổ chức tín dụng theo các nội dung sau:
Tỷ lệ giữa tài sản” có” có thể thanh toán ngay tối thiểu phải bằng tài sản
“ Nợ” phải thanh toán ngay, tức là:
Tài sản “có” có thể thanh toán ngay/ Tài sản “nợ” có thể thanh toán ngay
≥1
- Giám sát về việc duy trì thường xuyên tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các tổ
chức tín dụng.
- Đánh giá về việc rủi ro thanh khoản, xem xét tính cân đối về vốn và sử
dụng vốn.
16
- Uy tín và khả năng huy động vốn trên thị trường, sự tăng trưởng về tài
sản” có” có dựa trên sự tăng trưỏng về vốn huy động hay không?
- Đánh giá sự phụ thuộc vào tài sản nợ dễ biến động, các khoản vốn lớn
và sự biến động của chúng.
Trên đây là các chỉ tiêu giám sát từ xa của thanh tra ngân hàng nhà nước
Việt Nam trong quá trình thực hiện công tác thanh tra đối với các tổ chức tín
dụng. Hiện các chỉ tiêu này đã đầy đủ chưa và tình hình thực hiện các chỉ tiêu
này của thanh ta ngân hàng hiện nay như như thế nào, chúng ta phải đánh giá
thực trạng hoạt động của phương thức giám sát từ xa trong những năm gần
đây.
II. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Từ việc tập dượt, làm quen với những phương thức thanh tra mới đến
việc từng bước hoàn thiện với những phương pháp thanh tra mới của ngân
hàng nhà nước Việt Nam trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường hơn
10 năm qua. Cùng với việc đổi mới của hệ thống ngân hàng nước ta được sự
giúp đỡ và hợp tác tích cực có hiệu quả của các tổ chức tài chính quốc tế và
một số ngân hàng trung ương của một số nươc trên thế giới, sự quan tâm chỉ
đạo của ban lãnh đạo ngân hàng nhà nước, sự phối kết hợp của các đơn vị
trong ngành, đặc biệt là sự cầu thị, cố gắng nỗ lực vừa học vừa làm của đội

ngũ cán bộ thanh tra ngân hàng nên công tác thanh tra ngân hàng nói chung,
đặc biệt là giám sát của thanh tra ngân hàng nhà nước nói riêng đối với các tổ
chức tín dụng đã đạt được những bước đầu quan trọng, đáng khích lệ. Công tác
giám sát từ xa đã trở thành phương thức hoạt động chính của thanh tra ngân
hàng kết quả này được thực hiện:
1. Đã xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống giám sát từ xa đối với
các tổ chức tín dụng trong toàn quốc, bao gồm cả chương trình phần mềm
giám sát hoạt động nói chung và giám sát các chỉ tiêu an toàn nói riêng của
từng tổ chức tín dụng và cả hệ thống tín dụng trên toàn quốc. Kết quả đạt
được đã góp phần nâng cao kỹ năng phân tích tài chính và hoạt động của các
17
ngân hàng thương mại, trang bị thêm phương tiện kỹ thuật cho thanh tra ngân
hàng. Hiện nay, hệ thống này đã và đang được vận hành khá tốt, tiệp nhận và
xử lý thông tin, phân tích đánh giá thực trạng được thực hiện một cách thường
xuyên hàng tháng đối với tất cả các loại hình tổ chức tín dụng và chi nhánh
được thực hiện tại trụ sở ngân hàng nhà nước các tỉnh, thành phố. Kết quả định
kỳ đã cung cấp thông tin theo chuẩn mực quy định về thực trạng của các tổ
chức tín dụng cho các cấp lãnh đạo ngân hàng nhà nước cũng như thông báo
đÕn hội đồng quản trị và ban giám đốc các tổ chức tín dụng có vi phạm những
chỉ số an toàn cần điều chỉnh và khắc phục.
