ĐẠI HỌC THÁI NGYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
PHẠM ANH HÙNG
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ VÀ
XÁC ĐỊNH TYPE VI RÖT GÂY BỆNH LỞ MỒM LONG MÓNG
Ở TRÂU, BÕ TẠI TỈNH LAI CHÂU
Chuyên ngành: Thú y
Mã số: 62 62 50
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Người hướng dẫn khoa học : TS. Nguyễn Văn Quang
Thái Nguyên, năm 2012
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng:
- Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, khách quan và
chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
- Mọi sự giúp đỡ trong quá trình thực hiện nghiên cứu và viết luận văn
đã được cảm ơn. Tất cả các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được ghi rõ
nguồn gốc.
Lai Châu, ngày 20 tháng 9 năm 2012
Tác giả
Phạm Anh Hùng
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của Trường Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên, Phòng Quản lý Đào tạo Sau đại học, Khoa Chăn nuôi - Thú
y đã tổ chức và tạo điều kiện cho tôi tham dự khóa học Cao học Thú y K18,
đồng thời giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy, các cô và các giảng viên
của Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ tôi
trong thời gian học tập tại trường, đặc biệt là sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của
Tiến sỹ Nguyễn Văn Quang, Phó Giáo sư - Tiến sỹ Nguyễn Thị Kim Lan trong
suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban lãnh đạo, tập thể
cán bộ, nhân viên của Cục Thú y, Viện Thú y, Trung tâm Chẩn đoán Thú y
Trung ương, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, Chi cục Thú y tỉnh Lai Châu,
Hội Nông dân tỉnh Lai Châu đã tạo điều kiện cho tôi triển khai và thực hiện
nghiên cứu hoàn thành tốt đề tài.
Một lần nữa, tôi xin ghi nhớ và bày tỏ lòng biết ơn tới tất cả những giúp
đỡ quý báu và nhiệt tình của các thày cô, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp.
Lai Châu, ngày 20 tháng 9 năm 2012
Tác giả
Phạm Anh Hùng
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU i
1. Đặt vấn đề 1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 3
3. Ý nghĩa khoa học của đề tài 3
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Lịch sử phát hiện bệnh 4
1.1.1. Tên gọi 4
1.1.2. Khái niệm 4
1.1.3. Lịch sử phát hiện bệnh 4
1.1.4. Bệnh LMLM trên thế giới 6
1.1.5. Bệnh LMLM ở Việt Nam 11
1.2. Vi rút LMLM 16
1.2.1. Hình thái và cấu trúc 17
1.2.2. Đặc tính di truyền, cấu trúc gen, kháng nguyên 17
1.2.3. Đặc tính kháng nguyên 20
1.2.4. Các điểm quyết định kháng nguyên 21
1.2.5. Tiến hóa của vi rút LMLM 21
1.2.6. Đặc tính gây nhiễm trong phòng thí nghiệm 22
1.2.7. Đặc tính nuôi cấy tổ chức tế bào 23
1.3. Một số đặc điểm dịch tễ học của vi rút LMLM 24
1.3.1. Nguồn dịch 24
1.3.2. Động vật cảm thụ 25
1.3.3. Đường xâm nhập 26
1.3.4. Cơ chế sinh bệnh 26
1.3.5. Chất chứa vi rút 27
1.3.6. Con đường và phương thức truyền lây 28
1.3.7. Lứa tuổi mắc bệnh 30
1.3.8. Tỷ lệ ốm và chết 30
1.4. Miễn dịch trong bệnh LMLM 30
1.5. Triệu chứng và bệnh tích ở trâu, bò 32
iv
1.5.1. Triệu chứng 32
1.5.2. Bệnh tích 35
1.6. Chẩn đoán 35
1.6.1. Chẩn đoán lâm sàng 35
1.6.2. Chẩn đoán phòng thí nghiệm 36
1.7. Phòng bệnh LMLM 40
1.7.1. Vệ sinh phòng dịch 40
1.7.2. Vắc xin phòng bệnh 41
Chƣơng 2: NỘI DUNG, VẬT LIỆU, PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 44
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu 44
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 44
2.1.2. Thời gian, địa điểm nghiên cứu 44
2.2. Nội dung nghiên cứu 44
2.2.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ học về bệnh LMLM ở trâu, bò
tại tỉnh Lai Châu giai đoạn 2006 - 2011. 44
2.2.2. Xác định tỷ lệ dương tính huyết thanh học đối với các chủng vi rút
chủ yếu (O, A, Asia1), đánh giá tỷ lệ mang trùng ở trâu, bò. 44
2.2.3. Định type vi rút gây bệnh LMLM ở trâu, bò tại tỉnh Lai Châu. 44
2.2.4. Xác định loại vắc xin LMLM phù hợp tiêm cho đàn trâu, bò tại tỉnh
Lai Châu. 44
2.3. Vật liệu nghiên cứu 44
2.3.1. Mẫu bệnh phẩm 44
2.3.2. Tài liệu, số liệu 45
2.3.3. Sinh phẩm và Kit xét nghiệm 45
2.3.4. Thiết bị và dụng cụ thí nghiệm 45
2.4. Phương pháp nghiên cứu 46
2.4.1. Phương pháp lấy mẫu máu 46
2.4.2. Phương pháp lấy mẫu biểu mô 46
2.4.3. Phương pháp 3ABC - ELISA phát hiện kháng thể nhiễm tự nhiên 46
2.4.4. Thiết kế thí nghiệm xác định tình hình nhiễm vi rút tự nhiên 47
Chƣơng 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 49
3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh LMLM tỉnh Lai Châu giai
đoạn 2006 - 2011 49
v
3.1.1. Tình hình dịch LMLM tỉnh Lai Châu từ 2006 đến 2011 49
3.1.2. Tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh LMLM ở tỉnh Lai Châu từ năm 2006 -
2011 51
3.1.3. Thời gian lưu hành bệnh LMLM ở trâu, bò tại tỉnh Lai Châu: 53
3.1.4. Lứa tuổi mắc bệnh 56
3.1.5. Tỷ lệ trâu, bò chết do mắc bệnh LMLM trong các ổ dịch 59
3.2. Xác định tỷ lệ dương tính huyết thanh học đối với kháng nguyên phi
cấu trúc 3ABC, đánh giá tỷ lệ mang trùng do nhiễm vi rút tự nhiên ở trâu,
