I HC THI NGUYấN
TRNG I HC NễNG LM
BI HNG HNH
NH GI CễNG TC BI THNG, GII PHểNG MT BNG
MT S D N TRấN A BN HUYN NG H,
TNH THI NGUYấN GIAI ON 2006-2011
Chuyên ngành: quản lý đất đai
Mã số: 60 85 01 03
Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
Ngi hng dn khoa hc: TS. V Th Thanh Thu
Thỏi Nguyờn, nm 2012
S húa bi Trung tõm Hc liu i hc Thỏi Nguyờn
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan, các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ
rõ nguồn gốc./.
Tác giả luận văn
Bùi Hồng Hạnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ của mình, tôi đã
nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy, cô Trường Đại học Nông lâm Thái
Nguyên và các Lãnh đạo, đồng nghiệp nơi tôi công tác.
Cho phép tôi gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giáo, Tiến sĩ Vũ Thị Thanh
Thủy người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp tôi hoàn thành đề tài.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Ban giám hiệu Trường Đại học Nông lâm
Thái Nguyên, tập thể giáo viên khoa sau Đại học, Khoa Tài nguyên và Môi trường;
Lãnh đạo, các đồng chí, đồng nghiệp phòng Tài nguyên & Môi trường - Văn
phòng đăng ký quyền sử dụng đất, Ban bồi thường giải phóng mặt bằng, Phòng
Thống kê huyện Đồng Hỷ đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong thời gian nghiên cứu
thực hiện đề tài trên địa bàn và đóng góp những ý kiến quý báu để tôi hoàn thành
tốt đề tài.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, những người thân, cán bộ, đồng nghiệp
và bạn bè đã tạo điều kiện về mọi mặt giúp tôi trong quá trình thực hiện đề tài này.
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 08 năm 2012
Tác giả luận văn
Bùi Hồng Hạnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU i
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục đích của đề tài 2
3. Mục tiêu của đề tài 3
4. Yêu cầu 3
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4
1.1. Cơ sở lý luận của công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng 4
1.1.1. Khái niệm về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư 4
1.1.2. Đặc điểm của công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng. 5
1.1.3. Những yếu tố tác động đến công tác bồi thường GPMB 5
1.1.4. Về tái định cư 8
1.2. Cơ sở pháp lý của công tác bồi thường giải phóng mặt bằng 10
1.2.1. Các văn bản pháp quy của nhà nước có liên quan đến công tác bồi
thường GPMB 10
1.2.2. Các văn bản pháp quy của địa phương có liên quan đến công tác bồi
thường GPMB 11
1.3. Cơ sở thực tiễn 12
1.3.1. Tình hình thực hiện chính sách bồi thường, GPMB, hỗ trợ và Tái định
cư ở Việt Nam 12
1.4. Thực trạng công tác bồi thường, GPMB, hỗ trợ và TĐC của tỉnh Thái
Nguyên 22
1.5. Thực trạng công tác bồi thường, GPMB, hỗ trợ và TĐC của huyện Đồng Hỷ24
1.6. Tác động của công tác bồi thường giải phóng mặt bằng đến phát triển cơ sở
hạ tầng và đời sống kinh tế - xã hội 26
1.6.1. Đối với sự phát triển cơ sở hạ tầng 26
1.6.2. Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội 28
Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU . 29
2.1. Đối tượng, địa bàn nghiên cứu 29
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 29
2.1.2. Địa bàn nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 29
2.2. Nội dung nghiên cứu 29
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iv
2.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên 29
2.2.2. Tình hình quản lý, sử dụng đất đai của huyện Đồng Hỷ 30
2.2.3. Đánh giá công tác bồi thường GPMB trên địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh
Thái Nguyên 30
2.2.4. Ảnh hưởng của việc thực hiện chính sách thu hồi, bồi thường đất đến
đời sống của người dân 30
2.2.5. Thuận lợi, khó khăn và một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa huyện
Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên 30
2.3. Phương pháp nghiên cứu. 30
2.3.1. Phương pháp thu thập và kế thừa số liệu, tài liệu (phương pháp thừa kế) 30
2.3.2. Phương pháp điều tra người dân thông qua phiếu điều tra 31
2.3.3. Phương pháp tổng hợp xử lý số liệu 31
2.3.4. Phương pháp chuyên gia 31
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 32
3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hôi của huyện Đồng Hỷ 32
3.1.1. Điều kiện tự nhiên 32
3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên 35
3.2. Tình hình quản lý Nhà nước về đất đai, hiện trạng sử dụng đất của huyện
Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên 39
3.2.1. Tình hình quản lý Nhà nước về đất 39
3.2.2. Hiện trạng sử dụng đất 41
3.3. Đánh giá công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng trên địa bàn huyện Đồng
Hỷ, tỉnh Thái Nguyên 45
3.3.1. Đánh giá trình tự thực hiện công tác bồi thường giải phóng mặt bằng tại
huyện Đồng Hỷ 45
3.3.2. Thực trạng công tác bồi thường, GPMB, hỗ trợ và TĐC của huyện
Đồng Hỷ 48
3.4. Đánh giá việc thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
tại hai dự án trên địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên 51
3.4.1. Giới thiệu chung về hai dự án nghiên cứu 51
3.4.2. Công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất tại hai dự án 54
3.5. Ảnh hưởng của việc thực hiện chính sách thu hồi, bồi thường đất đến đời
sống của người dân 67
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
v
3.5.1. Tình hình chung về bồi thường, hỗ trợ 67
3.5.2. Đánh giá tác động của công tác bồi thường, GPMB, hỗ trợ TĐC đến
