Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Đánh giá việc thực hiện quy hoạch việc sử dụng đất giai đoạn 2006 đến 2010 huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 82 trang )


1



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




TÔ XUÂN MẠNH




ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN QUY HOẠCH
SỬ DỤNG ĐẤT GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN





LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP







Thái Nguyên - 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




TÔ XUÂN MẠNH



ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN QUY HOẠCH
SỬ DỤNG ĐẤT GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
HUYỆN PHÚ BÌNH
TỈNH THÁI NGUYÊN


Chuyên ngành : Quản lý đất đai
Mã số : 60 85 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Viết Khanh




Thái Nguyên - 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là
thành phần quan trọng nhất của môi trường sống, là địa bàn phân bố dân cư, xây
dựng các công trình văn hoá, xã hội kinh tế, an ninh quốc phòng. Đất đai có những
tính chất đặc trưng khiến nó không giống bất cứ tư liệu sản xuất nào.
Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế của chúng ta đang đi theo hướng phát
triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước. Vì thế, phải có sự đối chiếu sử dụng hợp lý giữa các kiểu sử dụng
đất và loại hình sử dụng đất để sử dụng đất phải vừa hợp lý, tiết kiệm, khoa học vừa
phải đạt hiệu quả cao. Để đáp ứng mục tiêu đó, chúng ta phải quy hoạch sử dụng đất
hợp lý và tổ chức thực hiện quy hoạch đó một cách hiệu quả.
Quy hoạch sử dụng đất là sự bố trí, phân bổ các loại đất sao cho sử dụng phù
hợp với yêu cầu của cuộc sống con người, nâng cao hiệu quả sử dụng đất và luôn
chú ý tới việc bảo vệ và bồi dưỡng quỹ đất. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ trước mắt mà cả lâu dài, tạo cơ sở pháp lý để
bố trí sử dụng đất đai hợp lý, có hiệu quả, đảm bảo cảnh quan môi trường, đồng thời
đáp ứng được yêu cầu thống nhất quản lý Nhà nước về đất đai. Đặc biệt trong giai
đoạn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc lập quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất là yêu cầu ngày càng cấp thiết đối với mọi cấp, địa bàn lãnh thổ.
Tuy nhiên trên thực tế, việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất lại đang gặp nhiều khó
khăn, trở ngại dẫn đến quy hoạch không thực hiện được theo kế hoạch, không đạt
được mục đích đề ra.
Phú Bình là huyện trung du của tỉnh Thái Nguyên, nằm ở phía nam của tỉnh,

toàn huyện có 21 đơn vị hành chính cấp xã. Diện tích tự nhiên toàn huyện theo số
liệu kiểm kê đất đai năm 2010 là 25.171,49 ha.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất huyện Phú Bình giai đoạn 2006 - 2010 đã
được UBND tỉnh Thái Nguyên phê duyệt tại Quyết định số 490/QĐ-UBND ngày 14
tháng 3 năm 2008 [24]. Kết quả thực hiện quy hoạch sử dụng đất những năm qua
đã góp phần tích cực vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của huyện, đặc biệt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
trong đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, khai thác một cách có hiệu quả tiềm năng đất
đai. Đồng thời làm cơ sở cho việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đối
với cấp xã.
Trong những năm gần đây tình hình kinh tế - xã hội của huyện đang có nhiều
chuyển biến mạnh mẽ, dẫn đến nhu cầu sử dụng đất cho các ngành, các lĩnh vực
kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh tăng nhanh. Trong khi đó nguồn tài nguyên đất
đai chỉ có hạn lại chưa khai thác triệt để. Căn cứ theo quy định của Luật đất đai và
xuất phát từ tầm quan trọng và tính cấp thiết trong việc lập quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất, Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã có Quyết định số 3466/QĐ-UBND
ngày 28 tháng 12 năm 2009 về việc phê duyệt kế hoạch lập quy hoạch sử dụng đất
đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất kỳ đầu 5 năm 2011-2015 các cấp tỉnh Thái
Nguyên. Đây là hành lang pháp lý cho việc quản lý đất đai, cụ thể hóa các chỉ tiêu
quy hoạch sử dụng đất đai của huyện, làm cơ sở cho việc giao đất, cho thuê đất, thu
hồi đất; tạo điều kiện thuận lợi để hình thành các trương trình phát triển, thúc đẩy
các dự án đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời điều hòa mối quan hệ sử
dụng đất giữa các đối tượng, giữ vững an ninh chính trị và cải tạo, bảo vệ cảnh quan
môi trường sinh thái.
Để giúp các nhà quản lý đánh giá các chỉ tiêu, nhìn nhận, phân tích, đánh giá
các kết quả đạt được và những tồn tại, bất cập, chưa phù hợp trong quá trình quản
lý, thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 một cách chính xác,
từ đó đề xuất các giải pháp thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả cho công tác lập và

thực hiện quy hoạch sử dụng đất cho các giai đoạn tiếp theo.
Trên cơ sở thực tiễn đó của địa phương, tôi thực hiện đề tài nghiên cứu:
“Đánh giá việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2006 - 2010 huyện
Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên”.
2. Mục tiêu, ý nghĩa, yêu cầu của đề tài
2.1. Mục tiêu
- Đánh giá kết quả thực hiện các chỉ tiêu trong phương án quy hoạch sử dụng
đất, kế hoạch sử dụng đất.
- Tìm ra những vấn đề còn tồn tại trong công tác thực hiện quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất của huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2006 - 2010 và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
đề xuất giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả của quy hoạch cho giai đoạn 2011 -
2020, kế hoạch sử dụng đất kỳ đầu 2011 - 2015.
2.2. Ý nghĩa
Ý nghĩa khoa học
- Sử dụng kiến thức đã học áp dụng vào thực tế nâng cao tính thực tiễn, chiều
sâu của kiến thức ngành học cho bản thân.
- Nghiên cứu vấn đề còn tồn tại trong thực tiễn để tìm ra cái mới cho lý
thuyết từ đó quay trở lại áp dụng cho thực tiễn.
- Bổ sung tri thức mới cho việc quy hoạch sử dụng tài nguyên môi trường có
hiệu quả.
Ý nghĩa thực tiễn
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, xác lập các giải pháp có tính thiết thực trước tiên là
cho địa phương tiến hành nghiên cứu huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.
- Đóng góp cơ sở khoa học cho các cơ quan ban ngành, UBND tỉnh Thái
Nguyên nghiên cứu trong quá trình xây dựng phương án quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất trong những giai đoạn tiếp theo.
2.3. Yêu cầu

- Các số liệu về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2006 - 2010 phải
đầy đủ, chính xác.
- Phải phân tích, đánh giá được việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất và đưa ra các giải pháp cụ thể cho việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất của huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên trong thời gian tới theo hướng hiệu quả
và bền vững.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Khái niệm quy hoạch sử dụng đất
1.1.1. Đất đai và chức năng của đất đai
Đất đai có vai trò vô cùng quan trọng, là tư liệu sản xuất đặc biệt, vừa là
không gian hoạt động cho tất cả các ngành nông - lâm nghiệp, công nghiệp, khai
khoáng, giao thông vận tải, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Đất đai còn là môi
trường sống của con người cũng như mọi sinh vật, là nguồn cung cấp vật chất
không thể thiếu để duy trì sự tồn tại của con người. Vì vậy, ta có thể thấy đất đai có
các chức năng cụ thể [10]:
- Chức năng sản xuất: Đất đai là nền tảng cho hệ thống hỗ trợ sự sống, thông
qua việc sản xuất sinh khối để cung cấp lương thực, thực phẩm chăn nuôi, sợi, dầu,
gỗ và các vật liệu sinh vật sống khác cho con người sử dụng, một cách trực tiếp hay
gián tiếp.
- Chức năng về môi trường sống: Đất đai là nền tảng của sự đa dạng hóa sinh
vật trong đất thông qua việc cung cấp môi trường sống cho sinh vật và nơi dự trữ
nguồn gen cho thực vật, động vật và vi sinh vật, ở trên và bên dưới bề mặt đất.
- Chức năng điều hòa khí hậu: Đất đai và sử dụng đất đai có chức năng quan
trọng trong việc hình thành một sự cân bằng năng lượng toàn cầu giữa phản chiếu, hấp
thu hay chuyển đổi năng lượng bức xạ mặt trời và của chu kỳ thủy văn toàn cầu.