bò 62
3.2.1. Tỷ lệ dương tính huyết thanh 3ABC tỉnh Lai Châu từ năm 2006 - 2012
62
3.2.2. Tỷ lệ dương tính huyết thanh 3ABC tại một huyện 63
3.2.3. Diễn biến tỷ lệ nhiễm vi rút tự nhiên tại một điểm 65
3.3. Định type vi rút gây bệnh LMLM ở trâu, bò tỉnh Lai Châu 66
3.4. Xác định loại vắc xin phòng bệnh LMLM phù hợp cho trâu, bò trên địa
bàn tỉnh Lai Châu 66
3.5. Bản đồ Dịch tễ bệnh LMLM ở trâu, bò tỉnh Lai Châu giai đoạn
2006- 2011 67
KẾT LUẬN 1
TÀI LIỆU THAM KHẢO 70
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AND : Acid Deoxyribonucleic
ARN : Acid ribonucleic
ELISA : Enzyme Linked Immunosorbent Assay
FMD : Foot and Mouth Disease
LMLM : Lở mồm long móng
LPB : Liquid Phase Blocking
OIE : Tổ chức Thú y Thế giới
PBS : Phosphate Buffered Saline
PCR : Polymerase Chain Reaction
RT : Reverse Transciption
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Tổng hợp số ổ dịch LMLM ở các huyện của tỉnh Lai Châu (2006- 2011) 49
Bảng 3.2a: Tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh LMLM qua các năm (tách riêng trâu và bò) 51
Bảng 3.2b: Tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh LMLM theo năm (tính chung trâu, bò) 52
Bảng 3.3a. Số ca bệnh LMLM ở trâu qua các năm theo mùa (2006 - 2011). 53
Bảng 3.3b. Số ca bệnh LMLM ở bò qua các năm theo mùa (2006-2011). 54
Bảng 3.3c. Số ca bệnh LMLM ở trâu, bò theo mùa (tính chung trâu, bò) 54
Bảng 3.3d. Tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh LMLM qua các năm theo mùa (2006 - 2011) 54
Bảng 3.4a: Tỷ lệ trâu mắc bệnh LMLM theo lứa tuổi 56
Bảng 3.4b: Tỷ lệ bò mắc bệnh LMLM theo lứa tuổi 57
Bảng 3.4c: Tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh LMLM theo lứa tuổi (tính chung trâu, bò) 57
Bảng 3.5: Tỷ lệ trâu, bò chết do mắc bệnh LMLM theo tuổi (2006 - 2011) 59
Bảng 3.6: Tỷ lệ trâu, bò chết do bệnh LMLM theo mùa (2006 - 2011) 60
Bảng 3.7: Tỷ lệ trâu, bò chết do bệnh LMLM theo năm 61
Bảng 3.8: Tỷ lệ dương tính huyết thanh học 3ABC ở trâu, bò tỉnh Lai Châu
(2006 - 2012) 62
Bảng 3.9. Tỷ lệ dương tính huyết thanh học 3ABC ở trâu, bò năm 2012 63
Bảng 3.10. Tỷ lệ dương tính ABC - ELISA ở trâu bò tại một huyện (Tam Đường) 64
Bảng 3.12. Tổng hợp kết quả xét nghiệm mẫu biểu mô từ trâu, bò (2006 - 2011) 66
viii
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Bản đồ dịch tễ bệnh LMLM trên thế giới năm 2009 10
Hình 1.2. Cấu trúc của virion vi rút LMLM type O1BFS [38] 16
Hình 1.3. Sơ đồ hệ gen của vi rút LMLM [38] 18
Hình 1.4. Triệu chứng và bệnh tích ở miệng bò bị bệnh LMLM [54] 33
Hình 1.5. Bệnh tích ở miệng và lưỡi bò bị bệnh LMLM [53] 33
Hình 1.6. Bệnh tích ở vú bò bị bệnh LMLM [52] 34
Hình 3.1. Đồ thị số ổ dịch biến động theo thời gian (năm) 50
Hình 3.2. Đồ thị tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh LMLM theo năm 52
Hình 3.3. Đồ thị trâu, bò mắc bệnh LMLM theo mùa 55
Hình 3.4. Đồ thị tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh theo lứa tuổi 58
Hình 3.5. Đồ thị tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh LMLM chết theo lứa tuổi 59
Hình 3.6. Đồ thị tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh LMLM chết theo mùa 60
Hình 3.7. Đồ thị tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh LMLM chết theo năm 61
Hình 3.8. Bản đồ dịch tễ bệnh LMLM tỉnh Lai Châu giai đoạn 2006 -
2011
1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Bệnh Lở mồm long móng (LMLM) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính,
lây lan rất nhanh, rất mạnh gây thiệt hại nặng nề đối với động vật dễ nhiễm
thuộc loài móng guốc chẵn như: Trâu, bò, dê, lợn Bệnh đã được tổ chức
Dịch tễ thế giới (OIE) xếp đầu bảng A (bảng các bệnh truyền nhiễm nguy
hiểm của động vật) và bắt buộc các nước thành viên phải khai báo.
Bệnh do vi rút LMLM thuộc họ Picornaviridae, giống Aphthovirus gây
ra, có 2 đặc tính đặc biệt liên quan đến dịch tễ học, đó là tính đa type và tính
dễ biến đổi kháng nguyên. Các type vi rút tuy gây ra các triệu chứng giống
nhau, nhưng lại không gây miễn dịch chéo với nhau. Bệnh LMLM là một
bệnh của xã hội, bởi vì nó ảnh hưởng đến lợi ích chung của cộng đồng nhiều
hơn là riêng lẻ từng hộ chăn nuôi. Bệnh có thể lây lan trong phạm vi một
nước hoặc nhiều nước và trở thành đại dịch.
Trong những năm gần đây, sự phát triển kinh tế thị trường đã thúc đẩy
quá trình giao lưu, buôn bán động vật và sản phẩm động vật giữa các tỉnh
trong nước và với nước ngoài như Trung Quốc, Lào, Cam Pu Chia Từ đó
bệnh LMLM ở trâu, bò càng diễn biến phức tạp, gây ảnh hưởng lớn đến kinh
tế - xã hội ở nước ta.
Trên thực tế, việc khống chế và thanh toán bệnh LMLM đã gặp không ít khó
khăn, từ việc kiểm dịch vận chuyển cho đến chăn nuôi thiếu qui hoạch, trâu bò thả
rông Tiêm phòng vắc xin được xác định là giải pháp quan trọng, tuy nhiên việc
chọn vắc xin phù hợp cho từng vùng, từng tỉnh đòi hỏi cần phải nghiên cứu kỹ
type vi rút gây bệnh trên thực địa để tránh trường hợp tiêm phòng loại vắc xin
không phù hợp, gây lãng phí và thiệt hại cho người chăn nuôi.