đời sống, việc làm và thu nhập của người bị thu hồi đất tại 02 dự án nghiên
cứu 68
3.5.3. Các vấn đề về xã hội và môi trường 75
3.2.4. Thuận lợi, khó khăn và gải pháp nâng cao hiệu quả về công tác bồi
thường GPMB khi Nhà nước thu hồi đất trên địa huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái
Nguyên 76
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO 83
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADB
:
Ngân hàng phát triển châu Á
BTC
:
Bộ Tài chính
CNH – HĐH
:
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
CP
:
Chính phủ
GPMB
:
Giải phóng mặt bằng
HSĐC
:
Hồ sơ địa chính
QĐ
:
Quyết định
TNMT
:
Tài nguyên môi trường
TT
:
Thông tư
TTg
:
Thủ tướng
UBND
:
Uỷ ban nhân dân
WB
:
Ngân hàng thế giới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Hiện trạng sử dụng đất năm 2011 của huyện Đồng Hỷ 44
Bảng 3.2: Bảng tổng hợp số dự án bồi thường GPMB trên địa bàn huyện
Đồng Hỷ giai đoạn 2006-2011 52
Bảng 3.3: Đánh giá tiến độ thực hiện các dự án đã hoàn thành trên địa bàn
huyện Đồng Hỷ 50
Bảng 3.4: Một số chỉ tiêu cơ bản của hai dự án 54
Bảng 3.5: Tổng hợp đối tượng được bồi thương, hỗ trợ của 2 dự án 55
Bảng 3.6: Bảng tổng hợp diện tích, loại đất thu hồi của 2 dự án 56
Bảng 3.7: Kinh phí bồi thường GPMB của hai dự án nghiên cứu 58
Bảng 3.8. Tiến độ thực hiện bồi thường BPMB của 2 dự án 64
Bảng 3.9: Tổng hợp ý kiến của người dân về đơn giá bồi thường GPMB 65
Bảng 3.10: Tỷ lệ đất nông nghiệp bị thu hồi của các hộ dân tại 02 dự án 68
Bảng 3.11: Phương thức sử dụng tiền bồi thường, hỗ trợ của các hộ dân tại
02 dự án nghiên cứu 69
Bảng 3.12: Trình độ văn hoá, chuyên môn của số người trong độ tuổi lao
động tại 02 dự án nghiên cứu 71
Bảng 3.13: Thu nhập bình quân của người dân trước, sau thu hồi 1 năm tại
02 dự án nghiên cứu 73
Bảng 3.14: Tình hình thu nhập của các hộ sau khi thu hồi đất 01 năm tại 02
dự án nghiên cứu 73
Bảng 3.15: Thu nhập bình quân nhân khẩu/ năm phân theo nguồn thu tại 02
dự án nghiên cứu 75
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
viii
DANH MỤC HÌNH, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
Hình 3.1. Bản đồ địa giới hành chính chuyện Đồng Hỷ 32
Biểu đồ 3.2: Cơ cấu sử dụng đất huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên năm 2011 43
Sơ đồ 3.1: Trình tự thực hiện bồi thường GPMB tại huyện Đồng Hỷ 45
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là sản phẩm của tự nhiên, là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá
của mỗi quốc gia. Đất đai là yếu tố duy nhất của sự sống, nếu không có đất sẽ
không có sản xuất và cũng không có sự tồn tại của con người,
là nguồn tài
nguyên thiên nhiên, là tài sản quốc gia, địa bàn để phân bố dân cư và các hoạt động
kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh; là nguồn nội lực để xây dựng và phát triển
bền vững quốc gia. Đất đai được coi là một loại bất động sản, là một loại hàng hóa
đặc biệt vì những tính chất của nó như: Cố định về vị trí, giới hạn về không gian, vô
hạn về thời gian sử dụng
. Cho nên việc bảo vệ nguồn tài nguyên đất đai là một
vấn đề hết sức quan trọng.
Việt Nam đang trong quá trình thực hiện Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa với
mục tiêu đến năm 2020 trở thành một nước Công nghiệp; cùng với tốc độ công
nghiệp hóa, đô thị hóa ngày càng tăng, nhu cầu đất cho xây dựng cơ sở hạ tầng,
công nghiệp, nhà ở ngày càng lớn; Trong điều kiện quỹ đất ngày càng hạn hẹp, dân
số ngày càng đông, nhu cầu sử dụng đất cho các ngành ngày càng cao, nhịp độ phát
triển ngày càng lớn. Do đó nhu cầu giải phóng mặt bằng càng trở nên cấp thiết và
trở thành một thách thức lớn đối với sự thành công của các dự án. Vấn đề bồi
thường, giải phóng mặt bằng trở thành điều kiện tiên quyết để triển khai thực hiện
dự án có hiệu quả. Vì vậy đòi hỏi cần có sự quan tâm đúng mức của các cấp, các
ngành một cách toàn diện đối với công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng nhằm
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, “Giải phóng mặt bằng” là một trong những
công việc quan trọng phải làm trên con đường CNH-HĐH đất nước. Sự cần thiết
triển khai xây dựng nhiều công trình cơ sở hạ tầng, nhiều khu kinh tế, khu công
nghiệp, khu công nghệ cao, theo đó các cơ sở văn hóa giáo dục, thể dục thể thao
cũng được phát triển, tốc độ đô thị hóa cũng diễn ra nhanh chóng.
Công tác giải phóng mặt bằng mang tính quyết định tiến độ của các dự án, là
khâu đầu tiên thực hiện dự án. Có thể nói: “Giải phóng mặt bằng nhanh là một nửa
dự án”. Việc làm này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, của
chủ đầu tư, mà còn ảnh hưởng đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của người
bị thu hồi đất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Công tác GPMB là một việc làm hết sức khó khăn và phức tạp bởi nó có liên
quan đến tài sản rất có giá trị là đất đai. Đất đai có giá trị cả về vật chất lẫn tinh
thần. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các tổ chức, cá nhân, các hộ gia
đình và thực tế qua nhiều dự án đó cho thấy công tác GPMB vẫn còn tồn tại nhiều
bất cập, và gặp nhiều khó khăn. Khó khăn chủ yếu của công tác GPMB là việc xác
định giá trị bồi thường. Giá trị bồi thường thường thấp hơn so với thực tế. Do vậy
nó đã tác động rất lớn đến tâm lý người dân, họ luôn cảm thấy mức bồi thường như
vậy là chưa thoả đáng. Động chạm trực tiếp đến quyền lợi của người dân thì họ
không tự nguyện chuyển đi, không ủng hộ công tác bồi thường GPMB cũng là điều
dễ hiểu.