- Chức năng giữ nước: Đất đai điều hòa sự lưu thông của nguồn tài nguyên
nước mặt và nước ngầm và những ảnh hưởng của chất lượng nước,
- Chức năng lưu trữ: Đất đai là kho chứa các vật liệu và chất khoáng thô cho
việc sử dụng của con người.
- Chức năng kiểm soát chất thải và ô nhiễm: Đất đai có khả năng hấp thụ,
lọc, đệm và chuyển đổi những thành phần nguy hại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
- Chức năng không gian sống: Đất đai cung cấp nền tảng tự nhiên tạo nên
không gian hoạt động sinh sống của con người cho việc xây dựng khu dân cư, nhà
máy và các hoạt động xã hội như thể thao, nghỉ ngơi.
Ngoài ra, đất đai còn có các chức năng bảo tồn di tích lịch sử: Đất đai là nơi
chứa đựng và bảo vệ các chứng tích lịch sử văn hóa của loài người và nguồn thông
tin về các điều kiện khí hậu, thời tiết trong quá khứ và những sử dụng đất đai trong
quá khứ; chức năng nối liền không gian: Đất đai cung cấp không gian cho sự vận
chuyển của con người, đầu tư và sản xuất và cho sự di chuyển của thực vật, động
vật giữa những vùng riêng biệt của hệ sinh thái tự nhiên. Đây là các chức năng nâng
cao chất lượng cuộc sống của con người.
1.1.2. Bản chất quy hoạch sử dụng đất đai
“Đất đai” là một phần lãnh thổ nhất định (vùng đất, khoanh đất, vạt đất,
mảnh đất, miếng đất ) có vị trí, hình thể, diện tích với những tính chất tự nhiên
hoặc mới tạo thành (đặc tính thổ nhưỡng, điều kiện địa hình, địa chất, thuỷ văn, chế
độ nước, nhiệt độ, ánh sáng, thảm thực vật, các tính chất lý hoá tính ), tạo ra những
điều kiện nhất định cho việc sử dụng theo các mục đích khác nhau. Như vậy, để sử
dụng đất cần phải làm quy hoạch - đây là quá trình nghiên cứu, lao động sáng tạo
nhằm xác định ý nghĩa mục đích của từng phần lãnh thổ và đề xuất một trật tự sử
dụng đất nhất định [5].
Về mặt bản chất: Đất đai là đối tượng của các mối quan hệ sản xuất trong lĩnh
vực sử dụng đất (gọi là các mối quan hệ đất đai) và việc tổ chức sử dụng đất như “tư

liệu sản xuất đặc biệt” gắn chặt với phát triển kinh tế - xã hội [6]. Như vậy, quy hoạch
sử dụng đất sẽ là một quá trình phát triển kinh tế - xã hội thể hiện đồng thời 3 tính
chất: Kinh tế, kỹ thuật và pháp chế. Trong đó:
- Tính kinh tế: Thể hiện bằng hiệu quả sử dụng đất đai.
- Tính kỹ thuật: Bao gồm các tác nghiệp chuyên môn kỹ thuật như điều tra,
khảo sát, xây dựng bản đồ, khoanh định, xử lý số liệu
- Tính pháp chế: Xác nhận tính pháp lý về mục đích và quyền sử dụng đất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
theo quy hoạch nhằm đảm bảo sử dụng và quản lý đất đai đúng pháp luật.
Từ đó, có thể đưa ra định nghĩa: “Quy hoạch sử dụng đất là hệ thống các biện
pháp kinh tế, kỹ thuật và pháp chế của Nhà nước về tổ chức, sử dụng và quản lý đất đai
đầy đủ, hợp lý, khoa học và có hiệu quả cao nhất thông qua việc phân bổ quỹ đất đai
(khoanh định cho các mục đích và các ngành) và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản
xuất (các giải pháp sử dụng đất cụ thể), nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội,
tạo điều kiện bảo vệ đất đai và môi trường" [10].
Căn cứ vào đặc điểm điều kiện tự nhiên, phương hướng, nhiệm vụ và mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi vùng lãnh thổ, quy hoạch sử dụng đất được
tiến hành nhằm định hướng cho các cấp, các ngành trên địa bàn lập quy hoạch và kế
hoạch sử dụng đất chi tiết của mình; xác lập sự ổn định về mặt pháp lý cho công tác
quản lý Nhà nước về đất đai; làm cơ sở để tiến hành giao cấp đất và đầu tư để phát
triển sản xuất, đảm bảo an ninh lương thực, phục vụ các nhu cầu dân sinh, văn hoá -
xã hội.
Mặt khác, quy hoạch sử dụng đất còn là biện pháp hữu hiệu của Nhà nước
nhằm tổ chức lại việc sử dụng đất theo đúng mục đích, hạn chế sự chồng chéo gây
lãng phí đất đai, tránh tình trạng chuyển mục đích sử dụng đất tuỳ tiện, làm giảm sút
nghiêm trọng quỹ đất nông, lâm nghiệp (đặc biệt là diện tích trồng lúa và đất lâm
nghiệp có rừng); Ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, tranh chấp, lấn chiếm huỷ hoại
đất, phá vỡ cân bằng sinh thái, gây ô nhiễm môi trường dẫn đến những tổn thất hoặc