Tỉnh Lai Châu có diện tích tương đối rộng, với 273 km đường biên giới
Việt - Trung, địa hình chia cắt phức tạp, thời tiết khí hậu diễn biến phức tạp.
Hàng năm dịch LMLM gia súc vẫn tái phát trên địa bàn tỉnh làm hàng ngàn
2
gia súc mắc bệnh, gây ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của ngành chăn nuôi
của tỉnh, đặc biệt là chăn nuôi trâu, bò.
- Năm 2000 dịch LMLM đã xảy ra trên phạm vi rộng của nhiều huyện,
thị xã của tỉnh Lai Châu. Chỉ trong thời gian ngắn, từ 1 ổ dịch LMLM xuất
hiện ở xã Bình Lư huyện Phong Thổ, dịch đã lây lan sang 7 huyện, 52 xã, 204
bản trong toàn tỉnh; tổng số gia súc mắc bệnh lên tới 21.448 con. Dịch đã
được dập tắt vào cuối năm 2000 [2]. Từ đó đến tháng 4 năm 2006 dịch LMLM
không tái phát.
- Sau 5 năm không tái phát dịch (2000 - 2005), đến tháng 5 năm 2006, ổ
dịch LMLM lại bùng phát tại thị trấn Bình Lư huyện Tam Đường. Sau đó
dịch đã phát ra đồng loạt ở 3 huyện: Tam Đường, Phong Thổ và thị xã Lai
Châu, tập trung chủ yếu ở các xã mà trước đây (năm 2000) đã xảy ra dịch
LMLM. Tốc độ lây lan của dịch rất nhanh trên đàn trâu, bò cả về số lượng và
phạm vi. Bệnh xảy ra trên cả đàn lợn và dê, nhưng ít lây lan. Ổ dịch tái phát
tháng 5 năm 2006 được khống chế và dập tắt vào tháng 9 năm 2006. Tuy
nhiên, dịch đã lây lan trên 3 huyện, 21 xã, 106 bản với tổng số 3.678 trâu, 292
bò, 20 dê và 8 lợn mắc bệnh. Trong đó có 13 bò và 23 trâu đã bị chết do dịch
LMLM [2].
- Sau 3 tháng khống chế được dịch thì đến tháng 01 năm 2007, dịch
LMLM lại tái phát tại bản Nậm Xe và Dền Thàng thuộc xã Nậm Xe huyện
Phong Thổ, từ đây dịch đã lây lan trên địa bàn 13 bản của 2 xã thuộc huyện
Phong Thổ với 487 con trâu bị mắc bệnh. Tất cả gia súc mắc bệnh trng ổ dịch
này đều được chữa khỏi về triệu chứng lâm sàng, ổ dịch được khống chế và
dập tắt ngay sau đó (tháng 2 năm 2007) [2].
- Tháng 10 năm 2009 dịch LMLM tái phát tại xã Trung Đồng huyện Tân
Uyên, làm 74 con trâu mắc bệnh và xã Ta Gia huyện Than Uyên làm 73 trâu
và 3 lợn bị mắc bệnh. Đến tháng 12 năm 2009 dịch đã được khống chế [2].
- Tháng 01 năm 2010 dịch LMLM phát ra ở huyện Mường Tè tỉnh Lai
Châu, đến tháng 6 năm 2010 dịch được khống chế. Đợt dịch này đã làm 1.790
3
con trâu, bò và 118 con lợn của 30 bản ở 11 xã thuộc huyện Mường Tè mắc
bệnh [2].
- Đầu tháng 11 năm 2010 đến tháng 6 năm 2011 dịch LMLM tái phát
đồng loạt ở 78 xã của 7/7 huyện, thị xã của tỉnh Lai Châu, làm 6.951 con trâu,
bò và 389 con lợn bị mắc bệnh [2].
Như vậy, kể từ năm 2006 đến nay, có 5 đợt tái phát các ổ dịch LMLM
trên địa bàn tỉnh Lai Châu, thì cả 7/7 huyện, thị xã của tỉnh đều có dịch. Các
đợt dịch này đã làm 12.833 con trâu, 475 con bò, 628 con lợn và 20 con dê bị
mắc bệnh LMLM. Số chết và phải tiêu hủy là 35 trâu, 15 bò và 18 lợn.
Diễn biến phức tạp của dịch LMLM ở tỉnh Lai Châu đòi hỏi phải có
những nghiên cứu về sự phân bố và lưu hành vi rút LMLM, từ đó có cơ sở
khoa học để lựa chọn vắc xin phù hợp, góp phần nâng cao hiệu quả phòng
chống bệnh LMLM trên địa bàn tỉnh. Để giải quyết vấn đó, chúng tôi triển
khai đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ và xác định type vi rút gây
bệnh LMLM trên đàn trâu, bò tại tỉnh Lai Châu".
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Xác định sự phân bố của các type vi rút LMLM tại tỉnh Lai Châu, làm cơ
sở lựa chọn loại vắc xin phù hợp, góp phần nâng cao hiệu quả phòng chống
bệnh LMLM cho gia súc.
3. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu về đặc điểm dịch tễ và xác
định type vi rút gây bệnh LMLM trên đàn trâu, bò tại tỉnh Lai Châu.
- Các kết quả điều tra, nghiên cứu tại tỉnh Lai Châu sẽ cung cấp, bổ sung
và hoàn thiện thêm các thông tin về dịch tễ học bệnh LMLM tại việt Nam.
- Các kết quả nghiên cứu về một số đặc điểm dịch tễ học, xác định sự
phân bố của các type vi rút LMLM gây bệnh trên trâu, bò tại tỉnh Lai Châu là
cơ sở khoa học, giúp các cơ quan chức năng lựa chọn loại vắc xin LMLM phù
hợp. Từ đó có biện pháp quản lý, chỉ đạo công tác phòng chống dịch bệnh
hiệu quả.
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Lịch sử phát hiện bệnh
1.1.1. Tên gọi
Bệnh LMLM được gọi bằng những tên: Foot and mouth disease (FMD,
Anh), La fièvre aphteuse (FA, Pháp), Afta epizootic (Ý), Maul und
Klauenseuche (MKS, Đức), Fiebre aphtosa, glosso peda (Tây Ban Nha), Khẩu
đề dịch (Trung Quốc), Lở mồm long móng (Việt Nam).