Một nội dung có ý nghĩa trong công tác giám sát từ xa là việc đảm bảo
an toàn ( bằng cảnh báo các chỉ số an toàn theo phương pháp CAMEL) cho
từng tổ chức tín dụng và cả hệ thống ngân hàng trong toàn quốc.
2. Xây dựng và ban hành về cơ bản dầy đủ các nghị định về giám sát
thanh tra đó là: Nghị định của chính phủ về tổ chức và hoạt động của thanh tra
ngân hàng( Số 91/1999 NĐ - CP, ngày 01/09/1999 ) và thông tư hướng dẫn thi
hành số 04/2000/TT-NHNN 3 ngày 28/03/2000); nghị định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng( số 20/2000/NĐ -
CP, ngày 15/06/2000) và thông tư của ngân hàng nhà nước hướng dẫn thực
hiện nghị định số 20( sè 09/2000/TT-NHNN 3, ngày 29/08/2000). Thống đốc

ngân hàng nhà nước đã ban hành quy chế giám sát từ xa đối với các tổ chức
tín dụng hoạt động tại Việt Nam thay thế quy chế không còn phù hợp quy chế
về tổ chức và hoạt động của thanh tra ngân hàng nhà nước … Những văn bản
pháp quy này là cơ sở pháp lý để thanh tra ngân hàng hoạt động, thực hiện
chức năng, nhiệm vụ theo pháp luật một cách có hiệu lực và hiệu quả.
3. Hiệu quả của việc giánm sát từ xa được coi trọng và nâng cao mét
bước, thể hiện ở việc tổ chức hoạt động giám sát. Việc phát hiện trong giám
sát cũng như các biện pháp sử lý đúng quy phạm rất cụ thể, rõ ràng xác thực và
kịp thời hơn. Điều đặc biệt là đối tượng thanh tra, giám sát (các tổ chức tín
18
dụng và các chi nhánh tổ chức tín dụng, cũng như các cán bộ lãnh đạo , cán bộ
nghiệp vụ của các tổ chức tín dụng) chấp hành và thực hiện nghiêm túc. Kết
quả là góp phần vào việc chấn chỉnh và nâng cao chất lượng hoạt độngcủa các
tổ chức tín dụng , vào việc củng cố, sắp xếp và cơ cấu lại các ngân hàng
thương mại, đưa hệ thống ngân hàng nước ta dần dần ổn định, tạo đà tiếp tục
phát triển.
Như vậy giám sát từ xa của thanh tra ngân hàng đã tự khẳng định được
vai trò trách nhiệm của mình trong việc góp phần đảm bảo sự an toàn của hệ
thống các tổ chức tín dụng, cũng như sự ổn định, an toàn hoạt động tiền tệ và
ngân hàng. Hiện nay việc tổ chức sắp xếp lại hệ thống ngân hàng nhà nước ta
trong xu hướng toàn cầu hoá hoạt động tài chính – tiền tệ là một thách thức lớn
đối với ngành ngân hàng. Trong đó có vai trò quan trọng, tích cực và có căn cứ
của giám sát từ xa, là một khâu trọng yếu khi ta đưa ra các kiến nghị, giải
pháp và bước đi trong việc tổ chức và sắp xếp lại hệ thống ngân hàng Việt
Nam.
19
Chương III.
NHỮNG TỒN TẠI CỦA GIÁM SÁT TỪ XA
TRONG THỜI GIAN QUA, GIẢI PHÁP VÀ KHẮC PHỤC
NHỮNG TỒN TẠI ĐÓ.