kìm hãm sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội và các hậu quả khó lường về những
tình hình bất ổn định chính trị, an ninh quốc phòng ở từng địa phương.
1.1.3. Những nguyên tắc của quy hoạch sử dụng đất
- Chấp hành quyền sở hữu Nhà nước về đất đai.
- Sử dụng đất tiết kiệm, bảo vệ đất và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
- Tổ chức phân bổ quỹ đất cho các ngành đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế -
xã hội.
- Quy hoạch sử dụng đất phải tạo ra những điều kiện tổ chức lãnh thổ hợp lý.
- Phải phù hợp với điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội của vùng lãnh thổ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
1.1.4. Đặc điểm của quy hoạch sử dụng dất
Quy hoạch sử dụng đất đai thuộc loại quy hoạch có tính lịch sử - xã hội, tính
khống chế vĩ mô, tính chỉ đạo, tính tổng hợp trung và dài hạn, là bộ phận hợp thành
quan trọng của hệ thống kế hoạch phát triển xã hội và kinh tế quốc dân. Các đặc
điểm của quy hoạch sử dụng đất đai được thể hiện cụ thể như sau [10].:
(1). Tính lịch sử - xã hội:
Lịch sử phát triển của xã hội chính là lịch sử phát triển của quy hoạch sử
dụng đất đai. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một phương thức sản xuất của xã
hội thể hiện theo hai mặt: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong quy hoạch
sử dụng đất đai, luôn nảy sinh quan hệ giữa người với đất đai, cũng như quan hệ
giữa người với người. Quy hoạch sử dụng đất đai thể hiện đồng thời là yếu tố thúc
đẩy phát triển lực lượng sản xuất, vừa là yếu tố thúc đẩy các mối quan hệ sản xuất.
Vì vậy, nó luôn là một bộ phận của phương thức sản xuất xã hội.
Tuy nhiên, trong xã hội có phân chia giai cấp, quy hoạch sử dụng đất đai
mang tính tự phát, hướng tới mục tiêu vì lợi nhuận tối đa và nặng về mặt pháp lý. Ở
nước ta, quy hoạch sử dụng đất đai phục vụ nhu cầu của người sử dụng và quyền lợi
của toàn xã hội; Góp phần tích cực thay đổi quan hệ sản xuất ở nông thôn; Nhằm sử
dụng, bảo vệ đất và nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội. Đặc biệt, trong nền kinh tế

thị trường, quy hoạch sử dụng đất đai góp phần giải quyết các mâu thuẫn nội tại của
từng lợi ích kinh tế - xã hội - môi trường nảy sinh trong quá trình sử dụng đất, cũng
như mâu thuẫn giữa các lợi ích khác nhau [10].
(2). Tính tổng hợp:
Tính tổng hợp của quy hoạch sử dụng đất đai biểu hiện chủ yếu ở hai mặt:
Đối tượng của quy hoạch là khai thác, sử dụng, bảo vệ toàn bộ tài nguyên đất đai
cho nhu cầu của toàn bộ nền kinh tế quốc dân; Quy hoạch sử dụng đất đai đề cập
đến nhiều lĩnh vực về khoa học, kinh tế, xã hội như: Khoa học tự nhiên, khoa học
xã hội, dân số và đất đai, sản xuất nông - công nghiệp và môi trường sinh thái
Với đặc điểm đó quy hoạch tổng hợp toàn bộ nhu cầu sử dụng đất; Điều hoà
các nhu cầu về đất đai của các ngành, lĩnh vực; Xác định và điều phối phương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
hướng, phương thức sử dụng đất phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo cho nền kinh tế quốc dân phát triển bền vững, đạt tốc độ cao và ổn định.
(3). Tính dài hạn:
Căn cứ vào các dự báo xu thế biến động dài hạn của những yếu tố kinh tế - xã
hội quan trọng như: Sự thay đổi về nhân khẩu, tiến bộ kỹ thuật, đô thị hoá, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp , từ đó xác định quy hoạch trung và dài hạn về sử dụng
đất đai, đề ra phương hướng, chính sách và biện pháp có tính chiến lược, tạo căn cứ
khoa học cho việc xây dựng kế hoạch sử dụng đất hàng năm và ngắn hạn.
Quy hoạch dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu đất để phát triển lâu dài kinh tế -
xã hội. Cơ cấu phương thức sử dụng đất được điều chỉnh từng bước trong thời gian
dài (cùng với sự phát triển dài hạn kinh tế - xã hội) cho đến khi đạt được mục tiêu
dự kiến. Thường thời gian (xác định phương hướng, chính sách và biện pháp sử
dụng đất để phát triển kinh tế và hoạt động xã hội) của quy hoạch sử dụng đất đai
thường từ 10 năm đến 20 năm hoặc lâu hơn.
(4). Tính chiến lược và chỉ đạo vĩ mô:
Với đặc tính trung và dài hạn, quy hoạch sử dụng đất đai chỉ dự kiến trước

được các xu thế thay đổi phương hướng, mục tiêu, cơ cấu và phân bố sử dụng đất
(mang tính đại thể, không dự kiến được các hình thức và nội dung cụ thể, chi tiết
của sự thay đổi). Vì vậy, quy hoạch sử dụng đất đai là quy hoạch mang tính chiến
lược, các chỉ tiêu của quy hoạch mang tính chỉ đạo vĩ mô, tính phương hướng và
khái lược về sử dụng đất của các ngành.
- Phương hướng, mục tiêu và trọng điểm chiến lược của việc sử dụng đất
trong vùng;
- Cân đối tổng quát nhu cầu sử dụng đất của các ngành;
- Điều chỉnh cơ cấu sử dụng đất và phân bố đất đai trong vùng;
- Đề xuất các biện pháp, các chính sách lớn để đạt được mục tiêu của phương
hướng sử dụng đất.
Do khoảng thời gian dự báo tương đối dài, chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố
kinh tế - xã hội khó xác định, nên chỉ tiêu quy hoạch càng khái lược hoá quy hoạch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
sẽ càng ổn định.
(5). Tính chính sách:
Quy hoạch sử dụng đất đai thể hiện rất mạnh đặc tính chính trị và chính sách
xã hội. Khi xây dựng phương án phải quán triệt các chính sách và quy định có liên
quan đến đất đai của Đảng và Nhà nước, đảm bảo thực hiện cụ thể trên mặt bằng đất
đai các mục tiêu phát triển nền kinh tế quốc dân, phát triển ổn định kế hoạch kinh tế
- xã hội; đất đai và môi trường sinh thái.
(6). Tính khả biến:
Dưới tác động của nhiều nhân tố khó dự đoán trước, theo nhiều phương diện
khác nhau, quy hoạch sử dụng đất đai chỉ là một trong những giải pháp biến đổi
hiện trạng sử dụng đất đai sang trạng thái mới thích hợp hơn cho việc phát triển
kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Khi xã hội phát triển, khoa học kỹ thuật ngày
càng tiến bộ, chính sách và tình hình kinh tế thay đổi, các dự kiến của quy hoạch sử
dụng đất đai không còn phù hợp. Việc chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch và

điều chỉnh biện pháp thực hiện là điều cần thiết. Điều này thể hiện tính khả biến của
quy hoạch.
Quy hoạch sử dụng đất thuộc loại quy hoạch có tính lịch sử - xã hội, tính
khống chế vĩ mô, tính chỉ đạo, tính tổng hợp trung và dài hạn, là bộ phận hợp thành
quan trọng của hệ thống kế hoạch phát triển xã hội và kinh tế quốc dân.
1.1.5. Nhiệm vụ và nội dung của quy hoạch sử dụng đất
Đối với mỗi quốc gia, cũng như từng vùng trong một nước (khác nhau về
không gian), nhiệm vụ và nội dung quy hoạch sử dụng đất ở các giai đoạn lịch sử
khác nhau (về thời gian) là rất khác nhau.
Trong giai đoạn hiện nay, nội dung của quy hoạch sử dụng đất bao gồm:
(1). Điều tra, nghiên cứu, phân tích tổng hợp điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã
hội và hiện trạng sử dụng đất; đánh giá tiềm năng đất đai (đặc biệt là đất chưa sử
dụng);
(2). Đề xuất phương hướng, mục tiêu, trọng điểm và các nhiệm vụ cơ bản về
sử dụng đất trong kỳ quy hoạch (dựa trên cơ sở dự báo biến động sử dụng đất đai,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
nhu cầu đất của các ngành kinh tế quốc dân, khả năng đáp ứng về số lượng và chất
lượng đất đai);
(3). Xác định diện tích các loại đất phân bổ cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh (điều chỉnh cơ cấu sử dụng đất, phân phối hợp lý nguồn tài
nguyên đất đai, xử lý, điều hoà nhu cầu sử dụng đất giữa các ngành, đưa ra các chỉ tiêu
khống chế - chỉ tiêu khung để quản lý vĩ mô đối với từng loại sử dụng đất - 3 nhóm đất
chính theo quy định của Luật Đất đai năm 2003 [8]
(4). Xác định diện tích đất phải thu hồi để thực hiện các công trình, dự án;
(5). Xác định các biện pháp khai thác, sử dụng, bảo vệ, cải tạo đất và bảo vệ
môi trường;
(6). Giải pháp tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất.
Như vậy, nhiệm vụ trọng tâm của quy hoạch sử dụng đất là: Phân phối hợp

lý đất đai cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội; hình thành hệ thống cơ cấu sử
dụng đất phù hợp với cơ cấu kinh tế; khai thác tiềm năng đất đai và sử dụng đất
đúng mục đích; hình thành, phân bố hợp lý các tổ hợp không gian sử dụng đất nhằm
đạt hiệu quả tổng hoà giữa 3 lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường cao nhất.
Quy hoạch sử dụng đất là hệ thống quy hoạch nhiều cấp. Ngoài lợi ích chung
của cả nước, mỗi vùng, mỗi địa phương tự quyết định những lợi ích cục bộ của
mình. Vì vậy, để đảm bảo sự thống nhất, khi xây dựng và triển khai quy hoạch sử
dụng đất phải tuân thủ các thể chế hành chính hiện hành của Nhà nước.
Hệ thống quản lý hành chính của nước ta được phân chia thành 4 cấp: toàn
quốc (bao gồm cả cấp vùng), cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Tùy thuộc vào chức
năng, nhiệm vụ của mỗi cấp, quy hoạch sử dụng đất có nội dung và ý nghĩa khác
nhau. Quy hoạch của cấp trên là cơ sở và chỗ dựa cho quy hoạch sử dụng đất của
cấp dưới; quy hoạch của cấp dưới là phần tiếp theo, cụ thể hóa quy hoạch của cấp
trên và là căn cứ để điều chỉnh các quy hoạch vĩ mô.
1.2. Các loại hình quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
1.2.1. Các loại hình quy hoạch sử dụng đất
Có nhiều quan điểm khác nhau về cách phân loại quy hoạch sử dụng đất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Tuy nhiên, mọi quan điểm đều dựa trên những căn cứ hoặc cơ sở chung như sau:
Nhiệm vụ đặt ra đối với quy hoạch; số lượng và thành phần đối tượng nằm trong
quy hoạch; Phạm vi lãnh thổ quy hoạch (cấp vị lãnh thổ hành chính) cũng như nội
dung và phương pháp quy hoạch. Thông thường hệ thống quy hoạch sử dụng đất
được phân loại theo nhiều cấp vị khác nhau (như loại hình, dạng, hình thức quy
hoạch ) nhằm giải quyết các nhiệm vụ cụ thể về sử dụng đất đai (như điều chỉnh
quan hệ đất đai hay tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất) từ tổng thể đến thiết
kế chi tiết.
Đối với Việt Nam, Luật Đất đai năm 2003 (Điều 25) quy định: Quy hoạch sử
dụng đất được tiến hành theo lãnh thổ hành chính. [17].

(1). Quy hoạch sử dụng đất cả nước (gồm cả quy hoạch sử dụng đất các vùng
kinh tế tự nhiên);
(2). Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh;
(3). Quy hoạch sử dụng đất cấp huyện;
(4). Quy hoạch sử dụng đất cấp xã (không thuộc khu vực quy hoạch phát
triển đô thị). [17]
Đối tượng của quy hoạch sử dụng đất theo lãnh thổ là toàn bộ diện tích tự
nhiên của lãnh thổ. Tuỳ thuộc vào cấp lãnh thổ hành chính, quy hoạch sử dụng đất
theo lãnh thổ sẽ có nội dung cụ thể, chi tiết khác nhau và được thực hiện theo
nguyên tắc: Từ trên xuống, từ dưới lên, từ toàn cục đến bộ phận, từ cái chung đến
cái riêng, từ vĩ mô đến vi mô và bước sau chỉnh lý bước trước.
Mục đích chung của quy hoạch sử dụng đất theo lãnh thổ hành chính bao
gồm: Đáp ứng nhu cầu đất đai (tiết kiệm, khoa học, hợp lý và có hiệu quả) cho hiện
tại và tương lai để phát triển các ngành kinh tế quốc dân: Cụ thể hoá một bước quy
hoạch sử dụng đất của các ngành và đơn vị hành chính cấp cao hơn; làm căn cứ, cơ
sở để các đơn vị hành chính cấp dưới triển khai quy hoạch sử dụng đất của địa
phương mình và để lập kế hoạch sử dụng đất 5 năm làm căn cứ để giao đất, cho
thuê đất, thu hồi đất phục vụ cho công tác quản lý Nhà nước về đất đai.
Khác với Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 không quy định cụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
thể quy hoạch sử dụng đất theo các ngành (nông nghiệp, lâm nghiệp, khu dân cư
nông thôn, đô thị, chuyên dùng). Quy hoạch sử dụng đất của các ngành này đều nằm
trong quy hoạch sử dụng đất theo lãnh thổ hành chính. Đối với quy hoạch sử dụng
đất vào mục đích quốc phòng, an ninh được quy định riêng tại điều 30 ( Luật Đất
đai 2003). [17]
Tuy nhiên, có thể hiểu mối quan hệ tương đối chặt chẽ giữa quy hoạch sử
dụng đất theo lãnh thổ và quy hoạch sử dụng đất theo ngành. Trước tiên, Nhà nước
căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và hệ thống thông tin

tư liệu về điều kiện đất đai hiện có để xây dựng quy hoạch tổng thể sử dụng các loại
đất. Các ngành chức năng căn cứ vào quy hoạch tổng thể sử dụng đất đai để xây
dựng quy hoạch sử dụng đất cụ thể cho từng ngành phù hợp với yêu cầu và nội
dung sử dụng đất của ngành. Như vậy, quy hoạch tổng thể đất đai phải đi trước và
có tính định hướng cho quy hoạch sử dụng đất theo ngành. Nói khác đi, quy hoạch
ngành là một bộ phận cấu thành trong quy hoạch sử dụng đất theo lãnh thổ.
Trong nông nghiệp, quy hoạch sử dụng đất theo ngành bao gồm quy hoạch
sử dụng đất các vùng sản xuất chuyên môn hoá và quy hoạch sử dụng đất các xí
nghiệp. Quy hoạch sử dụng đất cho các vùng chuyên môn hoá - sản xuất hàng hoá
có thể nằm gọn trong cấp vị lãnh thổ hoặc không trọn vẹn ở một đơn vị hành chính.
Do tính đặc thù của sản xuất nông nghiệp, ngoài sản phẩm chuyên môn hóa phải kết
hợp phát triển tổng hợp để sử dụng đầy đủ và hợp lý đất đai. Quy hoạch sử dụng đất
của xí nghiệp là hệ thống biện pháp về tổ chức, kinh tế và kỹ thuật nhằm bố trí, sắp
xếp, sử dụng các loại đất như tư liệu sản xuất một cách hợp lý để tạo ra nhiều nông
sản hàng hoá, đem lại nguồn thu nhập lớn. Nội dung quy hoạch đất đai của xí
nghiệp rất đa dạng và phong phú, bao gồm: Quy hoạch ranh giới địa lý; Quy hoạch
khu trung tâm; Quy hoạch đất trồng trọt; Quy hoạch thuỷ lợi; Quy hoạch giao
thông; Quy hoạch rừng phòng hộ Quy hoạch sử dụng đất của xí nghiệp có thể tiến
hành trong các vùng sản xuất chuyên môn hóa hoặc có thể độc lập ở ngoài vùng.
1.2.2. Các loại hình kế hoạch sử dụng đất
Quy hoạch sử dụng đất được phân kỳ thực hiện theo kế hoạch 5 năm. Kế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
hoạch sử dụng đất cũng được lập theo cấp lãnh thổ hành chính nhưng phải đáp ứng
được các yêu cầu sau:
- Bao quát được toàn bộ đất đai phục vụ cho nền kinh tế quốc dân;
- Phát triển có kế hoạch tất cả các ngành kinh tế trên địa bàn nhất định;
- Thiết lập được cơ cấu sử dụng đất hợp lý trên địa bàn cả nước, trong các
ngành và trên từng địa bàn lãnh thổ;

- Đạt hiệu quả đồng bộ cả ba lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường;
Kế hoạch sử dụng đất theo ngành và cả nước phải đảm bảo thực hiện được
các mục tiêu vĩ mô (bao quát chung cho toàn xã hội và cả nước) như: An ninh lương
thực, bảo vệ môi trường, công bằng xã hội Còn kế hoạch theo lãnh thổ hành chính
phải cụ thể hoá các mục tiêu vĩ mô, cùng với việc xử lý các mục tiêu cụ thể của địa
phương và các vấn đề cụ thể của từng chủ sử dụng đất khác nhau trên địa bàn.
Kế hoạch sử dụng đất phải gắn với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dựa
trên mục đích chung vì lợi ích lâu dài phát triển kinh tế - xã hội nhằm thoả mãn nhu
cầu của nhân dân về tinh thần và vật chất. Tuy nhiên, cần lưu ý điểm khác biệt: Kế
hoạch sử dụng đất chú trọng phát triển hình thức không gian; kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội chú trọng phát triển hình thức thời gian, nhưng nội dung lại được
triển khai với hình thức không gian nhất định. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là
tiền đề của kế hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất là sự tiếp tục của kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội nhằm bố trí không gian thống nhất đối với các hạng mục
liên quan đến đất đai (xây dựng, khai hoang, chuyển mục đích sử dụng đất ) trong
thời kỳ kế hoạch.
Thời hạn lập kế hoạch sử dụng đất thường thống nhất với thời hạn lập kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các ngành, các cấp lãnh thổ hành chính và được
thực hiện trong thời gian 5 năm.
1.3. Một số vấn đề quy hoạch sử dụng đất trên thế giới và ở Việt Nam
1.3.1. Quy hoạch sử dụng đất trên thế giới
Quy hoạch các nước phát triển trên thế giới nói chung và các nước châu Âu
nói riêng đã đạt rất nhiều thành tựu thể hiện thông qua các kết quả mà họ đạt được.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Tầm nhìn quy hoạch của họ cao hơn, xa hơn rất nhiều so với chúng ta. Các quy
hoạch không bị chồng chéo, phát triển theo các mô hình hiện đại, hợp lý thuận lợi
cho sự phát triển. Để đạt được những thành tựu đó đòi hỏi phải thực hiện tốt tất cả
các mặt, từ lập quy hoạch, thực hiện quy hoạch đến quản lý quy hoạch.

Theo tổ chức Nông Lương Thế giới (FAO), quy hoạch sử dụng đất là bước
kế tiếp của phương pháp đánh giá đất. Kết quả của việc đánh giá đất sẽ đưa ra một
loại hình hợp lý nhất đối với đất đai trong vùng. Phương pháp quy hoạch đất đai tuỳ
thuộc vào đặc điểm đất đai của từng nước, tuy nhiên có hai loại hình quy hoạch:
- Tiến hành quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội đảm bảo phát triển các mục
tiêu một cách hài hòa, sau đó mới đi sâu vào nghiên cứu quy hoạch chuyên ngành.
Tiêu biểu cho trường phái này là Anh, Úc, Đức.
- Tiến hành quy hoạch nông nghiệp là nền tảng sau đó làm quy hoạch cơ bản,
lập sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất theo yêu cầu của cơ chế kế hoạch
hoá tập trung. Trong đó đất đai và lao động trở thành yếu tố cơ bản của vấn đề
nghiên cứu. Tiêu biểu cho trường phái này là Liên Bang Nga và một số nước xã hội
chủ nghĩa ở Đông Âu trước đây.
Ngoài ra ở một số nước khác còn có các phương pháp quy hoạch mang tính
đặc thù riêng như Bungari và các nước Đông Âu. Ở những nước này quy hoạch được
phân chia thành các vùng đặc trưng gắn với bảo vệ môi trường.
- Ở Angiêri, quy hoạch sử dụng đất được tiến hành theo nguyên tắc nhất thể
hoá và đa phái và được tiến hành với sự tham gia của các phương tiện có liên quan,
các tổ chức ở cấp chính phủ, Nhà nước, cộng đồng…
- Ở Canada: Chính phủ Liên bang đã can thiệp vào quy hoạch cấp trung gian
và đưa ra mục tiêu chung ở cấp quốc gia, tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích
các hoạt động lập quy hoạch ở các bang. Ngoài ra Chính phủ còn hỗ trợ để có sự
tham gia ở các lĩnh vực khác nhau có liên quan tới quá trình lập quy hoạch bao gồm
các ngành nông nghiệp, công nghiệp; nhất là vấn đề môi trường ngày càng được
quan tâm và bảo vệ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
- Ở Liên Xô (cũ), quy hoạch đất đai gắn với quy hoạch vùng, thực hiện trên quy
mô kết hợp một tỉnh, một tiểu vùng. Những tư liệu luận chứng kinh tế - kỹ thuật này
được chấp nhận là cơ sở khoa học cho công tác xây dựng kế hoạch. Trên cơ sở bản vẽ

thiết kế quy hoạch này tiến hành quy hoạch các cụm công nghiệp, kế hoạch xây dựng
mạt bằng thành phố, kết hợp với bảo vệ môi trường.
- Ở Malaysia phát triển kinh tế lãnh thổ được tiến hành mạnh từ năm 1972,
Quốc hội phê chuẩn thành lập 7 vùng. Cùng với sự chỉ đạo của Bộ Tài nguyên đất
và phát triển vùng ở Trung ương, mỗi vùng có cơ quan phát triển vùng chỉ đạo trực
tiếp các trọng điểm, soạn thảo chiến lược phát triển kinh tế xã hội, đưa ra các quyết
định ngân sách đảm bảo thực thi các dự án như một động lực thúc đẩy mọi hoạt
động sản xuất, lưu thông phân phối trong công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và kết
cấu hạ tầng xã hội, gắn kết các đô thị lớn thành mạng lưới các cực tăng trưởng trong
phát triển vùng và các điểm dân cư ở các vùng biên giới.
- Ở Thái Lan, Quy hoạch sử dụng đất ở nước này được phân theo 3 cấp đó là:
Cấp quốc gia, cấp vùng, cấp địa phương. Quy hoạch nhằm cụ thể hoá các trường kinh tế
xã hội của Hoàng gia Thái Lan, gắn liền với tổ chức hành chính và quản lý nhà nước
phối hợp với chính phủ và chính quyền địa phương.
- Quá trình phát triển xã hội Đài Loan trước đây cũng giống với hiện trạng
phát triển giai đoạn hiện nay của Việt Nam, tức là xã hội nông nghiệp là chính.
Những năm 40 trở lại đây, nền kinh tế Đài Loan có tăng trưởng với tốc độ nhanh,
giới công thương đã trở thành ngành nghề chủ lực của Đài Loan, cũng là sức mạnh
căn bản của đất nước. Hơn nữa, nông nghiệp cùng với sự phát triển của kỹ thuật đã
phát triển theo hướng thâm canh, chuyên sâu.
Nhân khẩu nông nghiệp và diện tích sử dụng đất trong nông nghiệp Đài Loan
giảm theo hàng năm, nhưng cùng với việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và chính sách
thâm canh hóa, chuyên sâu hóa, giá trị sản lượng về tổng sản phẩm quốc nội trong
nông nghiệp vẫn tăng ổn định. Nhưng sự phát triển của nghề chế tạo tuy chỉ với nhu
cầu sử dụng đất không lớn nhưng phát huy hiệu quả sử dụng đất lớn nhất; giá trị sản
xuất trên đơn vị nhân khẩu và tổng sản phẩm quốc nội trong nghề chế tạo đều có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
cống hiến to lớn hơn so với nông nghiệp.

“Từ kinh nghiệm phát triển Đài Loan có thể thấy sự phát triển nông nghiệp
Đài Loan tuy vẫn chiếm vị trí số một, nhưng cống hiến đối với phát triển kinh tế
vẫn dựa vào sự phát triển của nghề chế tạo. Đài Loan đã lấy nghề chế tạo làm chủ
lực, vì nó có thể sử dụng diện tích đất đai ít nhất, nhưng phát huy hiệu quả kinh tế
lớn nhất. Đối với phát triển nông nghiệp đã tích cực đưa vào kỹ thuật sản xuất tiên
tiến, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, giảm bớt diện tích và nhu cầu nhân
lực của nông nghiệp, chuyển một bộ phận nhân lực và đất nông nghiệp đưa vào sản
xuất trong nghề chế tạo, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, đồng thời tạo cơ hội việc
làm, tiến tới nâng cao giá trị và thu nhập quốc dân trong nước”.
Thực tiễn của nhiều nước trên thế giới cho thấy quá trình công nghiệp hoá
nếu không sớm có quy hoạch toàn diện về đất đai, nếu không biết khai thác sử dụng
hợp lý thì diện tích đất nông nghiệp bị giảm tại các vùng đồng bằng đất tốt làm mất
an ninh lương thực.
Như vậy, có thể nói quản lý đất đai là một việc phức tạp không nơi nào giống
nhau nên mỗi một quốc gia, vùng lãnh thổ đều có một chính sách và công cụ quản
lý đất đai khác nhau; trong đó quy hoạch sử dụng đất là một công cụ rất quan trọng
giúp cho việc quản lý nhà nước về đất đai hiệu quả. Công tác quy hoạch sử dụng đất
đã được tiến hành từ nhiều năm trước đây với đầy đủ cơ sở khoa học, một số quốc
gia ngay từ những năm trước công nguyên họ đã có quy hoạch xây dựng quốc gia
mình theo những mô hình hoá. Ở một số nước như: Anh, Pháp, Liên Bang Nga đã
xây dựng cơ sở lý luận của ngành quản lý đất đai tương đối hoàn chỉnh và ngày
càng tiến bộ. Các dự án phát triển vùng đều tiến hành trên sơ đồ cơ cấu kiến trúc –
quy hoạch vùng gắn với quy hoạch sử dụng đất, dựa trên phương hướng mục tiêu
phát triển của vùng vĩ mô.
1.3.2. Một số vấn đề quy hoạch sử dụng đất ở Việt Nam
Việt Nam là nước có dân số đông, diện tích đất hạn hẹp (thuộc diện nước "đất chật
người đông”), vì vậy công tác quy hoạch sử dụng đất sao cho có hiệu quả, hợp lý, ổn định,
bền vững luôn là một đòi hỏi tất yếu. Quá trình thực hiện công tác quy hoạch sử dụng đất ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


19
nước ta có thể phân theo các giai đoạn như sau:
* Giai đoạn từ 1930 đến trước năm 1960
Ở giai đoạn 1930 - 1945, quy hoạch sử dụng đất đai được tiến hành lẻ tẻ ở
một số đô thị, các khu mỏ khai thác tài nguyên khoáng sản, một số vùng đồn điền
như cao su, cà phê… theo yêu cầu về nội dung và phương pháp của người Pháp. Từ
năm 1946 đến 1954 là thời kỳ toàn quốc kháng chiến kiến quốc, thực hiện triệt để
khẩu hiệu “người cày có ruộng” (Hội nghị Trung ương lần thứ 5 tháng 11 năm
1953) Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh ruộng đất; sau đó Quốc hội thông qua Luật
Cải cách ruộng đất ngày 04 tháng 12 năm 1953. Mục đích cải cách ruộng đất là tiêu
diệt chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất, thực hiện người cày có ruộng, giải
phóng sức sản xuất ở nông thôn, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến. Phương
châm cải cách ruộng đất là đấu tranh một cách có kế hoạch, làm từng bước, có trật
tự, có lãnh đạo chặt chẽ. “Những ruộng đất tịch thu, trưng thu, trưng mua chia hẳn
cho nông dân, nông dân có quyền sở hữu ruộng đất đó, theo nguyên tắc xã làm đơn
vị, trên cơ sở nguyên canh, theo số lượng, chất lượng, vị trí gần hay xa của ruộng
đất, dùng cách điều chỉnh nhiều bù ít, tốt bù xấu, gần bù xa mà chia; cần chiếu cố
những nông dân trước đã cày trên những ruộng đất ấy. Làm đầy đủ những nội dung
như vậy thì thực chất là đã tiến hành quy hoạch sử dụng đất đai, nhất là trong lĩnh
vực nông nghiệp.
Ở Miền Nam có những đề án thiết lập quy hoạch sử dụng đất đai về xây dựng các
đồn điền, các khu công nghiệp nhỏ lẻ, các khu vực dân cư đô thị và nông thôn, các khu
vực bến xe, bến cảng phục vụ mục đích quân sự. Một ví dụ về Quy hoạch sử dụng đất
đai phục vụ giáo dân khá tiêu biểu là đồ án Quy hoạch sử dụng đất đai khu vực xung
quanh Toà Thánh Tây Ninh tiến hành năm 1952.
Từ sau khi hoà bình lập lại, ở Miền Bắc thực hiện kế hoạch khôi phục kinh tế
sau chiến tranh, tập trung vào việc hoàn thành cải cách ruộng đất tiếp đến là cải tạo
xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư
bản tư doanh; trong đó khâu chính là cải tạo và phát triển nông nghiệp. Trên toàn
Miền Bắc về căn bản đã giải quyết xong vấn đề người cày có ruộng và hình thành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
quan hệ sản xuất mới ở nông thôn và chuẩn bị kế hoạch 5 năm lần thứ nhất với sự
giúp đỡ của các chuyên gia nước ngoài. Đây là thời kỳ quy hoạch sử dụng đất đai
mang tính tự phát, tự túc, khôi phục và kế thừa truyền thống cây trồng, vật nuôi,
phong tục tập quán sinh hoạt cộng đồng với nhiều biểu hiện tính tập thể của chế độ
xã hội chủ nghĩa.
* Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1975
Đến cuối năm 1960 khi chuẩn bị xây dựng và công bố kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất (1961 - 1965) cả nước bước vào thời kỳ hừng hực khí thế xây dựng đất
nước mà trước hết là phải đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, sử dụng tốt quỹ đất đai.
Chính vì vậy mà công tác phân vùng quy hoạch nông nghiệp, lâm nghiệp, đã được
đặt ra ngay từ những năm 1960 này. Do đó có thể nói “Quy hoạch sử dụng đất đai
cũng đồng thời được đặt ra”. Các Bộ, ngành chủ quản, các tỉnh, huyện đã có những
điều chỉnh về sử dụng đất cho các mục đích giao thông, thuỷ lợi, xây dựng kho
tàng, trại chăn nuôi, bến bãi, nhà xưởng… mang tính chất bố trí sắp xếp lại việc sử
dụng đất cũng chỉ mới được đề cập như một phần nội dung lồng ghép vào các
phương án phân vùng nông nghiệp, lâm nghiệp, các phương án sản xuất hay công
trình xây dựng cụ thể nào đó cho những mục đích đơn lẻ”.
Trong bối cảnh cả nước có chiến tranh cho tới khi giải phóng Miền Nam
thống nhất đất nước năm 1975, quy hoạch sử dụng đất đai chưa có điều kiện tiến
hành theo một nội dung, phương pháp, trình tự thống nhất trong phạm vi một cấp vị
lãnh thổ nào đó. Mặc dù vậy, với tư cách là một phần nội dung của các phương án
phát triển sản xuất nông lâm nghiệp, quy hoạch sử dụng đất đai đã tạo ra những cơ
sở có tính khoa học cho việc tính toán các phương án sản xuất có lợi nhất. Nó là
một yêu cầu không thể thiếu được đối với các nhà quản lý sản xuất nông nghiệp
ngay cả ở cấp vị một Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp trong thời kỳ này.
* Giai đoạn từ năm 1975 đến trước khi có Luật Đất đai 1993
Từ năm 1975 - 1981 là thời kỳ triển khai hàng loạt các nhiệm vụ điều tra cơ

bản trên phạm vi cả nước. “Vào cuối năm 1978 lần đầu tiên đã xây dựng được các
phương án phân vùng nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp chế biến nông lâm sản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
của cả nước, của 7 vùng kinh tế và của tất cả 44 tỉnh, thành phố thuộc Trung ương
trình Chính phủ xem xét phê duyệt”. Trong các tài liệu này đều đã đề cập đến quy
hoạch sử dụng đất đai, coi đó như những căn cứ khoa học quan trọng để luận chứng
các phương án phát triển ngành. Cùng với lĩnh vực nông nghiệp, các khu cụm công
nghiệp, các khu đô thị, các khu đầu mối giao thông… cũng được nghiên cứu xem
xét để cải tạo và xây mới. Thực tế lúc bấy giờ cho thấy các thông tin, số liệu, tư liệu
đo đạc bản đồ phục vụ cho quản lý đất đai nói chung và cho quy hoạch sử dụng đất
đai nói riêng là vừa thiếu, vừa tản mạn lại vừa khập khiễng, làm cho độ tin cậy về
quy mô diện tích, vị trí cũng như tính chất đất đai tính toán trong các phương án này
không được bảo đảm. Rất nhiều phương án tính toán diện tích cây trồng chủ lực như
cao su, cà phê, chè, dứa, lạc, đay, đậu đỗ… Trong cùng một địa bàn cụ thể có sự
chồng chéo, thiếu tính khả thi. Đây cũng là một trong những yếu tố thúc đẩy việc
Chính phủ quyết định thành lập Tổng cục Quản lý ruộng đất (Nghị quyết số
548/NQ/QH ngày 24/5/1979 của Uỷ Ban thường vụ Quốc hội về thành lập Tổng cục
Quản lý ruộng đất; Nghị định số 404/CP ngày 09/11/1979 của Chính phủ về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Quản lý ruộng đất).
Trước áp lực về lương thực và hàng tiêu dùng, trong giai đoạn này Trung
ương Đảng và Chính phủ đã có những Nghị quyết, Chỉ thị, Quyết định quan trọng
nhằm “làm cho sản xuất bung ra” ví dụ như Quyết định tận dụng đất nông nghiệp
(9/1979); xoá bỏ tình trạng ngăn sông cấm chợ (10/1979); thông báo về “khoán” sản
xuất nông nghiệp sau Hội nghị nông nghiệp ở Đồ Sơn - Hải Phòng (1980). Đặc biệt
là Chỉ thị số 100/TW ngày 13/01/1981 về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán
sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp. Thời
kỳ này xuất hiện cụm từ “Quy hoạch Hợp tác xã” mà thực chất công tác này tập
trung vào quy hoạch đồng ruộng với nội dung chủ yếu của nó là quy hoạch sử dụng

đất đai.
Bước vào thời kỳ 1981 - 1986, Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ V (1982) đã
quyết định: “Xúc tiến công tác điều tra cơ bản, dự báo, lập tổng sơ đồ phát triển và
phân bố lực lượng sản xuất, nghiên cứu chiến lược kinh tế xã hội, dự thảo kế hoạch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
triển vọng để chuẩn bị tích cực cho kế hoạch 5 năm sau (1986 - 1990)”. Trong chương
trình lập tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất Việt Nam thời kỳ 1986 -
2000 này có 5 vấn đề bao gồm 32 đề tài cấp Nhà nước, trong đó có vấn đề về tài
nguyên thiên nhiên đều đặc biệt chú trọng đến vấn đề quy hoạch sử dụng đất đai; coi
đất đai vừa là nguồn lực sản xuất trực tiếp quan trọng như là vốn, lao động và vừa là
nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá.
Hơn nữa, cũng trong thời kỳ này, Chính phủ ra Nghị quyết số 50 về xây
dựng quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội của 500 đơn vị hành chính cấp huyện được
ví như 500 “pháo đài” làm cho công tác quy hoạch sử dụng đất đai trên phạm vi cả
nước hết sức sôi động.
Như vậy, đây là giai đoạn có tính bước ngoặt về bố trí sắp xếp lại đất đai mà
thực chất là quy hoạch sử dụng đất đai. Điều này được phản ánh ở chỗ nội dung chủ
yếu của Tổng sơ đồ tập trung vào quy hoạch vùng chuyên môn hoá và các vùng sản
xuất trọng điểm của lĩnh vực nông nghiệp, các vùng trọng điểm của lĩnh vực công
nghiệp, xây dựng, giao thông, thuỷ lợi, cơ sở hạ tầng và đô thị.
Tiếp theo đó là thời kỳ Luật Đất đai 1987 ra đời, đánh dấu một bước mới nữa
về quy hoạch sử dụng đất đai vì nó được quy định rõ ở Điều 9 và Điều 11 tức là quy
hoạch sử dụng đất đai có tính pháp lý. Tuy nhiên, đây lại là thời kỳ bắt đầu công
cuộc đổi mới, cả nước vừa trải qua một thời kỳ triển khai rầm rộ công tác quy hoạch
nói chung và quy hoạch sử dụng đất đai nói riêng nhưng thực tế nền kinh tế đất
nước ta đang đứng trước những khó khăn lớn. Những thay đổi lớn ở Liên Xô (cũ)
và các nước Đông Âu cùng với nhiều vấn đề trước mắt thường nhật phải giải quyết
làm cho công tác quy hoạch sử dụng đất đai lại rơi vào trầm lắng.

Thực tế đòi hỏi phải đổi mới nội dung, phương pháp cho phù hợp với yêu cầu
của quá trình chuyển dần sang nền kinh tế cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổng cục Quản lý Ruộng đất lần đầu tiên ra
Thông tư số 106/QHKH/RĐ ngày 15/4/1991 hướng dẫn về quy hoạch phân bổ đất đai
chủ yếu đối với cấp xã với những nội dung như sau:
- Xác định ranh giới về quản lý, sử dụng đất;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23
- Điều chỉnh một số trường hợp về quản lý và sử dụng đất;
- Phân định và xác định ranh giới những khu vực đặc biệt;
- Một số nội dung khác về chu chuyển 5 loại đất, mở rộng diện tích đất sản
xuất, chuẩn bị cho việc giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xây dựng
các văn bản chính sách đất đai, kế hoạch sử dụng đất đai.
Với những thay đổi lớn về vai trò của Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp,
việc quản lý sử dụng đất ở khu vực nông thôn nổi lên hết sức quan trọng. Căn cứ
theo Thông tư hướng dẫn có những tỉnh ở đồng bằng đã tiến hành lập quy hoạch
sử dụng đất đai cho hàng trăm xã (tới một nửa số xã trong toàn tỉnh). Tuy nhiên,
do chưa có quy hoạch từ trên xuống cũng như các tài liệu hướng dẫn về quy trình,
định mức, phương pháp, nội dung thống nhất nên các quy hoạch này bộc lộ nhiều
hạn chế. Đại đa số đều chỉ mới chú trọng tới việc giãn dân là chủ yếu. Vấn đề này
có mặt được nhưng có nhiều mặt không được vì phải cấp đất làm nhà ở với số
lượng lớn mà chủ yếu lấn vào đất ruộng, với những định mức sử dụng đất rất khác
nhau, tạo nên nhiều bất cập phải tiếp tục giải quyết sau này nhất là ở các khu vực
ven đô thị”.
* Giai đoạn từ Luật đất đai 1993 đến Luật Đất đai 2003
Giai đoạn này nước ta đang chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ Nông nghiệp - Công nghiệp
- Dịch vụ sang Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp đã và đang gây áp lực ngày

càng lớn đối với đất đai. Tháng 7 năm 1993 Luật Đất đai được công bố. Trong các
Luật này, những điều khoản về quy hoạch sử dụng đất đai đã được cụ thể hóa hơn
so với Luật Đất đai 1988, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công tác lập quy hoạch
sử dụng đất. Cơ sở pháp lý về công tác lập quy hoạch sử dụng đất của giai đoạn này
được thể hiện cụ thể ở các mặt sau”.
- Sự cần thiết phải lập quy hoạch sử dụng đất: Trong Luật đất đai 1993 quy
định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý” (Điều 1),
xác định một trong những nội dung quản lý Nhà nước về đất đai là “Quy hoạch và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

24
kế hoạch hóa việc sử dụng đất” (Điều 13), căn cứ để quyết định giao đất, cho thuê
đất: “Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai đã được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền phê duyệt” (Điều 19); “Đẩy mạnh công tác quy hoạch sử dụng đất các cấp
trong cả nước…” [16].
- Trách nhiệm lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo các cấp lãnh thổ
hành chính, theo ngành cũng như trách nhiệm của ngành Địa chính về công tác này
(Điều 16 - Luật Đất đai 1993).
- Nội dung tổng quát của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (Điều 17 - Luật
Đất đai 1993).
- Thẩm quyền xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (Điều 18 - Luật
Đất đai 1993).
Cùng với các văn bản có tính pháp lý ở mức độ cao (Hiến pháp và Luật
Đất đai), còn có các văn bản dưới luật và các văn bản ngành, cũng như các văn
bản của từng địa phương (dưới các hình thức Nghị định, Chỉ thị, Quyết định,
Công văn…) trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến vai trò, ý nghĩa, căn cứ, nội dung
và hướng dẫn phương pháp lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
* Thời kỳ sau Luật Đất đai năm 2003 đến nay
Đây là thời kỳ mà công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ở nước ta được
triển khai thực hiện và điều chỉnh theo các quy định của pháp luật đất đai hiện hành,

cụ thể như sau:
Điều 18 Chương II Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992 đã quy định: “Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và
pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả”. [14]
- Căn cứ quy định của Hiến pháp, pháp luật đất đai đã không ngừng hoàn
thiện các quy định về công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nhằm khai thác sử
dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả và bền vững nguồn tài nguyên đất đai. Luật Đất
đai 2003 đã có một mục riêng (mục 2) tại Chương 2, gồm 10 điều (từ Điều 21 đến
Điều 30) về cơ sở pháp lý liên quan đến quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất [17]
- Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

25
Đất đai đã dành riêng. Chương III gồm 18 điều (từ Điều 12 đến Điều 29) để cụ thể hóa
những vấn đề cơ sở pháp lý liên quan đến quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. [7]
- Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009 quy định bổ sung về quy
hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dành riêng một
Mục 1 gồm 8 Điều quy định rõ nội dung quy hoạch sử dụng đất theo từng loại quy hoạch
sử dụng đất của 4 cấp (Quốc gia, tỉnh, huyện, xã) và quy định cụ thể nội dung quy hoạch
sử dụng đất của từng cấp đảm bảo phù hợp với yêu cầu quản lý và khả năng tổ chức thực
hiện của cấp đó [8]
- Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành các văn bản hướng dẫn về
công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, gồm: Thông tư số 30/2004/TT-BTNMT
ngày 01/11/2004 về việc hướng dẫn lập, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất [2].; Quyết định số 04/2005/QĐ-BTNMT ngày 30/6/2005 ban
hành quy trình lập và điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất [3].; Quyết định
số 10/2005/QĐ-BTNMT ngày 24/10/2005 về việc ban hành định mức kinh tế, kỹ
thuật lập và điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Thông tư số 19/2009/TT-
BTNMT ngày 02 tháng 11 năm 2009 về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất [1].
Như vậy, các quy định của pháp luật hiện hành đã tạo ra hành lang pháp lý

tương đối hoàn chỉnh cho việc triển khai công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Tổng hợp các văn bản quy phạm pháp luật đất đai đến thời điểm này cho thấy những
vấn đề liên quan đến quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cho quy định khá đầy
đủ, cụ thể và rõ ràng theo các nội dung:
+ Loại hình quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
+ Nguyên tắc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
+ Căn cứ để lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
+ Nội dung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
+ Trách nhiệm lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
+ Thẩm quyền quyết định, xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
+ Việc triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Theo kết quả báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường đến hết năm 2008, tình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

×