1.1.2. Khái niệm
Bệnh Lở mồm long móng (LMLM) do vi rút thuộc họ Piconarviridae
gây nên là bệnh truyền nhiễm cấp tính nguy hiểm. Bệnh có đặc điểm sốt, nổi
mụn nước ở niêm mạc miệng, da, gờ móng, kẽ móng và trên đầu vú, bầu vú
của con cái của tất cả các loài thú guốc chẵn (cả gia súc và động vật hoang dã)
[13], [23].
Bệnh có tính chất dịch lớn, lây lan rất nhanh và rất mạnh, có thể xẩy ra
trên diện rộng ở nhiều vùng trong một nước hay nhiều nước. Tỷ lệ gia súc
mắc bệnh rất cao, gây thiệt hại rất lớn về kinh tế mặc dù tỷ lệ chết ở gia súc
trưởng thành thấp. Bệnh LMLM được Tổ chức Dịch tễ thế giới (OIE) xếp vào
danh mục bệnh của nhiều loài, nằm trong danh mục những bệnh phải công bố
dịch đối với tất cả các quốc gia.
1.1.3. Lịch sử phát hiện bệnh
Mô tả đầu tiên về bệnh LMLM và tài liệu còn lưu lại đến nay là công
trình của tác giả người Ý tên là Francastorius vào năm 1514. Bệnh đã gây ra
những tổn thất lớn về kinh tế trên thế giới, nhưng đến giữa thế kỷ 19 người ta
mới xác định được tính chất truyền nhiễm của bệnh.
Từ lúc xuất hiện bệnh đến năm 1897, các tài liệu ghi chép lại chủ yếu
quan tâm đến mô tả triệu chứng [20]. Những nghiên cứu về vi rút học và dịch
tễ học khởi đầu từ năm 1897, được quan tâm và phát triển trong giai đoạn tiếp
5
theo. Năm 1897, Loeffler và Frosch đã phân lập được vi rút gây bệnh [22].
Waldmann và Pape (1920) đã chứng minh được tính cảm thụ của chuột lang
đối với vi rút. Năm 1922, Valleé và Carré tìm thấy tính đa dạng của huyết
thanh miễn dịch chống vi rút (type O và type A). Năm 1926, Waldmann và
Trauwein tìm ra vi rút type C. Sau đó, Lawrence khám phá ra các type SAT1,
SAT2 và SAT3 từ những bệnh phẩm ở Châu Phi gửi đến viện Pirbright và
type Asia1 từ những bệnh phẩm ở Đông Nam Á, Hồng Kông, Ấn Độ, Miến
Điện [20].
Từ đầu thế kỷ 20 trở đi, bệnh phát ra ở nhiều nơi trên thế giới. Ở Châu
Mỹ, dịch LMLM xuất hiện ở Mỹ vào các năm 1902, 1908, 1914, 1924, 1929,
1932; ở Mexico năm 1946, Canada 1952 và nhiều nước ở Nam Mỹ như
Argentina năm 1953. Bệnh cũng xuất hiện ở Venezuela năm 1950, Colombia
năm 1950 - 1951 rồi lan sang Ecuador năm 1956. Ở Châu Phi, bệnh thường
xẩy ra ở Bắc Phi, Nam Phi [22]. Ở Châu Âu, có luồng dịch phát sinh từ Tây
Đức lan sang Hà Lan, Bỉ, Lucxemburg, Pháp, Anh, Ý, Áo, Đan Mạch, Thụy
Điển, Na Uy và Ba Lan vào năm 1951; Bệnh kéo dài đến năm 1953, 1954
[22]. Theo Nguyễn Vĩnh Phước (1978) ở Châu Á, bệnh phát ra ở Ấn Độ năm
1929, 1952…, Myanmar năm 1948, Thái Lan năm 1952, Trung Quốc năm
1951, Campuchia năm (1931, 1946, 1952). Bệnh LMLM ở Châu Á không dữ
dội như ở Tây Âu nhưng ảnh hưởng đến kinh tế các nước Cận Đông, Trung
Đông, Nam Á và Viễn Đông [22], [25].
Từ năm 1926 đến 1936, giai đoạn tập trung nghiên cứu về vắc xin và
chương trình quốc tế về phòng chống dịch được hình thành. Trong 3 năm
(1937-1939) người ta thống kê được có 2 triệu ổ dịch trên khắp các châu lục
và cũng chính trong hoàn cảnh này, Waldmann và Kobe đã nghiên cứu chế
tạo vắc xin vô hoạt bằng Formol hấp phụ bởi Al
2
(OH)
3
để tiêm phòng cho gia
súc. Có thể coi đây là một bước ngoặt quan trọng trong công cuộc khống chế
bệnh LMLM trên phạm vi toàn cầu. Năm 1947, Frenkel đã cho ra đời loại vắc
xin cải tiến, nuôi cấy trên tế bào thượng bì của lưỡi bò, gọi là vắc xin Frenkel.
6
Loại vắc xin này nhanh chóng được sử dụng tại Hà Lan, Pháp và Đức. Sau đó
nhiều phương pháp nghiên cứu nuôi cấy vi rút đã được tìm ra giúp cho việc
cải tiến kỹ thuật chế vắc xin [14].
Các viện nghiên cứu lần lượt ra đời trên khắp các lục địa như Alfort
(Pháp, 1901), Ile de Riems (Đức, 1909), Pirbright (Anh, 1924), Viện nghiên
cứu về bệnh LMLM ở Lyon (Pháp, 1947), Laboratoire de Plum (Hoa Kỳ),
Sao Paolo (Brazin), Nong Sarai (Thái Lan). Vào năm 1958, Pirbright trở
thành phòng thí nghiệm tham chiếu thế giới về bệnh LMLM (WRL: World
Reference Laboratory).
Trong những năm gần đây, kỹ thuật chẩn đoán được cải tiến đã giúp
cho việc xác định bệnh được nhanh chóng. Vắc xin được sản xuất với chất
lượng cao và cùng với chiến lược khống chế bệnh hiệu quả, nhiều nước đã
khống chế hoặc thanh toán bệnh thành công. Hiện có 59 nước trên thế giới
được tổ chức Thú y thế giới (OIE: Office International Epizooties) công
nhận là nước an toàn dịch bệnh LMLM [43].
1.1.4. Bệnh LMLM trên thế giới
Tình hình dịch trong những năm 60 rất trầm trọng, trung bình mỗi năm
có 4.000 ổ dịch. Đến những năm 70, bệnh có xu thế giảm ở Châu Âu, Châu
Mỹ nhưng vẫn phổ biến ở Châu Phi (Mauritania, Senegal, Liberia, Tanzannia,
Nigeria ) và Châu Á (Indonesia, Malaisia, Thái Lan ) [4], [14].