Trong thời gian qua, công thanh tra ngân hàng nói chung và giám sát từ
xa của thanh tra ngân hàng nói riêng đã đạt được những kết quả rất quan
trọng, góp phần làm mạnh mẽ hệ thống ngân hàng, ngăn ngừa và hạn chế
những tiêu cực xảy ra. Kết quả của công tác giám sát từ xa đã phát hiện,
“khuyến cáo” nhiều tổ chức tín dụng, phục vụ cho việc xây dựng kế hoạch,
nội dung thanh tra cụ thể; cung cấp thông tin cần thiết cho ban lãnh đạo ngân
hàng nhà nước và giám đốc chi nhánh ngân hàng nhà nước các tỉnh, thành phố
trong chỉ đạo điều hành. Đó là những thành công bước đầu của công cuộc đổi
mới vai trò và kiểm soát vĩ mô. Song những tồn tại trong hoạt động giám sát từ
xa trong thời gian qua cùng với yêu cầu thực tiễn đòi hỏi phải hoàn thành và
nâng cao hơn nữa hiệu lực và hiệu quả của công tác giám sát từ xa.
Để góp phần giám sát từ xa của công tác thanh tra ngân hàng nhà nước
Việt Nam ngày một hoàn thiện, có đủ điều kiện về pháp chế cũng như phương
tiệnkỹ thuật, nghiệp vụ trong hoạt động nhằm phục vụ đáp ứng được yêu cầu
kiểm soát hoạt động của các tổ chức tín dụng, kiểm soát có hiệu quả hoạt động
tiền tệ và ngân hàng trong phạm vi toàn quốc và hợp tác quốc tế, cần giải
quyết các vấn đề trọng tâm và giám sát từ xa như sau:
1.Phải nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của giám sát từ xa
đối với sự tồn tại và phát triển của hệ thống các tổ chức tín dụng.
2. Xây dùng khung pháp lý cho hoạt động giám sát từ xa.
20
Nền kinh té thị trường là nền kinh tế vận hành theo pháp luật, mọi hoạt
động kinh tế đều được đảm bảo bới các văn bản pháp luật tương ứng, trong đó
có hoạt động của các tổ chức tín dụng. Sự an toàn hay không an toàn trong
hoạt động tổ chức kinh doanh tiền tệ tín dụng chủ yếu phụ thuộc vào tính
nghiêm minh của pháp luật. Bài học kinh nghiệm đã được cộng đồng tài chính
rót ra sau các vụ khủng hoảng tài chính tiền tệ và ngân hàng trên thế giới, cho
thấy rằng nếu có các quy chế tốt cùng với một cơ chế thanh tra giám sát chặt
chẽ và thi hành hữu hiệu thì sẽ góp phần ngăn chặn có và đẩy lùi những thảm
hoạ có thể xảy ra đối với hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế.

Ở nước ta những văn bản pháp lý liên quan như : Luật ngân hàng nhà
nước Việt Nam, luật các tổ chức tín dụng, luật ngân sách nhà nước, luật thuế,
pháp định kế toán thống kê…đã đưa ra một số quy định để ngành ngân hàng
có thể thực hiện được chức năng giám sát của mình . Tuy nhiên , các văn bản
luật này vẫn chưa hoàn chỉnh và chưa có tính hệ thống . Đặc biệt ở nước ta vẫn
còn thiếu những quy định mang tính trình tự và những quy định hành chính để
thực hiện giám sát. Do không có những quy đỉnh rõ ràng nên cơ quan giám sát
không có đủ các căn cứ pháp luật làm chỗ dựa để hoạt động và đưa ra các hoạt
động hiệu quả. Từ đó gây tổn hại về tính quyền lực, tính nghiêm chỉnh và khó
khăn trong việc giám sát từ xa.
Chính vì vậy điều cấp bách hiện nay là cần xây dựng hệ thống pháp luật
đầy đủ về giám sát từ xa phù hợp với đặc điểm nền kinh tế Việt Nam. Cần
nhìn nhận từ góc độ pháp luật để làm rõ vị trí, tác dụng, chức năng, nhiệm vụ
của giám sát từ xa. Luật hoá các biện pháp và trình tự giám sát để pháp luật
thực sự là chỗ dựa và các hoạt động tài chính phải tuân thủ theo pháp luật.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà hiệp định thương mại Việt – Mỹ có
hiệu lực thi hành. Hiệp đinh thương mại Việt – Mỹ được coi là bước khởi đầu
của tiến trình hội nhập hệ thống tài chính Việt Nam vào hệ thống toàn cầu. Nó
là cửa ải cuối cùng để Việt Nam tiến tới tham gia vào tổ chức thương mại thế
giới(WTO) vào năm 2005 . Khi Việt Nam gia nhập vào tổ chức thương mại
thế giới thì coi như Việt Nam đã tham gia hoàn toàn vào dòng thác toàn cầu
21
hoá . Thời gian còn lại cho quá trình hội nhập là quá ngắn, trong khi mới chỉ
tính riêng hiệp định thương mại Việt – Mỹ cũng đã phát sinh hàng loạt vấn đề
nằm ngoài tầm kiểm soát của các bộ luật Việt Nam, Ví dụ như khái niệm “
ngân hàng con” là một nội dung nằm ngoài tầm kiểm soát của luật ngân hàng
Việt Nam . Do đó, việc chính của luật hay các văn bản dưới luật liên quan tới
hoạt động ngân hàng trong thời gian tới phải quán triệt theo hướng quốc tế
hoá, tôn trọng những gì mà cả cộng đồng tài chính đã thoả thuận và áp dụng.
3. Thiết lập hệ thống gíam sát từ xa.

Việc xây dựng các tổ chức giám sát là điều kiện hÕt sức cần thiết. Để
thiết lập được hệ thống chỉ tiêu giám sát hoàn chỉnh, cần tiến hành theo những
định hướng sau:
- Các chỉ tiêu giám sát phải bao quát, đồng loạt phù hợp với thực
tiễnViệt Nam song không ai rời các chuẩn mực quốc tế.
- Trong quá trình xây dựng hệ thống chỉ tiêu giám sát nên chú ý tham
khảo ý kiến rộng rãi của đối tượng bị giám sát, tránh tình trạng các chỉ tiêu phi
thực tế, thiên về phục vụ lợi Ých người quản lý mà làm thiệt hại đối tượng
giám sát.
- Các chỉ tiêu giám sát từ xa không chỉ dừng lại ở việc phản ánh hiện
trạng, mức độ tuân thủ pháp luật, tài chính hiện hành mà còn phải là cứ liệu
quan trọng để điều chỉnh chính sách tài chính, tiền tệ cho phù hợp. Đồng thời
trợ giúp cho việc phân tíchdự báo xu hướng để sẵn sàng ngăn chặn các nguy
cơ khủng hoảng tài chính tiền tệ .
-Nâng cao chất lượng phân tích các chỉ tiêu của bộ phận giám sát từ xa.
Ở Việt Nam hiện nay cách tính hệ số COOK ( hệ số an toàn vốn) đang còn
nhiều bất cập so với thông lệ quốc tế.
Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay bao gồm hai loại:
Một là các ngân hàng thương mại quốc doanh, hai là các ngân hàng thương
mại cổ phần vốn tự có cung khác nhau.
* Vốn tự có của các ngân hàng thương mại quốc doanh do ngân sách
nhà nước cấp, do đó để tính tỷ lệ COOK theo tiêu chuẩn quốc tế (COOK quốc
22
tế) thì nhiều yếu tố sẽ bị loại bỏ ( Ví dụ như cổ phiếu, hay những công cụ
lưỡng tính…) Vì vậy cần phải cụ thể hoá các khoản mục khác mang tính chất
vốn tự có (như các quỹ…) cho sát hơn khi áp dụng hệ số này vào tính toán.
