Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Đánh giá hiệu quả công tác giao đất lâm nghiệp cho các hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 1995 đến 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 114 trang )


1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




LĂNG THỊ NGA






ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIAO ĐẤT LÂM NGHIỆP
CHO CÁC HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN GIAI ĐOẠN 1995 - 2010


Chuyên ngành : QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Mã số : 60 85 01 03




LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP













Thái Nguyên, năm 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
MỞ ĐẦU

1. ĐT VẤN ĐỀ
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là
thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là nơi phân bố dân cư, là
địa bàn quy hoạch, xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh
quốc phòng. Việt Nam có hơn 80% dân số sống ở miền núi, trung du (chủ yếu
là đồng bào các dân tộc) lao động trong các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp,
thuỷ sản. Vì thế việc bảo vệ và sử dụng bền vững đất nông, lâm nghiệp giữ một
vai trò vô cùng quan trọng.
Trước tình hình chặt phá rừng, đốt rừng lấy củi, làm nương rẫy, môi
trường sinh thái bị đe dọa nghiêm trọng, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều
chủ trương và biện pháp nhằm tăng cường công tác quản lý bảo vệ rừng,
trong đó công tác giao đất lâm nghiệp là một trong những biện pháp trọng
tâm. Giao đất lâm nghiệp cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn
đinh vào mục đích sản xuất lâm nghiệp theo quy hoạch và kế hoạch là một
chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước nhằm gắn lao động với đất

đai tạo động lực phát triển sản xuất lâm nghiệp, từng bước ổn định và phát
triển tình hình kinh tế, xã hội, tăng cường an ninh quốc phòng. Đây là một
nhiệm vụ trọng tâm của công tác quản lý và bảo vệ rừng đối với cấp uỷ, chính
quyền các cấp, trong đó lực lượng Kiểm lâm nói chung và Kiểm lâm Lạng
Sơn nói riêng là nòng cốt chủ yếu.
Cao Lộc là một huyện miền núi biên giới với địa hình đồi núi là chủ yếu.
Do vậy việc tổ chức quản lý sử dụng đất lâm nghiệp có hiệu quả đóng vai trò
quan trọng trong việc nâng cao đời sống của người dân trên địa bàn. Thực hiện
chủ trương của Đảng, Nhà nước và các Chỉ thị, Nghị quyết của tỉnh và của
huyện về công tác lâm nghiệp, nhằm làm cho mỗi mảnh đất lâm nghiệp trên địa
bàn huyện đều có chủ thực sự, từ năm 1993 đến nay huyện đã chỉ đạo các cấp,
các ngành tuyên truyền vận động nhân dân nhận đất, nhận rừng đưa vào quản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
lý sản xuất kinh doanh, chỉ đạo ngành kiểm lâm huyện phối hợp với ủy ban
nhân dân (UBND) các xã tiến hành tổ chức giao đất lâm nghiệp cho các hộ gia
đình, cá nhân và các đơn vị tập thể đóng trên địa bàn huyện.
Nhằm tổng kết và đánh giá hiệu quả công tác giao đất lâm nghiệp trên
địa bàn huyện, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao công tác quản lý
Nhà nước nói chung và công tác giao đất lâm nghiệp nói riêng trên địa bàn
toàn huyện, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Đánh giá hiệu quả công tác giao đất lâm nghiệp cho các hộ gia đình,
cá nhân trên địa bàn huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 1995 - 2010”

2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
2.1. Mục tiêu tổng quát ca đ tài
Đánh giá kết quả của công tác giao đất lâm nghiệp cho hộ gia đình, cá
nhân ảnh hưởng như thế nào đến đời sống của người dân trên địa bàn huyện
Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn nhằm rút ra bài học khuyến cáo cho công tác quản lý

nhà nước về đất lâm nghiệp đối với huyện Cao Lộc và các nơi khác có điều
kiện tương tự.
2.2. Mục tiêu cụ thể ca đ tài
Đề tài nghiên cứu nhằm 4 mục tiêu cụ thể sau:
- Đánh giá được sơ lược tình hình cơ bản của vùng nghiên cứu ảnh
hưởng đến công tác giao đất lâm nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân.
- Khái quát được thực trạng công tác giao đất lâm nghiệp, sử dụng đất
lâm nghiệp và quản lý đất lâm nghiệp trước và sau khi giao cho hộ gia đình,
cá nhân trên địa bàn huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.
- Đánh giá hiệu quả của công tác giao đất lâm nghiệp đến đời sống:
Kinh tế, xã hội và môi trường của người dân trên địa bàn huyện Cao Lộc, tỉnh
Lạng Sơn.
- Đề xuất được một số giải pháp nhằm nâng cao công tác quản lý nhà
nước về đất lâm nghiệp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
3. YÊU CẦ U CỦ A ĐỀ TÀ I
- Tìm hiểu các loại đất, các văn bản pháp luật liên quan đến công tác
giao đất lâm nghiệp.
- Tài liệu, số liệu thu thập đảm bảo độ chính xác và tin cậy.
- Các giải pháp đưa ra có tính khả thi và phù hợp với địa bàn nghiên cứu.
4. Ý NGHA CỦA ĐỀ TÀI
- Ý nghĩa khoa học: Đề tài này giúp củng cố và hoàn thiện các kiến
thức về Luật đất đai; nắm vững chính sách pháp luật đất đai; chính sách giao
đất, giao rừng nói chung và giao đất lâm nghiệp nói riêng.
- Ý nghĩa thực tiễn: Từ quá trình nghiên cứu đề tài, giúp ta đánh giá
được hiệu quả của công tác giao đất lâm nghiệp cho các hộ gia đình cá nhân,
tìm ra được những mặt thuận lợi và khó khăn tồn trại trong công tác giao đất
lâm nghiệp để từ đó đề xuất những giải pháp khắc phục, góp phần thúc đẩy

hiệu quả của công tác giao đất lâm nghiệp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. CƠ SỞ KHOA HỌ C CỦ A ĐỀ TÀ I
1.1.1. Cơ cở lý luận ca đ tài
Để phát triển Lâm Nghiệp nói riêng và nông thôn nói chung thì đất đai
là một tư liệu sản xuất quan trọng không thể thiếu. Trong những năm gần
đây,bằng nhiều chính sách đất đai của Đảng và Nhà nước đã góp phần rất lớn
vàocông cuộc đổi mới nông thôn nước ta. Nó đã phát huy được tác dụng như:
tăng hiệu quả sản xuất, giải quyết công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho
người lao động, ổn định tình hình kinh tế xã hội ở nông thôn…
Bên cạnh đó, tài nguyên rừng ở nước ta rất đa dạng và phong phú.
Hằng năm rừng cung cấp nhiều loại hàng hóa phục vụ cho các ngành kinh tế
như gỗ và các loại lâm đặc sản khác. Ngoài những vai trò to lớn đó, rừng còn
có nhiều tác dụng trong các lĩnh vực như phòng hộ, môi trường sinh thái và
cảnh quan.
Có thể nói rừng có vai trò và tác dụng quan trọng không gì thay thế
được trong nhiều lĩnh vực, nó luôn gắn bó với đời sống con người. Tuy nhiên,
trong những năm gần đây tài nguyên đất và rừng ở nước ta đã bị suy giảm
nghiêm trọng.
Nguyên nhân chính của tình trạng này là đất và rừng không có chủ thực
sự dẫn đến tình trạng khai thác sử dụng bừa bãi quá mức Với nhận thức là ổn
định tình hình kinh tế xã hội ở nông thôn miền núi thì trước tiên phải ổn định
tình hình đất đai và tài nguyên rừng. Trong hoàn cảnh như vậy một loạt các
chính sách về giao đất giao rừng đã được ban hành. Theo đó đất và rừng được
giao đến tận tay người dân để sản xuất, kinh doanh theo quy định của Nhà