Vào những năm 80, dịch LMLM có mặt ở nhiều châu lục. Trong 5 năm
(1981 – 1985), dịch đã xuất hiện ở khắp 80 nước. Ở Châu Âu có 804 ổ dịch
tại 12 quốc gia do vi rút thuộc các type O, A, và C gây ra. Năm 1985, dịch
LMLM do vi rút thuộc type Asia 1 xảy ra ở Hy Lạp [36]. Cùng thời gian này,
ở Châu Á, dịch đã có mặt tại 11 nước và hầu hết các ổ dịch cũng do vi rút
type Asia 1. Ở Châu Phi, dịch LMLM gây thiệt hại ở nhiều nước, đặc biệt là
Kenia và Ethiopia (1984-1985). Vi rút type C là căn bệnh chính của những ổ
dịch ở 2 nước này. Tại các nước còn lại của châu lục này, bệnh LMLM đều
do vi rút thuộc 3 type SAT gây ra [6].
7
Năm 1989, theo thông báo của OIE, dịch LMLM đã xảy ra ở 53 nước ở
khắp các châu lục: Á, Âu, Phi, và Nam Mỹ. Cho đến nay, một số quốc gia đã
đạt được thành quả tốt trong việc khống chế và thanh toán bệnh, như các nước
thuộc khối công đồng Châu Âu, Bắc Mỹ, Argentina, Indonesia và gần đây là
cộng hòa Séc. Tuy nhiên, dịch LMLM vẫn là nguy cơ của nhiều quốc gia, uy
hiếp nghiêm trọng nền chăn nuôi và thương mại quốc tế [6].
Những năm 1990, ở châu Âu, các nước báo dịch gồm Italia, Bulgari,
Nga và Hy Lạp. Năm 1993 có 55 ổ dịch xảy ra ở Italia, những ổ dịch đơn lẻ
xảy ra ở Bulgari, Nga. Giữa năm 1994, một ổ dịch xảy ra ở Hy Lạp trên đảo
Lesbos và Thrace gần biên giới với Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1996, có 2 ổ dịch ở
Thổ Nhĩ Kỳ và 1 ở Hy Lạp. Năm 1997, chỉ có Georgia và Armenia là có
bệnh. Trong năm 1998 (theo báo cáo của WRL [7]), một chủng type A mới
được phát hiện tại Iran năm 1996 đã lan đến Thổ Nhĩ Kỳ sát Istanbul, dịch
kéo dài đến cuối năm 1998.
Ở châu Phi, vào thập kỷ 90, vi rút LMLM type O lưu hành rộng rãi ở
Tây Phi, Gambia, Senegal, Uganda, Tanzania Malawi và Kenia. Năm 1999,
ổ dịch LMLM type O bắt nguồn từ Mali (Tây Phi) theo đường vận chuyển
bò xuyên qua Sahara lan đến Algeria, Marocco và Tunisia. Vi rút LMLM
type SAT 2 lưu hành ở Uganda, Zambia và Kenia; SAT 1 được xác định ở
Kenia [40].
Ở châu Á, dịch LMLM do vi rút type O và Asia 1 xảy ra ở Pakistan
và Myanmar; type O và A tại Nepal, Buhtan; type A ở Thái Lan. Tại
Malaysia, không công bố dịch từ năm 1998, nhưng trong thực tế 2 type vi
rút O và Asia 1 vẫn lưu hành tại bán đảo Malay này (không gửi bệnh
phẩm đến WRL). Hai ổ dịch địa phương tại Đài Loan và Philippines (đảo
Luzon) đều do vi rút type O gây ra. Tại Trung Quốc, dịch tại xảy ra tại
Vân Nam nhưng không có thông tin về type vi rút [1].
Ở Tây Á, chủng Iran 98 type A gây bệnh tại Thổ Nhĩ Kỳ, Iran và lan đến
Akmenia. Vi rút type O đã gây dịch tại Lebanon, Kuwait, Iran, Iraq, Israel,
8
Qatar, Bahrain, Yemen và Saudi Arabia; Kazakstan và Kyrgyzstan (riêng
Kazakhstan có vi rút type A). Ở Nam Mỹ, tình hình khống chế dịch LMLM
có nhiều thuận lợi, Paraguay được công nhận là nước an toàn dịch (có tiêm
phòng). Argentina cũng được OIE công nhận là nước có vùng không bệnh
LMLM không tiêm phòng [46].
Trong năm 2000, 59 nước đã báo cáo có dịch LMLM. Ở châu Âu, dịch xảy
ra tại Hy Lạp; ở châu Á, dịch xảy ra ở Nga, Mongolia, Bangladesh, Cam Pu Chia,
Trung Quốc, Nhật, Lào, Nepal, Pakistan, Philippin, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái
Lan, Việt Nam, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Cápcazơ vùng Georgia, Azerbaijan,
Armenia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Turkmenistan và Tajikistan; ở châu Phi, dịch
xảy ra tại Ai Cập, Kenya, Mauritania, Nam Phi, Tanzania, Uganda, Malawi,
Namibia, Zambia và Zimbabwe, và các nước Nam Mỹ gồm Brazil, Colombia,
Uruguay, Bolivia, Peru, Ecuador và Venezuela [1]. Đại dịch 2000 do vi rút type
O. Vi rút serotype O/TAW/99 gây bệnh ở Đài Loan (18/02/2000, trên dê); Nhật
Bản (8/03/2000, trên bò), Hàn Quốc (20/03/2000, trên bò); ở Liên Bang Nga
(10/04/2000, trên lợn); ở Mông Cổ (14/04/2000, bò, dê, cừu, lạc đà); ở Hy Lạp và
ở Zambia (02/03/2000) [4].
Năm 2001, dịch LMLM do type O tái bùng phát khắp châu Âu (Anh, Hà
Lan, Pháp và Ireland); Nam Mỹ (Uruguay, Brazil và Colombia); ở châu Á
(Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Afghanistan, Georgia, Azerbaijan, Mông Cổ, Kuwait,
Bahrain, Yemen, Qatar, Ả Rập, Oman, Iran, Butan, Nepal, Malaysia,
Philippin, Thái Lan và Đài Loan). Tính đến cuối tháng 4/2001, Chính phủ
Anh đã phải chi phí cho việc tiêu hủy gia súc bệnh, dập dịch, tổng thiệt hại do
dịch gây ra lên đến trên 14 tỷ đô la Mỹ. Sau đó, dịch xảy ra ở một loạt các
nước châu Âu, châu Mỹ, Phi và châu Á. Tính đến tháng 7/2001, có trên 20
nước xảy ra dịch LMLM [15].
