KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
BAO THANH TOÁN QUỐC TẾ
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TẠI VIỆT NAM
Giáo viên hướng dẫn : TS. Mai Thanh Quế
Sinh viên thực hiện : Trần Thị Châu
Líp : TTQT A-K6
Khoa : Ngân hàng
HÀ NỘI – 2007
LỜI MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 39.6 tỷ USD, tăng 22,1%
so với năm 2005. Đóng góp vào sự tăng trưởng chung của kim ngạch xuất khẩu
phải kể đến vai trò không nhỏ của các doanh nghiệp xuất khẩu vừa và nhỏ Việt
Nam. Tuy nhiên, thị trường xuất khẩu không thuộc về các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Việt Nam trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá. Những yếu điểm của doanh nghiệp
vừa và nhỏ về quy mô, mức độ đa dạng của sản phẩm, tầm quan trọng của sản
phẩm, lợi thế so sánh của sản phẩm, khả năng cung ứng và sản xuất, hoạt động phân
phối và bán hàng…khiến cho người xuất khẩu mất đi lợi thế thương lượng hợp
đồng, làm giảm đi mức độ tin tưởng của người nhập khẩu vào khả năng thực hiện
hợp đồng của người xuất khẩu. Trong bối cảnh đó, phương thức thanh toán quốc tế
tốt nhất cho doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá
phải là phương thức làm cho người nhập khẩu có thể nhận chứng từ liên quan đến
hàng và hàng trước khi thanh toán cho người xuất khẩu (phương thức ghi sổ – O/A
– Open Account). Hoặc Ýt nhất là có thể nhận được chứng từ liên quan đến hàng
khi cam kết thanh toán cho người xuất khẩu vào một thời điểm trong tương lai
(phương thức nhờ thu kèm chứng từ –D/A – Documents against acceptance). Trên
thực tế, đây cũng là điều kiện thanh toán được các nhà nhập khẩu đề nghị. Và tại
các nước hoạt động xuất khẩu mạnh, các nhà xuất khẩu thường chào hàng với
phương thức thanh toán O/A hoặc D/A. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt, sử
dụng các phương thức thanh toán trên (bán chịu hàng hoá cho nhà nhập khẩu) sẽ tạo
ra ưu thế cho nhà xuất khẩu vượt qua các nhà xuất khẩu khác mặc dù có sự tương
đương về chất lượng và giá cả hàng hoá.
Song bán chịu hàng hoá có nghĩa là sau một thời gian nhà xuất khẩu mới
nhận được tiền hàng. Hậu quả tất yếu đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nhất là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ là thiếu vốn lưu động. Đồng thời phải đối mặt với rủi
ro không được thanh toán từ nhà nhập khẩu, với việc quản lý các khoản phải thu,
với việc bỏ thời gian, công sức, chi phí thu nợ nước ngoài. Có một dịch vụ tài chính
giải quyết nhanh gọn tất cả các vấn đề trên cho nhà xuất khẩu. Đó là bao thanh toán
quốc tế. Các nhà xuất khẩu Việt Nam đang làm quen với dịch vụ này. Bao thanh
toán quốc tế mang lại lợi Ých cho cả nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu. Vì vậy nhà
nhập khẩu Việt Nam có thể được hưởng lợi Ých từ dịch vụ này nếu nhà xuất khẩu
nước ngoài sử dụng dịch vụ bao thanh toán quốc tế và bán hàng chịu cho phía Việt
Nam.
Bao thanh toán quốc tế đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Nói về dụch
vụ này người ta sử dụng thuật ngữ: ngành bao thanh toán – “Factoring industry”.
Rất nhiều nước trên thế giới từ các nước đang phát triển đến các nước phát triển, rất
nhiều ngành trên thế giới từ sản xuất vật chất đến dịch vụ đang được hưởng lợi Ých
mà bao thanh toán quốc tế đem lại. Có mối quan hệ tác động tích cực giữa bao
thanh toán quốc tế và hoạt động xuất khẩu.
Năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO và cũng là
năm quy chế PNTR đối với Việt Nam của Mỹ được thực hiện. Rất nhiều cơ hội và
thách thức cho Việt Nam. Hơn lúc nào hết, Việt Nam đang có cơ hội để tăng trưởng
kim ngạch thương mại từ Mỹ và các thành viên khác của WTO. Hướng tới mục tiêu
xuất khẩu đạt 66,8 tỷ USD năm 2010 với tốc độ tăng trưởng bình quân 16%/năm do
Chính phủ đề ra, mọi công cụ thúc đẩy xuất khẩu được WTO cho phép đều cần
được sử dụng. Không có lý do gì, Việt Nam không tìm hiểu bao thanh toán quốc tế,
không nghiên cứu kinh nghiêm quốc tế về phát triển bao thanh toán quốc tế từ đó
xây dựng giải pháp phát triển bao thanh toán quốc tế tại Việt Nam, mang lại lợi Ých
cho các nhà xuất nhập khẩu Việt Nam. Đây cũng là lý do em chọn đề tài: “Bao
thanh toán quốc tế. Kinh nghiệm quốc tế và giải pháp phát triển tại Việt Nam”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Một là, đưa ra hệ thống cơ sở lý luận về bao thanh toán quốc tế nhằm đem lại
những hiểu biết cần thiết về bản chất, nội dung, quy trình nghiệp vụ, lợi Ých và hạn
chế của bao thanh toán quốc tế.
Hai là, phân tích thực trạng triển khai bao thanh toán quốc tế tại Việt Nam.
Đồng thời đề cập đến những cơ hội, thách thức đặt ra cho ngành tài chính – ngân
hàng khi Việt Nam đã là thành viên thứ 150 của WTO.
Ba là, phâu tích các kinh nghiệm quốc tế về phát triển bao thanh toán quốc
SV: Trần Thị Châu – Líp TTQT A – K6 Khoá luận tốt
nghiệp
2
tế.
Bốn là, xây dựng các giải pháp phát triển bao thanh toán quốc tế tại Việt
Nam dựa trên các kinh nghiệm quốc tế.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài tập trung nghiên cứu thực tiễn triển khai hoạt động bao thanh toán
quốc tế tại Việt Nam, nhu cầu phát triển dịch vụ này trong thời kỳ mở cửa mạnh mẽ
thị trường tài chính Việt Nam. Đồng thời chú trọng phân tích các kinh nghiệm của
một số các quốc gia trên thế giới đã phát triển thành công bao thanh toán quốc tế
nhiều năm.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Sử dụng các phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp kết hợp với
việc minh hoạ bằng sơ đồ, bảng biểu nhằm mục đích làm vấn đề rõ ràng, trực quan.
Đặc biệt là phương pháp nghiên cứu tham khảo và dịch tài liệu nước ngoài.
5. KẾT CẤU CỦA KHOÁ LUẬN
Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung chính của khoá luận gồm 3 chương:
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ BAO THANH TOÁN QUỐC TẾ
Chương 2. BAO THANH TOÁN QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ.
Chương 3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BAO THANH TOÁN QUỐC TẾ
TẠI VIỆT NAM
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến TS. Mai Thanh Quế, thầy đã trực tiếp
hướng dẫn em hoàn thành khoá luận này.
CHƯƠNG 1
SV: Trần Thị Châu – Líp TTQT A – K6 Khoá luận tốt
nghiệp
3
TỔNG QUAN VỀ BAO THANH TOÁN QUỐC TẾ
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN
Trong phạm vi khoá luận này, nghiệp vụ bao thanh toán được nghiên cứu
chính là nghiệp vụ có tên tiếng Anh là Factoring. Bao thanh toán quốc tế chính là
Factoring quốc tế. Thuật ngữ “Factor” có nghĩa là đơn vị bao thanh toán – tổ chức
cung ứng dịch vụ bao thanh toán.
1.1.1. Khái niệm bao thanh toán
Có mặt tại Việt Nam vào cuối thập kỷ 90 song bao thanh toán (Factoring) là
một trong những hình thức tài trợ thương mại lâu đời nhất. Một số học giả phát hiện
rằng nó đã có từ hàng ngàn năm trước. Song Factoring đánh dấu sự phát triển cao
vào thế kỷ 14 tại Anh cùng với sự phát triển của ngành len. Vai trò của các Factor
như một đại lý bán buôn, là cầu nối giữa những nhà máy và những người mua cuối
cùng. Họ cũng đảm bảo thanh toán cho người bán, chịu toàn bộ trách nhiệm về uy
tín tín dụng của người mua đồng thời cũng ứng trước cho người bán dựa trên giá trị
hàng hoá đã bán. Trải qua hơn 600 năm , Factoring ngày nay không bao gồm
nghiệp vụ bán hàng, các Factor không còn đóng vai trò đại lý bán buôn mà họ thực
hiện một gói dịch vụ bao gồm dịch vụ tài trợ, dịch vụ thu nợ và dịch vụ bảo hiểm
rủi ro không thanh toán từ phía người mua. Nó được xem như một công cụ tài chính
tất yếu để đáp ứng những nhu cầu về tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
đồng thời được các chính phủ và các ngân hàng trung ương trên khắp thế giới ủng
hộ.
Theo hiệp hội các nhà Factor quốc tế (FCI) :
“Factoring là một công cụ tài chính trọn gói hoàn toàn bao gồm tài trợ vốn
lưu động, phòng ngừa rủi ro không thanh toán từ phía người mua, quản lý các
khoản phải thu và dịch vô thu nợ. Nó được cung cấp dựa trên sự thoả thuận giữa
nhà Factor và người bán. Theo đó nhà factor sẽ mua lại những khoản phải thu của
người bán thường là không truy đòi, đồng thời nhận trách nhiệm về khả năng chi trả
của con nợ. Nếu con nợ phá sản hay mất khả năng chi trả vì những lý do tín dụng
thì nhà Factor sẽ thanh toán cho người bán.”
Theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ban hành ngày 06/09/2004 của
SV: Trần Thị Châu – Líp TTQT A – K6 Khoá luận tốt
nghiệp
4
Thống đốc NHNN, bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín
dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc
mua, bán hàng hoá đã được bên bán hàng và bên mua hàng thoả thuận trong hợp
đồng mua, bán hàng.
Như vậy xét về bản chất, Factoring là nghiệp vụ mà các nhà factor tiến hành
mua lại các khoản phải thu (phát sinh từ việc mua bán hàng hoá) với một mức giá
chiết khấu giúp người bán có thể có nhận ngay tiền mặt thêm vào đó có thể lựa chọn
việc sử dụng một hay nhiều dịch vụ trong gói dịch vụ được cung cấp bởi các nhà
Factor.
1.1.2. Nội dung nghiệp vụ bao thanh toán
Là một công cụ tài chính trọn gói, Factoring bao gồm các dịch vụ sau:
1.1.2.1. Dịch vụ bảo hiểm rủi ro không thanh toán từ phía người mua
Khi bán hàng cho người mua, nhà cung cấp phải đối mặt với rất nhiều rủi ro.
Mà đáng quan tâm nhất là rủi ro không được thanh toán từ phía người mua do người
mua chậm thanh toán, không muốn thanh toán hoặc không có khả năng thanh toán.
Tham gia vào nghiệp vụ Factoring, nhà cung cấp có thể sử dụng dịch vụ bảo hiểm
rủi ro từ phía người mua của các Factor. Các Factor ngay khi nhận được đề nghị bao
thanh toán của đơn vị bán hàng sẽ có những điều tra về uy tín tín dụng của người
mua hàng. Từ đó tư vấn cho người bán hàng có nên bán hàng theo phương thức ghi
sổ (bán chịu) cho người mua hàng hay không và số tiền là bao nhiêu? Hơn nữa, nhà
Factor sẽ quyết định có mua lại các hoá đơn bán hàng hay không? Và các hoá đơn
đó được mua lại trên cơ sở miễn truy đòi hay có truy đòi người bán hàng. Nói cách
khác là có cung cấp dịch vụ bảo hiểm rủi ro không thanh toán từ phía người mua
cho người bán không.
Như vậy ngay từ đầu nhà cung cấp đã có thể hạn chế rủi ro nợ xấu nhờ vào
việc bán hàng cho những khách hàng đáng tin cậy theo đánh giá chuyên nghiệp của
nhà Factor. Thêm vào đó, khi các nhà Factor mua lại các khoản phải thu kèm theo
việc cung cấp dịch vụ bảo hiểm rủi ro không thanh toán từ phía người mua
(Factoring miễn truy đòi) thì người bán sẽ được đảm bảo tuyệt đối. Trong trường
hợp người mua không có khả năng thanh toán thì nhà Factor sẽ trả tiền cho người
SV: Trần Thị Châu – Líp TTQT A – K6 Khoá luận tốt
nghiệp
5
bán, đồng thời gánh chịu toàn bộ các rủi ro thay cho người bán.
1.1.2.2. Dịch vụ quản lý các khoản phải thu và thu nợ
Thực hiện dịch vụ này, khi mua lại các khoản phải thu, nhà Factor sẽ nắm
quyền quản lý sổ cái bán hàng của nhà cung cấp. Họ phụ trách việc kiểm tra tình
trạng tín dụng của người mua hàng, xử lý các hoá đơn, theo dõi kỳ hạn thanh toán,
tiến hành thu tiền hàng từ người mua khi đến hạn, giải quyết nợ quá hạn, khó đòi…
Nhà Factor khi mua lại khoản phải thu họ đã trở thành chủ sở hữu của toàn bộ
khoản phải thu, việc thu được nợ hay không quyết định quyền lợi về kinh tế của họ
cũng như thiệt hại mà họ phải gánh chịu. Với đội ngũ chuyên viên chuyên nghiệp
trong việc thương lượng thu nợ cùng rất nhiều kỹ thuật được sử dụng, các Factor có
thể thực hiện dịch vụ này một cách hiệu quả, vừa có thể thu hồi nợ đúng hạn vừa
không làm ảnh hưởng đến mối quan hệ kinh doanh giữa nhà cung cấp và khách
hàng của họ.
1.1.2.3. Dịch vụ tài trợ
Bản chất của nghiệp vụ Factoring có thể nói là việc tài trợ cho người bán, tài
trợ dựa trên cơ sở mua lại các khoản phải thu với một mức giá chiết khấu. Hay nói
cách khác, Factoring là quá trình chuyển hoá các khoản phải thu thành tiền mặt.
Ngay sau khi nhận được hoá đơn của nhà cung cấp, đơn vị Factor sẽ thanh toán
ngay (ứng trước) cho họ một tỷ lệ (thường là 80%) giá trị hoá đơn. Khoản ứng trước
này người bán sẽ phải trả lãi. Số tiền còn lại sẽ được trả cho người bán khi nhà
Factor nhận được 100% giá trị hoá đơn từ người mua hàng, sau khi đã trừ phí dịch
vụ và lãi.
Việc tài trợ cho người bán từ nhà Factor cũng có thể được thực hiện sau một
thời gian nhất định tuỳ theo thoả thuận giữa họ. Giá trị hoá đơn được trả vào ngày
thoả thuận trước, chẳng hạn 30 ngày sau khi phát sinh hoá đơn. Lợi Ých mà người
bán có được là biết trước thời gian dòng tiền vào và có thể sử dụng nó để trả lương,
hay trả các khoản nợ đến hạn định kỳ khác…Điều này giúp người bán quản lý dòng
tiền phát sinh hiệu quả.
Nhà Factor không bao giờ ứng trước toàn bộ giá trị các hoá đơn mà thường
chỉ ứng trước 80%. Thậm chí họ có thể thu ngay số lãi tài trợ và phí Factoring khi
SV: Trần Thị Châu – Líp TTQT A – K6 Khoá luận tốt
nghiệp
6
ứng trước. Nhà Factor sau khi mua lại các khoản phải thu đã nắm giữ toàn bộ quyền
sở hữu khoản nợ đó song họ chỉ trả cho nhà cung cấp đầy đủ giá mua (giá trị hoá
đơn trừ lãi tài trợ và phí Factoring) sau khi họ thu 100% giá trị khoản phải thu từ
người mua. Như vậy vô hình chung, người bán đã cho nhà Factor nợ một khoản và
đặt mình vào tình thế có thể bị rủi ro. Nếu nhà Factor mất khả năng thanh toán, nhà
cung cấp trở thành một chủ nợ của nhà Factor chịu rủi ro mất toàn bộ khoản mà nhà
Factor còn nắm giữ của họ. Họ không có quyền gì với khoản phải thu từ người mua
hàng. Đó là tài sản của nhà Factor. Do vậy danh tiếng và uy tín tín dụng của nhà
Factor cũng là một vấn đề quan trọng đối với người bán hàng.
Là mét dịch vụ tài trợ vốn lưu động cho các DN vừa và nhỏ là chủ yếu, thời
gian tài trợ của các nhà Factor là ngắn hạn. Khoản phải thu được bao thanh toán
thường có thời gian thanh toán là trong vòng 180 ngày.
Khi cung cấp đầy đủ ba dịch vụ trên cho nhà cung cấp, nhà Factor có thể
giúp họ cắt giảm khối lượng công việc đáng kể, chỉ cần tập trung vào việc sản xuất,
giao hàng, thực hiện thật tốt hợp đồng thương mại không cần bận tâm về rủi ro
không được thanh toán, về quản lý khoản phải thu… Người bán có thể lựa chọn sử
dụng số lượng dịch vụ của nhà Factor. Nhà Factor khi nhận được đề nghị bao thanh
toán của nhà cung cấp, họ có thể lựa chọn cung cấp đầy đủ các dịch vụ của mình
theo yêu cầu của nhà cung cấp hay không dựa trên sự thẩm định về chất lượng
khoản phải thu là chủ yếu.
1.1.3. Các loại bao thanh toán
1.1.3.1. Phân loại theo phạm vi hoạt động địa lý: Factoring nội địa (domestic
Factoring) và Factoring quốc tế (International Factoring)
Factoring nội địa hay Factoring trong nước là nghiệp vụ Factoring dùa trên
hợp đồng mua, bán hàng trong đó bên bán hàng và bên mua hàng đều là người cư
trú trong cùng một quốc gia.
Sơ đồ 1.1. Quy trình nghiệp vụ Factoring nội địa
SV: Trần Thị Châu – Líp TTQT A – K6 Khoá luận tốt
nghiệp
7
Trong đó:
(1) Bên bán giao hàng cho người mua
(2) Bên bán chuyển nhượng các khoản phải thu cho nhà Factor theo hợp đồng
Factoring đã ký kết giữa hai bên.
(3) Nhà Factor tạm ứng tiền hàng cho bên bán (thường là 70-80% giá trị hoá đơn)
(4) Nhà Factor tiến hành các thủ tục thu tiền từ bên mua.
(5) Bên mua thanh toán tiền hàng cho nhà Factor.
(6) Nhà Factor trả số tiền còn lại của hoá đơn cho bên bán sau khi trừ phí dịch vụ và
lãi tài trợ.
Trái lại Factoring quốc tế là nghiệp vụ Factoring dựa trên hợp đồng xuất
nhập khẩu sử dụng phương thức thanh toán ghi sổ (Open account) hoặc nhờ thu
chấp nhận đổi chứng từ (D/A), người mua và người bán ở hai quốc gia khác nhau.
Sơ đồ 1.2. Quy trình nghiệp vụ Factoring quốc tế
(Factoring quốc tế hệ hai đại lý)
SV: Trần Thị Châu – Líp TTQT A – K6 Khoá luận tốt
nghiệp
8
Trong đó:
(1) Nhà XK giao hàng cho nhà NK
(2) Nhà XK chuyển nhượng khoản phải thu của mình cho nhà Factor NK thông qua
nhà Factor XK. Nhà Factor NK sẽ chấp nhận rủi ro tín dụng như đã thoả thuận từ
trước.
(3) Nhà Factor XK ứng trước tiền cho nhà XK theo hợp đồng Factoring quốc tế đã
ký giữa họ.
(4) Nhà Factor NK tiến hành thu nợ từ nhà nhập khẩu.
(5) Nhà NK trả tiền cho nhà Factor NK, Factor NK chuyển trả cho Factor XK.
(6) Nhà Factor XK trả số tiền còn lại của khoản phải thu quốc tế cho nhà XK sau
khi đã trừ đi lãi tài trợ và phí dịch vụ
So sánh Factoring nội địa và Factoring quốc tế:
• Giống nhau:
Đều mang bản chất của nghiệp vụ Factoring, có thể cung cấp các dịch vụ cơ
bản: dịch vụ tài trợ, dịch vụ bảo hiểm rủi ro tín dụng, dịch vụ thu nợ.
•Khác nhau:
Factoring nội địa thường chỉ có sự tham gia của một nhà Factor duy nhất
trong khi đó Factoring quốc tế thường có sự tham gia của 2 nhà Factor: Factor xuất
khẩu và Factor nhập khẩu, dẫn đến có sự khác nhau trong quy trình nghiệp vụ, trách
nhiệm và dịch vụ của các Factor.
Đối tượng tài trợ của Factoring nội địa là người bán các sản phẩm hàng hoá
trong nước, của Factoring quốc tế là nhà xuất khẩu – người bán sản phẩm hàng hoá
vượt khỏi biên giới quốc gia.
Thông thường Factoring nội địa được thực hiện trên cơ sở có truy đòi nghĩa
là rủi ro không được thanh toán thuộc về người bán. Trái lại trong nghiệp vụ
Factoring quốc tế, nhà Factor thường nhận lấy rủi ro thay cho người bán tức là
Factoring miễn truy đòi.
Luật pháp: Factoring nội địa được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật quốc
gia đó. Trong khi đó có Ýt nhất hai hệ thống pháp luật của hai nước khác nhau chi
phối mối quan hệ Factoring quốc tế ngoài ra còn có các luật, các công ước quốc
SV: Trần Thị Châu – Líp TTQT A – K6 Khoá luận tốt
nghiệp
9
tế…
Đồng tiền: Mối quan hệ Factoring nội địa diễn ra trong phạm vi một nước,
đồng tiền trong giao dịch hợp đồng thương mại và giao dịch Factoring đều là nội tệ.
Trái lại vì dựa trên hợp đồng xuất nhập khẩu với nhiều đất nước khác nhau, đồng
tiền thanh toán khác nhau do vậy việc quản lý sổ cái bán hàng và tài trợ của nhà
Factor sẽ được thực hiện bằng nhiều loại tiền tệ. Thậm chí có thể trong cùng một
giao dịch Factoring quốc tế nhưng đồng tiền quản lý khoản phải thu và đồng tiền tài
trợ khác nhau. Tuy nhiên thông thường nhà Factor sẽ tài trợ theo đồng tiền của hoá
đơn.
Rủi ro: có những rủi ro mà chỉ gặp phải trong hoạt động Factoring quốc tế
chẳng hạn rủi ro tỷ giá…
Ngôn ngữ và tập quán kinh doanh: Trong Factoring nội địa không có sự
khác nhau về ngôn ngữ, tập quán kinh doanh đáng kể như các giao dịch Factoring
quốc tế. Vì diễn ra giữa hai nước khác nhau, ngôn ngữ khác nhau, thông lệ giao
dịch khác nhau sẽ là trở ngại lớn cho mối quan hệ Factoring quốc tế. Tuy nhiên điều
này hoàn toàn có thể khắc phục thông qua việc sử dụng hệ thống hai Factor.
Phí trong nghiệp vụ Factoring quốc tế cao hơn trong nghiệp vụ Factoring
nội địa vì thực hiện Factoring quốc tế phức tạp hơn rất nhiều so với Factoring nội
địa chủ yếu vì những sự khác biệt kể trên.
1.1.3.2. Theo trách nhiệm đối với rủi ro không được thanh toán: Factoring có truy
đòi (Recourse Factoring) và Factoring miễn truy đòi (Non-recourse Factoring)
Trong nghiệp vụ Factoring có truy đòi rủi ro không được thanh toán do
người bán chịu. Nhà Factor có quyền đòi lại số tiền đã ứng trước cho bên bán hàng
khi bên mua hàng không thanh toán khoản phải thu đã được bao thanh toán.
Factoring miễn truy đòi là hình thức bao thanh toán trong đó nhà Factor phải
chịu toàn bộ rủi ro khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh
toán khoản phải thu.
Phí dịch vụ Factoring có truy đòi thấp hơn so với Factoring miễn truy đòi.
1.1.3.3. Theo nội dung của Factoring
Việc kết hợp các dịch vụ khác nhau trong gói dịch vụ Factoring sẽ tạo ra các
SV: Trần Thị Châu – Líp TTQT A – K6 Khoá luận tốt
nghiệp
10
loại Factoring khác nhau mà nhà Factor cung cấp cho người bán.
Có ba loại: Factoring đầy đủ (Full Factoring), Factoring đại lý (Agency
Factoring) và Chiết khấu hoá đơn (Invoice Discounting)
Factoring đầy đủ: là dịch vụ cung cấp đầy đủ tất cả các dịch vụ chủ yếu của
dịch vụ Factoring. Khi mua lại các khoản phải thu các nhà Factor đồng thời quản lý
sổ cái bán hàng của người bán và thu nợ từ khách hàng của người bán. Tuy nhiên
gọi là Factoring đầy đủ song Full Factoring vẫn có thể có hoặc không có dịch vụ
bảo hiểm rủi ro không thanh toán từ người mua. Hay nói cách khác có hai loại
Factoring đầy đủ chính là loại có truy đòi và loại không truy đòi.
Factoring đại lý: Khi chuyển nhượng các khoản phải thu cho nhà Factor,
người bán hàng phải thông báo cho con nợ của mình về việc tất cả khoản thanh toán
được chuyển cho nhà Factor song người bán là người chịu trách nhiệm thu nợ. Họ
hoạt động như đại lý của nhà Factor. Trong loại hình Factoring này, nhà Factor chủ
yếu cung cấp dịch vụ tài trợ cho nhà cung cấp thường là trên cơ sở có truy đòi.
Người bán phải tự quản lý sổ cái bán hàng của mình. Vì vậy Factoring đại lý thích
hợp với các công ty có mạng lưới khách hàng rộng, số lượng các khoản phải thu lớn
song giá trị thấp và chi phí để sử dụng Full Factoring là cao so với họ.
Chiết khấu hoá đơn: Loại hình Factoring này khá giống với Factoring đại lý.
Nhà cung cấp chỉ được tài trợ từ phía các Factor không có dịch vụ quản lý sổ cái,
thu nợ và bảo hiểm rủi ro không thanh toán từ phía người mua. Nói cách khác
khoản tài trợ dựa trên cơ sở có truy đòi. Điểm khác biệt với Factoring đại lý là
người mua không cần phải được thông báo về mối quan hệ bao thanh toán giữa nhà
Factor và người bán.
1.1.3.4. Theo phạm vi giao dịch của nhà Factor với người mua hàng
• Factoring công khai (disclosed/ notification Factoring): Người mua được
thông báo về việc chuyển nhượng các khoản phải thu cho nhà Factor.
• Factoring kín (undisclosed/ confidential/ non-notification Factoring): là hình
thức bao thanh toán, trong đó người mua không được thông báo về việc khoản tiền
hàng mình phải thanh toán đã được chuyển cho nhà Factor. Họ thanh toán cho
người bán sau đó người bán trả vào tài khoản của nhà Factor.
SV: Trần Thị Châu – Líp TTQT A – K6 Khoá luận tốt
nghiệp
11
1.1.3.5. Theo phạm vi áp dụng Factoring đối với số lượng các hoá đơn của
người bán.
•Factoring toàn bộ (bulk/ whole Factoring): Bao thanh toán toàn bộ các khoản
thu của người bán hàng đối với một người mua hàng hay một số người mua hàng.
•Factoring một phần (partial Factoring): Bao thanh toán một số khoản phải
thu của người bán hàng đối với một người mua hàng hoặc một số người mua hàng.
1.2. BAO THANH TOÁN QUỐC TẾ (INTERNATIONAL FACTORING)
1.2.1. Các văn bản pháp lý điều chỉnh Factoring quốc tÕ
•Công ước UNIDROIT về Factoring quốc tế (UNIDROIT Convention on
International Factoring) được thông qua ngày 28/05/1988 tại Ottawa- Canada. Công
ước đã đưa ra các khái niệm chuẩn mực về nghiệp vụ bao thanh toán quốc tế, các
yếu tố cơ bản của hợp đồng cũng như các quy phạm điều chỉnh quan hệ giữa các
bên trong loại giao dịch tài chính này trong thương mại quốc tế nhằm đạt được sự
bình đẳng lợi Ých giữa các bên.
Phạm vi áp dụng của công ước là các hợp đồng bao thanh toán quốc tế, được
xác định như sau: áp dụng đối với các hợp đồng bao thanh toán cho các khoản nợ
phát sinh từ các hợp đồng mua bán hàng hoá mà bên mua và bên bán có trụ sở kinh
doanh ở hai nước khác nhau với điều kiện các nước này có tham gia công ước hoặc
cả hợp đồng bao thanh toán và hợp đồng mua bán hàng hoá đều được điều chỉnh
bởi luật của quốc gia tham gia công ước.
•Công ước liên hợp quốc về chuyển nhượng các khoản phải thu trong
thương mại quốc tế
Mét trong những sự phát triển quan trọng nhất gần đây trong nỗ lực thống nhất
các luật liên quan đến tài trợ các khoản phải thu là công ước UNCITRAL về chuyển
nhượng các khoản phải thu trong thương mại quốc tế được Đại hội đồng LHQ
thông qua ngày 12/12/2001 và được để ngỏ cho chính phủ các quốc gia ký kết.
Công ước chứa đựng các quy định thống nhất về một loạt các giao dịch như
Factoring, Forfaiting…
•Những quy định chung về hoạt động bao thanh toán quốc tế do uỷ ban
pháp lý của hiệp hội các nhà bao thanh toán quốc tế (FCI) Ên bản và giám sát thi
SV: Trần Thị Châu – Líp TTQT A – K6 Khoá luận tốt
nghiệp
12
hành trong hiệp hội (FCI General Rules for International Factoring-GRIF). Nó đã
trở thành khung pháp lý được công nhận rỗng rãi nhất khắp thế giới về bao thanh
toán quốc tế. Là chuẩn mực cho mối quan hệ Factoring đại lý, khoảng 80% giao
dịch Factoring quốc tế được điều chỉnh bởi GRIF kể từ khi GRIF ra đời vào tháng
7 năm 2002.
•Tại Việt Nam, Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN của thống đốc NHNN
ban hành quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng ngày
06/09/2004. Quy chế này quy định về việc thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán của
các tổ chức tín dụng đối với khách hàng nhằm đa dạng hoá hoạt động tín dụng, bổ
sung vốn lưu động cho khách hàng, thúc đẩy thương mại trong nước và quốc tế.
Các tổ chức tín dụng ở đây bao gồm: Ngân hàng thương mại nhà nước, Ngân hàng
thương mại cổ phần, Ngân hàng liên doanh, Ngân hàng 100% vốn nước ngoài, Chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, Công ty tài chính. Quy chế đã đưa ra một số khái
niệm cơ bản, một số vấn đề chung về hoạt động bao thanh toán, hợp đồng bao thanh
toán, quyền và nghĩa vụ các bên tham gia mối quan hệ bao thanh toán…
•Hợp đồng Factoring quốc tế
Hợp đồng Factoring quốc tế được ký kết giữa nhà xuất khẩu và nhà Factor
về việc thực hiện bao thanh toán các khoản phải thu quốc tế. Đây là văn bản pháp lý
quan trọng đảm bảo lợi Ých cho các bên tham gia giao dịch. Chủ thể ký hợp đồng
Factoring quốc tế thường là nhà Factor XK, nhưng cũng có thể là nhà Factor nhập
khẩu trong loại hình Factoring nhập khẩu trực tiếp.
Nội dung chủ yếu của hợp đồng Factoring quốc tế bao gồm các điều khoản
trình bày về các bên tham gia (tên, địa chỉ, số điện thoại, Fax, tài khoản,…) và các
điều khoản thoả thuận. Các điều khoản thoả thuận bao gồm giá trị các khoản phải
thu được bao thanh toán, phạm vi các hoá đơn được bao thanh toán, giá mua các
hoá đơn ( bằng giá trị khoản phải thu sau khi trừ đi lãi và phí bao thanh toán.), số
tiền ứng trước và phương thức ứng trước, việc cung cấp các hoá đơn, các bằng
chứng chứng minh việc hoàn thành hợp đồng xuất nhập khẩu của người bán… cho
nhà Factor, lãi và phí bao thanh toán, hình thức đảm bảo cho nhà Factor, quyền và
nghĩa vụ các bên, quy định về việc truy đòi của đơn vị Factor, về thời hạn hiệu lực
SV: Trần Thị Châu – Líp TTQT A – K6 Khoá luận tốt
nghiệp
13
hợp đồng và các thoả thuận khác về giải quyết tranh chấp, gia hạn hợp đồng…
Nghĩa vụ của nhà xuất khẩu khi ký kết hợp đồng Factoring quốc tế:
Kí kết hợp đồng Factoring quốc tế có nghĩa là nhà xuất khẩu có thể hoặc sẽ nhượng
(bán) cho nhà Factor các khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng ngoại thương. Vào
thời điểm ký kết hợp đồng, người xuất khẩu phải chứng minh được rằng họ là chủ
sở hữu hợp pháp, duy nhất và có quyền chuyển nhượng khoản phải thu đó; họ chưa
chuyển nhượng cho ai khác và bên nợ không có căn cứ thoái thác việc trả nợ này.
Đồng thời bên bán cam kết thanh toán cho nhà Factor toàn bộ các khoản lãi và phí
đã được quy định trong hợp đồng. Khoản lãi sẽ được tính trên cơ sở số tiền ứng
trước và chi phí vốn của việc tài trợ bằng đồng tiền đó. Khoản phí dịch vụ Factoring
quốc tế mà nhà xuất khẩu phải trả bao gồm khoản phí phải trả cho nhà Factor xuất
khẩu và nhà Factor nhập khẩu. Ngoài ra trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất
nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ nhà xuất khẩu phải cung cấp đầy đủ các thông tin liên
quan đến khoản phải thu đã được bao thanh toán, cũng như các thông tin có thể ảnh
hưởng đến quyền lợi của nhà Factor.
Nghĩa vụ của nhà Factor khi ký kết hợp đồng Factoring quốc tế:
Kí kết hợp đồng Factoring quốc tế có nghĩa là nhà Factor sẽ mua lại khoản phải thu
quốc tế, trở thành chủ sở hữu chính thức của khoản nợ đó. Nhà Factor sẽ phải thực
hiện Ýt nhất hai trong số các chức năng sau cho nhà xuất khÈu:
Tài trợ cho nhà xuất khẩu dưới dạng cho vay hay ứng trước
Quản lý các khoản phải thu
Thu nợ
Bảo hiểm rủi ro không thanh toán từ phía nhà nhập khẩu
Đồng thời khi thu hồi được 100% giá trị hoá đơn từ nhà nhập khẩu, nhà Factor sẽ
chuyển trả nhà xuất khẩu phần còn lại sau khi trừ khoản ứng trước, lãi và phí
Factoring.
Quyền lợi chính của nhà xuất khẩu là được nhà Factor đảm bảo cung cấp các
dịch vụ một cách hiệu quả và nhanh chóng đúng như hợp đồng quy định. Quyền lợi
chính của nhà Factor là được hưởng lãi và phí từ việc cung cấp các dịch vụ đó.
Theo công ước UNIDROIT, việc chuyển nhượng các khoản phải thu từ bên
SV: Trần Thị Châu – Líp TTQT A – K6 Khoá luận tốt
nghiệp
14
xuất khẩu cho nhà Factor theo hợp đồng Factoring quốc tế sẽ có hiệu lực bất kể có
thoả thuận giữa bên xuất khẩu và bên nhập khẩu ngăn cấm việc chuyển nhượng này,
tuy nhiên việc chuyển nhượng này sẽ không có hiệu lực nếu quốc gia mà bên nhập
khẩu đặt trụ sở kinh doanh khi tham gia công ước có tuyên bố trước rằng việc
chuyển nhượng như thế sẽ vô hiệu.
1.2.2. Các chủ thể tham gia trong Factoring quốc tế
Trong nghiệp vụ Factoring quốc tế thường có bốn bên tham gia: Nhà xuất
khẩu, nhà nhập khẩu, nhà Factor xuất khẩu và nhà Factor nhập khẩu.
Nhà Factor xuất khẩu là đơn vị thực hiện nghiệp vụ Factoring quốc tế tại
nước người xuất khẩu. Nhà Factor nhập khẩu là đơn vị thực hiện ngiệp vụ Factoring
quốc tế tại nước người nhập khẩu.
Quan hệ giữa nhà XK và nhà NK:
Căn cứ vào hợp đồng thương mại được ký kết giữa hai bên trong đó điều
khoản thanh toán là tài khoản mở (Open account) hoặc D/A.
Quan hệ giữa nhà xuất khẩu và Factor xuất khẩu:
Dựa trên hợp đồng Factoring quốc tế: nêu rõ các vấn đề dịch vụ cung cấp,
chi phí Factoring … Trong đó nhà Factor xuất khẩu được nhượng quyền sở hữu,
quyền thu khoản phải thu quốc tế từ nhà nhập khẩu một cách hợp pháp. Nhà xuất
khẩu bán các khoản phải thu, được ứng trước, được cung cấp dịch vụ quản lý sổ cái
bán hàng và được bảo hiểm rủi ro tín dụng khi bán hàng chịu cho bên nước ngoài.
Nhà XK thường lựa chọn tổ chức Factor XK dựa trên các tiêu chí chủ yếu là:
khả năng tài chÝnh của nhà Factor, chất lượng thẩm định tín dụng của nhà Factor,
sự chuyên nghiệp của đội ngũ nhân viên thu nợ (nhất là đối với Factor XK trực
tiếp), có kinh nghiệm bao thanh toán nhiều năm, chuyên bao thanh toán trong lĩnh
vực kinh doanh của nhà XK và một tiêu chí rất quan trọng khác đó là sự hiện đại
của công nghệ mà nhà Factor XK sử dụng. Chẳng hạn, nếu nhà Factor có quy mô
tài chính quá nhỏ họ sẽ không đủ khả năng mua lại các khoản phải thu của nhà XK.
Hay nếu các nhà XK phải gửi tất cả các giấy tờ cần thiết qua thư tới nhà Factor vì
nhà Factor không nhận và xử lý được qua Internet sẽ làm cho nhà XK tèn chi phí
hơn. Thêm vào đó, công nghệ cập nhật sẽ giúp nhà XK có thể nhanh chóng nhận
SV: Trần Thị Châu – Líp TTQT A – K6 Khoá luận tốt
nghiệp
15
được những báo cáo tình hình quản lý khoản phải thu và thu nợ mới nhÊt.
Nhà XK thường lựa chọn nhà Factor phù hợp với mình trên cơ sở tham khảo
ý kiến từ các khách hàng cũ của nhà Factor. Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ
giữa nhà XK và Nhà Factor cũng có những thảo luận về cách thức xử lý nợ, về cách
thức giao dịch với nhà NK nhằm không làm ảnh hưởng tới mối quan hệ của nhà XK
và nhà NK.
Nhà Factor cũng có những tiêu chí lựa chọn khách hàng nhất định. Nhà
Factor có ưu tiên cho các DN XK vừa và nhỏ bán hàng chịu theo phương thức thanh
toán O/A hoặc D/A song họ cũng đưa ra những điều kiện về sản phẩm XK được
bao thanh toán, quy mô tổng doanh thu hàng năm của nhà XK, số khách hàng của
nhà XK, tỷ lệ doanh thu mà một nhà NK có thể chiếm trong tổng số doanh thu của
nhà XK, lịch sử thu nợ của nhà XK…
Quan hệ giữa nhà xuất khẩu và Factor nhập khẩu:
Thông thường trong Factoring quốc tế đơn vị Factor cung cấp dịch vụ bảo
hiểm tín dụng và dịch vụ thu nợ cho nhà xuất khẩu thường là nhà Factor nhập khẩu.
Nhà Factor nhập khẩu có thể cung cấp dich vụ thông qua việc trực tiếp ký hợp đồng
Factoring quốc tế với nhà xuất khẩu trong loại hình Factoring nhập khẩu trực tiếp.
Khi đó mối quan hệ giữa nhà xuất khẩu và nhà Factor nhập khẩu được điều chỉnh
trực tiếp bằng hợp đồng đó. Hoặc họ có thể cung cấp dịch vụ cho nhà xuất khẩu
nước ngoài thông qua việc là đại lý hoặc đối tác cho nhà Factor xuất khẩu trong loại
hình Factoring hệ hai đại lý.
Quan hệ giữa Factor xuất khẩu và nhà nhập khẩu:
Là quan hệ pháp lý giữa chủ nợ và con nợ. Nhà nhập khẩu có nghĩa vụ thanh
toán trực tiếp khoản nợ hoặc thông qua nhà Factor nhập khẩu cho nhà Factor xuất
khẩu. Trong loại hình Factoring xuất khẩu trực tiếp, họ là người trực tiếp thẩm định
về uy tín tín dụng của nhà nhập khẩu.
Quan hệ giữa Factor xuất khẩu và Factor nhập khẩu:
Là mối quan hệ đại lý hoặc đối tác, theo đó nhà Factor XK uỷ thác cho nhà
Factor NK thu nợ trực tiếp từ nhà NK. Đồng thời là nhà Factor ở nước người nhập
khẩu có lợi thế tìm hiểu về nhà nhập khẩu nên nhà Factor nhập khẩu thường là
SV: Trần Thị Châu – Líp TTQT A – K6 Khoá luận tốt
nghiệp
16
người cung cấp dịch vụ bảo hiểm rủi ro tín dụng không thanh toán từ phía người
mua. Đây cũng là cơ sở để nhà Factor xuất khẩu cung cấp dịch vụ Factoring miễn
truy đòi cho nhà xuất khẩu. Hai nhà Factor sẽ ký kết một hợp đồng. Thông thường
hai nhà Factor này cùng là thành viên của một hiệp hội Factoring quốc tế.
Hiện nay, có 2 hiệp hội Factoring quốc tế lớn nhất thế giới là FCI (Factor
Chain International) và IFG (International Factors Group).
FCI là hiệp hội Factoring quốc tế lớn nhất thế giới, trụ sở đặt tại Hà Lan, với
216 thành viên ở 62 quốc gia. Được thành lập năm 1968, trải qua 39 năm phát triển
hiệp hội đã có đóng góp to lớn thúc đẩy sự lớn mạnh của Factoring quốc tế thông
qua việc xây dựng các luật, quy tắc, quy trình thống nhất, thông qua sự hỗ trợ về
công nghệ về thông tin cho các thành viên trong các giao dịch Factoring quốc tế.
Năm 2006, các factor thành viên của FCI chiếm 52% thị phần Factoring toàn cầu và
đặc biệt là chiếm tới 72% thị phần Factoring quốc tế. 80% Factoring hệ hai đại lý
được thực hiện bởi các thành viên trong hiệp hội. Tổng lượng giao dịch Factoring
quốc tế của các thành viên FCI năm 2006 tăng 34,35% so với năm 2005, đạt 74.247
triệu EUR trong tổng số 103.690 triệu EUR của cả thế giới.
Là thành viên của FCI có rất nhiều lợi Ých: kết nối nhanh chóng với mạng
lưới Factor tại 62 nước; chuÈn hoá quy trình, nâng cao chất lượng dịch vụ; cơ hội
được đào tạo, được “tiếp xúc gần gũi” với ngành Factoring các nước; dịch vụ trọng
tài giải quyết tranh chấp giữa các Factor thành viên…Để trở thành thành viên của
FCI, các Factor trên khắp thế giới trước hết phải có vốn chủ sở hữu lớn hơn 2 triệu
USD, chứng minh được chất lượng quản lý của mình, cam kết duy trì chất lượng
dịch vụ cao theo tiêu chuẩn của FCI. Bên cạnh đó là một loạt các điều kiện khác.
IFG được thành lập từ năm 1963, có trụ sở đặt tại Bỉ. IFG là tổ chức sáng lập
ra Factoring hệ hai đại lý. IFG có 70 thành viên tại 47 quốc gia. Nhìn chung, những
thành viên của IFG cũng có được những lợi Ých do hiệp hội mang lại như thành
viên của FCI.
Quan hệ giữa Factor nhập khẩu và nhà nhập khẩu:
Nhà Factor nhập khẩu thường là người kiểm tra uy tín tín dụng, tình trạng
tài chính của nhà nhập khẩu từ đó đưa ra hạn mức tín dụng, quyết định bảo lãnh
SV: Trần Thị Châu – Líp TTQT A – K6 Khoá luận tốt
nghiệp
17
thanh toán cho nhà nhập khẩu. Đồng thời họ cũng thường là người thu nợ trực tiếp
từ nhà nhập khẩu. Hiệu quả hoạt động thẩm định uy tín tín dụng của nhà Factor NK
đối với nhà NK phụ thuộc chủ yếu vào cơ sở hạ tầng thông tin của nước NK.
1.2.3. Quy trình nghiệp vụ Factoring quốc tế
Từ sự phối hợp cung cấp dịch vụ giữa nhà Factor xuất khẩu và nhà Factor
nhập khẩu, Factoring quốc tế có 3 loại hình chủ yếu là: Factoring xuất khẩu trực
tiếp, Factoring nhập khẩu trực tiếp và Factoring quốc tế hệ hai đại lý.
1.2.3.1. Quy trình nghiệp vụ Factoring xuất khẩu trực tiếp (Direct Export
Factoring)
Factoring XK trực tiếp thường được các nhà Factor lớn với mạng lưới xuyên
quốc gia thực hiện. Nhà Factor xuất khẩu sẽ là người cung cấp tất cả các dịch vụ
bảo hiểm rủi ro không thanh toán, quản lý khoản phải thu, thu nợ và dịch vụ tài trợ
cho nhà xuất khẩu tuỳ theo nhu cầu của nhà xuất khẩu thông qua việc ký kết hợp
đồng Factoring quốc tế trực tiếp với nhà xuất khẩu. Cụ thể trong loại hình này, nhà
Factor xuất khẩu tự mình thẩm định chất lượng khoản phải thu, uy tín tín dụng của
nhà nhập khẩu, giao dịch cũng như thu nợ trực tiếp từ nhà nhập khẩu. Nhà Factor
NK gần như không tham gia vào loại hình Factoring quốc tế này. Thông thường nhà
Factor xuất khẩu sẽ có một đại lý của mình hoạt động ở nước người mua. Chi phí
cho nghiệp vụ Factoring XK trực tiếp mà nhà xuất khẩu phải trả cho nhà Factor
xuất khẩu bao gồm: lãi tài trợ, phí dịch vụ bảo hiểm tín dụng, phí thu nợ, giao dịch,
các chi phí quản lý khoản phải thu…
Sau khi ký kết hợp đồng ngoại thương với bên nhập khẩu nước ngoài (điều
khoản thanh toán O/A hoặc D/A), nhà XK gửi đề nghị bao thanh toán tới nhà Factor
XK cùng với các thông tin về người NK. Đại lý của nhà Factor XK ở nước người
nhập khẩu thực hiện phân tích chất lượng khoản phải thu, uy tín tín dụng, khả năng
tài chính của nhà NK. Từ đó nhà Factor XK sẽ quyết định về việc bao thanh toán
khoản phải thu hay không và có truy đòi hay không truy đòi. Nếu có thì nhà XK và
nhà Factor XK sẽ thoả thuận và ký kết hợp đồng Factoring quốc tế. Quy trình
nghiệp vụ sẽ tiếp tục theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.3. Quy trình nghiệp vụ Factoring xuất khẩu trực tiếp
SV: Trần Thị Châu – Líp TTQT A – K6 Khoá luận tốt
nghiệp
18
Trong đó:
(1) Nhà XK giao hàng cho nhà NK
(2) Nhà XK chuyển giao các chứng từ giao hàng liên quan đến khoản phải thu cho
nhà Factor XK.
(3) Nhà Factor XK ứng trước theo thoả thuận đã ký kết cho nhà XK.
(4) Nhà XK gửi các chứng từ giao hàng của nhà XK cho đại lý của mình ở nước
nhà NK.
(5) Đại lý của nhà Factor XK gửi các chứng từ cho nhà NK.
(6) Đến hạn, nhà NK thanh toán khoản phải thu cho đại lý của nhà Factor XK.
(7) Đại lý của nhà Factor XK chuyển trả cho nhà Factor XK khoản phải thu.
(8) Nhà Factor XK thanh toán phần còn lại của giá mua khoản phải thu cho nhà XK.
1.2.3.2. Quy trình nghiệp vụ Factoring NK trực tiếp (Direct Import Factoring)
Factoring NK trực tiếp thường được thực hiện bởi các Factor lớn có hệ thống
đại lý ở nhiều quốc gia và đội ngũ chuyên viên bao thanh toán giỏi, am hiểu địa
phương. Trái ngược với Factoring XK trực tiếp, loại hình Factoring NK trực tiếp
gần như không có sự tham gia của nhà Factor XK. Dịch vụ Factoring được cung cấp
bởi nhà Factor NK cho nhà XK nước ngoài – người cung cấp hàng hoá dịch vụ cho
nhà NK ở nước nhà Factor NK. Thông thường đại lý của nhà Factor NK sẽ tham gia
vào loại hình này. Cũng có thể nhà Factor XK sẽ hoạt động như một trung gian hỗ
trợ nhà Factor NK trong việc giao dịch với nhà XK.
Trong loại hình này, sau khi ký kết hợp đồng ngoại thương với nhà NK ở
nước nhà Factor NK, nhà XK gửi đề nghị bao thanh toán tới nhà Factor NK thông
SV: Trần Thị Châu – Líp TTQT A – K6 Khoá luận tốt
nghiệp
19
qua đại lý của nhà Factor NK hoặc nhà Factor XK (trung gian). Trên cơ sở thẩm
định về tình trạng tài chính của nhà NK, nhà Factor NK sẽ xác định một hạn mức
tín dụng đối với nhà NK và thông báo cho nhà XK qua trung gian. Nhà Factor NK
sẽ đảm bảo thanh toán cho nhà XK trong phạm vi hạn mức tín dụng đó. Điều khoản
đó được thoả thuận và ghi rõ trong hợp đồng Factoring quốc tế được ký kết trực tiếp
giữa nhà XK và nhà Factor NK. Theo đó khoản phải thu quốc tế của nhà XK sẽ
được chuyển nhượng cho nhà Factor NK. Quy trình nghiệp vụ tiếp tục theo sơ đồ
sau:
Sơ đồ 1.4. Quy trình nghiệp vụ Factoring nhập khẩu trực tiếp
Trong đó:
(1) Nhà XK giao hàng cho nhà NK.
(2) Nhà XK thực hiện chuyển nhượng khoản phải thu bằng việc gửi các giấy tờ liên
quan đến khoản phải thu: hoá đơn, vận đơn… cho nhà Factor NK thông qua đại lý
của họ.
(3) Nhà Factor NK ứng trước theo thoả thuận cho nhà XK thông qua đại lý của nhà
Factor NK.
(4) Nhà Factor NK gửi hoá đơn và vận đơn tới nhà NK.
(5) Đến hạn, nhà NK thanh toán hoá đơn cho nhà Factor NK.
(6) Nhà Factor NK thanh toán phần còn lại của giá trị hoá đơn cho nhà XK sau khi
trừ đi lãi tài trợ và phí Factoring thông qua đại lý của mình.
Nhà Factor NK thường cung cấp dịch vụ bảo hiểm tín dụng và thu nợ cho
nhà XK trong loại hình này. Nếu có cung cấp dịch vụ tài trợ thì số tiền ứng trước
SV: Trần Thị Châu – Líp TTQT A – K6 Khoá luận tốt
nghiệp
20
tuỳ thuộc vào nhà XK là khách hàng truyền thống hay khách hàng mới của nhà
Factor NK. Thời gian ứng trước thường là khi nhà Factor NK chắc chắn rằng nhà
NK sẽ hoặc đã nhận hàng mà không có tranh chấp nào về hàng hoá. Hay nói cách
khác nhà NK chắc chắn sẽ thanh toán hoá đơn khi đến hạn. Nhà Factor NK có thể
yêu cầu nhà XK xuất trình cho họ giấy kiểm định chất lượng hàng hoá hoặc yêu cầu
nhà NK ký vào giấy chấp nhận hàng hoá và thanh toán hoá đơn khi đến hạn. Trong
hình thức Factoring quốc tế này, nhà NK có thể còn phải có một số tiền bảo chứng
tín dụng cho nhà Factor NK.
1.2.3.2. Quy trình nghiệp vụ Factoring quốc tế hệ hai đại lý
Khi Factoring quốc tế được thực hiện bởi các nhà Factor là thành viên của
FCI, quy trình nghiệp vụ diễn ra theo 5 bước như sau:
(1) Nhà XK ký hợp đồng Factoring chuyển nhượng tất cả các khoản phải thu đã
thoả thuận cho nhà Factor XK ở đất nước mình. Từ đó nhà Factor sẽ chịu trách
nhiệm toàn bộ các bước quy trình nghiệp vụ Factoring.
(2) Nhà Factor XK lựa chọn một nhà Factor NK ở đất nước của người NK, cùng là
thành viên FCI. Sau đó, khoản phải thu sẽ được chuyển nhượng lại cho nhà Factor
NK.
(3) Nhà Factor NK điều tra về tình trạng tín dụng của nhà NK và đưa ra hạn mức tín
dụng đối với nhà NK đó. Đồng thời nhà Factor NK cũng là người bảo lãnh thanh
toán cho nhà NK.
(4) Ngay khi hàng hoá được giao, nhà Factor XK sẽ ứng trước tối đa tới 80% giá trị
hoá đơn cho nhà XK.
(5) Đến hạn, nhà Factor NK thu nợ từ nhà NK và chuyển cho nhà Factor XK để nhà
Factor XK thanh toán phần còn lại của giá mua hoá đơn cho nhà XK. Nếu sau 90
ngày kể từ ngày đến hạn, hoá đơn chưa được thanh toán, nhà Factor NK sẽ phải trả
100% giá trị hoá đơn mà họ đã đảm bảo thanh toán cho nhà NK.
Như vậy trong Factoring quốc tế hệ hai đại lý có sự phối hợp cung cấp dịch
vụ của 2 nhà Factor. Họ thường thành viên trong cùng một hiệp hội Factoring quốc
tế, chẳng hạn FCI hay IFG. Nhà Factor XK sẽ đảm nhận dịch vụ tài trợ và quản lý
sổ cái, nhà Factor NK sẽ đảm nhận dịch vụ bảo hiểm tín dụng và thu nợ. Nhà Factor
SV: Trần Thị Châu – Líp TTQT A – K6 Khoá luận tốt
nghiệp
21
XK sẽ nhận được lãi tài trợ, phí quản lý sổ cái, phí giao dịch khác. Nhà Factor NK
sẽ nhận được phí bảo hiểm tín dụng, phí thu nợ, phí giao dịch khác. Tất cả các phí
đều do nhà XK chi trả theo hợp đồng Factoring quốc tế họ đã ký.
Thông qua sự phối hợp của các nhà Factor, dịch vô Factoring quốc tế được
cung cấp tới khách hàng là dịch vụ tốt nhất. Việc thu nợ được đảm trách bởi nhà
Factor NK. ở tại đất nước của người nhập khẩu, nói cùng một thứ ngôn ngữ, am
hiểu luật pháp, tập quán thương mại, nhà Factor NK có vị thế tốt nhất để cung cấp
dịch vụ đó một cách chuyên nghiệp và hiệu quả. Đồng thời với các chuyên gia tài
chính trong nước và hệ thống thông tin tín dụng cập nhật, nhà Factor NK sẽ có cơ
sở thẩm định chính xác nhất uy tín tín dụng của nhà NK từ đó cung cấp dịch vụ bảo
hiểm tín dụng cho nhà XK, đem lại cho nhà XK sự hiểu biết sâu hơn về khách hàng,
về thị trường XK. Bên cạnh đó việc kết hợp hoạt động với nhau sẽ tạo ra nhiều cơ
hội học hỏi, phát triển cho các nhà Factor trong môi trường Factoring quốc tế.
1.2.4. Lợi Ých và hạn chế của Factoring quốc tế
So với nghiệp vụ tài trợ các khoản phải thu
Tài trợ các khoản phải thu cũng như các hình thức cấp tín dụng thuần tuý
khác của Ngân hàng cho nhà xuất khẩu đều dựa trên cơ sở thẩm định về uy tín,
năng lực tài chính của bản thân nhà xuất khẩu. Trong tài trợ khoản phải thu, giá trị
khoản phải thu là cơ sở để cấp tín dụng. Nhà xuất khẩu vẫn là chủ sở hữu và chịu
trách nhiệm thu nợ từ nhà nhập khẩu. Quan hệ tài trợ này mang tính độc lập giữa
ngân hàng và nhà xuất khẩu.
Trong khi đó trong nghiệp vụ Factoring quốc tế các nhà Factor thường mua
đứt các khoản phải thu và trở thành người sở hữu và có quyền thu nợ từ nhà nhập
khẩu. Quyết định bao thanh toán của nhà Factor chủ yếu dựa vào chất lượng các
khoản phải thu hay nói cách khác là khả năng thanh toán của người mua. Quan hệ
Factoring thường là mối quan hệ ba bên nhà factor, nhà xuất khẩu và nhà nhập
khẩu.
Như vậy, Factoring quốc tế sẽ rất thích hợp đối với các DN xuất khẩu (đặc
biệt là các DN vừa và nhỏ) khi mà họ khó có thể được đáp ứng nhu cầu về vốn
thông qua các kênh tín dụng thuần tuý như tài trợ khoản phải thu. Lý do có thể là vị
SV: Trần Thị Châu – Líp TTQT A – K6 Khoá luận tốt
nghiệp
22
thế của họ trên thị trường không mạnh hoặc sự công khai tài chính của họ không
minh bạch, hoặc uy tín tín dụng không cao…không đạt được yêu cầu của ngân hàng
về uy tín, năng lực tài chính, có thể gây ra rủi ro tín dụng cho Ngân hàng bất kỳ lúc
nào vì người sở hữu khoản phải thu vÉn là nhà XK. Trong khi đó với Factoring
quốc tế, các nhà Factor chỉ quan tâm đến nhà NK là chủ yếu. Đồng thời, khi bao
thanh toán khoản phải thu, nhà Factor nắm quyến sở hữu khoản nợ đó. Ngay cả khi
nhà XK phá sản nhà Factor cũng không gặp rủi ro vì khoản phải thu đó không thuộc
tài sản của nhà XK và nhà Factor thu nợ trực tiếp từ nhà NK. Do vậy nhà XK dễ
dàng được đáp ứng nhu cầu về vốn nếu chất lượng khoản phải thu của họ tốt. Điều
này còn cho thấy Factoring quốc tế đặc biệt hữu Ých đối với các nước mà luật cho
vay có bảo đảm, luật phá sản còn yếu, quyền lợi của các chủ nợ chưa được đảm bảo
một cách chặt chẽ.
Thêm vào đó, Factoring là một gói các dịch vụ. Nhà XK có thể được cung
cấp đầy đủ các dịch vụ bao gồm: bảo hiểm tín dụng, tài trợ, quản lý sổ cái bán hàng
và thu nợ. Nếu vậy, DN XK không còn phải lo nghĩ nhiều đến việc quản lý nợ, thu
nợ từ nước ngoài nhiều rủi ro nữa thay vào đó là việc nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn tài trợ, cải tiến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm. Lợi Ých này không có
được khi DN vay vốn qua kênh tài trợ các khoản phải thu của ngân hàng.
So với nghiệp vụ chiết khấu hoá đơn truyền thống, Factoring quốc tế có
một số ưu điểm hơn hẳn. Đều là hai công cụ tài trợ vốn cho nhà xuất khẩu song
việc chiết khấu chứng từ lại không cung cấp cho các nhà xuất khẩu dịch vụ quản lý
sổ cái bán hàng, dịch vụ bảo hiểm rủi ro không thanh toán từ nhà nhập khẩu trong
khi nghiệp vụ Factoring quốc tế có thể đáp ứng nhu cầu sử dụng các dịch vụ trên…
Cụ thể, chiết khấu thường được thực hiện trên cơ sở có truy đòi còn Factoring quốc
tế thường là miễn truy đòi.
Tuy nhiên Factoring quốc tế cũng có một vài hạn chế. Mà nổi bật là
Factoring có chi phí cao hơn so với các hình thức tín dụng khác để bù đắp cho
những rủi ro tín dụng mà các tổ chức Factor đảm nhận.
1.2.4.1. Đối với nhà xuất khẩu
Lợi Ých
SV: Trần Thị Châu – Líp TTQT A – K6 Khoá luận tốt
nghiệp
23
Có thể xuất khẩu theo các phương thức thanh toán hấp dẫn, có lợi cho nhà
nhập khẩu từ đó tăng sức cạnh tranh trên thị trường thương mại quốc tế. Xuất hàng
theo phương thức bán chịu một thời gian (thường từ 30 đến 90 ngày), nhà xuất khẩu
sẽ có thể đáp ứng được nhiều yêu cầu nhập hàng từ người mua hơn nhất là những
mặt hàng mà thị trường thuộc về người mua. Nhà XK không cung cấp hàng theo
phương thức ghi sổ mà nhà NK mong muốn sẽ rất khó bán được hàng.
Hiểu biết hơn về bạn hàng nhập khẩu, thị trường XK qua ý kiến đánh giá
chuyên nghiệp của các Factor nhập khẩu. Từ đó có những lựa chọn về mở rộng mối
quan hệ kinh doanh với nhà NK, đẩy mạnh XK sang thị trường đó…. Điều này đặc
biệt hữu Ých trong trường hợp nhà XK lần đầu tiên đặt chân lên một thị trường nào
đó, có rất Ýt thông tin và hiểu biết chuyên sâu và rủi ro tiềm tàng là rất cao.
Được tài trợ vốn lưu động nhanh chóng dẫn đến khả năng phát triển mở rộng
sản xuất. Đặc biệt có lợi cho các DN sản xuất các mặt hàng mang tính chất thời vụ
và các DN không đủ điều kiện để nhận tài trợ trực tiếp từ các hình thức khác. Ngay
khi hàng hoá được gửi đi, nhà Factor đã có thể ứng tiền trước cho nhà XK.
Nâng cao hiệu quả hoạt động nhờ chuyên môn hoá sản xuất. Bên cạnh việc
sản xuất kinh doanh, người bán sẽ phải bận tâm về việc quản lý các khoản phải thu
nước ngoài rất phức tạp. Việc này sẽ được giải quyết đơn giản nếu nhà XK sử dụng
dịch vụ Factoring. Các tổ chức Factoring sẽ xử lý một cách chuyên nghiệp và hiệu
quả các hoá đơn của nhà XK. Nhà XK chỉ còn phải chuyên tâm vào việc làm tốt
công việc sản xuất kinh doanh của mình.
Cắt giảm chi phí quản lý sổ cái bán hàng, theo dõi và thu nợ quốc tế. Thay vì
việc có một đội ngũ chuyên môn quản lý tín dụng và thu nợ tới từng khách hàng ở
các quốc gia khác nhau, nhà XK có thể giao phó công việc đó cho nhà Factor, chỉ
phải giao dịch với một nhà Factor trong khi bán hàng đi nhiều nước. Các nhà XK
thay vì phải bỏ ra mét chi phí tốn kém nay sẽ tiết kiệm hơn rất nhiều khi sử dụng
dịch vụ Factoring quốc tế. Sở dĩ vậy vì tổ chức Factor có các chuyên gia trong lĩnh
vực quản lý tín dụng, thu nợ cùng lợi thế kinh tế nhờ quy mô khi thu thập thông tin
thẩm định về nhiều khách hàng tại cùng một nước.
Có thể được bảo hiểm rủi ro không thanh toán tới 100 % giá trị hoá đơn.
SV: Trần Thị Châu – Líp TTQT A – K6 Khoá luận tốt
nghiệp
24