nước và pháp luật, mỗi mảnh đất rừng đã có chủ quản lý thực sự.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
Giao đất, giao rừng là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm tạo
sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, xã hội ở địa bàn nông thôn, đồng thời nâng cao
tinh thần trách nhiệm cho từng tổ chức, cá nhân trong công tác quản lý và bảo
vệ rừng. Qua những vấn đề nêu trên, chúng ta có thể thấy được chính sách
giao đất giao rừng thực sự có vai trò rất lớn trong công cuộc bảo vệ và phát
triển rừng bền vững. Chính sách giao đất giao rừng thực sự đã trở thành đòn
bẩy để phát triển kinh tế Lâm nghiệp và nông thôn. Đồng thời nó cũng thể
hiện sự biến đổi to lớn từ sản xuất lâm nghiệp truyền thống sang sản xuất lâm
nghiệp có sự tham gia của toàn xã hội. Việc tìm hiểu về chính sách giao đất
giao rừng sẽ giúp chúng ta có cài nhìn đúng đắn hơn về công cuộc bảo vệ và
phát triển rừng ở nước ta hiện nay.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn ca đ tài
Nhà nước đã ban hành nhiều Luật, Nghị định, Quyết định, Chỉ thị về
giao đất, giao rừng nhằm gắn lao động với đất đai, tạo động lực phát triển sản
xuất nông lâm nghiệp, từng bước ổn định kinh tế xã hội và an ninh quốc
phòng.
Người sử dụng đất có các quyền: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê,
cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, quyền thế chấp, bảo lãnh,
góp gốn bằng quyền sử dụng đất; quyền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
được xác định trong Luật đất đai. Những quyền này tạo sơ sở pháp lý về
những lợi ích cụ thể để người sử dụng đất thực sự làm chủ về việc sử dụng và
kinh doanh trên đất được giao, từng bước khắc phục tình trạng manh mún
ruộng đất, tạo điều kiện tích tụ ruộng đất phù hợp, thúc đẩy sản xuất nông lâm
nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, thâm canh đất đai, đổi mới
cơ cấu sản xuất, đa dạng hoá cây trồng, sử dụng và bảo vệ tốt tài nguyên môi
trường theo hướng một nền nông lâm nghiệp bền vững.




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
1.1.3. Cơ sở pháp lý của đề tài
1.1.3.1. Một số văn bản pháp quy ca Nhà nước quy định v công tác giao
đất
- Luật Bảo vệ và Phát triển rừng được Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ
9 thông qua ngày 12/8/1991.
- Nghị định số 02/1994/NĐ-CP ngày 15/01/1994 của Chính phủ ban
hành Bản quy định về việc giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp.
- Thông tư số 06-LN/KL ngày 18/6/1994 của Bộ Lâm nghiệp hướng
dẫn thi hành Nghị định 02/CP-1994 về giao đất lâm nghiệp.
- Nghị định số 163/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 của Chính phủ về
giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng
ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp.
- Quyết định số 178/2001/QĐ-TTg ngày 12/11/2001 của Thủ tướng
Chính phủ về quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao,
được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp.
- Thông tư liên tịch số 80/2003/TTLT-BNNPTNT-BTC ngày
03/9/2003 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Tài chính
hướng dẫn thực hiện Quyết định 178/2001/QĐ-TTg ngày 12/11/2001.
- Luật Đất đai 2003 ngày 26/11/2003.
- Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ
hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2003.
- Luật bảo vệ và phát triển rừng số 29/2004/QH11 được Quốc hội khóa
11 thông qua ngày 03/12/2004 quy định về việc quản lý và bảo vệ, phát triển

và sử dụng rừng.
- Thông tư số 38/2007/TT-BNNPTNT ngày 25/4/2007 của Bộ trưởng
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về hướng dẫn trình tự, thủ tục giao
rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng
đồng dân cư.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
- Thông tư liên tịch số 07/2011/TTLT-BNNPTNT-BTNMT ngày
29/01/2011 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Tài nguyên
Môi trường về việc hướng dẫn một số nội dung về giao rừng, thuê rừng gắn
liền với giao đất, thuê đất lâm nghiệp.
1.1.3.2. Văn bản pháp quy ca tỉnh Lạng Sơn quy định v công tác giao
đất
- Chỉ thị số 09/CT-UB ngày 01/5/1994 của UBND tỉnh Lạng Sơn về
việc tăng cường công tác quản lý bảo vệ rừng và giao đất giao rừng.
- Chỉ thị số 06/CT-UB năm 1996 của UBND tỉnh Lạng Sơn về việc
tăng cường công tác quản lý bảo vệ rừng.
- Hướng dẫn số 318/HD-ĐC-KL ngày 28/6/1997 của Sở Địa chính –
Chi cục Kiểm lâm tỉnh Lạng Sơn về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đối với đất Lâm nghiệp.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TÁC GIAO ĐẤT LÂM NGHIỆP
1.2.1. Khái niệm đất lâm nghiệp và giao đất
1.2.1.1. Đất lâm nghiệp
Điều 1, Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 1991 quy định: “Đất lâm
nghiệp được xác định là đất có rừng và đất không có rừng hoặc đất trống,
đồi núi trọc được quy hoạch cho mục tiêu phát triển lâm nghiệp” [20].
Khoản 2, Điều 3 Thông tư liên tịch số 07/2011/TTLT-BNNPTNT-
BTNMT quy định: “Đất lâm nghiệp là đất đang có rừng tự nhiên hoặc đang
có rừng trồng đạt tiêu chuẩn rừng theo quy định của pháp luật về bảo vệ và