Năm 2004, không có ổ dịch LMLM nào được báo cáo chính thức trong
các nước được OIE công nhận là không có bệnh (không tiêm phòng). Tuy
nhiên, dịch lẻ tẻ tại vùng giám sát [quanh vùng an toàn dịch (Nam Phi) và
9
những vùng gần đây không xảy ra bệnh (Nga, Mông Cổ, Peru, Brazil và
Colombia). Dịch bệnh cũng xảy ra tại các nước Trung Đông, châu Á, châu
Phi và Nam Mỹ, nơi bệnh LMLM đã từng xảy ra. Có 48 nước báo cáo dịch
LMLM trong năm 2004 với các type vi rút gây bệnh khác nhau theo vùng
địa lý.
Từ năm 2000 - 2004 có 23 nước ở châu Á và châu Phi gửi mẫu đến
WRL. Kết quả type O vẫn là type phổ biến nhất; các type A, SAT 1 và SAT 2
có trình tự nucleotide (di truyền) biến đổi nhiều so với các chủng trước đây
cùng serotype.
Tại Đông Nam Á và vùng Viễn Đông, dịch bệnh do vi rút type O được
ghi nhận ở Hồng Kông và tất cả các quốc gia thành viên SEAFMD, ngoại trừ
Indonesia là nước không có bệnh LMLM. Type A được tìm thấy ở Malaysia,
Thái Lan, Lào và Việt Nam (2004). Các chủng vi rút type O phân lập được
đều thuộc topotype ME-SA và Cathay. Các vi rút phân lập từ Hồng Kông và
Philippines nằm trong topotype Cathay nhưng lại thuộc dòng phụ khác. Vi rút
nhận được từ Việt Nam thuộc topotype Cathay hoặc ME-SA (chủng Pan -
Asia). Vi rút type A ở Việt Nam thuộc topotype Asia, có quan hệ rất gần với
các chủng gây dịch bệnh ở Thái Lan năm 2003, 2004 [42].
Trong năm 2005, bệnh LMLM đã xảy ra ở Brazil (serotype O),
Colombia (serotype A), ở Nga (serotype Asia 1); ở Trung Quốc (serotype
Asia 1), Hồng Kông (serotype Asia 1), Mông Cổ (serotype Asia 1); ở
Botswana (serotype SAT 2), Congo (SAT 1, 2, 3 và A). Sự xuất hiện gần đây
của serotype Asia 1 ở Trung Quốc, Hồng Kông, Mông Cổ, Myanmar, Nga,
Tajikistan cùng với sự có mặt của serotype này ở Ấn Độ, Iran và Pakistan cho
thấy rằng một chủng của Asia 1 có thể đang lây lan khắp châu Á. Trong báo
cáo của OIE năm 2005, không có dịch LMLM ở các nước trong vùng được
coi là an toàn và không tiêm phòng văc xin LMLM. Cũng trong năm này,
FAO/WRLFMD đã nhận 266 mẫu bệnh phẩm LMLM từ 21 nước châu Âu,
10
châu Á, châu Phi và kết quả phân lập và định type cho biết type O vẫn chiếm
tỷ lệ lưu hành cao nhất [43].
Theo kết quả xét nghiệm của Phòng thí nghiệm giám định vi rút LMLM
(Pirbright, UK) những năm gần đây, sự phân bố của các type và subtype vi rút
LMLM trên thế giới vẫn như phân bố năm 2002 (hình 1.1).
- Châu Âu: những ổ dịch do vi rút type O và A có subtype A Iran/96 ở
Iran và Thổ Nhĩ Kỳ.
- Châu Phi: những ổ dịch do type O gây ra ở vùng Đông Bắc của lục địa
(Algeria, Tunisia, Guinea, Burundi, Kenya, Tanzania và Zimbabue); type A
phân bố ở Tây, Trung và Đông Phi; type C không phổ biến, các type SAT lưu
hành rộng rãi, SAT 1 và SAT 2 xảy ra rộng khắp trừ phía Bắc Phi, nhưng
SAT 3 chỉ xảy ra ở vùng hẹp của phía Nam châu Phi [49].
(Nguồn FAO:
018170620143701104933%3Aqq82jsfba7w&q=FMD+stituation+map+2008
&cof=FORID%3A9&x=12&y=7#1247) [55]
Hình 1.1. Bản đồ dịch tễ bệnh LMLM trên thế giới năm 2009
11
- Nam Mỹ: phổ biến là type O, A và C. Những ổ dịch do vi rút type O gây
ra ở Bolivia, Brazil, Colombia và Ecuador, type A xảy ra ở Venezuela,
Colombia và Peru.
- Trung Đông: type O phổ biến nhất, tiếp theo là type A, Asia 1 và thỉnh
thoảng có type C.
- Châu Á: các nước có dịch do type O gây ra là Bahrain, Bangladesh,
Campuchia, Hồng Kông, Ấn Độ, Iran, Iraq, Israel, Jordan, Malaysia, Nepal,
Philippines, Qatar, Syria, Saudi Arabia, Đài Loan, Arab, các tiểu vương quốc
Ả rập, Lào, Việt Nam và Yemen. Type A ở Bangladesh và Iran, type Asia 1 ở
Iran và Malaysia, type C giới hạn ở tiểu lục địa Ấn Độ và Philippines.
Theo kết quả phân tích gen vi rút gây bệnh ở phòng thí nghiệm giám
định vi rút LMLM (IAH, Pirbright, UK), type O gây bệnh năm 2000 có cấu
trúc gen khác với type O gây bệnh ở Đài Loan năm 1997 và khác với một số ổ
dịch xảy ra gần đây trên thế giới, được đặt tên là South Asia topotype, chúng
gây bệnh cho trâu, bò và lợn, phân bố rất rộng từ Đài Loan ở phía Đông tới
Hy Lạp ở phía Tây. Năm 1999, có 14 tỉnh ở Trung Quốc bị dịch nặng đã ảnh
hưởng lớn đến các nước láng giềng [38].
1.1.5. Bệnh LMLM ở Việt Nam
Ở Việt Nam, bệnh được phát hiện đầu tiên vào năm 1898 tại Nha Trang
và sau đó dịch đã xảy ra ở các tỉnh Trung và Nam Bộ (trong thời gian này
bệnh cung được phát hiện ở cả Lào, Campuchia và Thái Lan) [9], [25].
Trong 2 năm 1921 - 1922, ở các tỉnh phía bắc có 690 ổ dịch xảy ra làm
13.018 con trâu, bò và lợn bị bệnh, trong đó 446 con chết. ở Miền Đông Nam
Bộ, thể bệnh rất nhẹ và bệnh tích chủ yếu ở miệng [25].