Thái Nguyên là một tỉnh nằm trong vùng động lực phát triển kinh tế các
tỉnh phía Bắc. Trong những năm qua, đặc biệt trong những năm gần đây quá
trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đã phát triển nhanh. Huyện Đồng Hỷ nằm ở
phía Đông của tỉnh với vị trí địa lý tiếp giáp với thành phố Thái Nguyên, kinh tế xã
hội thuận lợi, có nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú đặc biệt là nguồn
tài nguyên khoáng sản (quặng sắt, đất sét, đá vôi, cát sỏi ), nằm trên trục Quốc lộ
1B đi Lạng Sơn đã tạo cho huyện Đồng Hỷ những điều kiện lý tưởng để thu hút các
dự án đầu tư khai thác tài nguyên khoáng sản, thực hiện CNH - HĐH với sự phát
triển của các cụm công nghiệp, các nhà máy xí nghiệp hiện đại, các khu dân cư mới,
các công trình văn hóa xã hội Do vậy công tác bồi thường giải phóng mặt bằng để
thực hiện các dự án trên địa bàn rất được các cấp, các ngành của tỉnh cũng như
huyện quan tâm.
Tuy vậy công tác giải phóng mặt bằng có những tác động không nhỏ đến sự
phát triển kinh tế, đời sống xã hội trong đó có cả những vấn đề tích cực và cả những
vấn đề tiêu cực.
Để công tác bồi thường giải phóng mặt bằng trở thành yếu tố thực sự thúc đẩy
sự phát triển kinh tế và phù hợp với cơ chế thị trường vừa phải giải quyết các vấn đề
xã hội. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn tôi chọn đề tài: “Đánh giá công tác bồi
thường, giải phóng mặt bằng một số dự án trên địa bàn huyện Đổng Hỷ, tỉnh
Thái Nguyên giai đoạn 2006-2011”.
2. Mục đích của đề tài
Nghiên cứu công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, hỗ trợ và tái định cư khi
nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên giai đoạn
2006-2011 để tìm ra những ưu điểm và những tồn tại trong công tác GPMB. Qua đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
đề xuất các biện pháp khắc phục những hạn chế và hoàn thiện chính sách bồi
thường giải phóng mặt bằng, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
3. Mục tiêu của đề tài
- Đánh giá việc thực hiện các chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng ở huyện
Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên và sự tác động của việc thực hiện chính sách bồi thường
giải phóng mặt bằng đến đời sống, việc làm, thu nhập của người bị thu hồi đất
- Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện chính sách bồi thường giải
phóng mặt bằng ở huyện Đồng Hỷ nói riêng và tỉnh Thái Nguyên nói chung.
4. Yêu cầu
- Nắm vững các quy định trong Luật Đất đai và các văn bản dưới luật về công
tác bồi thường GPMB, các Thông tư, Nghị định, các Quy định có liên quan đến
công tác bồi thường GPMB;
- Số liệu thu thập phải chính xác, trung thực, khách quan;
- Phân tích, đánh giá các số liệu điều tra;
- Đưa ra các giải pháp mang tính cụ thể, phù hợp với thực trạng của công tác
bồi thường GPMB hiện nay và phải có tính khả thi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận của công tác bồi thƣờng, giải phóng mặt bằng
1.1.1. Khái niệm về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
1.1.1.1. Thu hồi đất
“Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử
dụng đất của hộ gia đình, cá nhân hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, UBND xã,
phường, thị trấn quản lý theo quy định của Luật đất đai’’. [23]
1.1.1.2. Bồi thường
Bồi thường là đền bù những tổn hại đã gây ra. Đền bù là trả lại tương xứng với
giá trị hoặc công lao. [23]
Như vậy, bồi thường là trả lại tương xứng với giá trị hoặc công lao cho một
chủ thể nào đó bị thiệt hại vì hành vi của chủ thể khác mang lại.
1.1.1.3. Hỗ trợ
- Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất: “Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc
Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm
mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm mới”. [23]
1.1.2.4. Tái định cư
Tái định cư là việc di chuyển đến một nơi khác với nơi ở trước đây để sinh sống và
làm ăn. Tái định cư bắt buộc đó là sự di chuyển không thể tránh khỏi khi Nhà nước thu
hồi hoặc trưng thu đất đai để thực hiện các dự án phát triển.
Tái định cư (TĐC) được hiểu là một quá trình từ bồi thường thiệt hại về đất,
tài sản; di chuyển đến nơi ở mới và các hoạt động hỗ trợ để xây dựng lại cuộc sống,
thu nhập, cơ sở vật chất tinh thần tại đó.
1.1.1.5. Một số khái niệm liên quan khác.
- Nhà nước giao đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng quyết định
hành chính cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất.
- Nhà nước cho thuê đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng hợp
đồng cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất.
- Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn định
là việc Nhà nước cấp giấy chừng nhận quyền sử dụng đất lần đầu cho người đó.
- Giá quyền sử dụng đất (giá đất) là so tiền tính trên một đơn vị diện tích đất
do Nhà nước quy định hoặc được hình thành trong giao dịch về quyền sử dụng đất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
- Giá trị quyền sử dụng đất là giá trị bằng tiền của quyền sử dụng đất đối với
một diện tích đất xác định trong thời hạn sử dụng đất xác định
- Tiền sử dụng đất là số tiền mà người sử dụng đất phải trả trong trường hợp
được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất đối với một diện tích đất xác định.
1.1.2. Đặc điểm của công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng.
Giải phóng mặt bằng là quá trình đa dạng và phức tạp. Nó thể hiện khác nhau
đối với mỗi một dự án, nó liên quan trực tiếp đến lợi ích của các bên tham gia và lợi
ích của toàn xã hội.
- Tính đa dạng thể hiện: Mỗi dự án được tiến hành trên một vùng đất khác
nhau với điều kiện tự nhiên kinh tế, xã hội và trình độ dân trí nhất định. Đối với khu
vực nội thành, khu vực ven đô, khu vực ngoại thành, mật độ dân cư khác nhau,
ngành nghề đa dạng và đều hoạt động sản xuất theo một đặc trưng riêng của vùng
đó. Do đó, giải phóng mặt bằng cũng được tiến hành với những đặc điểm riêng biệt.
- Tính phức tạp thể hiện: Đất đai là tài sản có giá trị đặc biệt, có vai trò quan
trọng trong đời sống kinh tế - xã hội đối với mọi người dân. Ở khu vực nông thôn,
dân cư chủ yếu sống nhờ vào hoạt động sản xuất nông nghiệp mà đất đai lại là tư liệu
sản xuất quan trọng trong khi trình độ sản xuất của nông dân thấp, khả năng chuyển
đổi nghề nghiệp khó khăn do đó tâm lý dân cư vùng này là giữ được đất để sản xuất,
thậm chí họ cho thuê đất còn được lợi nhuận cao hơn là sản xuất nhưng họ vẫn không
cho thuê. Trước tình hình đó đã dẫn đến công tác tuyên truyền, vận động dân cư tham
gia di chuyển là rất khó khăn và việc hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp là điều cần thiết
để đảm bảo đời sống dân cư sau này [11].