phát triển rừng; đất đang khoanh nuôi để phục hồi rừng; đất mới trồng rừng
nhưng chưa thành rừng; đất đang trồng rừng hoặc đã giao, cho thuê để
trồng rừng và diện tích đất trống trong các khu rừng đặc dụng hoặc diện
tích đất trống được bảo vệ trong các khu rừng khác theo quy định của pháp
luật về bảo vệ và phát triển rừng” [3].
1.2.1.2. Giao đất
* Khái niệm giao đất:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
Theo Khoản 1 Điều 4 Luật đất đai 2003 quy định: “Nhà nước giao đất
là việc nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng quyết định hành chính cho đối
tượng có nhu cầu sử dụng đất” [22].
* Mục đích giao đất:
- Đảm bảo cho đất đai được sử dụng hợp pháp, đúng mục đích có hiệu quả.
Giao đất là một nội dung quản lý nhà nước về đất đai, công nhận quyền
sử dụng đất của người được công nhận. Người sử dụng đất sử dụng đúng mục
đích ghi trong hồ sơ xin giao đất. Tính hợp pháp của quyền sử dụng đất tạo
điều kiện cho chủ sử dụng đất yên tâm đầu tư vốn, công sức nhằm khai thác
tốt tiềm năng đất đai, cải tạo bồi bổ đất đai, phát triển sản xuất, thực sự coi đất
như tài sản của mình, không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
- Xác lập mối quan hệ giữa Nhà nước với người sử dụng đất, làm căn
cứ pháp lý để giải quyết mọi quan hệ đất đai đúng pháp luât.
- Làm cơ sở để người sử dụng đất thực hiện các quyền: chuyển đổi,
chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp, góp vốn, bảo lãnh quyền sử dụng
đất theo pháp luật phù hợp với sự vận động vốn có của quan hệ đất đai trong
thực tiễn cuộc sống.
1.2.2. Chính sách giao đất lâm nghiệp ở Việt Nam qua các thời kỳ
1.2.2.1. Chính sách giao đất lâm nghiệp trước thời kỳ đổi mới (1968-1986)
Trước thời kỳ đổi mới nền kinh tế của nước ta vận hành theo kế hoạch

hoá, tập trung quan liêu bao cấp và có những đặc trưng sau:
- Có hai thành phần kinh tế đó là kinh tế quốc doanh và Hợp tác xã
(HTX). Trong lâm nghiệp là lâm trường quốc doanh và HTX có kinh doanh
nghề rừng; trong nông nghiệp thường là nông trường quốc doanh và HTX
nông nghiệp.
- Kế hoạch hoá tập trung, cấp phát giao nộp.
- Cơ chế thị trường có tổ chức.
Các văn bản của Đảng và Nhà nước đã ban hành có liên quan đến vấn
đề giao đất lâm nghiệp trong thời kỳ này bao gồm:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
1. Nghị định số 36/CP ngày 12/3/1968 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ) về “công tác vận động định canh, định cư kết hợp với HTX đối
với đồng bào còn du canh du cư".
2. Quyết định số 179/CP ngày 12/11/1968 của Hội đồng Bộ trưởng về
“một số chính sách đối với HTX có kinh doanh nghề rừng".
3. Quyết định số 129/CP ngày 25/5/1974 của Hội đồng Bộ trưởng về
“một số chính sách đối với HTX, mở rộng diện tích phát triển nông, lâm
nghiệp ở trung du và miền núi".
4. Chỉ thị số 257/TTg ngày 16/7/1975 của Thủ tướng Chính phủ về
“đẩy mạnh trồng rừng và đất rừng cho HTX kinh doanh".
5. Quyết định số 272/CP ngày 03/10/1977 của Hội đồng Chính phủ về
“chính sách đối với HTX mở rộng diện tích phát triển nông, lâm nghiệp, xây
dựng vùng kinh tế mới, thực hiện định canh, định cư".
6. Chỉ thị 100/CT-TW ngày 13/01/1981 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng về “cải tiến công tác khoán mở rộng các công tác khoán sản phẩm đến
nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp".
7. Quyết định số: 184/HĐBT ngày 06/11/1982 của Hội đồng Bộ trưởng
về “đẩy mạnh giao đất, giao rừng cho tập thể nông dân trồng cây rừng".

8. Chỉ thị 29/CT-TW ngày 12/11/1983 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng về “đẩy mạnh công tác giao đất, giao rừng và tổ chức kinh doanh theo
phương thức nông lâm kết hợp".
Như vậy trong vòng 19 năm (1968-1986) từ khi xác định chủ trương
giao đất rừng cho HTX những văn bản được Nhà nước ban hành đã chứng tỏ
chính sách nhất quán và kiên trì trong chủ trương giao đất, giao rừng của
Đảng và Nhà nước cho HTX.
* Tình hình giao đất, giao rừng trong giai đoạn 1968-1980
Đây là những năm thực hiện chủ trương đẩy mạnh trồng rừng, bảo vệ
rừng và giao đất, giao rừng cho HTX sản xuất kinh doanh việc trồng rừng,
bảo vệ rừng đã trở thành một ngành sản xuất quan trọng, là nhiệm vụ của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
HTX. Nhờ vậy rừng ngày càng mở rộng, diện tích rừng bị phá làm nương rẫy
ngày càng giảm.
Tuy nhiên số HTX làm đúng theo chủ trương chính sách còn ít, phần
lớn các HTX chỉ muốn nhận rừng để khai thác lâm sản, không muốn nhận đất
để trồng cây gây rừng, công tác bảo vệ rừng chưa tốt, nạn phá rừng vẫn chưa
được ngăn chặn.
Trong giai đoạn này Nhà nước mới khuyến khích và công nhận sự tồn
tại của hai thành phần kinh tế chủ yếu trong kinh doanh rừng đó là lâm trường
quốc doanh và HTX. Sau khi giao đất, giao rừng cho các HTX một số tỉnh đã
có biện pháp tích cực tăng cường chỉ đạo các HTX phát triển nghề rừng, ban
hành Nghị quyết chuyên đề về lâm nghiệp quy định tổ chức quản lý và chế độ
chính sách đối với các HTX kinh doanh nghề rừng, xác định loại hình HTX,
tập đoàn sản xuất (lâm nông hay nông lâm).
Do không giống nhau về trình độ quản lý (nơi mạnh, nơi yếu), về điều
kiện kinh doanh nghề rừng (nơi khó, nơi dễ), về quan hệ chỉ đạo (nơi quan tâm
thực sự, nơi chỉ đạo buông xuôi) nên trong thời kỳ này có 3 loại hình HTX:

- Loại hình thứ nhất: Bao gồm các HTX đã thực sự đưa rừng và đất
rừng vào dạng tư doanh. Các HTX thuộc loại này là HTX bước đầu đã thực
hiện sản xuất rừng tốt, thực sự coi trọng nghề rừng, có đầu tư cho nghề rừng
(về lao động, vốn, giống ), các HTX này đều có tổ chuyên trách gieo ươm,
khai thác. Việc trồng rừng cơ động chủ lực làm hạt nhân, kết hợp với toàn bộ
lao động theo thời vụ, tuy nhiên loại hình HTX này còn quá ít.
- Loại hình thứ hai: Là loại hình HTX được giao đất, giao rừng, nhưng vì
nhiều lý do khác nhau nên chưa đảm bảo tư doanh, vẫn hợp đồng làm khoán
trồng rừng hoặc khai thác lâm sản cho lâm trường quốc doanh trên diện tích đất
và rừng được giao. Tình trạng này tồn tại nhiều do các HTX trình độ quản lý có
hạn, cho ràng làm khoán vẫn có thu nhập cao mà quản lý đỡ phức tạp. Hợp tác
xã chỉ điều hành lao động, giải quyết tốt việc ăn chia phân phối nội bộ, còn mọi
việc từ thiết kế đến giống, vốn, vật tư kỹ thuật đều do lâm trường đảm nhiệm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
- Loại hình thứ ba: Là loại hình HTX đã nhận đất, nhận rừng nhưng chưa
đưa vào sản xuất, kinh doanh do nhiều nguyên nhân: phải tập trung lao động vào
sản xuất lương thực, định hướng trồng rừng và kinh doanh lâm nghiệp chưa rõ
ràng, chưa xin được vốn hỗ trợ của Nhà nước, trình độ quản lý còn kém. Loại hình
này chiếm đại đa số các HTX được giao đất, giao rừng. Hiện tượng phổ biến nhất
ở các HTX là mới chỉ giữ rừng để lợi dụng khai thác gỗ, củi, khai thác lâm sản,
nhiều nơi còn chặt phá rừng bừa bãi gây thiệt hại to lớn về tài nguyên rừng.
Kết quả trong khoảng thời gian từ năm 1968 đến năm 1980 đã giao
được 5 triệu ha cho 3998 HTX và tập đoàn sản xuất.
* Tình hình giao đất, giao rừng giai đoạn 1980-1986
Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định số 184/HĐBT ngày
06/11/1982, quyết định có những nét mới hơn: đối tượng được giao đất, giao
rừng thì mở rộng hơn trước, các hộ gia đình cá nhân cũng được Nhà nước
giao đất với hạn mức đất và diện tích rừng cụ thể như sau:

- Giao đất cho tập thể kinh doanh thì không hạn chế khả năng sử dụng
được bao nhiêu thì giao bấy nhiêu, mỗi hộ gia đình ở miền núi được cấp từ
2000 - 2500m
2
cho mỗi lao động để làm vườn rừng, ngoài ra còn có thể nhận
khoán đất trống đồi trọc để trồng rừng theo quy hoạch.
- Về quyền lợi của tập thể, cá nhân được quy định như sau: Rừng của tập
thể trồng hoặc cải tạo bằng vốn và sức lao động tự có của mình thì khi khai thác
có thể sử dụng 20 - 30% sản phẩm chính đối với rừng trồng hoặc 10 - 20% sản
phẩm chính đối với rừng cải tạo, số còn lại phải bán cho Nhà nước theo giá thoả
thuận.
- Rừng của cá nhân trồng khi thu hoạch phải nộp cho HTX 20% sản
phẩm chính, trong số 80% còn lại cá nhân được sử dụng 30% còn 70% phải
bán lại cho Nhà nước theo giá thoả thuận.
- Sản phẩm nông, lâm nghiệp kết hợp thì cá nhân được hưởng toàn bộ.
Thực hiện Quyết định trên một số địa phương đã giao đất, giao rừng
cho HTX và nhân dân kinh doanh, nhưng do chưa nhận thức đúng tầm quan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
trọng và chưa có kinh nghiệm chỉ đạo nên chưa phát huy được tác dụng tích
cực của chính sách này. Nếu không có biện pháp khắc phục thì sẽ dẫn đến hậu
quả rất nghiêm trọng về môi trường và nhiều mặt khác nữa. Vì vậy ngày
12/11/1983 Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 290-
CT/TW về đẩy mạnh giao đất, giao rừng, xây dựng rừng và tổ chức kinh
doanh theo phương pháp nông lâm kết hợp.
Chỉ thị này đã xác định rõ giao đất, giao rừng gắn liền với việc tổ chức
bảo vệ và kinh doanh rừng, sử dụng có hiệu quả các diện tích đất trống, đồi
núi trọc theo phương thức nông lâm kết hợp, coi việc giao đất, giao rừng là
một cuộc vận động cách mạng mang nội dung kinh tế chính trị sâu sắc, một

nhiệm vụ cụ thể của từng người sử dụng đất trên từng khu đất, chuyển lâm
nghiệp từ trạng thái tự nhiên sang kinh doanh có tổ chức, có kế hoạch. Chỉ thị
đã nêu ra một số định hướng chính sách quan trọng như: Nhà nước hỗ trợ một
phần vốn, giống, công cụ chuyên dùng, vật tư cho HTX và nhân dân; Nhà
nước bán đối lưu lương thực theo giá đảm bảo kinh doanh cho những nơi thực
sự không có đủ điều kiện để sản xuất đủ lương thực.
Ngày 18/01/1984 Ban Bí thư TW Đảng ban hành Chỉ thị số 35/CP - TW
về việc khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình. Nhà nước cho phép các hộ
gia đình nông dân tận dụng mọi nguồn phát triển đất mà HTX, nông trường chưa
sử dụng hết để đưa vào sản xuất. Nhà nước không đánh thuế sản xuất kinh doanh
đối với hộ gia đình, chỉ đánh thuế tái sinh; đất phục hoá được miễn thuế trong
vòng 5 năm, hộ gia đình nông dân được tiêu thụ các sản phẩm làm ra.
Kết quả giao đất, giao rừng trong thời kỳ 1980-1986 đã giao được
1.934.000ha cho 1.724 HTX, 610 cơ quan đơn vị trường học và 349.750 hộ gia
đình [12].
1.2.2.2. Chính sách giao đất nông - lâm nghiệp trong thời kỳ đổi mới
(1986 đến nay)
Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam tháng
12/1986 đã đánh dấu thời kỳ đổi mới của Việt Nam với tư tưởng chỉ đạo là triệt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
để xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đường lối này ngày càng
được hoàn chỉnh trong các Nghị quyết Đại hội Đảng các lần tiếp theo.
Luật Đất đai được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá VIII thông qua ngày 28/12/1987 đánh dấu một bước quan trọng trong quá
trình xây dựng các chính sách đất đai ở nước ta.
* Giai đoạn 1986 -1993