* Vốn tự có ở các ngân hàng cổ phần do các cổ đông đóng góp và do các
khoản mục trong cơ cấu vốn tự có là tương đối rõ ràng và phù hợp khi áp dụng
COOK quốc tế vào để tính toán. Song nếu áp dụng theo hệ số COOK quốc tế ở
Việt Nam thì hàng loạt khoản mục bị loại bỏ và do đó khi tính chỉ tiêu này rõ

ràng nó sẽ làm triệt tiêu các khoản mục khác trong danh sách các khoản mục
có rủi ro. Từ đó sẽ làm cho phạm vi hoạt động cuả các ngân hàng thương mại
cổ phần bị thu hẹp, năng lực cạnh tranh bị giảm sút, đặc biệt nếu kết hợp giữa
sự “bó hẹp” này với một số công cụ khác của chính sách tiền tệ như dự trữ bắt
buộc thì nó sẽ làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của các ngân hàng thương mại do
các ngân hàng phải tăng chi phí để bù đắp lại các khoản mục được coi là
không sinh lời.
Rõ ràng việc xác định đúng các yêu tố cấu thành vốn tự có mang mét ý
nghĩa hết sức quan trọng, vì nó không chỉ giúp cho các ngân hàng thương mại
chấp hành nghiêm chỉnh quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, lành mạnh
hoá tình hình hoạt động mà còn liên quan đến việc chấp hành hàng loạt các
quy chế khác như mức cho vay mức bảo lãnh tối đa một khách hàng, tỷ lệ hùn
vốn mua cổ phần, mua tài sản cố định… Toàn bộ các giới hạn này đều được
xác định xoay quanh trục vốn tự có của một ngân hàng. Như vậy, đã đến lúc
cần phải thay đổi lại cơ cấu vốn tự có của các ngân hàng thương mại để giúp
các ngân hàng thương mại Việt Nam có điều kiện mở rộng thị phần, đứng
vững trong cuộc cạnh tranh hiện nay.
Như chóng ta đã biết, Basel ( yêu cầu an toàn về vốn) đã được cải tiến và
sửa đổi lần thứ 2 ( gọi là Basel 2) từ tháng 01/2001. Với các ưu điểm của Basel
2 ( phân định các mức rủi ro trên cơ sở xếp hạng độ tín nhiệm và mức rủi ro
thực tế trong thời gian đã qua), các nước Châu Á đang nghiên cứu và tìm tòi
cách thức áp dụng Basel 2 vào hệ thống của nước mình. Trong khi mức rủi ro
của các ngân hàng lớn khi áp dụng Basel 2 có thể giảm đi thì các ngân hàng
23
nhỏ và yếu kém lại tăng lên . Các ngân hàng Việt Nam còn nhỏ và yếu hơn các
ngân hàng khác trong khu vực. Do đó, cũng như phần lớn các ngân hàng Châu
Á khác, Basel 2 ảnh hưởng đến các ngân hàng Việt Nam. Năm 1999, Việt
Nam mới cơ bản xây dựng được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo Basel 1 . Trên
cơ sở có sửa đổi và đưa vào quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong các
hoạt động của cá tổ chức tín dụng. Hiện nay, Việt Nam còn phải đối mặt với

một thách thức lớn hơn nhiều là “ làm thế nào để quản lý được rủi ro khi Basel
2 được thực hiện vào năm 2004”.
4. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế hoạt động giám sát từ xa.
Cơ chế hoạt động giám sát từ xa còn bộc lộ những tồn tại lớn: Sự chồng
chéo và thiếu tính hệ thống, chức năng nhiêm vụ của cơ quan giám sát không
được phân định rõ ràng lại thiếu hụt nên có lĩnh vực có lúc, có nơi nhiều đơn
vị giám sát, trong khi lại bỏ trống không giám sát nhiều lĩnh vực khác. Cơ chế
giám sát vừa phức tạp vừa còn nhiều lỗ hổng làm cho dối tượng giám sát khó
có thể thực hiện nghiêm túc, đồng thời cơ quan giám sát Ýt phải chịu trách
nhiệm về công việc giám sát của mình, hiếm khi chấp nhận và sử dụng kết quả
giám sát của nhau, vừa lãng phí thời gian, tiền bạc, vừa giảm hiệu quả công tác
giám sát tài chính .
Do đó, cơ chế hoạt động giám sát từ xa của thanh tra ngân hàng nhà
nước Việt Nam cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Xây dựng cơ chế giám sát theo nguyên tắc bao quát, tránh chồng chéo
để các cơ quan giám sát có thể sử dụng kết quả giám sát của nhau và chịu trách
nhiệm về kết quả giám sát của mình, chia sẻ thông tin và phối hợp công tác
hoàn thành tốt các chức năng nhiêm vụ được giao.
- Kiện toàn đội ngũ các bộ làm công tác giám sát từ xa cả về số lượng lẫn
chất lượng, sắp xếp lại cán bộ giám sát trên cơ sở những người có trình độ
nghiệp vụ cao, có phẩm chất đạo đức tốt đi đôi với chế độ tài chính đặc biệt để
giúp họ hoàn thành tốt nhiệm vụ.
- Cần xây dựng cơ chế giám sát lại của hoạt động giám sát và tăng
cường việc giám sát lại đối với cơ quan giám sát lần trước.
24
-Xây dựng cơ chế nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Nghiêm chỉnh
chấp hành pháp luật là yêu cầu khách quan và cũng là biện pháp quan trọng
thực hiện quản lý tài chính theo pháp luật. Xử lý được tận gốc những vấn đề vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực tài chính, đám bảo quyền lợi kinh tế - tài chính
hợp pháp . Để tăng cường chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, cần đẩy mạnh

việc nâng cao một cách toàn diện trình độ quản lý tài chính của các tổ chức tín
dụng. Cần hoàn thiện hơn nữa chế độ truy cứu trách nhiệm dân sự đối với
những trường hợp vi phạm . Ngành ngân hàng cần phaỉ phối hợp chặt chẽ với
ngành tư pháp kiểm tra giám sát, xây dựng cơ chế xử lý các vụ án. Thúcđẩy
nâng cao ý thức chấp hành và tuân thủ pháp luật của toàn xã hội.
5. Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật cao để cải cách phương thức
giám sát từ xa.
Bản thân phương thức giám sát từ xa đối với các tổ chức tín dụng của
nhà nước là một phương thức tiên tiến, sử dụng hệ thống máy tính hiện đại.
Mặt khác, do việc xây dựng nền kinh tế thị trường làm cho tình hình nền kinh
tế vận hành phức tạp hơn trước đây, các phần tử vi phạm pháp luật ngày càng
kín đáo như : Lập nhiều sổ kế toán, “ tài khoản tăng vốn” dùng để tăng tín
dụng giả, có tổ chức tín dụng lập “tài khoản chốn thuế” để gian lận thuế, Lập
“tài khoản ngoài sổ sách” để vi phạm kỷ luật chi tiêu… phương thức giám sát
truyền thống không thể thích ứng với tính hình thế giới mới, phải sử dụng tiến
bộ khoa học kỹ thật mới mới có thể nâng cao hiệu quả giám sát. Vấn để này
cần giải quyết công việc sau:
- Hệ thống ngân hàng nhà nước, bộ tài chính, các tổ chức tín dụng cần sử
dụng phổ biến kỹ thuật máy tính vào công việc quản lý và giám sát từ xa, đi
đôi với việc đào tạo một đội ngũ giám sát viên giỏi cả về phân tích, đánh giá
tình hính tài chính, về kỹ thuật vận hành những chương trình liên quan đến
hoạt động giám sát tài chính. Chú trọng đào tạo để cán bộ giám sát từ xa của
thanh tra ngân hàng thường xuyên được tiếp cận những kiến thức, sản phẩm
dịch vụ và công nghệ mới của các tổ chức tín dụng trong xu thế hội nhập kinh
tế quốc tế và nền kinh tế tri thức.
25

×