1.1.3. Những yếu tố tác động đến công tác bồi thường GPMB
1.1.3.1. Yếu tố cơ bản trong quản lý nhà nước về đất đai
a. Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai
và tổ chức thực hiện các văn bản đó
Đất đai là đối tượng quản lý phức tạp, luôn biến động theo sự phát triển của
nền kinh tế - xã hội. Để thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước về đất đai đòi hỏi
các văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực này phải mang tính ổn định cao và phù
hợp với tình hình thực tế.
Ở nước ta, do các đặc điểm lịch sử, kinh tế - xã hội của đất nước trong mấy
thập kỷ qua có nhiều biến động lớn, nên các chính sách về đất đai cũng theo đó
không ngừng được sửa đổi, bổ sung. Từ năm 1993 đến năm 2003, Nhà nước đã ban
hành hơn 200 văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất. Sau khi quốc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
hội thông qua Luật đất đai 2003 cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành đã nhanh
chóng đi vào cuộc sống. Với một hệ thống quy phạm khá hoàn chỉnh, chi tiết, cụ
thể, rõ ràng, đề cập mọi quan hệ đất đai phù hợp với thực tế. Các văn bản quy phạm
pháp luật về đất đai của Nhà nước đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong việc tổ
chức thực hiện các nội dung quản lý Nhà nước về đất đai, giải quyết tốt mối quan hệ
đất đai ở khu vực nông thôn, bước đầu đã đáp ứng được quan hệ đất đai mới hình
thành trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa; hệ thống pháp luật đất đai luôn
đổi mới, ngày càng phù hợp hơn với yêu cầu phát triển kinh tế, bảo đảm quốc
phòng, an ninh và ổn định xã hội.[12]
b. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Thông qua việc lập, xét duyệt và điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất để tổ chức
việc bồi thường GPMB thực sự trở thành sự nghiệp của cộng đồng mà Nhà nước
đóng vai trò là người tổ chức. Bất kỳ một phương án bồi thường GPMB nào đều
dựa trên một quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất nhằm đạt được các yêu cầu như là
phương án có hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
có tác động tới chính sách bồi thường đất đai trên hai khía cạnh:
- Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một trong những căn cứ quan trọng nhất
để thực hiện việc giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, mà theo quy
định của Luật đất đai, việc giao đất, cho thuê đất chỉ được thực hiện khi có quyết
định thu hồi đất đó của người đang sử dụng;
- Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một trong những nhân tố ảnh hưởng tới
giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất; từ đó tác động tới giá đất tính bồi thường.
Tuy nhiên chất lượng quy hoạch nói chung và quy hoạch nói riêng còn thấp,
thiếu đồng bộ, chưa hợp lý, tính khả thi thấp, đặc biệt là thiếu tính bền vững.
Phương án quy hoạch chưa dự báo sát tình hình, quy hoạch còn mang nặng tính chủ
quan duy ý chí, áp đặt, nhiều trường hợp quy hoạch theo phong trào. Đây chính là
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng quy hoạch “treo”, dự án “treo”. [5]
c. Yếu tố giao đất, cho thuê đất
Nhiệm vụ giao đất, cho thuê đất có tác động rất lớn đến công tác bồi thường
GPMB và TĐC. Nguyên tắc giao đất, cho thuê đất, phải căn cứ vào quy hoạch, kế
hoạch là điều kiện bắt buộc, nhưng nhiều địa phương chưa thực hiện tốt nguyên tắc
này; hạn mức đất được giao và nghĩa vụ đóng thuế đất quy định không rõ ràng, tình
trạng quản lý đất đai thiếu chặt chẽ dẫn đến khó khăn cho công tác đền bù. Theo
báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường tính từ ngày 01 tháng 7 năm 2004 đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
ngày 28/2/2007 thì tổng diện tích đã giao, đã cho thuê là 1.081.011 ha, trong đó
diện tích đất đã giao là 925.631 ha (giao đất có thu tiền sử dụng đất là 581.620 ha,
giao đất không thu tiền là 344.011 ha); diện tích đất đã cho thuê là 155.380 ha
(trong đó diện tích đất cho các nhà đầu tư nước ngoài thuê là 1.386 ha). [5]
d. Yếu tố lập và quản lý hồ sơ địa chính
Lập và quản lý chặt chẽ hệ thống hồ sơ địa chính (HSĐC) có vai trò quan
trọng hàng đầu để “quản lý chặt chẽ đất đai trong thị trường bất động sản”, là cơ sở
xác định tính pháp lý của đất đai. Trước tháng 12 năm 2004, rất nhiều địa phương
chưa lập đầy đủ HSĐC theo quy định; đặc biệt có nhiều xã, phường, thị trấn chưa
lập sổ địa chính (khoảng trên 30% số xã đã cấp GCN) để phục vụ yêu cầu quản lý
việc sử dụng đất đai, một số địa phương chưa lập đủ sổ mục kê đất đai, sổ cấp GCN
như Thành phố Hà Nội, các tỉnh Hà Tây, Hoà Bình, Vĩnh Phúc, Kiên Giang, Trà
Vinh [5]
Từ năm 2004 đến nay, việc lập HSĐC phải được thực hiện theo quy định tại
Thông tư 29/2004/TT-BTNMT của Bộ tài nguyên và Môi trường, nhưng còn nhiều địa
phương chưa triển khai thực hiện, nếu có thực hiện cũng là chưa đầy đủ, chưa đồng bộ
ở cả 3 cấp. Vì các tài liệu đo đạc bản đồ này có độ chính xác thấp nên đang làm nảy
sinh nhiều vấn đề phức tạp trong quản lý đất đai như không đủ cơ sở giải quyết tranh
chấp đất đai, khó khăn trong giải quyết bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Vì vậy,
việc đo vẽ lại bản đồ địa chính chính quy để thay thế cho các loại bản đồ cũ và lập lại
HSĐC là rất cần thiết.