Chủ trương của Nhà nước trong giai đoạn này là phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, ngoài thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể. Nhà nước có
chủ trương giao đất cho hộ gia đình và cá nhân, điều này đã khuyến khích rất
nhiều người nhận diện tích đất trống, đồi núi trọc để đầu tư vốn trồng rừng.
Các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh bằng
nhiều hình thức thích hợp tuỳ điều kiện cụ thể theo từng vùng như vườn rừng,
trại rừng, vườn cây công nghiệp, cây ăn quả, lương thực, thực phẩm, dược
liệu kết hợp với cây rừng (nông lâm kết hợp).
Song song với việc thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 05/4/1988
của Bộ Chính trị về ”đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp”, ngày 19/08/1991
Luật bảo vệ và phát triển rừng đã được Nhà nước công bố, tại Điều 1 quy
định: ”Nhà nước giao rừng, đất trồng rừng cho tổ chức và cá nhân để phát
triển và sử dụng ổn định, lâu dài theo quy hoạch và kế hoạch của Nhà nước”;
Tổ chức và cá nhân đang sử dụng hợp pháp đất trồng rừng được tiếp tục sử
dụng theo quy định tại Điều 3: “Nhà nước bảo hộ quyền lợi hợp pháp của tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân đầu tư lao động, tiền vốn, áp dụng tiến bộ khoa
học, kỹ thuật công nghệ vào các việc gây trồng rừng, bảo vệ rừng, khai thác,
chế biến”.
Ngày 15/9/1992 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định số
327/CT về việc ban hành một số chủ trương, chính sách sử dụng đất trống đồi
núi trọc, rừng, bãi bồi, ven biển và mặt nước hoang (gọi tắt là Chương trình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
327). Nội dung chủ yếu của Chương trình 327 là tập trung cải tạo mới rừng
phòng hộ và rừng đặc dụng gồm: bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh, trồng
rừng gắn nông nghiệp với lâm nghiệp; khôi phục lại môi trường sinh thái; giải
quyết việc làm, tăng thu nhập, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống của
đồng bào các dân tộc; điều chỉnh lại lao động dân cư giữa các vùng. Qua đây
nhận thức về bảo vệ và chăm sóc rừng, nông lâm kết hợp, tiếp thu kỹ thuật

thâm canh, ý thức về sản xuất hàng hoá của đồng bào dân tộc vùng núi đã
được nâng lên một bước.
* Giai đoạn từ 1993 đến 2003
Trong giai đoạn này Đảng và Nhà nước đã đưa ra rất nhiều chính sách
về quản lý và sử dụng đất.
Tại kỳ họp Quốc hội khoá IX, Luật Đất đai được thông qua ngày
14/7/1993 và có hiệu lực ngày 15/10/1993. Đây là một bộ luật quan trọng thể
hiện chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về đất đai, cụ thể hoá
Điều 17 và 18 Hiến pháp 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thể chế hoá đường lối cơ bản của Đảng mà trực tiếp là Nghị quyết hội
nghị lần thứ V của Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 6/1993.
Luật Đất đai năm 1993 được Quốc hội thông qua đã đánh dấu kết quả
một quá trình nghiên cứu, vận dụng thực tiễn để thể chế hoá các chính sách
mới về đất đai, vừa đảm bảo phát huy quan hệ sở hữu toàn dân, phù hợp với
cách vận hành mới của một nền kinh tế hàng hoá bắt đầu tiếp cận với cơ chế
thị trường. Luật Đất đai năm 1993 trong quá trình thực hiện vẫn còn bộc lộ
một số bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội, do đó Luật
sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 1998 và 2001 đã có những
vấn đề nổi bật đáng lưu ý như:
- Hộ gia đình cá nhân là đối tượng được giao đất sản xuất nông, lâm
nghiệp, thay vì giao cho HTX và tập đoàn nông, lâm nghiệp như trước đây.
- Người sử dụng đất có quyền sử dụng ổn định lâu dài, ngoài ra còn có
các quyền "Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, góp vốn" tạo cơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
sơ pháp lý về những lợi ích cụ thể để người sử dụng đất thực sự làm chủ về sử
dụng và kinh doanh trên đất được giao.
- Khẳng định đất có giá và Nhà nước xác định giá đất để tính thuế
chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền khi giao đất, tính giá trị tài sản khi giao

đất, bồi thường thiệt hại khi bị thu hồi đất.
Ngoài ra, Luật Đất đai năm 1993, Luật sửa đổi bổ sung năm 1998 và
năm 2001 còn đề cập nhiều vấn đề đổi mới khác như: quy định mức hạn điền,
thời hạn sử dụng đất, đất dành cho nhu cầu công ích. Đây là những quy định
cụ thể hoá bằng các Nghị định số 64/CP ngày 27/9/1993, Nghị định số 85/CP
ngày 28/8/1999 của Chính phủ ban hành quy định về giao đất nông nghiệp và
Nghị định số 02/CP ngày 15/01/1994, Nghị định số 163/1999/NĐ-CP ngày
16/11/1999 về việc giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình
và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp [12].
1.2.3. Thẩm quyn giao đất lâm nghiệp
Thẩm quyền xác lập các khu rừng và giao đất lâm nghiệp được quy
định tại Điều 11 Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 1991; Điều 8 Nghị định
số 17/HĐBT ngày 17/01/1992 của Hội đồng Bộ trưởng về thi hành Luật bảo
vệ và phát triển rừng (nay là Chính phủ), cụ thể như sau:
- Các khu rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng sản xuất do Thủ tướng
Chính phủ quyết định xác lập thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh nơi có rừng
làm thủ tục bàn giao đất lâm nghiệp và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất (GCNQSDĐ) theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định xác lập và giao:
+ Các khu rừng phòng hộ có quy mô diện tích dưới 20.000ha; khu di
tích văn hoá, lịch sử, cảnh quan du lịch ở địa phương sau khi có sự nhất trí
của Bộ Lâm nghiệp hoặc các ngành có liên quan: giao cho các tổ chức Nhà
nước ở địa phương quản lý, sử dụng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
+ Các khu rừng sản xuất ở địa phương có diện tích từ 1000ha đến dưới
20.000ha; các khu rừng đặc sản dưới 5.000ha: giao cho các tổ chức ở địa
phương quản lý, kinh doanh theo quy hoạch của Nhà nước.
+ Giao cho doanh nghiệp tư nhân trong nước diện tích đất lâm nghiệp

từ 100ha đến dưới 1000ha để sản xuất kinh doanh lâm nghiệp theo quy hoạch
và kế hoạch của Nhà nước.
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện quyết định:
+ Giao đất lâm nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân để làm vườn rừng, sản xuất
nông lâm kết hợp, sản xuất kinh doanh lâm nghiệp theo quy hoạch của tỉnh.
+ Giao rừng sản xuất cho các tổ chức, các cộng đồng làng, bản ở địa
phương theo quy hoạch của tỉnh [20].
1.2.4. Các quy định v giao đất lâm nghiệp
1.2.4.1. Giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, gia đình, cá nhân sử dụng ổn
định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp
Những quy định về giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp quy định cụ thể về
quỹ đất được giao, căn cứ quyết định giao, thời hạn giao và hạn mức được
giao được thể hiện ở các Điều 2, 28, 33, 36 Luật bảo vệ và phát triển rừng
năm 1991; Điều 18 Hiến pháp 1992; Điều 1, Điều 20 Luật Đất đai năm 1993
và Luật sửa đổi bổ sung năm 1998, 2001; Nghị định số 02/CP ngày
15/01/1994; Nghị định số 163/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 của Chính phủ
và một số văn bản dưới luật có liên quan khác.
* Đối tượng giao đất lâm nghiệp để sử dụng ổn định lâu dài được quy định
tại Điều 4, Nghị định số 163/1999/NĐ-CP như sau:
- Các tổ chức như: Ban quản lý các khu rừng phòng hộ, khu rừng đặc
dụng; các doanh nghiệp lâm nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp; các trạm trại,
xí nghiệp giống lâm nghiệp; các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân,
trường học, trường dạy nghề.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
- Các hộ gia đình, cá nhân trực tiếp lao động nông nghiệp, lâm nghiệp
mà nguồn sống chủ yếu là thu nhập có được từ các hoạt động sản xuất đó
được UBND xã nơi có đất lâm nghiệp xác nhận.