Ở Trung Bộ và Bắc Trung Bộ, dịch đã gây nhiều thiệt hại. Năm 1921 -
1922, có 213 ổ dịch LMLM, làm chết 52 con [25].
Vào những năm 1937, 1940 và 1948 dịch lại nổ ra liên tiếp ở Trung Bộ
và Nam Bộ, một ổ dịch lớn lan tràn khắp tỉnh Quảng Ngãi và ở Miền Bắc
bệnh có rải rác ở Sơn Tây, Thanh Hóa [25].
12
Năm 1948 - 1949, dịch xảy ra ở Lai Hòa - Thủ Đức - Thành phố Hồ Chí
Minh làm chết 3 trâu; ở Nam Bộ, Tây Nguyên có một ổ dịch. Theo tổ chức
Quốc tế về bệnh truyền nhiễm họp tại Sài Gòn tháng 3 năm 1953, bệnh có xu
hướng định vị tại Việt Nam và Campuchia [25].
Năm 1952 - 1953, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, bệnh liên tiếp
nổ ra ở Trung Bộ và lan ra Bắc Bộ. Đến năm 1954, bệnh đã có mặt ở hầu
khắp Bắc Bộ với 179 ổ dịch. Đến tháng 4 năm 1955, bệnh xảy ra ở Liên khu
III rồi lan sang khu tả ngạn, Liên khu Việt Bắc, Liên khu IV, Thành phố Hà
Nội, Nam Định, Hải Phòng. Trong khoảng tháng 5 đến tháng 7 năm 1955,
bệnh lan ra 11 tỉnh, 3 thành phố và tạm ngưng vào cuối năm 1955 [25].
Năm 1960, dịch phát ra ở 9 xã thuộc huyện Quỳnh Lưu – Nghệ An, sau
đó không thấy xuất hiện lại qua nhiều năm ở các tỉnh phía Bắc [14].
Từ năm 1961-1991, không có dịch LMLM ở các tỉnh phía Bắc Việt
Nam [14].
Trước năm 1969, cứ khoảng 2 đến 3 năm dịch LMLM tái phát 1 lần ở
các tỉnh phía Nam. Năm 1969, dịch phát nặng cho cả trâu, bò và lợn. Dịch
xuất phát từ Sài Gòn, Chợ Lớn, rồi lan ra các tỉnh và 5 trại lợn công nghiệp ở
Nam Bộ [22].
Từ năm 1975, tình hình dịch LMLM được ghi nhận đầy đủ hơn. Năm
1975, dịch LMLM xảy ra liên tiếp ở 17 tỉnh phía Nam từ Quảng Nam – Đà
Nẵng trở vào các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Từ năm 1976 - 1983, theo số liệu của Cục Thú y, đã có 98 ổ dịch ở các
tỉnh phía Nam làm 26.648 trâu, bò và 2.919 lợn bị bệnh. Riêng trong năm
1983, các ổ dịch từ trâu, bò đã lan sang một trại lợn công nghiệp ở huyện
Thống Nhất tỉnh Đồng Nai làm hơn 2.200 con lợn bị mắc bệnh [9].
Trong những năm cuối thập kỷ 80, một số tỉnh phía Nam như An Giang,
Tây Ninh, Sông Bé, Đồng Tháp thường xuyên bị dịch LMLM do lây lan từ
Campuchia sang. Năm 1989, riêng tỉnh Đồng Nai có 3 huyện là Long An,
13
Long Thành và Mộc Xuyên bị dịch kéo dài từ tháng 5 đến giữa tháng 10 làm
3.514 trâu, bò bị bệnh [9].
Năm 1990, dịch cũng xuất hiện ở 4 huyện thuộc tỉnh Thuận Hải làm hơn
7.500 trâu, bò bị bệnh. Dịch cũng xảy ra ở huyện Lộc Ninh tỉnh Sông Bé làm
100 trâu, bò bị ốm, không cày kéo được [9].
Năm 1992, dịch phát tại Quảng Bình, Quảng Trị, Hà Tĩnh và những năm
sau đó, bệnh có mặt ở cả 3 miền của đất nước [9].
Năm 1993, dịch đã lan rộng ra trên địa bàn 122 xã của 18 huyện thuộc 8
tỉnh bao gồm Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị,
Thừa Thiên - Huế, Bình Thuận và Bà Rịa – Vũng Tàu, với tổng số 32.260
trâu, bò và 1.612 lợn bị bệnh [9].
Năm 1995 là năm dịch phát ra ở nhiều tỉnh trong cả nước (107 huyện của
26 tỉnh thành, với tổng số 236.000 trâu, bò và 11.021 lợn bị bệnh [9], tác động
đến hầu hết các tỉnh Nam Bộ đặc biệt là Đồng bằng Sông Cửu Long. Dịch
phát ra đầu tiên tại thị xã Sa Đéc của tỉnh Đồng Tháp (20/4/1995), chỉ trong
một thời gian rất ngắn, bệnh dịch đã lan rộng ra 10 huyện trong tổng số 11
huyện của tỉnh, làm cho 5.135 trâu, bò và lợn bị bệnh. Theo đường buôn bán,
vận chuyển lợn bệnh của các tư thương, dịch đã lan sang các huyện, thị trong
tỉnh và sau đó lan sang các tỉnh lân cận như Vĩnh Long (24/4/1995), An
Giang (28/4/1995), Cần Thơ (20/11/1995) rồi lan ra khắp các tỉnh Đồng bằng
Sông Cửu Long, đến Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa -
Vũng Tàu [9].
Ngay từ ổ dịch đầu tiên trên lợn tại Đồng Tháp, phòng thí nghiệm của
Trung tâm Thú y vùng Thành phố Hồ Chí Minh đã xác định được bệnh do vi
rút type O gây ra. Theo điều tra, nguyên nhân là do mua lợn giống từ Miền
Bắc vào.
Dịch LMLM đã xảy ra trên trâu, bò liên tục suốt thời gian từ 1975 -
2005, trên lợn từ 1992-2005 và gây thiệt hại nặng nề nhất vào các năm
14
1993, 1995, 1999, 2000. Ngoài type O lưu hành trong nhiều năm qua, type
A cũng đã được phát hiện năm 2004 trên trâu, bò [8] và type Asia 1 trên
trâu, bò và lợn năm 2005 ở Việt Nam [16].
Theo số liệu của Cục Thú y [8], năm 1999, trong khi vẫn chưa chấm dứt
các đợt dịch từ các tỉnh miền Trung và miền Nam thì ở miền Bắc, đợt dịch
mới từ Trung Quốc tràn sang tấn công hàng loạt các tỉnh giáp biên. Cao Bằng
là điểm dịch đầu tiên, từ đó dịch lan sang các tỉnh khác. Tính đến ngày
10/3/2000 cả nước có 58/61 tỉnh, thành phố bị dịch với 297.808 trâu, bò và
36.530 lợn mắc bệnh [9].
Năm 2001, bệnh xảy ra ở 16 tỉnh thành với 3.976 trâu, bò mắc bệnh [4].
Năm 2002, bệnh xảy ra ở 26 tỉnh thành với 10.287 trâu, bò mắc bệnh [4].
Năm 2003, 38 tỉnh thành có dịch, trong đó 28 tỉnh thành có dịch ở
trâu, bò và 28 tỉnh có dịch ở lợn, với tổng số 20.303 trâu, bò; 1.178 dê và
3.533 lợn mắc bệnh, chủ yếu ở các tỉnh: Quảng Trị, Phú Yên, Khánh Hoà,
Gia Lai, Hà Giang [9].
Năm 2004, số tỉnh có dịch LMLM là 45 tỉnh, với 577 xã thuộc 169
huyện có dịch. Tổng số gia súc mắc bệnh là: 25.658 trâu bò, 127 dê và 1.555
lợn, trong đó có 9 tỉnh do virus LMLM serotype A (phát hiện lần đầu tiên tại
Ninh Thuận và Bình Định vào 8/2004), 3 tỉnh do cả 2 virus LMLM serotype
O và A. Nguyên nhân của việc xuất hiện virus LMLM type A có thể là do
việc nhập lậu bò từ Campuchia [9].
Năm 2005, số tỉnh có dịch LMLM là 37 tỉnh, với 408 xã của 160 huyện.
Số gia súc mắc bệnh là: 28.241 trâu, bò, 3.976 lợn và 81 dê, trong đó có 3 tỉnh
do virus LMLM serotype A, 13 tỉnh do virus LMLM serotype O, 3 tỉnh do cả 2
virus LMLM serotype O và A, 2 tỉnh do virus LMLM serotype Asia 1 (Lào Cai
và Khánh Hoà vào tháng 10/2005) [3].
Năm 2006, dịch LMLM trên trâu bò đã xảy ra tại 1410 xã của 283 huyện
thuộc 47 tỉnh, số gia súc mắc bệnh là 114.015 con. Dịch LMLM trên lợn cũng
15
xảy ra ở 516 xã của 191 huyện thuộc 54 tỉnh làm 44.450 lợn mắc bệnh. Trong
đó type Asia 1 có ở Hà Giang, Yên Bái, Tuyên Quang, Cao Bằng và Thái
Bình (phát hiện bằng kít 3ABC và giám định bằng phương pháp RT-PCR) với
tổng số 9.271 trâu bò và 12.461 lợn bị bệnh. Trong năm 2006 cả nước đã xử
lý tiêu huỷ 4.906 trâu, bò, 31.087 lợn [3].
Năm 2007 có 37 tỉnh có dịch, trong đó 294 xã, 225 huyện thuộc 25 tỉnh
dịch sảy ra trên trâu bò và 172 xã, 71 huyện thuộc 26 tỉnh có dịch LMLM
trên lợn với tổng số 11.355 trâu, bò và 12.386 lợn mắc bệnh. Số phải xử lý
tiêu huỷ và chết là 3.765 trâu, bò và 11.122 lợn. Type virus lưu hành chủ yếu
là type O, type A chỉ có ở Phú Yên và type Asia1 có ở Quảng Trị và Thanh
Hoá [3].
Năm 2008, dịch có giảm so với các năm trước, có 122 xã của 43 huyện
thuộc 14 tỉnh có dịch làm 2.408 trâu, bò và 67 lợn mắc bệnh. Số chết, tiêu hủy
là 218 trâu, bò và 39 lợn. Type O vẫn là type virus xuất hiện nhiều nhất trong
các ổ dịch, Tháng 12/2008 phát hiện type A tại Nghệ An [9].
Năm 2009, dịch đã xảy ra ở 229 xã thuộc 87 huyện của 27 tỉnh, thành
phố với tổng số 7.861 con trâu, bò mắc bệnh, 432 con phải tiêu hủy. Trên lợn,
dịch sảy ra ở 35 xã thuộc 23 huyện của 16 tỉnh, thành phố với tổng số 499 lợn
mắc bệnh, 429 con phải tiêu hủy [9].
Dịch LMLM xảy ra trên địa bàn các tỉnh Bắc Trung bộ, Duyên hải miền
Trung, Tây Nguyên và các tỉnh miền núi phía Bắc. Dịch xảy ra trên quy mô
rộng vào tháng 9/2009, cao điểm nhất có tới trên 90 ổ dịch xuất hiện trong
tháng, các tháng khác dịch xảy ra ít hơn và rải rác tại nhiều địa phương. Dịch
LMLM týp A xuất hiện tại vùng miền núi phía Bắc (Sơn La, Bắc Giang và Hà
Giang), Tây Nguyên (Kon Tum), đồng bằng sông Cửu Long (Long An) - là
những vùng đã lâu không có týp vi rút này [3], [10].
Năm 2010: dịch đã xảy ra ở 297 xã thuộc 103 huyện của 28 tỉnh, thành
phố là Bắc Ninh, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên
16
Bái, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Thanh Hóa, Nghệ
An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa, Gia Lai, Đắc
Lắc, Bình Phước, Bà Rịa Vũng Tàu, Long An, Tiền Giang, Sóc Trăng, Phú
Thọ và Thái Nguyên với tổng số 16.333 con trâu, bò mắc bệnh, 419 con trâu,
bò phải tiêu hủy. Có 16 tỉnh, thành phố có lợn bị mắc bệnh LMLM, với tổng
số 1,675 con lợn mắc bệnh, 848 con phải tiêu hủy [9], [10].
Dịch xảy ra trên quy mô rộng vào tháng 12/2010 với trên 98 ổ dịch.
Tháng 11/2010 có 56 ổ dịch xuất hiện. Các tháng khác dịch xảy ra ít hơn và
rải rác tại nhiều địa phương [9].
Các ổ dịch LMLM từ đầu năm 2010 đến nay đều do vi rút LMLM type
O gây ra [9], [10].
1.2. Vi rút LMLM
Vi rút LMLM thuộc họ Piconarviridae, chi Aphthovirus.
Hình 1.2. Cấu trúc của virion vi rút LMLM type O1BFS [38]