e. Công tác đăng ký đất đai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Đăng ký đất đai (Land Registration) là một thành phần cơ bản quan trọng
nhất của hệ thống quản lý đất đai, đó là quá trình xác lập hồ sơ về quyền sở hữu
đất đai, bất động sản, sự đảm bảo và những thông tin về quyền sở hữu đất. [7]
Theo quy định của các nước, đất đai là một trong các tài sản phải đăng ký
quyền sở hữu, quyền sử dụng. Ở nước ta, theo quy định của Luật đất đai, người sử
dụng đất phải đăng ký quyền sử dụng đất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền (cụ
thể là Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất) và được cấp GCNQSD đất. Chức
năng của đăng ký đất đai là cung cấp những căn cứ chuẩn xác và an toàn cho việc
thu hồi, chấp thuận và từ chối các quyền về đất.
f. Yếu tố thanh tra chấp hành các chế độ, thể lệ về quản lý và sử dụng đất đai
Công tác bồi thường GPMB là một việc làm phức tạp, gắn nhiều đến quyền lợi
về tài chính nên rất dễ có những hành vi vi phạm pháp luật nhằm thu lợi bất chính,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
chính quyền địa phương cấp trên. Hồi đồng thẩm định phải có kế hoạch thanh tra,
kiểm tra và coi đây là nhiệm vụ thường xuyên trong quá trình triển khai thực hiện
công tác bồi thường GPMB, kịp thời phát hiện các sai phạm, vi phạm pháp luật để
xử lý tạo niềm tin trong nhân dân. [11]
1.1.3.2. Yếu tố giá đất và định giá đất
- Trước khi có Luật đất đai năm 2003: Những vấn đề liên quan đến việc xác
định giá đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư đều được quy định tại các
văn bản dưới luật như Nghị định số 87/CP ngày 17 tháng 8 năm 1994 của Chính
phủ quy định khung giá các loại đất; Nghị định số 90/CP ngày 17 tháng 9 năm 1994
của Chính phủ quy định về việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử
dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và Nghị
định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 1998 của Chính phủ Hội đồng hành
quy định về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích
quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng Giá đất để tính bồi
thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương quyết định trên cơ sở khung giá đất do Chính phủ Hội đồng hành kèm
theo Nghị định số 87/CP. [2]
Từ khi có Luật đất đai 2003: Quy định giá đất được hình thành trong các
trường hợp sau đây (Điều 55): Do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
quy định giá theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 56 của Luật này; Do đấu
giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu dự án có sử dụng đất; Do người sử dụng đất
thỏa thuận về giá đất với những người có liên quan khi thực hiện các quyền chuyển
nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
Theo quy định của Luật đất đai năm 2003, nguyên tắc định giá đất là phải
sát với giá thị trường trong điều kiện bình thường. Tuy nhiên, tình hình phổ
biến hiện nay là giá đất do các địa phương quy định và công bố đều không theo
đúng nguyên tắc đó, dẫn tới nhiều trường hợp ách tắc về bồi thường đất đai và
phát sinh khiếu kiện.
1.1.4. Về tái định cư
Tái định cư nhằm giảm nhẹ các tác động xấu về kinh tế - văn hoá - xã hội đối
với một bộ phận dân cư phải di chuyển nơi ở vì sự phát triển chung. Vì vậy, các dự
án TĐC cũng được coi là dự án phát triển và phải được thực hiện như các dự án
phát triển khác.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
1.1.4.1. Vấn đề ổn định nơi ở
- Một số khu TĐC không đảm bảo điều kiện cơ sở hạ tầng tối thiểu như: hệ
thống điện, nước, đường giao thông, trường hoặc trạm xá, từ đó ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống của những người TĐC.
- Bố trí TĐC chưa quan tâm tới các yếu tố cộng đồng dân cư, tập quán sinh
hoạt, sản xuất. Ví dụ người sản xuất nông nghiệp bị chuyển đến khu TĐC cao tầng
không có tư liệu sản xuất trong khi việc hỗ trợ đào tạo nghề, giải quyết việc làm
chưa có chế tài chặt chẽ.
- Ổn định đời sống và phong tục tập quán của người dân: phải xây dựng khu
TĐC với điều kiện sống cao hơn so với trước khi di dời. Mặt khác, phải quan tâm
đến phong tục, tập quán trong nhóm người, quan hệ họ hàng, cộng đồng. Đối với
khu TĐC cần xây dựng các quy định về lối sống, an ninh trật tự, tạo sự yên tâm cho
người mới chuyển đến.
Những tồn tại trên đây khó tránh khỏi trong quá trình CNH - HĐH phát triển
đất nước, một khi các chính sách của Nhà nước chưa đồng bộ, nhận thức của các
cấp, các ngành về TĐC chưa đầy đủ.
1.1.4.2. Vấn đề chuyển đổi nghề nghiệp
Đa số các hộ bị thu hồi đất sống bằng nghề buôn bán nhỏ và sản xuất nông
nghiệp, không có khả năng nghề nghiệp nhất định do đó thu nhập không ổn định.
Việc chuyển đổi nghề nghiệp cho những người bị thu hồi đất gặp rất nhiều khó
khăn. Trong những năm trước đây, việc hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp không được
các chủ dự án quan tâm đã gây bất lợi cho đời sống của những người dân bị thu hồi
đất mà kế sinh nhai của họ là gắn liền với đất, nhiều dự án thực hiện công tác hỗ trợ
việc làm thông qua viện trợ bằng cách là cấp một khoản tiền nhất định. Khoản tiền
này sẽ phát huy tác dụng khác nhau: với người năng động hoặc có khả năng thì nó
được đầu tư sinh lợi, ngược lại với một số người khác thì khoản tiền đó được tiêu
dùng cho sinh hoạt cá nhân trong một khoảng thời gian nhất định, sau đó dẫn đến hết
tiền, thất nghiệp, ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình và đã có những người mắc các tệ
nạn xã hội. Vì vậy, tạo công ăn việc làm để người dân bị thu hồi đất có thu nhập ổn
định là trách nhiệm của chủ dự án cũng như của cả người dân được hỗ trợ việc làm
trong thời kỳ phát triển, tạo điều kiện ổn định cuộc sống gia đình, ổn định xã hội, thúc
đẩy nền kinh tế phát triển.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
1.2. Cơ sở pháp lý của công tác bồi thƣờng giải phóng mặt bằng
1.2.1. Các văn bản pháp quy của nhà nước có liên quan đến công tác bồi thường
GPMB
Trong bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống, kinh tế, văn hóa văn bản chứng thư
quan trọng nhất vẫn là Luật, các Nghị định của Chính phủ và công tác giải phóng
mặt bằng cũng không nằm ngoài phạm vi này. Công tác giải phóng mặt bằng trên
địa bàn tỉnh Thái Nguyên nói chung và huyện Đồng Hỷ nói riêng đang thực hiện
theo tinh thần của Luật và Nghị mà Quốc hội và Chính phủ đã ban hành:
- Luật Đất đai năm 2003 ngày 26/11/2003.
- Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về việc thi
hành Luật Đất đai.
- Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về phương
pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất.
- Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Chính phủ về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
- Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định bổ
sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền
sử dụng đất, trình tự thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
và giải quyết khiếu nại về đất đai.
- Nghị định số 123/2007/NĐ-CP ngày 27/7/2007 sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về phương pháp xác định giá đất
và khung giá các loại đất.
- Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định bổ sung
về quy hoạch sử dụng đất, giá đất thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Để thực hiện theo tinh thần của Luật và Nghị định trong thực tế là rất khó. Bởi
vì Luật, Nghị định chỉ đưa ra những chỉ dẫn cũng như những đối tượng những
trường hợp chung nhất. Do vậy khi triển khai cần phải có những văn bản hướng dẫn
chi tiết trong quá trình thực hiện và cụ thể hóa các đối tượng và phạm vi mà Luật và
Nghị định đề cập đến.
- Thông tư số 114/2004/TT-BTC ngày 26/11/2004 hướng dẫn thực hiện Nghị
định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về phương pháp xác định
giá đất và khung giá các loại đất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
- Thông tư số 116/TT-BTC ngày 7/12/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực
hiện Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Chính phủ về bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
- Thông tư số 06/2007/TT-TNMT ngày 15/6/2007 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày
25/5/2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự thủ tục bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai.
- Thông tư số 14/2007/TT-TNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường quy định chi tiết về bồi thường. hỗ trợ, tái định cư và trình tự thủ tục thu hồi
đất, giao đất, cho thuê đất.
- Nghị định số 84/2010/NĐ-CP ngày 25/5/2010 của Chính phủ về Quy định bộ
sung về việc cấp giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất, trình tự thủ tục bồi thường,
hỗ trợ; tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai.
- Thông tư số 06/2010/TT-BTNMT ngày 15/6/2010 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường về hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 84/2010/NĐ-CP
ngày 25/5/2010 của Chính phủ về Quy định bộ sung về việc cấp giấy Chứng nhận
quyền sử dụng đất, trình tự thủ tục bồi thường, hỗ trợ; tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai.
1.2.2. Các văn bản pháp quy của địa phương có liên quan đến công tác bồi
thường GPMB
Để Luật đi vào cuộc sống và phù hợp với tình hình đời sống kinh tế, chính
trị văn hóa - xã hội của từng địa phương thì quyết định của UBND tỉnh là những
văn bản quan trọng nhất sát với thực tế địa phương. Đây là những văn bản có
tính pháp lý để giải quyết công việc nhất là trong công tác giải phóng mặt bằng.
Dưới đây là một số văn bản liên quan đến công tác GPMB mà UBND tỉnh Thái
Nguyên đã ban hành:
- Quyết định số 2044/2005/QĐ-UBND ngày 30 tháng 09 năm 2005 của
UBND tỉnh Thái Nguyên về việc ban hành quy định thực hiện bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày
03/12/2004 của Chính Phủ;
- Quyết định số 18/2008/QĐ-UBND ngày 11/4/2008 của UBND tỉnh Thái
Nguyên về việc ban hành đơn giá bồi thường cây cối, hoa màu gắn liền với đất khi
Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Tỉnh Thái Nguyên;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
- Quyết định số 23/2008/QĐ-UBND ngày 22/4/2008 của UBND tỉnh Thái
Nguyên về việc ban hành đơn giá bồi thường nhà và các công trình kiến trúc gắn
liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Tỉnh Thái Nguyên;
- Quyết định số 37/2010/QĐ-UBND ngày 29/12/2009 của UBND tỉnh Thái
Nguyên về việc phê duyệt giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên năm 2010;
- Quyết định số 01/2010/QĐ-UBND ngày 05/01/2010 của UBND tỉnh Thái
Nguyên về việc ban hành quy định thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Tỉnh Thái Nguyên theo Nghị định 69/2009/NĐ-
CP ngày 13/8/2009 của Chính Phủ;
- Quyết định số 06/2010/QĐ-UBND ngày 23/02/2010 của UBND tỉnh Thái
Nguyên về việc sửa đổi, bổ sung một số nội dung quy định kèm theo Quyết định số
01/2010/QĐ-UBND ngày 05/01/2010 của UBND tỉnh Thái Nguyên về việc ban
hành quy định thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
trên địa bàn Tỉnh Thái Nguyên;
- Quyết định số 716/QĐ-UBND ngày 05 tháng 4 năm 2010 của UBND tỉnh
Thái Nguyên về việc phê duyệt giá đất ở trung bình để tính hỗ trợ đối với đất nông
nghiệp trong khu dân cư trên địa bàn Tỉnh Thái Nguyên;
- Quyết định số 77/QĐ-UBND ngày 11 tháng 01 năm 2011 của UBND tỉnh
Thái Nguyên về việc phê duyệt giá đất ở trung bình để tính hỗ trợ đối với đất nông
nghiệp trong khu dân cư trên địa bàn Tỉnh Thái Nguyên.