- Các hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất theo Nghị định số
02/CP từ trước ngày 01/11/1999 thì được trực tiếp sử dụng cho đến hết thời
hạn được Nhà nước giao và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất [6]
* Quỹ đất lâm nghiệp để giao, cho thuê:
- Gồm toàn bộ đất có rừng tự nhiên, đất có rừng trồng và đất chưa có
rừng đã được quy hoạch để trồng cây gây rừng khoanh nuôi, bảo vệ thảm thực
vật, không phân biệt độ dốc được tính vào quỹ đất lâm nghiệp để giao cho hộ
gia đình, cá nhân quản lý và sử dụng ổn định lâu dài.
- Tùy thuộc vào từng mục đích sử dụng đất lâm nghiệp, từng loại rừng
đã quy hoạch để giao đất, cho thuê đất cho từng đối tượng cụ thể:
+ Nhà nước giao cho các tổ chức (ban quản lý, các doanh nghiệp lâm
nghiệp, nông nghiệp) quản lý sử dụng ổn định lâu dài: Toàn bộ đất lâm nghiệp
là rừng đặc dụng và rừng phòng hộ đầu nguồn xung yếu và rất xung yếu; Rừng
phòng hộ đầu nguồn ít xung yếu và các loại rừng phòng hộ khác tập trung, xa
khu dân cư; Đất lâm nghiệp là rừng sản xuất tập trung, xa khu dân cư; Đất lâm
nghiệp dự trữ quốc gia.
+ Nhà nước giao đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài
những loại đất lâm nghiệp sau: Đất có rừng tự nhiên, rừng trồng, đất để trồng
rừng mà hộ gia đình, cá nhân đang trực tiếp quản lý sử dụng hợp pháp do cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền đã giao những năm trước đây; Đất có rừng
hoặc chưa có rừng thuộc phòng hộ đầu nguồn ít xung yếu, rừng chắn gió,
chắn cát, chắn sóng lấn biển đã ổn định, rừng sản xuất nằm xen kẽ trong các
khu dân cư, gần vùng dân cư; Đất chưa có rừng bảo vệ sinh thái.
+ Nhà nước giao cho các Chi cục Kiểm lâm trực tiếp quản lý các vùng
đất lâm nghiệp chưa được giao cho các chủ cụ thể.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
* Căn cứ để quyết định giao đất lâm nghiệp được quy định tại Điều 4, Nghị
định số 02/NĐ-CP như sau:

- Giao đất lâm nghiệp phải dựa trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất; khoanh định rõ các loại đất; quy hoạch đất lâm nghiệp xác định các loại
rừng trên từng địa bàn cụ thể.
- Căn cứ vào quỹ đất lâm nghiệp của từng địa phương.
- Căn cứ vào nhu cầu, khả năng sử dụng đất lâm nghiệp của các tổ chức
được ghi trong luận chứng kinh tế kỹ thuật hay trong dự án quản lý xây dựng
khu rừng đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt; đơn xin giao đất
lâm nghiệp của hộ gia đình, cá nhân được UBND cấp xã nơi cư trú xác nhận.
- Căn cứ vào kế hoạch nguồn vốn đầu tư hỗ trợ hàng năm của Nhà
nước (đối với trường hợp việc giao đất lâm nghiệp có gắn với thực hiện các
dự án đầu tư hỗ trợ bằng vốn của Nhà nước) [5].
* Thời hạn giao đất lâm nghiệp được quy định tại Điều 6, Nghị định số
02/NĐ-CP như sau:
- Đối với các tổ chức của Nhà nước: thời hạn giao được quy định theo
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của Nhà nước.
- Đối với các tổ chức khác, hộ gia đình, cá nhân: thời hạn giao là 50 năm,
hết thời hạn quy định nếu người sử dụng đất vẫn có nhu cầu và sử dụng đất đúng
mục đích thì Nhà nước giao tiếp [5].
* Hạn mức đất được giao được quy định tại Điều 13, Nghị định số
163/1999/NĐ-CP như sau:
Tuỳ thuộc vào quỹ đất của từng địa phương, trên cơ sở quy hoạch sử
dụng đất đai, quy hoạch các loại rừng, nhu cầu sử dụng đất của các tổ chức,
hộ gia đình và cá nhân kết hợp với yêu cầu quản lý cuả Nhà nước đối với từng
loại rừng và yêu cầu cụ thể để giải quyết hạn mức giao cho từng đối tượng,
dựa trên nguyên tắc mọi tổ chức, hộ gia đình cá nhân có nhu cầu, khả năng sử
dụng đất lâm nghiệp hoặc theo nhiệm vụ được giao quản lý của dự án.
Đảm bảo cho các đối tượng thực sự có đất để bảo vệ rừng, khoanh nuôi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20

tái tạo rừng, mở rộng diện tích trồng rừng mới, đảm bảo cho các thành phần
kinh tế có nhu cầu khả năng sử dụng đất lâm nghiệp để xây dựng cơ cấu kinh
tế miền núi theo hướng chuyển sang cơ cấu kinh tế hàng hoá, phù hợp với đặc
điểm của từng vùng, từng dân tộc, phát huy thế mạnh lâm nghiệp, cây công
nghiệp dài ngày, cây ăn quả [6].
1.2.4.2. Giao khoán đất sử dụng vào mục đích sản xuất lâm nghiệp
* Đối tượng được giao khoán đất sử dụng vào mục đích sản xuất lâm nghiệp
được quy định tại Điều 2 Nghị định số 135/2005/NĐ-CP như sau:
Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Nông trường quốc doanh, lâm trường quốc doanh (gọi chung là bên
giao khoán) hạch toán độc lập hoặc hạch toán phụ thuộc được Nhà nước giao
đất, cho thuê đất; giao rừng, cho thuê rừng; giao hoặc cho thuê đất có mặt
nước nuôi trồng thủy sản.
2. Cán bộ, công nhân, viên chức đang làm việc cho bên giao khoán; hộ
gia đình có người đang làm việc cho bên giao khoán hoặc đã nghỉ hưu, nghỉ
mất sức lao động, được hưởng chế độ đang cư trú trên địa bàn; hộ gia đình có
nhu cầu trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản đang
cư trú trên địa bàn (ưu tiên hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, hộ đồng bào
dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn đang cư trú trên địa bàn có nhu cầu
nhận giao khoán đất), các đối tượng này được gọi chung là bên nhận khoán [8].
* Căn cứ giao khoán và nhận khoán quy định tại Điều 5 Nghị định số
135/2005/NĐ-CP như sau:
“Điều 5. Căn cứ giao khoán và nhận khoán
1. Quỹ đất, quỹ rừng của bên giao khoán bao gồm: diện tích đất, diện
tích rừng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao, cho thuê để sử dụng
vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản.
2. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của bên giao khoán.
3. Dự án đầu tư hoặc phương án tổ chức sản xuất, kinh doanh của bên
giao khoán được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


21
4. Khả năng vốn, trình độ quản lý và lao động của bên nhận khoán.
5. Các chính sách đầu tư, hỗ trợ bằng vốn của Nhà nước và các chính
sách kinh tế - xã hội khác” [8].
* Nội dung giao khoán đất lâm nghiệp tuỳ theo từng loại rừng được quy định
tại Điều 15 và Điều 16 Nghị định số 135/2005/NĐ-CP như sau:
“Điều 15. Giao khoán rừng sản xuất là rừng tự nhiên và rừng trồng
1. Giao khoán rừng sản xuất là rừng tự nhiên.
a. Thực hiện giao khoán rừng cho bên nhận khoán để chủ động đầu tư
vốn, lao động, tổ chức sản xuất kinh doanh nông, lâm kết hợp;
b. Bên giao khoán phải xây dựng phương án điều chế rừng để thực hiện
quản lý, bảo vệ, chăm sóc, khai thác rừng theo nguyên tắc bền vững. Căn cứ
phương án điều chế rừng được cấp có thẩm quyền phê duyệt, bên giao khoán
ký hợp đồng giao khoán rừng với bên nhận khoán để bên nhận khoán chủ
động tổ chức sản xuất (quản lý, bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh tự nhiên, kết hợp
trồng bổ sung) và khai thác theo luân kỳ của từng loại rừng;
c. Nội dung hợp đồng khoán phải thể hiện rõ diện tích đất, diện tích
rừng, thực trạng chất lượng rừng giao khoán; vị trí, ranh giới diện tích giao
khoán thể hiện trên bản đồ và ngoài thực địa; tỷ lệ phân chia giá trị sản phẩm
chính khi khai thác theo luân kỳ tương ứng với vốn, lao động mỗi bên đã đầu
tư, biện pháp tổ chức triển khai giao khoán rừng cụ thể bảo đảm công bằng
dân chủ, công khai;
d. Trong quá trình thực hiện hợp đồng khoán, bên nhận khoán được tận
thu lâm sản, thực hiện các biện pháp kỹ thuật lâm sinh theo quy trình, quy
phạm kỹ thuật hiện hành; được sản xuất nông, lâm kết hợp; chăn nuôi dưới
tán rừng và được khai thác lâm sản phụ theo hướng dẫn của bên giao khoán;
đ. Thời gian khoán theo chu kỳ kinh doanh của từng loại rừng, nhưng
tối đa không quá 50 năm.
2. Giao khoán rừng sản xuất là rừng trồng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
a. Rừng sản xuất sau khi đã trồng xong, thực hiện giao khoán rừng cho
bên nhận khoán để tiếp tục đầu tư chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ và tổ chức
sản xuất nông, lâm kết hợp;
b. Nội dung hợp đồng giao khoán phải xác định rõ diện tích, cấp tuổi
rừng, trữ lượng rừng, chất lượng rừng, nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo
vệ rừng, khai thác, trách nhiệm của bên nhận khoán và bên giao khoán, tỷ lệ
phân chia giá trị sản phẩm khi khai thác tương ứng với vốn, lao động mỗi bên
đã đầu tư, thời hạn hợp đồng giao khoán;
c. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, bên nhận khoán được tận thu
lâm sản khi thực hiện các biện pháp kỹ thuật lâm sinh theo quy trình, quy
phạm kỹ thuật hiện hành và sản xuất nông, lâm nghiệp, ngư nghiệp kết hợp
theo hướng dẫn của bên giao khoán, được hưởng sản phẩm tận thu đó theo
hợp đồng đã ký;
d. Thời gian giao khoán theo chu kỳ kinh doanh của từng loại rừng,
nhưng tối đa không quá 50 năm”.
“Điều 16. Giao khoán đất trồng rừng sản xuất
1. Bên giao khoán xây dựng dự án trồng rừng, suất đầu tư và ký hợp
đồng giao khoán đất cho bên nhận khoán để trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng đến
khi khai thác; sản phẩm gỗ thu hoạch phân chia theo tỷ lệ tiền vốn đầu tư và
công lao động đã đóng góp giữa bên giao khoán và bên nhận khoán.
Tuỳ tình hình cụ thể của bên giao khoán và bên nhận khoán để lựa chọn
các mô hình sau:
a. Bên giao khoán đầu tư 100% vốn (bao gồm thiết kế, cây giống, phân
bón, vật tư, tiền công khoán), chỉ đạo kỹ thuật, hỗ trợ công tác bảo vệ rừng.
bên nhận khoán nhận thực hiện công việc từ trồng, chăm sóc, bảo vệ từ khi
trồng đến hết chu kỳ kinh doanh. Khi khai thác, bên nhận khoán thanh toán
bằng sản phẩm gỗ thu hoạch cho bên giao khoán tương ứng giá trị đã nhận

đầu tư (tính cả vốn + lãi suất) theo thoả thuận ghi trong hợp đồng khoán;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23
b. Bên giao khoán đầu tư vốn; thiết kế; cung cấp cây giống, phân bón;
chỉ đạo kỹ thuật; hỗ trợ công tác bảo vệ rừng cho bên nhận khoán trồng, chăm
sóc trong một số năm đầu. Sau đó chuyển sang giai đoạn chăm sóc, bảo vệ,
bên nhận khoán tự bỏ vốn để tiếp tục chăm sóc, bảo vệ đến hết chu kỳ kinh
doanh. Khi khai thác gỗ bên nhận khoán được hưởng tỉ lệ sản phẩm tương
ứng với vốn và công sức bỏ ra theo thoả thuận đã ghi trong hợp đồng;
c. Bên nhận khoán tự bỏ vốn để trồng, chăm sóc, bảo vệ; bên giao
khoán chịu trách nhiệm thiết kế, cung cấp cây giống, tư vấn kỹ thuật, dịch vụ
phân bón; chỉ đạo thi công, kiểm tra, giám sát, hỗ trợ công tác bảo vệ rừng
trong cả quá trình thực hiện hợp đồng.
Sản phẩm gỗ khai thác bên nhận khoán thanh toán cho bên giao khoán
bằng sản phẩm tương ứng với giá trị cây giống, dịch vụ và công lao động đã
đầu tư. Phần còn lại bên nhận khoán được hưởng, nhưng phải bán cho bên
giao khoán theo giá thoả thuận giữa hai bên tại thời điểm khai thác; trường
hợp bên giao khoán không mua thì bên nhận khoán được tự do tiêu thụ.
2. Ngoài việc được trả tiền công khoán hoặc hưởng tỉ lệ sản phẩm như
các quy định tại mục a, b, c khoản 1 Điều này, bên nhận khoán được:
a. Trồng xen cây nông nghiệp với cây rừng khi rừng chưa khép tán,
được sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp kết hợp dưới tán rừng, rìa rừng nhưng
không được làm ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng của cây rừng, theo hướng
dẫn của bên giao khoán và được hưởng toàn bộ sản phẩm trồng xen đó;
b. Tận dụng lâm sản trong quá trình thực hiện các biện pháp kỹ thuật
lâm sinh theo quy trình, quy phạm kỹ thuật hiện hành và theo hướng dẫn của
bên giao khoán, được hưởng sản phẩm tận thu đó theo hợp đồng đã ký.
3. Thời gian khoán theo chu kỳ cây trồng, nhưng tối đa không quá 50
năm” [8].

1.2.4.3. Quyn và nghĩa vụ ca người được giao đất lâm nghiệp
Quyền và nghĩa vụ của người được giao đất lâm nghiệp được quy định
tại Điều 15 Nghị định số 02/CP như sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

24
“1. Quyền lợi:
a. Được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
b. Được nhà nước bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp trên diện tích đất
Lâm nghiệp được giao;
c. Được hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên diện tích đất
Lâm nghiệp được giao theo luận chứng kinh tế kỹ thuật, phương án quản lý,
dự án đầu từ hoặc theo kế ước, theo hợp đồng khoán;
d. Được hưởng chính sách hộ trợ cuả nhà nước trong việc bảo vệ và
phát triển rừng;
đ. Được đền bù, bồi hoàn thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất
Lâm nghiệp được giao theo thời giá thị trường và hiện trạng cuả rừng, đất
trồng rừng trường hợp bị thu hồi theo quy định của pháp luật;
e. Được để thừa kế, chuyển nhượng, thế chấp, chuyển đổi quyền sử
dụng đất Lâm nghiệp được giao theo quy định của pháp luật;
f. Được miễn hoặc giảm thuế trong trường hợp gây trồng rừng trên đất
trống, đồi, núi trọc theo quy định cuả pháp luật .
2. Nghĩa vụ:
a. Chịu trách nhiệm trước nhà nước về việc thực hiện các quy định
cuả pháp luật về quản lý, bảo vệ và phát triển đất Lâm nghiệp được giao;
b. Đền bù, bồi hoàn theo thời giá cho chủ rừng, đất trồng rừng bị thu
hồi để giao cho mình theo quy định cuả pháp luật;
c. Nộp thuế theo quy định của pháp luật” [5].
1.3. CÔNG TÁC GIAO ĐẤT LÂM NGHIỆP TẠI MỘT SỐ ĐỊA PHƢƠNG
Ở VIỆT NAM

1.3.1. Công tác giao đất lâm nghiệp tại huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang
Huyện miền núi Bắc Quang, tỉnh Hà Giang đã xây dựng chương trình
hướng cho bà con các dân tộc chuyển diện tích rừng nghèo kiệt giá trị kinh tế
thấp sang trồng rừng kinh tế có giá trị cao. Chương trình này thực sự đã đi
vào cuộc sống, được bà con các dân tộc hưởng ứng và đạt hiệu quả cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

25
Huyện miền núi Bắc Quang có diện tích đất lâm nghiệp gần 70 nghìn ha
đều nằm trong dải núi đất, có độ dốc vừa phải, độ ẩm cao. Đây chính là tiềm
năng để huyện phát triển kinh tế rừng. Song đất rừng ở Bắc Quang mới chỉ ở
dạng tiềm năng, chưa được khai thác trồng rừng đưa lại hiệu quả kinh tế cao.
Ngoài 28 nghìn ha rừng phòng hộ được bảo vệ, trên 41 nghìn ha rừng sản xuất
mới có 1/2 diện tích được phủ rừng theo các chương trình, dự án như 661, rừng
nguyên liệu giấy và phần diện tích còn lại là rừng tạp, rừng nghèo kiệt cho
hiệu quả kinh tế thấp. Những diện tích đất rừng nghèo kiệt này hầu hết là
nương rẫy cũ của bà con các dân tộc bỏ sau khi đã hết màu, sau đó hạt cây phát
tán rơi xuống nương và cây rừng tự mọc lên, chủng loại cây mọc trên đất này
hầu như không có giá trị bởi đều là cây tạp, gỗ từ nhóm 5 trở lên.
Nhằm phát huy lợi thế và khai thác tiềm năng đất rừng có hiệu quả
phục vụ mục tiêu phát trển kinh tế-xã hội, huyện Bắc Quang đã tập trung
tuyên truyền, tiến hành giao đất rừng nghèo kiệt cho từng hộ dân vùng rừng
và xây dựng chính sách cụ thể hỗ trợ cho bà con các dân tộc chuyển rừng
nghèo kiệt sang trồng rừng kinh tế. Theo đó, huyện hỗ trợ toàn bộ cây giống
cho bà con ở các xã vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu và vùng nhiều đồi đất
trống, phá rừng tạp chuyển sang trồng rừng kinh tế. Mức hỗ trợ cho trồng 1ha
rừng từ 1.800 - 2.200 cây giống (giống cây Keo, Mỡ, Bồ đề) và gần 1.500 cây
giống (giống cây Luồng, Tre ). Ngoài ra, huyện còn cử cán bộ kỹ thuật tổ
chức các lớp tập huấn ngay tại các thôn, bản để hướng dẫn bà con biết kỹ
thuật trồng, chăm sóc rừng Với chủ trương này, hơn 4 năm qua có 4.157 hộ

ở 19 xã trong huyện đã trồng được trên 19 nghìn ha rừng kinh tế, trong đó có
nhiều xã ở vùng đặc biệt khó khăn đã chuyển đổi rừng nghèo kiệt sang trồng
rừng kinh tế có hiệu quả cao như xã Đông Thành trồng được trên 1.163ha;
người Dao ở xã Thượng Bình, xã đặc biệt khó khăn đã chuyển đổi gần 900ha
rừng nghèo kiệt. Từ trồng rừng kinh tế, nhiều hộ dân đã có nguồn thu nhập ổn
định và ấp ủ ước mơ làm giàu từ rừng như hộ chị Hoàng Thị Đệ ở thôn Tiến
Thành, xã Đông Thành: Gia đình chị đã chuyển 5ha rừng nghèo kiệt (rừng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

×