1.3. Cơ sở thực tiễn
1.3.1. Tình hình thực hiện chính sách bồi thường, GPMB, hỗ trợ và Tái định cư
ở Việt Nam
Theo Nghị định 151/TTg ngày 14/4/1959 của Thủ tướng Chính phủ quy định
tạm thời về trưng dụng ruộng đất, là văn bản pháp quy đầu tiên liên quan đến việc
bồi thường và tái định cư bắt buộc ở Việt Nam:
Nghị định này quy định những nguyên tắc cơ bản trong việc trưng dụng ruộng
đất của nhân dân trong việc xây dựng các công trình do Nhà nước quản lý đó là:
“Đảm bảo kịp thời và đủ tiện ích cần thiết cho xây dựng công trình, đồng thời chiếu
cố đúng mức quyền lợi và đời sống của người có ruộng đất. Những người có ruộng
đất được trưng dụng được bồi thường và trong những trường hợp cần thiết được
giúp giải quyết công ăn việc làm, hết sức tiết kiệm ruộng đất cày cấy, trồng trọt, tận
dụng đất hoang để không phải trưng dụng hoặc chỉ trưng dụng ít ruộng đất của nhân
dân. Hết sức tránh những nơi dân cư đông đúc, nghĩa trang liệt sĩ, nhà thờ, đền
chùa, trường hợp đặc biệt phải bàn kỹ với nhân dân địa phương”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Về mức và cách tính bồi thường, Nghị định 151/TTg có quy định: Đối với
ruộng đất nếu không thể đổi bằng đất thì sẽ bồi thường bằng một số tiền bằng từ 1
đến 4 năm sản lượng thường niên của đất bị trưng dụng; Đối với nhà cửa và kiến
trúc thì được giúp đỡ xây dựng cái khác; Đối với hoa màu đã trồng mà chưa thu
hoạch phải bồi thường thiệt hại đúng mức; Đối với mồ mả căn cứ vào tình hình cụ
thể, phong tục tập quán của địa phương mà giúp cho họ số tiền thích đáng làm phí
tổn di chuyển.
Có thể nói, những nguyên tắc cơ bản của việc bồi thường thiệt hại trong Nghị
định 151/TTg là rất đúng đắn, đáp ứng nhu cầu trưng dụng đất đai trong những năm
1960. Tuy nhiên, Nghị định chưa quy định cụ thể mức bồi thường thiệt hại mà chỉ
quan tâm đến sự thoả thuận của các bên.
Luật Đất đai năm 1988: Không nêu cụ thể việc bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất mà chỉ nêu tại phần nghĩa vụ của người sử dụng đất (Điều 48): “Bồi thường
thiệt hại cho người sử dụng đất để giao cho mình, bồi hoàn thành quả lao động và
kết quả đầu tư đã làm tăng giá trị của đất đó theo quy định của pháp luật”. [22]
Luật đất đai năm 1993: Đã thể chế hoá các quy định của Hiến pháp năm 1992
về đất đai thông qua việc giao đất, cho thuê đất, chế độ quản lý, sử dụng các loại
đất, quản lý việc sử dụng đất đúng mục đích, xác định thời hạn giao đất, cho thuê
đất, thẩm quyền thu hồi và giao, cho thuê đất; hạn mức sử dụng các loại đất và quy
định các quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân sử dụng đất.
Thông qua Luật Đất đai năm 1993 người sử dụng đất đã được làm chủ về ruộng
đất, có các quyền và nghĩa vụ được xác lập cụ thể, đất đai được vận động theo cơ chế
thị trường, việc sử dụng đất đai ngày càng có hiệu quả hơn trở thành động lực to lớn
phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát triển đô thị và thu hút đầu tư trực tiếp từ nước
ngoài, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Luật Đất đai năm 1993 thực sự
là văn bản quan trọng đối với quyền sử dụng đất, chuyển quyền sử dụng và bồi thường
đất đai, tài sản gắn kiền với đất. [21]
Nghị định 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ: Quy định cụ thể các
chính sách và phân biệt chủ thể sử dụng đất, cơ sở pháp lý để xem xét tính hợp pháp
của thửa đất để lập kế hoạch bồi thường giải phóng mặt bằng theo quy định khi Nhà
nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi
ích công cộng. Nghị định này là văn bản pháp lý mang tính toàn diện cao và cụ thể
hoá việc thực hiện chính sách bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, việc bồi
thường bằng đất cùng mục đích sử dụng, cùng hạng đất. Tuy nhiên, trong quá trình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
tiển khai thực tế cho thấy, sau khi Nhà nước thu hồi đất và thực hiện giải phóng mặt
bằng, người bị ảnh hưởng gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là những người bị thu hồi hết
đất sản xuất, phải chuyển sang ngành nghề khác. Theo Nghị định 22/1998/NĐ-CP giá
đất do Nhà nước quy định để bồi thường thiệt hại về đất khác xa với giá thực tế. Với
giá trị được bồi thường người có đất bị thu hồi không có khả năng tự lập nơi ở mới
cũng như không có khả năng đầu tư để chuyển sang ngành nghề khác, để duy trì cuộc
sống tối thiểu. [10]
Nghị định 197/2004/NĐ-CP: Bồi thường tài sản, tài sản trên đất hợp pháp
và có khả năng hợp pháp hoá được bồi thường 100% giá trị tài sản, còn tài sản
trên đất sử dụng bất hợp pháp sẽ được trợ cấp 70-80% mức bồi thường hoặc
không được trợ cấp, không được bồi thường theo mức độ bất hợp pháp của quyền
sử dụng đất và tài sản.
Về chính sách hỗ trợ, Nghị định 197/2004/NĐ-CP đã đưa ra chính sách hỗ trợ
ổn định sản xuất và đời sống xã hội đối với những người phải di chuyển chỗ ở trong
thời gian 6 tháng, đối với các nhân khẩu trong hộ, với mức tương đương 30kg
gạo/tháng. Đối với những người phải di chuyển đến khu TĐC của tỉnh khác thì
được trợ cấp một năm và hưởng chính sách đi vùng kinh tế mới (mục 1 Điều 28).
Nghị định còn quy định việc hỗ trợ theo chế độ trợ cấp ngừng việc cho cán bộ,
công nhân viên của doanh nghiệp phải di chuyển địa điểm mới trong thời gian
ngừng sản xuất, phải kinh doanh (mục 2 Điều 28); hỗ trợ chi phí đào tạo cho những
lao động nông nghiệp phải chuyển sang nghề khác và ưu tiên tuyển dụng lao động
cho các đối tượng có đất bị thu hồi (khoản 2 Điều 29). [12]
Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ:
Các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm: Hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ
tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở; Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất, hỗ
trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tạo việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông
nghiệp; Hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp trong khu dân cư; đất vườn, ao không
được công nhận là đất ở; Hỗ trợ khác
Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi được bồi
thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng; nếu không có đất để bồi thường thì được
bồi thường bằng tiền tính theo giá đất cùng mục đích sử dụng. Xác định giá đất sát với
giá thị trường tại thời điểm quyết định thu hồi đất.
Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được bồi thường
bằng đất được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm theo 1 trong các hình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
thức: Hỗ trợ bằng tiền từ 1,5 – 5 lần giá đất nông nghiệp đối với toàn bộ diện tích
đất nông nghiệp bị thu hồi; Hỗ trợ bằng 1 suất đất ở hoặc 1 căn hộ chung cư hoặc 1
suất đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp.
Trường hợp người được hỗ trợ có nhu cầu được đào tạo, học nghề thì được
nhận vào các cơ sở đào tạo nghề và được miễn học phí đào tạo cho 1 khóa học đối
với các đối tượng trong độ tuổi lao động. Trong quá trình lập phương án đào tạo,
chuyển đổi nghề phải lấy ý kiến của người bị thu hồi đất thuộc đối tượng chuyển
đổi nghề.
Về chính sách tái định cư Nghị định quy định về thẩm quyền lập khu tái định
cư và điều kiện bắt buộc phải có khu tái định cư, về nguyên tắc bố trí đất ở cho các
hộ gia đình tại khu tái định cư và về nguồn vốn đầu tư xây dựng khu tái định cư.
Như vậy, vấn đề bồi thường GPMB ở Việt Nam đã được đặt ra từ rất sớm,
Nghị định 151/TTg ngày 14/4/1959 đã Hội đồng hành quy định thể lệ tạm thời về
trưng dụng đất; Thông tư 1972/TTg ngày 11/01/1970 của Chính Phủ quy định một
số điểm tạm thời về bồi thường nhà cửa, đất đai, cây cối lâu niên, các hoa màu cho
nhân dân ở những vùng xây dựng kinh tế mới. Sau khi Luật đất đai ra đời và bước
vào thời kỳ đổi mới thì bồi thường GPMB đã được chú trọng xử lý đồng bộ phù hợp
với giai đoạn mới. Quyết định số 186/HĐBT ngày 31/5/1990 về đền bù thiệt hại đất
nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang sử dụng mục đích khác cùng với hàng
loạt các văn bản pháp quy mới về những vấn đề có liên quan như giá đất, quy hoạch
đã hình thành một hệ thống chính sách và tổ chức cho công tác bồi thường GPMB
và cho đến nay sau nhiều lần bổ sung chúng ta hiện đang áp dụng Nghị định
197/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 về bồi thường hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất.
Nghiên cứu kỹ nội dung các văn bản pháp quy trên đây thấy rõ một điều là các
chính sách bồi thường GPMB là xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và được điều chỉnh
tích cực để phù hợp với các biến động của tình hình quản lý sử dụng đất đai. Trên
thực tế đã có tác dụng tích cực trong việc đảm bảo sự cân đối và ổn định trong phát
triển, khuyến khích được đầu tư và cơ bản giữ được nguyên tắc công bằng. Tuy vậy,
nếu so với những yêu cầu mới thì vẫn còn một số vấn đề bất cập đó là:
- Việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất vẫn mang phong cách
(huy động thời chiến) phải đặt lợi ích xã hội, lợi ích công cộng lên trên hết, sẵn sàng
hy sinh lợi ích cá nhân lên việc bồi thường là tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, chưa
có tiêu chuẩn định mức rõ ràng và người bị ảnh hưởng sẵn sàng chịu đựng, còn Nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
quản lý cũng xem là đương nhiên và đơn giản, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung thì việc xử lý có điều kiện dễ dàng thực hiện hơn ngày nay trong nền kinh tế
thị trường yêu cầu rất cụ thể về công bằng xã hội, lợi ích chính đáng của cá nhân
được tôn trọng và khuyến khích phát huy đồng thời với lợi ích xã hội và lợi ích
cộng đồng, con người cụ thể vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển. Nên
những quy định đã có là chưa đầy đủ, xét về mặt xã hội là chưa đảm bảo được sự
cân bằng giữa lợi ích chung (Nhà nước, xã hội, cộng đồng) và lợi ích riêng (cá
nhân, hộ gia đình, tổ chức bị ảnh hưởng) trong nhiều trường hợp mục tiêu GPMB
nhanh gọn, ít tốn kém được quan tâm nhiều hơn so với mục tiêu bồi thường sao cho
người chịu ảnh hưởng khôi phục mức sống Hội đồng đầu. Nghị định 197/2004/NĐ-
CP ngày 3/12/2004 của Chính Phủ đã có những quy định cụ thể để khắc phục nhược
điểm này.
- Trong giai đoạn hiện nay thì các chính sách của Nhà nước cần phải được
thực hiện đồng bộ và minh bạch trong việc đảm bảo quyền và nghĩa vụ của nhà đầu
tư cũng như người chịu ảnh hưởng được thực hiện một cách thông suốt vì lợi ích
phát triển chung. Do chưa hoàn toàn thoát khỏi cơ chế bao cấp nên kinh phí dùng để
bồi thường GPMB đều lấy từ nguồn ngân sách Nhà nước trong khi lợi ích do phát
triển chưa trở thành nguồn thu đầy đủ ổn định và hợp pháp của nhà đầu tư. Thông
thường các công trình hạ tầng kỹ thuật xã hội được xây dựng mới đều làm cho giá đất
các vùng lân cận tặng lên, sau khi công trình hoàn thành người đang sử dụng đất đó
đương nhiên được hưởng mà không phải làm bất kỳ nghĩa vụ nào. Chính điều này,
không chỉ hạn chế năng lực giải quyết nhiệm vụ GPMB mà còn làm phát sinh quan
hệ bất bình đẳng kinh tế trong xã hội.
1.3.2. Chính sách bồi thường, hỗ trợ và giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu
hồi đất - kinh nghiệm Quốc tế và một số nước trên thế giới
Đối với các nước trên thế giới đất đai thuộc sở hữu tư nhân, thị trường đất đai
phát triển theo quy luật của thị trường hàng hoá và được mua bán tự do. Ở phương
tây giá đất biến động theo lô đất, còn ở những nước tư bản phát triển chế độ sở hữu
tư nhân về đất đai được xác lập ổn định, quá trình tích luỹ về đất đai lên tới đỉnh
cao, thị trường về đất đai mang tính độc quyền và các quốc gia thường áp dụng Luật
thuế đối với việc mua bán đất đai, không áp đặt giới hạn hành chính đối với thị
trường đất đai. Các nước có nền kinh tế thị trường phát triển đất đai được mua bán
tự do và cho thuê một cách rộng rãi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên