Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

tiểu luận nguyên lí chủ nghĩa mác- lenin về chủ nghĩa xã hội hiện thực.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (800.74 KB, 24 trang )

3

TRƯỜNG ĐH KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MƠN NHỮNG NGUN LÍ CƠ BẢN CHỦ NGHĨA MAC-LEENIN
PHẦN III

BÀI TIỂU LUẬN
NHĨM I LỚP 79K34

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
CƠ GIÁO: NGUYỄN KHÁNH VÂN

Bài tiểu luận nhóm 1 lớp 79 k34


4

ĐỀ TÀI THUYẾT TRÌNH: Ngun lí chủ
nghĩa Mác- Lenin về chủ nghĩa xã hội hiện
thực.

LỜI MỞ ĐẦU
Với sự ra đời của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội đã từ những lý thuyết khơng tưởng
trở thành một lí luận khoa học. q trình thâm nhập lý luận khoa học đó vào thực tiễn
vào đời sống của công nhân và nhân dân lao động đã dẫn đến sự ra đời và phát triển
của chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Chủ nghĩa xã hội từ một nước đã trở thành hệ thống của thế giới với nhiều thành tựu
in đậm dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử phát triển của xã hội loài người.
Tuy vào những thấp niên cuối thế kỉ XX do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ
quan chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng. Tuy nhiên đây chỉ là sự tạm thời thoái


trào của chủ nghĩa xã hội.
Để tìm ra lời lí giải khoa học đúng đắn về hiện thực chủ nghĩa xã hội thì cần phải dựa
trên cơ sở nắm vững những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin và vận dụng
sáng tạo những ngun lí đó vào việc phân tích bối cảnh cụ thể trong thời đại ngày
nay.
Trong toàn bộ bài tiểu luận này nhóm thuyết trình xin đề cập tới hai vấn đề chính:
Thứ nhất: Hồn cảnh ra đời của chủ nghĩa xã hội hiện thực và mơ hình chủ nghĩa xã
hội hiện thực đầu tiên trên thế giới
Thứ hai: sự khủng hoảng và sụp đổ mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước
Đông Âu và nguyên nhân của nó.
Trong qua trình viết bài tuy đã rất cố gắng nhưng chắc hẳn sẽ vẫn con nhiều thiếu sót
nhóm thuyết trình rất mong nhận được sự đóng góp từ cơ giáo để bài viết được hồn
thiện hơn.

Nhóm thuyết trình số 1 lớp 79k34.

Bài tiểu luận nhóm 1 lớp 79 k34


5

Phần thứ nhất: hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa
xã hội hiện thực và mơ hình chủ nghĩa xã hội
hiện thực đầu tiên trên thế giới
1.

Hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa xã hội hiện thực:

Những thập niên đầu của thế kỉ XX chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ
nghĩa đế quốc,lúc này mâu thuẫn đối kháng trong chế độ tư bản ngày càng được bộc

lộ rõ hơn. Ở nước Nga,Nga Hoàng lao đầu vào cuộc chiến tranh hao người tốn của đã
biến nước Nga trở thành khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của hệ thống tư bản chủ
nghĩa. Chính vì thế ở nước Nga trong giai đoạn này đã diễn ra các cuộc cách mạng
nhằm đánh đổ chính quyền Nga Hồng mục nát và khơng cịn phù hợp.
Cuộc cách mạng Nga lần đầu tiên do giai cấp công nhân lãnh đạo được khởi đầu từ
ngày chủ nhật 9/1/1905. Tuy nhiên cuộc diễu hành của những người lao động đã bị
đàn áp dã man. Chính phủ Sa hoàng đã dùng mọi thủ đoạn nhằm dập tắt phong trào
cách mạng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân tiếp tục phát
triển và bùng lên mạnh mẽ vào tháng 2/ 1917. Chỉ trong vịng hơn một tuần tồn bộ
chính quyền Sa hồng đã sụp đổ. Tuy nhiên do bối cảnh cụ thể đương thời về tương
quan lực lượng, Ban chấp hành Xô viết Pêtơrơgrát đã thơng qua Nghị quyết chuyển
giao chính quyền cho giai cấp tư sản. Và sau đó chính phủ lâm thời được thành lập đã
phản bội lại lợi ích của những người cách mạng. Trước tình thế đó, nhân dân Nga
dưới sự lãnh đạo của đảng cách mạng do Lênin đứng đầu và đảng Bônsevich đã tiếp
tục cuộc cách mạng lật đổ chính phủ tư sản lâm thời, giành chính quyền về tay các
Xô-viết đại biểu cho nhân dân
Ngày 25/10, các chiến sĩ cách mạng từ chiến hạm Rạng Đông đã nã pháo vào Cung
điện Mùa Đơng và sau đó bắt giữ tồn bộ chính phủ lâm thời. Đêm 25/10 tại Điện
Xmôn-nưi Đại hội II các Xô viết đã họp và tun bố cách mạng thành cơng, tồn bộ
chính quyền về tay các Xô-viết.
Với hai cuộc cách mạng lần lượt nổ ra là Cách Mạng Tháng Hai, và đỉnh cao là
Cách Mạng Tháng Mười
(7/11/1917) do đảng Bonsevich
đứng đầu là V.I Lenin lãnh đạo
quần chúng nhân dân khởi nghĩa
phá tan dinh lũy cuối cùng của
chính phủ lâm thời tư sản, báo
hiệu sự toàn thắng của cuộc khởi
nghĩa vũ trang giành “toàn bộ


Bài tiểu luận nhóm 1 lớp 79 k34


6

chính quyền về tay Xơ Viết”. Lần đầu tiên trong lịch sử nhà nước Xô Viết đã ra
đời. Đây là nhà nước xã hội chủ nghĩa hiện thực đầu tiên trên thế giới.
Thành công của cách mạng Tháng Mười khẳng định rằng chỉ có cuộc cách mạng
dưới sự lãnh đạo của một đảng dựa trên nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin
giành chính quyền về tay giai cấp vơ sản mới thực sự đem lại quyền lợi cho người
lao động.
Nói nhà nước Xô Viết là nhà nước là nhà nước chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên
trên thế giới là vì: Nói về cuộc cách mạng Tháng Mười đây là cuộc cách mạng vĩ
đại nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức do
giai cấp công nhân và đội tiên phong là đảng Bonsevich lãnh đạo. Cách mạng
Tháng Mười đã dùng bạo lực cách mạng đánh đỏ giai cấp tư sản và giai cấp địa
chủ phong kiến, lập nên chính quyền của những người lao động,xây dựng một xã
hội hoàn tồn mới một xã hội khơng có tình trạng người bóc lột người.
Ngay sau khi thành lập nhà nước Xơ Viết đã thể hiện được bản chất là nhà nước
chủ nghĩa xã hội nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Ngay
trong đêm 7 tháng 11 năm 1917 (25 tháng 10 theo lịch Nga), Đại hội Xơ Viết tồn
Nga lần thứ hai tun bố khai mạc tại điện Smoniyl và tun bố thành lập chính
quyền Xơ Viết do Lenin đứng đầu. Các sắc lệnh đầu tiên của chính quyền Xơ Viết
đã được thơng qua là Sắc lệnh hịa bình và Sắc lệnh ruộng đất. Chính quyền Xơ
Viết cịn thực hiện các biện pháp thủ tiêu các tàn tích của chế độ cũ như xóa bỏ sự
phân biệt đẳng cấp, những đặc quyền của giáo hội, nam nữ bình đẳng. Đối với các
dân tộc, chính phủ Xơ Viết công bố bản Tuyên ngôn về quyền các dân tộc ở Nga
khẳng định quyền bình đẳng của các dân tộc và
cho phép các dân tộc có quyền tự quyết như

công nhận nền độc lập của Ba Lan, Phần Lan.
Các cơ quan trung ương và Xô Viết các địa
phương được thành lập.
Có thể nói rằng sự thắng lợi của cách mạng Tháng
Mười Nga đã mở ra một con đường mới cho sự giải
phóng các dân tộc bị chủ nghĩa thực dân áp bức. nó
đã mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thời đại
quá độ từ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới.chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận
định: “Giống như mặt trời chói lọi, cách Mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm
châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử lồi
người chưa có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa đến thế.” Thật vậy,
lịch sử thế giới sẽ mãi mãi ghi nhận ý nghĩa to lớn của Cách mạng Tháng Mười – một
cuộc cách mạng đã làm “rung chuyển thế giới”, phá tung khâu yếu nhất của sợi dây
chuyền đế quốc chủ nghĩa, mở đầu một thời đại mới, hình thành một hình thái kinh tế

Bài tiểu luận nhóm 1 lớp 79 k34


7

– xã hội hoàn toàn mới, khác về chất so với hình thái kinh tế – xã hội tư bản bản chủ
nghĩa.

2. Mơ hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên trên thế giới.
Cách mạng Tháng Mười thành công đã hiện thực hóa lý tưởng về một xã hội mới
– XHCN, mà trước đó chỉ là những ước mơ.
Trước khi lồi người được chứng kiến về sự tồn tại hiện thực của một chế độ xã
hội mà ở đó giai cấp công và những người lao động làm chủ, chủ động tạo dựng
cho mình một cuộc sống ấm no, bình đẳng, thì trong lịch sử phát triển xã hội lồi

người cũng đã xuất hiện các tư tưởng biểu hiện nguyện vọng muốn thiết lập một
xã hội khơng có tình trạng người bóc lột người và các hình thức bất bình đẳng
khác về xã hội. Lênin đã viết: " Đã lâu rồi, đã hàng bao thế kỷ nay, thậm chí hàng
ngàn năm nay, nhân loại mong ước thủ tiêu "lập tức" mọi sự bóc lột" .
Nhưng những mong muốn, ước vọng của tầng lớp lao động trong các xã hội cũ
vẫn chỉ là những điều xa vời, không thực tế, họ không tìm ra được con đường,
cách thức để thực sự giải phóng mình khỏi áp bức, bất cơng. Cũng có khơng ít các
cuộc khởi nghĩa, đấu tranh, có cả cuộc cách mạng xã hội nhằm xóa bỏ xã hội cũ,
thay đổi cuộc sống, song hầu như đã thất bại, hoặc khi thành công lại vẫn không
vượt ra khỏi vết xe cũ, không từ bỏ được cái căn nguyên của chế độ người bóc lột
người, của bất bình đẳng, đó là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Chính vì vậy chế độ phong kiến phủ định chế độ chiếm hữu nô lệ, rồi chế độ
TBCN phủ định chế độ phong kiến, đều là nấc thang trong tiến trình phát triển của
văn minh nhân loại, song đó cũng lại chính là nấc thang bóc lột đa dạng hơn, tinh
vi hơn. Và khát vọng về một xã hội công bằng, bình đằng, khơng cịn người bóc lột
người của những con người lao động càng cháy bỏng hơn.
Cách mạng Tháng Mười thành cơng, chính quyền của giai cấp cơng nhân và nhân
dân lao động được thiết lập, những tàn tích của chế độ cũ Sa hồng bị xóa bỏ, giai
cấp vơ sản và nhân dân lao động nước Nga thoát khỏi ách áp bức thống trị của
chính quyền phong kiến chuyên chế và tư sản phản động. Người dân bắt đầu một
cuộc sống mới, cuộc sống của người làm chủ xã hội.
Trong khi nước Nga đang xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa thì các phần tử bạch
vệ với sự giúp sức của 14 nước đế quốc đã ra sức lật đổ chính quyền Xơ Viết.
Trước tình hình đó, nước Nga Xơ Viết đã áp dụng chính sách cộng sản thời chiến,
tiến hành quốc hữu hóa tài sản, tư liệu sản xuất quan trọng nhất của bon tư bản độc
quyền, đại địa chủ và các thế lực chống phá cách mạng khác, xây dựng Hồng quân
công nông. Cuộc nội chiến Nga đã diễn ra từ đầu năm 1918 đến tháng 11 năm
1920 khi Hồng quân đã đánh tan đội quân của. Cuộc nội chiến kết thúc với thắng
lợi thuộc về chính quyền Xơ Viết. Nhân dân Xơ Viết lại tiếp tục bắt tay vào sự
nghiệp xây dựng mơ hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên trên thế giới.

Sau 7 năm chiến tranh liên miên, nền kinh tế quốc dân bị tàn phá nghiêm trọng.
cộng vào đó là tình hình chính trị không ổn định. Các lực lượng phản cách mạng
Bài tiểu luận nhóm 1 lớp 79 k34


8

điên cuồng chống phá gây bạo loạn ở nhiều nơi. Chính sách cộng sản thời chiến đã
lạc hậu kìm hãm nền kinh tế, khiến nhân dân bất bình. Vì thế Nước Nga Xơ viết
lâm vào khủng hoảng. trước tình hình đó vào tháng 3/1921 Đảng Bơn-sê-vích
quyết định thực hiện chính sách mới (NEP) do Lê-nin đề xướng.
Nội dung
Trong nông nghiệp ban hành thuế nông nghiệp.
Trong công nghiệp: Nhà nước khôi phục cơng nghiệp nặng, tư nhân hóa những xí
nghiệp dưới 20 cơng nhân. Khuyến khích nước ngồi đầu tư vào nước Nga.Thực
chất đây là quá trình chuyển nền kinh tế do nhà nước độc quyền sang nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần do nhà nước kiểm sốt. Chính sách này đã có tác dụng
hết sức to lớn. Thứ nhất chính sách kinh tế mới đã thúc đẩy kinh tế quốc dân
chuyển biến rõ rệt, giúp nhân dân Xô viết vượt qua khó khăn, hồn thành khơi
phục kinh tế. Thứ hai đây là bài học đối với công cuộc xây dựng của một số nước
xã hội chủ nghĩa.
Có thể nhận định rằng mơ hình chủ nghĩa xã hội với chính sách thực hiện nền kinh
tế mới (NEP) chủ nghĩa tư bản nhà nước là một hình thức rất thích hợp để nước
Nga Xơ Viết nhanh chóng khắc phục tình trạng suy sụp kinh tế sau chiến tranh và
ngăn chặn sự nảy sinh tự phát của nền kinh tế hàng hóa nhỏ- mầm mống của sự
phục hồi chủ nghĩa tư bản.Sở dĩ chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới điều kiện chun
chính vơ sản có ý nghĩa quan trong như vậy là vì :Thứ nhất chủ nghĩa tư bản nhà
nước là một thứ chủ nghĩa tư bản có liên quan đến nhà nước. Mặc khác nhà nước
mà nước nga xây dựng nên là nhà nước của giai cấp vơ sản vì vậy thông qua việc
sử dụng tư bản nhà nước giai cấp vơ sản có thể học tập kế thừa và phát huy có

chọn lọc những thành tựu của chủ nghĩa tư bản; Thứ hai nhà nước vơ sản có thể sử
dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước như là một hệ thống các chính sách, cơng cụ, biện
pháp nhằm điều tiết mọi hoạt động của các xí nghiệp tư bản cịn tồn tại trong thời
kì q độ. Nhằm hướng tới mục đích vừa sử dụng vừa cải tạo bằng phương pháp
hịa bình đối với các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và sản xuất nhỏ. Với ý
nghĩa đó, chủ nghĩa tư bản nhà nước được coi là một trong những phương thức
phương tiện con đường có hiệu quả trong việc thúc đảy chủ nghĩa xã hội hóa và
làm tăng nhanh lực lượng sản xuất của chủ nghĩa xã hội mà kết quả căn bản của sự
xã hội hóa này thể hiện ở việc phát triển ngày càng mạnh mẽ một nền sản xuất
hàng hóa quá độ xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế mới chưa thực hiện được bao lâu thì chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra .
trong bối cảnh ấy, làm sao nhanh chóng biến nước Nga thành một cường quốc, vừa
xây dựng cơ sở vật chất xã hội chủ nghĩa vừa chuẩn bị đối phó với nguy cơ chiến
tranh. Giải quyết vấn đề này trong thời gian ngắn nhất là vấn đề sống còn đặt ra
đối với vận mệnh của Tổ quốc và chế độ xã hôi chủ nghĩa ở nước Nga. Để giải
quyết nhiệm vụ lịch sử khó khăn trên nhà nước Nga Xơ Viết đã áp dụng cơ chế kế
hoạch hóa tập trung cao, một cơ chế có thể thực hiện được khi chính quyền thuộc
về giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động. Thực tế Liên Xô đã thành công rực rỡ
trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa với thời gian chưa đầy 20 năm.
Bài tiểu luận nhóm 1 lớp 79 k34


9

Có thể khẳng định rằng trong một điều kiện lịch sử đặc biệt như vậy chỉ có chủ
nghĩa xã hội mới có thể cho phép phát huy cao độ tinh thần anh dũng, hy sinh của
hàng trăm triệu quần chúng nhân dân, mới có thể thực hiện được những kì tích như
vậy.

3. Sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước xã hội

chủ nghĩa:
Sự thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga với sự ra đời của nhà nước vơ sản đầu
tiên trên thế giới đã có tác đông hết sức to lớn đối với phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân và nhân dân bị áp bức bóc lột trên tồn thế giới. Chính tác động này đã
dẫn tới sự ra đời của hệ thống chủ nghĩa xã hội trên phạm vi từ một nước thành nhiều
nước và trở thành một hệ thống của thế giới.
Để làm rõ thêm sự tác động của cách mạng Tháng Mười Nga xin được chứng minh
bằng sự tác động của cách mạng Tháng Mười Nga đến Việt Nam chúng ta.
Những ảnh hưởng to lớn và sâu sắc của cách mạng Tháng Mười Nga đã được Chủ tịch
Hồ Chí Minh nhận thức rất đầy đủ và hướng phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam
đi theo. Nhận xét của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện tập trung trong tác phẩm
“Đường cách mệnh” và tác phẩm “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường
giải phóng cho dân tộc”.
1. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận xét một cách
sâu sắc, toàn diện về Cách mạng Tháng Mười Nga và ảnh hưởng của cuộc cách mạng
này đến cách mạng Việt Nam.
Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra tính triệt để của Cách mạng Tháng Mười Nga:
“Trong thế giới bây giờ chỉ có Cách mạng Tháng Mười Nga là đã thành công và thành
cơng đến nơi”.
(1) Nhận xét như vậy, vì trên cơ sở Người so sánh với các cuộc cách mạng trước đó
(Cách mạng pháp, cách mạng Mỹ): “Cách mạng Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa
là cách mệnh tư bản. Cách mệnh khơng đến nơi…”
(2). Tính triệt để hay “đến nơi”, theo Bác, chính là mức độ giải phóng cho nhân dân
lao động, là chính quyền có thuộc về đơng đảo quần chúng nhân dân lao động hay
không. Người chỉ rõ, Cách mạng Tháng Mười Nga đến nơi vì: “…dân chúng được
hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thực sự, khơng phải tự do và bình đẳng giả dối
như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam” còn cách mạng Pháp “khơng
đến nơi” vì: “…tiếng là cộng hịa dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục cơng nơng,
ngồi thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã bốn lần rồi mà nay cơng nơng Pháp hãy
cịn phải mưu cách mệnh một lần nữa mới hịng thốt khỏi vịng áp bức…”.

Như vậy, tính triệt để của cách mạng Tháng mười Nga đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhận thức một cách rất sâu sắc. Đó là, chính quyền thuộc về tay đại đa số quần chúng
Bài tiểu luận nhóm 1 lớp 79 k34


10

nhân dân lao động. Nếu chính quyền cịn nằm trong tay “một bọn ít người”-bọn tư
bản, thì cách mạng khơng triệt để, “chưa đến nơi”. Bên cạnh đó, theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh tính triệt để của một cuộc cách mạng cịn thể hiện ở chỗ: giải phóng nhân dân
lao động khỏi ách áp bức, bóc lột một cách triệt để và đem lại hạnh phúc, tự do và
bình đẳng thực sự cho họ. Điều này, sau này, được Người thể hiện dưới dạng khát
vọng lớn lao: “Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn đến tột bực là làm sao nước nhà
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hồn tồn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn,
áo mặc, ai cũng được học hành” .
Từ nhận thức về tính triệt để của Cách mạng Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định: “cách mạng Việt Nam muốn thành công phải đi theo con đường cách
mạng Tháng Mười Nga”. Khẳng định cách mạng Việt Nam theo cách mạng Tháng
Mười Nga, Người cũng chỉ rõ bài học mà cách mạng này đã để lại cho cách mạng
Việt Nam nói riêng, cách mạng thế giới nói chung. Trong tác phẩm “Đường cách
mệnh”, Người viết: “Cách mạng Tháng Mười Nga dạy cho chúng ta rằng cách mạng
muốn thành cơng thì phải lấy quần chúng cơng nơng làm gốc, phải bền gan, phải hy
sinh, phải có Đảng vững bền. Tóm lại là, phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”.
2. Trong tác phẩm “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho
dân tộc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ những bài học quý của Cách mạng Tháng
Mười Nga như sau:
Một là, “Cần có sự lãnh đạo của đảng cách mạng chân chính của giai cấp cơng nhân
tồn tâm, tồn ý phục vụ nhân dân” .
Hai là, “Thực hiện cho được liên minh công nông”
Ba là, “Dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính

quyền”.
Bốn là, “Khơng ngừng tăng cường và củng cố nền chun chính vơ sản” .
Năm là, “Tinh thần cách mạng triệt để
Sáu là, “Kết hợp chặt chẽ lòng yêu nước với tinh thần quốc tế vô sản” .
Cách mạng Tháng Mười Nga thành công đã có ảnh hưởng rất to lớn đối với cách
mạng Việt nam, nói riêng và cách mạng thế giới, nói chung. Một mặt cổ vũ tinh thần,
mặt khác để lại những bài học kinh nghiệm hết sức quý báu. Và thực tế lịch sử đã
chứng minh tính đúng đắn trong nhận xét và vận dụng những bài học Cách mạng
Tháng
Mười
Nga
vào
cách
mạng
Việt
Nam
của
Bác.
Quay trở lại với cách mạng Tháng Mười Nga ta thấy rõ một điều là cách mạng tháng
Mười Nga đã có một tác động cực kì to lớn trong nhận thức của giai cấp công nhân và
nhân dân lao đông trên tồn thế giới. Chính vì thế sau chiến tranh thế giới thứ hai hệ
thống chủ nghĩa xã hội ra đời trên phạm vi khắp thế giới. Trong những năm 1944 –
1945, khi Hồng qn Liên Xơ tiến hành truy kích qn đội phát xít Đức qua vùng
Đơng Âu, nhân dân và khó khăn vũ trang các nước Đơng Âu đã nổi dậy, phối hợp với
Bài tiểu luận nhóm 1 lớp 79 k34


11

Hồng quân tiêu diệt bọn phát xít, giành lấy chính quyền và thành lập các nước dân chủ

nhân dân: Cộng hoà nhân dân Ba Lan (22 – 7 – 1944), Cộng hoà nhân dân Rumani
(23 – 8 – 1944), Cộng hoà nhân dân Hunggari (4 – 4 – 1945), Cộng hoà Tiệp Khắc (9
– 5 – 1945), Cộng hoà Liên Bang Nam Tư (29 – 11 – 1945), Cộng hoà nhân dân
Anbani (11 – 12 – 1945), Cộng hoà nhân dân Bungari (15 – 9 – 1946). Riêng ở Đức,
theo sự thoả thuận của Hội nghị những người đứng đầu ba nước Liên Xô, Mĩ, Anh tại
Pôtxđam (Đức), quân đội bốn nước Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp phân chia khu vực tạm
chiếm đóng nước Đức với nhiệm vụ tiêu diệt triệt để chế độ phát xít, quân đội phát xít
và làm cho nước Đức trở thành một nước thống nhất, hồ bình và dân chủ thực sự. Ở
Đơng Đức, Liên Xô đã thực hiện nghiêm chỉnh những nhiệm vụ này, nhưng ở Tây
Đức, các nước Mĩ, Anh, Pháp lại tìm cách phục hồi chủ nghĩa quân phiệt và âm mưu
chia cắt lâu dài nước Đức. Tháng 9 – 1949, Mĩ, Anh, Pháp đã giúp cho các thế lực
thân phương Tây hợp nhất ba miền tạm chiếm đóng của Mĩ, Anh, Pháp và thành lập
nước Cộng hoà Liên bang Đức (Tây Đức). Thể theo nguyện vọng của nhân dân Đông
Đức, được sự giúp đỡ của Liên Xô, ngày 7 – 10 – 1949, nước Cộng hịa dân chủ Đức
chính thức tun bố thành lập. Sự ra đời của các nước dân chủ nhân dân Đông Âu là
một biến đổi to lớn của cục diện châu Âu sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Tuy đã thành lập Nhà nước dân chủ nhân dân nhưng chính quyền ở các nước Đơng
Âu vẫn là chính quyền liên hiệp bao gồm đại biểu các giai cấp, các đảng phái chính trị
trong Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít. Giai cấp tư sản và các chính đảng
của họ có một lực lượng va vị trí khá quan trọng trong các chính phủ liên hiệp này,
cho nên họ luôn luôn ngăn cản, phá hoại việc thực hiện những cải cách dân chủ và âm
mưu đưa các nước Đông Âu quay trở lại con đường tư bản chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh
giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản nhằm đưa đất nước đi theo con đường xã hội
chủ nghĩa hoặc tư bản chủ nghĩa đã diễn ra khá quyết liệt. Được sự giúp đỡ đắc lực
của các thế lực chống chủ nghĩa xã hội bên ngoài và các thế lực phản cách mạng bên
trong, những năm 1947 – 1948, các chính đảng tư sản đã tiến hành hàng loạt những
âm mưu đảo chính nhằm gạt bỏ những người cộng sản ra khỏi chính phủ liên hiệp và
cướp đoạt tồn bộ chính quyền.
Ở Tiệp Khắc, ngày 20 – 2 – 1948, nhân việc Bộ Nội vụ giảm biên chế, 12 bộ trưởng
tư sản đã rút khỏi chính phủ do Gơtvan, lãnh tụ Đảng Cộng sản, làm Thủ tướng. Âm

mưu của họ là với sự từ chức của ½ thành viên nội các như thế theo hiến pháp, chính
phủ Gơtvan sẽ bị đổ và Tổng thống Bênet (lãnh tụ đảng tư sản) sẽ cử đại biểu của giai
cấp tư sản đứng ra lập chính phủ mới khơng có đảng viên cộng sản tham gia. Đảng
Cộng sản Tiệp Khắc đã kịp thời kêu gọi công nhân và nhân dân xuống đường, biểu
tình, bãi cơng buộc Tổng thống Bênet phải chấp nhân đơn từ chức của 12 bộ trưởng
tư sản và uỷ nhiệm cho Gôtvan đứng ra lập chính phủ mới. Sau đó, đến lượt Bênet
cũng buộc phải từ chức và Gôtvan lên thay thế, đứng đầu nhà nước Tiệp Khắc.
Sự kiện tháng 2 – 1948 đánh dấu bước ngoặt phát triển của cách mạng Tiệp Khắc.
Ở Bungari, phái chống cách mạng do Nicôlai Petcôp (lãnh tụ đảng tư sản) cầm
đầu, đã nhận tiền bạc, vũ khí của các nước bên ngồi lập ra qn đội bí mật lấy tên
là “Đội quân sĩ quan trung lập”. Xuân 1947, bọn này âm mưu tiến hành cuộc đảo

Bài tiểu luận nhóm 1 lớp 79 k34


12

chỉnh, nhưng cơ quan an ninh cách mạng đã kịp thời phát hiện và đập tan những hoạt
động này. Tháng 6 – 1947 Petcôp đã bị bắt và kết án tử hình.
Tình hình ở các nước Đơng Âu khác cũng diễn ra tương tự. Sự giúp đỡ của Liên Xô
và việc qn đội Liên Xơ đóng qn trên lãnh thổ các nước Đông Âu đã tạo ra những
điều kiện thuận lợi cho thắng lợi của giai cấp vô sản. Sau khi nắm được tồn bộ chính
quyền, thiết lập các chun chính vơ sản, Đảng và Nhà nước các nước Đơng Âu đã
đẩy mạnh việc thực hiện các cải cách dân chủ : cải cách ruộng đất, quốc hữu hố
những xí nghiệp lớn của tư bản trong và ngoài nước, thực hiện rộng rãi các quyền tự
do dân chủ, ban hành chế độ làm việc, nghỉ ngơi, lương bổng v.v…
Đến khoảng những năm 1948 – 1949, các nước Đông Âu đều lần lượt hoàn thành
cách mạng dân chủ nhân dân và bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Như thế, việc hoàn thành cách mạng dân chủ nhân dân và bước vào thời kỳ xây
dựng chủ nghĩa xã hội của các nước Đông Âu, cùng với thắng lợi của cách mạng

Trung Quốc và sự ra đời của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa năm 1949, đánh dấu
chủ nghĩa xã hội đã vượt ra khỏi phạm vi một nước(Liên Xô) và bước đầu trở
thành một hệ thống thế giới.
Năm 1960 Tại Maxcova hội nghị 81 đảng Cộng Sản và công nhân các nước trên thế
giới tuyên bố và khẳng định: “Đặc điểm chủ yếu của thời đại chúng ta là hệ thống xã
hội chủ nghĩa trên thế giới đang trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội
loài người.” Chủ nghĩa xã hội là tương lai của xã hội loài người.

4. Những thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực
Dù cho lịch sử co nhiều biến động dù, tuy nhiên không thể phủ nhận được một sự thật
là Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa đã có một thời kì phát triển rực rỡ và đạt
được những thành tựu to lớn.
Chế độ chủ nghĩa xã hội đã từng bước đưa người dân lao động lên địa vị làm chủ xã
hội thúc đẩy đấu tranh địi quyền do dân chủ trên phạm vi tồn thế giới.
Sự ra đời của chế độ xã hội chủ nghĩa cũng có nghĩa là chế độ dân chủ được thiết lập.
bắt nguồn từ bản chất giai cấp của nó, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa- chế độ dân
chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân lao động, thực hiện ngày càng đầy đủ hơn những
quyền dân chủ, ngăn ngừa và trấn áp những hành vi xâm phạm quyền tự do dân chủ
của nhân dân. Mặt khác chế độ xã hội chủ nghĩa còn thúc đẩy trào lưu đấu tranh cho
quyền tự do dân chủ ở các nước tư bản và trên phạm vi toàn thế giới.
Trong hơn 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
đã đật được sự phát triển mạnh mẽ về tiềm lực kinh tế, đã xây dựng cơ sở vật chất của
chủ nghĩa xã hội trên quy mơ lớn với trình độ hiện đại, đảm bảo ngày càng tốt hơn đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Bài tiểu luận nhóm 1 lớp 79 k34


13


Thành tựu của Liên Xô và Đông Âu.
Với Liên Xô đã đạt được nhưng thành tựu hết sức to lớn. Trong lĩnh vực kinh tế Từ
1945 – 1950, hoàn thành kế hoạch 5 năm. Khôi phục kinh tế trong 4 năm 3 tháng
( hoàn thành trước thời hạn 9 tháng ) : Công nghiệp: tổng sản lượng công nghiệp tăng
73 %.
Nông nghiệp: một số ngành vượt mức trước chiến tranh.
Đến nửa đầu những năm 1970, Liên Xô là cường quốc công nghiệp đứng hàng thứ hai
trên thế giới ( sau Mĩ ), chiếm khoảng 20% tổng sản lượng công nghiệp trên toàn thế
giới.
Trong lĩnh vực khoa học kĩ thuật :1949: Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử.
1957: Liên Xơ là nước đầu tiên phóng thành cơng vệ tinh nhân tạo.1961: Liên Xơ
phóng tàu vũ trụ Phương Đơng đưa nhà du hành vũ trụ Ga-ga-rin bay vòng quanh
Trái Đất, mở đầu kỷ nguyên chinh phục vũ trụ của loài người.

Trong lĩnh vực văn hóa xã hội : xã hơi Liên Xơ có những thay đổi rõ rệt. Năm 1971,
cơng nhân chiếm hơn 55% số người lao động trong cả nước. Nhân dân Liên Xơ có
trình độ học vấn cao với gần 3/4 só dân đạt trình độ trung học và đại học.
Trong lĩnh vực chính trị và đối ngoại:
+ Chính trị: Từ 1950 đến những năm 70, nhìn chung tình hình chính trị Liên Xơ tương
đối ổn định, Đảng Cộng sản và Nhà nước Xơ viết hoạt động tích cực, có hiệu quả, tạo
được niềm tin trong nhân dân. Đảm bảo được khối đoàn kết thống nhất giữa Đảng,
Nhà nước, nhân dân và các dân tộc.
+ Đối ngoại: Liên Xơ chủ trương thực hiện chính sách đối ngoại hịa bình và tích cực
ủng hộ phong trào cách mạng thế giới.Liên Xơ đã đấu tranh cho hịa bình, an ninh,
kiên quyết chống chính sách gây chiến xâm lược của cơng nhân đế quốc và các thế lực
phản động. Liên Xô trở thành trụ cột của hệ thống xã hội chủ nghĩa, là chỗ dựa cho
hịa bình và phong trào cách mạng thế giới.
Bài tiểu luận nhóm 1 lớp 79 k34



14

Đối với các nước Đông Âu công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hôi cũng đạt được nhiều
thành tựu:
Trong những năm 1950 – 1975, nhân dân các nước Đông Âu đã thực hiện 5 kế hoạch
5 năm ( Vì là thành viên của Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) và nhằm phối hợp chặt
chẽ với nhau trong các kế hoạch kinh tế dài hạn, nên những nước Đông Âu lập các kế
hoạch 5 năm giống nhau về mốc thời gian nhằm xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội.)
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân các nước Đông Âu đã diễn ra
trong những điều kiện khó khăn, phức tạp: tuy đã là những nước tư bản nhưng cơ sở
vật chất – kỹ thuật của các nước Đơng Âu cịn hết sức lạc hậu (trừ Tiệp Khắc, Cộng
hoà dân chủ Đức); các nước đế quốc tiến hành bao vây kinh tế và can thiệp, phá hoại
về chính trị; ở trong nước, các thế lực chống chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại và ra sức
chống phá (tư sản, địa chủ, lực lượng tôn giáo…). Tuy thế, với sự hậu thuẫn của Liên
Xô, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân các nước Đông Âu đã giành
được nhiều thành tựu to lớn về mọi mặt, làm thay đổi bộ mặt của các nước Đông Âu
qua hơn hai thập nên, tất cả các âm mưu chống phá do bọn đế quốc và các thế lực
phản động trong nước gây ra đều lần lượt bị dập tắt.
Trước chiến tranh, Anbani là một nước nghèo và chậm phát triển nhất châu Âu:
chưa có đường sắt, máy kéo trong nơng nghiệp cịn rất hiếm, đất nước khơng có cơng
nghiệp… Đến giữa những năm 70, Anbani đã xây dựng được nền công nghiệp với
hàng trăm xí nghiệp các ngành điện, cơ khí, luyện kim, hố chất, dệt… Năm 1970,
Anbani đã hồn thành cơng cuộc điện khía hố cả nước. Sản xuất nơng nghiệp đã
thoả
mãn
được
nhu
cầu
lương

thực
của
nhân
dân.
Ở Ba Lan, so với năm 1938, sản xuất công nghiệp đầu những năm 70 tăng 20
lần, sản xuất nông nghiệp tăng gấp đôi. Gần nửa số dân Ba Lan đã được sống trong
những ngơi nhà mới xây dưới thời chính quyền của nhân dân.
Ở Bungari, tổng sản phẩm công nghiệp năm 1975 tăng 55 lần so với năm 1939.
Nông thôn đã hồn tồn điện khí hố. Nước Cộng hồ dân chủ Đức (dân số bằng ¼,
diện tích bằng 1/3 nước Đức cũ, công nghiệp và tài nguyên chủ yếu nằm ở Tây Đức),
sau 30 năm xây dựng chế độ mới, đã đạt mức sản xuất công nghiệp bằng cả nước
Đức năm 1939. Từ một miền trước đây chủ yếu sản xuất nông nghiệp, đến năm 1970,
76% thu nhập quốc dân ở Đức là do sản xuất công nghiệp mang lại. Vốn được mệnh
danh ở châu Âu là “đất nước của một triệu người khất thực”, sau hơn 20 năm xây
dựng chế độ mới, Hunggari đã trở thành một nước công – nơng nghiệp, có nền văn
hố và khoa học, kỹ thuật tiên tiến. Rumani, từ một nước nông nghiệp cũng đã trở
thành một nước cơng – nơng nghiệp, trong đó sản xuất công nghiệp chiếm gần 70%
thu nhập quốc dân. Tiệp Khắc đã được xếp vào hàng các nước công nghiệp trên thế
giới: năm 1970, sản lượng công nghiệp chiếm 1,75% tổng sản lượng cơng nghiệp
tồn
thế
giới.
Cùng với sự phát triển về kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân tất
cả các nước Đơng Âu đều có sự tăng tiến rõ rệt so với trước kia.
Với công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước của các nước ở Đơng Âu. Bộ mặt đất
Bài tiểu luận nhóm 1 lớp 79 k34


15


nước ngày càng thay đổi, đời sống vật chất và tinh thần của người dân tăng lên rõ rệt.
Các nước Đông Âu đã đẩy mạnh sản xuất, làm tăng năng suất và sản lượng các ngành
kinh tế, đặc biệt là ngành công nghiệp.
Những thành tựu các nước Đông Âu đạt được đã làm thất bại âm mưu chống phá của
các thế lực phản động.
Các thành tựu trên đã góp phần khẳng định vị thế của các nước Đông Âu, tăng cường
thêm sức mạnh cho phe xã hội chủ nghĩa, cho cách mạng thế giới.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
các nước Đơng Âu đã phạm một số thiếu sót và sai lầm, như rập khuôn một cách giáo
điều theo mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xơ trong những hoàn cảnh và
điều kiện đất nước khác biệt so với Liên Xô (ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, tập
thể hố nơng nghiệp, nhà nước nắm đế quốc về kinh tế dẫn đến hình thành nhà nước
bao cấp về kinh tế…), thiếu dân chủ, thiếu công bằng xã hội và vi phạm pháp chế xã
hội chủ nghĩa v.v… Chính những thiếu sót và sai lầm này đã làm giảm sút đi bản chất
ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa và dần làm mất đi lòng tin của nhân dân các nước
Đông Âu
Sự phát triển và những thành tựu của hội đồng tương trợ kinh tế SEV
Ngày 8-1-1949, Hội đồng tương trợ Kinh tế ( viết tắt theo tiếng Nga là SEV ) được
thành lập. Đây là thời điểm các nước Đông Âu xây dựng Chủ nghĩa Xã hội.
Sự ra đời của hội đồng tương trợ kinh tế nhằm mục đích tăng cường hợp tác giúp đỡ
nhau về kinh tế, văn hóa, khoa học kĩ thuật giữa Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu.
Khối SEV ra đời đã thúc đẩy sự phát triển của Chủ nghĩa Xã hội. Xây dựng cơ sở vật
chất, kĩ thật ( chiếm 35% sản lượng công nghiệp thế giới ở nửa đầu những năm 70 ).
Nâng cao đời sống nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa.
Từ những thành tựu của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đạt được có thể thấy rõ
một điều rằng chủ nghĩa xã hội đang thực sự lớn mạnh.
Sự lớn mạnh tồn diện của chủ nghĩa xa hội đã có ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống kinh
tế chính trị thế giới, đóng vai trị quyết định đối với sự sụp đổ hệ thống thuộc địa của
chủ nghĩa đế quốc mở ra kỉ nguyên mới kỉ nguyên độc lập dân tộc và thời đại quá độ

lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Chế độ xã hội chủ nghĩa được thiết lập không chỉ mở ra một xu thế phát triển tất yếu
cho các dân tộc là con đường xã hội chủ nghĩa mà bằng sự giúp đỡ tích cực, có hiệu
quả về nhiều mặt các nước xã hội chủ nghĩa đã góp phần làm phát triển mạnh mẽ
phong trào giải phóng dân tộc.
Sức mạnh của chủ nghĩa xã hội cịn đóng vai trị quyết định đẩy lùi nguy cơ chiến
tranh hủy diệt, bảo vệ hịa bình thế giới.
Ngay tại các nước phương Tây, nhân dân lao động được hấp dẫn thực tế của chủ nghĩa
xã hội đã đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ, các phúc lợi xã hội… buộc các
nước phương Tây đã phải nhượng booj và chấp nhận thực tế các yêu sách đó.
Chỉ trong vòng hơn 70 năm từ 1917-1991 chủ nghĩa xã hội hiện thức đã trải qua một
Bài tiểu luận nhóm 1 lớp 79 k34


16

thời kì phát triển rực rỡ có những thành tựu rực rỡ, có những thành tựu to lớn và đã
phát huy mạnh mẽ đến tiến trình phát triển lịch sử lồi người.
Sự phát triển vũ bão của ba dịng thác cách mạng trong suốt mấy thập kỉ đã gắn liền
với sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực với hệ thống xã hội chủ
nghĩa.

Phần thứ hai: sự khủng hoảng, sụp đổ của mơ hình
chủ nghĩa xã hơi Xơ Viết và ngun nhân của nó.
1. Sự khủng hoảng và sụp đổ của mơ hình chủ nghĩa xã hội Xơ Viết.
Lịch sử xã hội lồi người khơng đitheo con đường thẳng và phong trào cách mạng
cũng không tránh khỏi sai lầm và thất bại hay những thời kì thối trào. Và chủ
nghĩa xã hội cũng khơng thể tranh khỏi điều đó. Đến cuối những năm 80 của thế kỉ
XX, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đơng Âu đi vào thời kì khủng hoảng
a. Sự khủng hoảng và sụp đổ của Liên Xô

Năm 1973, cuộc khủng hoảng dầu mỏ thế giới bùng nổ đã đánh mạnh vào nền kinh
tế, chính trị của tất cả các nước, song Liên Xơ lại chậm sửa đổi để thích ứng với tình
hình mới đó. Do đó, đến cuối những năm 70, đất nước Liên Xơ lâm vào suy thối cả
về kinh tế và chính trị.
Tháng 3/1985, M. Gcbachốp lên nắm quyền lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô
đã tiến hành công cuộc cải tổ đất nước. Tập trung vào việc "cải cách kinh tế triệt để",
sau lại chuyển trọng tâm sang cải cách hệ thống chính trị và đổi mới tư
tưởng.chính sự cải cách về hệ thống chính trị này đã làm cho tình hình nước Nga trở
nên trầm trọng hơn.
* Về kinh tế : Chuyển sang kinh tế thị trường quá vội vã, thiếu sự điều tiết của nhà
nước nên đã gây ra sự rối loạn, thu nhập quốc dân giảm sút nghiêm trọng.
* Về chính trị : Thực hiện chế độ Tổng thống nắm mọi quyền lực và cơ chế đa
nguyên chính trị nên đã làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và nhà nước
Xơ viết, tình hình chính trị xã hội hỗn loạn.
Hậu quả : Xô viết lâm vào khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng.
Ngày 19/8/1991, một số người lãnh đạo Đảng, Nhà nước Xơ viết tiến hành đảo chính,
lật đổ Tổng thống Gcbachốp. cuộc đảo chính thất bại ngày 21/8/1991 làm cho
Đảng Cộng Sản Liên Xơ bị đình chỉ hoạt động, chính phủ Xơ Viết bị giải thể làn
sóng chống CNXH lên cao.
Ngày 21/12/1991 : 11 nước cộng hòa tuyên bố thành lập Cộng đồng các quốc gia
độc lập (SNG), nhà nước Liên bang Xô viết tan rã.
- Ngày 25/12/1991, Tổng thống Goócbachốp từ chức, lá cờ đỏ búa liềm trên nóc điện
Kremli hạ xuống, CNXH Liên Xơ sụp đổ sau 74 năm tồn tại.

b. Sự khủng hoảng của chế độ XHCN ở các nước Đông Âu.

Bài tiểu luận nhóm 1 lớp 79 k34


17


Năm 1985, Liên Xô đã bước vào cải tổ, tuy rằng quá muộn, nhưng các nước Đông
Âu vẫn chưa hề chuyển động: Anbani vẫn bảo thủ giữ nguyên những cơ chế cũ của
30 năm trước đây và "khép kín cửa" đối với bên ngoài; các nhà lãnh đạo Rumani,
Cộng hoà dân chủ Đức, Bungari thì cho rằng nước mình chẳng có gì sai sót để cải tổ
hoặc cải cách; ở Ba Lan, ngay từ đầu những năm 80, tình hình kinh tế, chính trị, xã
hội đã trở nên căng thẳng, phức tạp; ở Hunggari, Tiệp Khắc, các thế lực chống chủ
nghĩa xã hội ráo riết tập hợp lực lượng, chờ đợi cơ hội. Ở một số nước Đông Âu, hiện
tượng tách rời quần chúng và tha hoá của một số nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã
làm biến dạng chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước này và làm nhân dân rất bất bình.
Ở Rumani, vợ chồng Xêauxexcu đã biến nhà nước xã hội chủ nghĩa thành một chế độ
độc tài "gia đình trị" với cuộc sống vương giả, sa đoạ. Ở cộng hoà dân chủ Đức,
Bungari, một số uỷ viên Bộ chính trị Đảng đã lạm dụng quyền lực, hưởng thụ những
đặc quyền đặt lợi để đến nỗi bị khai trừ khỏi Đảng và truy tố trước pháp luật.
Cuộc khủng hoảng nổ ra sớm nhất ở Ba Lan, từ cuối năm 1988, sau đó lan sang
Hunggari, Tiệp Khắc, Cộng hoà dân chủ Đức, Rumani, Bungari, Nam Tư, Anbani.
Các thế lực chống chủ nghĩa xã hội, với sự tiếp sức của các nước phương Tây, ra sức
hoạt động, kích động cơng nhân bãi cơng, quần chúng biểu tình, đấu tranh địi Đảng
và Nhà nước các nước Đơng Âu phải cải cách kinh tế, chính trị, thực hiện chế độ đa
ngun về chính trị, xố bỏ độc quyền lãnh đạo của một Đảng Cộng sạn, tiến hành
tổng tuyển cử tự do... Những hoạt động trên đây làm tê liệt mọi sinh hoạt của đất
nước, đẩy chế độ xã hội chủ nghĩa lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện và trầm
trọng. Đảng và Nhà nước các nước Đông Âu lần lượt buộc phải chấp nhận xoá bỏ
độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thực hiện chế độ đa nguyên và tiến hành
tổng tuyển cử tự do.
Kết quả, qua tổng tuyển cử tự do, ở hầu hết các nước Đông Âu (Ba Lan, Hunggari,
Tiệp Khắc, Cộng hoà dân chủ Đức), các thế lực chống chủ nghĩa xã hội đều đã thắng
cử, nắm được chính quyền Nhà nước, cịn Đảng Cộng sản bị thất bại, để rơi mất
chính quyền khỏi tay mình. Ở Rumani, ngày 16 - 12 - 1989, quần chúng nhân dân
thành phố Timisoara tiến hành biểu tình hồ bình phản đối nhà cầm quyền bắt giam

một mục sư Tin lành và đưa ra những khẩu hiệu chống lại chính phủ Xêauxexcu.
Cảnh sát đến đàn áp, quần chúng càng thêm phẫn nộ. Ngày 22 - 12 - 1989, quần
chúng đã nổi dậy, làm chủ được tình hình ở Bucaret. Hội đồng Mặt trận cứu nước
Rumani tuyên bố xoá bỏ chế độ độc tài Xêauxexcu; ngày 25 - 12 - 1989, vợ chồng
Xêauxexcu bị xử tử, tồn thể Bộ chính trị Đảng Cộng sản Rumani và các thành viên
nội các (60 người) bị bắt giữ. Toàn bộ hệ thống Đảng, chính quyền của chế độ
Xêauxexcu đã bị sụp đổ. Ở Bungari, Nam Tư, Anbani, lúc này chính quyền tuy cịn ở
trong tay Đảng của giai cấp công nhân, nhưng khủng hoảng vẫn tiếp diễn ngày càng

Bài tiểu luận nhóm 1 lớp 79 k34


18

thêm trầm trọng: nội chiến đã diễn ra trọng nội bộ Liên bang Nam Tư giữa các nước
cộng hồ Crơatia, Xecbia; chính quyền ở Bungari, Anbani đang lầm vào khủng
hoảng sâu sắc trước những cuộc bãi công của công nhân, biểu tình của quần chúng và
tình hìh kinh tế trở nên ngày càng khó khăn, căng thẳng
Như thế, trong những năm 1989 - 1991, cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội ở các
nước Đông Âu đã dẫn tới những biến đổi lớn: Ba Lan, Hunggari, Tiệp Khắc... quay
trở lại đi theo con đường tư bản chủ nghĩa; sau sự kiện sụp đổ của “ Bức tường
Berlin” ngày 10-11-1989 Cộng hoà dân chủ Đức sáp nhập vào Cộng hoà liên bang
Đức để trở thành một quốc gia thống nhất với tên Cộng hoà liên bang Đức; hầu hết
các đảng của giai cấp công nhân ở các nước Đông Âu đều đổi tên đảng và chia rẽ
thành nhiều phe phái, nhiều tổ chức với tên gọi khác nhau; tên nước, quốc kì, quốc
huy

ngày
quốc
khánh

đều
phải
thay
đổi
lại
Đây là một bước thụt lùi và một thất bại nặng nề của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
toàn thế giới, dẫn đến hệ thống thế giới của chủ nghĩa xã hội trên thực tế khơng cịn
tồn tại nữa.
Tháng 1
11-01-1989: Quốc hội Hungary biểu quyết chấp nhận quyền tự do hội họp và tự do
ngơn luận.

Tịa nhà Quốc Hội Hungary

19-01-1989: Đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan (Đảng
Cộng sản Ba Lan) tổ chức họp khẩn thảo luận các u sách
của Cơng Đồn Đồn Kết để ngưng các cuộc đình cơng. Kết
quả là đảng Cộng sản Ba Lan chấp nhận chính trị đa thành
phần và chấp nhận sinh hoạt cơng đồn đa thành phần.
Tháng 2
06-02-1989: Hội Nghị Bàn Trịn giữa Cơng Đồn
Đồn Kết và Đảng Cơng Nhân Thống Nhất Ba
Lan khai mạc.

Bài tiểu luận nhóm 1 lớp 79 k34


19

10-02-1989: Hội Nghị Ban Chấp Hành

Đảng Công Nhân Hung Gia Lợi biểu quyết
cho Tối Cao Pháp Viện xét lại vụ chính
biến 1956.

Tháng 3
15-03-1989: Hơn 75 ngàn người
biểu tình tại Budapest địi qn đội
Liên Xơ triệt thối và địi bầu cử tự
do.

22-03-1989: Hungary Tổ Chức Hội Nghị
Bàn Tròn giữa thành phần đảng viên cấp tiến
trong đảng Cộng sản Hung với các đảng đối
lập.
Tháng 4
05-04-1989: Hội nghị Bàn Tròn Tại
Ba Lan bế mạc, hai bên đồng ý thiết
lập Tổng thống chế, công nhận sự hợp
pháp của Cơng Đồn Đồn Kết.
16-04-1989: Sáu nhân vật kỳ cựu của
đảng Cộng sản Romania đưa kiến nghị
yêu cầu Tổng Bí Thư Ceausescu từ
chức, nhưng Ceausescu từ chối.
17-04-1989: Cơng Đồn Đồn Kết
chính thức đăng lục là Nghiệp Đồn Tự Quản.

Bài tiểu luận nhóm 1 lớp 79 k34


20


Tháng 5
08-05-1989: Cơng nhân, trí thức Đơng Đức khởi xướng biểu tình tại
Thủ đơ Đơng Berlin chống cuộc bầu cử gian lận trong cuộc bầu cử
Hội Đồng Nhân Dân địa phương.
09-11-1989: Chủ tịch Đảng Cộng sản
Đông Đức, đồng thời là chủ tịch nước
bị áp lực của dư luận và trong nội bộ
đảng nên tuyên bố mở cửa bức Tường Berlin. Đêm này
đã có hơn 100 ngàn người bên Đơng và Tây túa ra
đường và đập phá bức tường Berlin
2. NGUYÊN NHÂNDẪN TỚI SỰ KHỦNG HOẢNG VÀ SỤP ĐỔ CỦA MƠ
HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HÔI LIÊN XÔ VÀ ĐÔNG ÂU
Chủ nghĩa xã hội hiện thực ra đời và tồn tại hơn 70 năm, đã qua những thử thách khó
khăn cực kỳ to lớn, ngay lúc mới ra đời nằm trong vòng vây thù địch của chủ nghĩa đế
quốc và sự phản loạn từ bên trong, dù bị bao vây kinh tế hay chiến tranh thế giới đều
không thể đánh đổ được Liênxô, không thể đánh đổ được chủ nghĩa xã hội. Khơng
những thế trong khó khăn thử thách đã làm cho chủ nghĩa xã hội không ngừng lớn
mạnh, từ một nước đã trở thành hệ thống thế giới. Liênxô từ một nước kinh tế, văn
hoá lạc hậu phát triển thành một “siêu cường”, đối trọng với Mỹ- cường quốc tư bản
chủ nghĩa số một thế giới. Nhưng tại sao trong một thời gian ngắn lại xảy ra những
thay đổi to lớn đến thế? Nguyên nhân của nó ở đâu? Cần có lời giải xác đáng.
a. NGUYÊN NHÂN SÂU XA DẪN TỚI SỰ KHỦNG HOẢNG VÀ SỤP ĐỔ
CỦA MƠ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI XƠ VIẾT.
Như đã phân tích ở trên, chủ nghĩa xã hội Xôviết ra đời trong điều kiện lịch sử đặc
biệt, mơ hình tổ chức xã hội để thích ứng với hồn cảnh lịch sử đó khó tránh khỏi
những khuyết tật. Khi điều kiện lịch sử thay đổi mô hình đó khơng kịp thời thay
đổi bổ sung để thích ứng thì những khuyết tật ấy bộc lộ ra và dẫn tới khủng hoảng
tồn hệ thống. Nếu như mơ hình tổ chức xã hội dựa trên kế hoạch hoá tập trung đã
phát huy được sức mạnh cho cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại thì trong điều kiện

hồ bình xây dựng chủ nghĩa xã hội mơ hình này tỏ ra khơng phù hợp. Cơ chế kế
hoạch hố tập trung làm mất đi tính chủ động sáng tạo của người lao động, chậm
trễ trong việc tiếp thu những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và cơng
nghệ. Trong khi đó các nước tư bản chủ nghĩa với nền kinh tế thị trường lại tiếp
nhận thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ vào những năm 80 của
thế kỷ XX nhanh hơn các nước xã hội chủ nghĩa. Trong những điều kiện lịch sử
mới, mơ hình chủ nghĩa xã hội Xơviết tỏ ra khơng cịn phù hợp.
Do chậm đổi mới cơ chế kinh tế, hệ thống quản lí, nói chung là chậm đổi mới mơ
hình chủ nghĩa xã hội nên hậu quả là Liên Xô đang rút ngắn dần khoảng chách với
các nước tư bản thì đến giữa những năm 70 của thế kỉ XX tình hình diễn ra theo xu
hướng ngược lại.

Bài tiểu luận nhóm 1 lớp 79 k34


21

Đây khơng phải là những khuyết tật mang tính bản chất của chế đọ xã hội chủ
nghĩa mà do quan niệm giáo điều về chủ nghĩa xã hội.
“ Do duy trì q lâu những khuyết tật của mơ hình chủ nghĩa xã hội, chậm trễ
trong cách mạng khoa học và cơng nghệ” nên gây ra tình trạng trì trệ kéo dài về
kinh tế xã hội rồi đi tới khủng hoảng.”(Cương lĩnh năm 1991 của đảng cộng sản
Việt Nam)
Chính đó là nguyên nhân sâu xa làm cho xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng
dẫn tới sụp đổ ở Liênxô và Đông Âu.
b. NGUYÊN NHÂN TRỰC TIẾP ẢNH HƯỞNG TỚI SỰ SỤP ĐỔ CỦA LIÊN
XƠ VÀ ĐƠNG ÂU.
Với cùng một mơ hình tổ chức xã hội kiểu Xơviết, khi gặp khó khăn
khủng hoảng các nước xã hội chủ nghĩa đều tiến hành cải cách, cải
tổ, đổi mới, nhưng Liênxô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đơng Âu

thì sụp đổ, một số nước xã hội chủ nghĩa khác thì khơng. Chung quy
lại vấn đề nảy sinh từ nội bộ Đảng cầm quyền và sai lầm, sự phản
bội của những người lãnh đạo cao nhất. Bởi vì, các nước xã hội chủ
nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đảng là trung tâm lãnh đạo và chỉ
huy của nhà nước và xã hội. Đảng có vấn đề thì đó là vấn đề mang
tính sống cịn đối với nhà nước và đối với chế độ.
Trong cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc sai lầm rất nghiêm
trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng không coi
trọng kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn nước mình và đặc
điểm thời đại, không coi trọng việc kế thừa, bổ sung và phát triển lý
luận mácxít. Hoặc là giáo điều, rập khn máy móc, khơng căn cứ
vào tình hình mới để phát triển sáng tạo. Đánh giá không công bằng
với lịch sử, từ chỗ phê phán sai lầm của cá nhân đi đến phủ nhận
toàn bộ lịch sử của Đảng và của nhà nước, phủ định chế độ xã hội
chủ nghĩa, phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin để cuối cùng đi theo con
đường chủ nghĩa dân chủ xã hội.
Về tổ chức. Chế độ tập trung trong Đảng bị phá hoại, không những
làm cho Đảng mất khả năng của bộ chỉ huy chiến đấu mà ngay mâu
thuẫn trong đảng cũng không giải quyết nổi. Tính chất quan liêu,
giáo điều bảo thủ rất nặng nề ở bộ phận lãnh đạo cấp cao của Đảng
và nhà nước tác động to lớn đến đời sống xã hội. Nhân danh cải tổ
với khẩu hiệu dân chủ hoá, cơng khai hóa trong bộ phận lãnh đạo
cấp cao đã hình thành các phe nhóm. Với chiêu bài phi chính trị lực
lượng vũ trang, quân đội có nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc chứ không
thuộc đảng phái nào để tách lực lượng vũ trang khỏi sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, từng bước vơ hiệu hố và giải tán Đảng Cộng sản.
Sự phân liệt Đảng Cộng sản thành các phe nhóm chính trị khác
nhau, nhiều tổ chức, đảng phái chính trị ra đời đấu tranh giành
quyền lực chính trị. Khuynh hướng dân tộc ly khai nảy sinh, những
cuộc xung đột đẫm máu xảy ra tạo môi trường cho các lực lượng

phản động trỗi dậy, xã hội mất phương hướng gây thảm hoạ cho
Bài tiểu luận nhóm 1 lớp 79 k34


22

nhân dân.
Lực lượng phản bội trong nước tìm chỗ dựa từ các chính phủ tư sản
bên ngồi, các thế lực chống chủ nghĩa xã hội cũng xem đây là cơ
hội tốt để thực hiện ý đồ “diễn biến hồ bình”. Chúng ra sức cổ vũ lôi
kéo những phần tử cơ hội, phản bội giữ địa vị cao ở các cơ quan
đảng, nhà nước để đưa đất nước theo xu hướng tư bản. Khi bộ phận
lãnh đạo tối cao đã liên kết với lực lượng đế quốc bên ngồi thì chủ
nghĩa xã hội theo mơ hình Xơviết dễ dàng sụp đổ.
Cộng vào đó chủ nghĩa đế quốc đã can thiệp tồn diện, vừa tinh vi
vừa trắng trợn thực hiện được diện biến hịa bình trong nội bộ Liên
Xơ và các nước Đông Âu.
Chủ nghĩa đế quốc đã sớm nhận ra những lỗ hổng trong nội bộ của
nhà nước Xô Viết. Bằng việc thực hiện nhiều chính sách như phát
động chiến tranh lạnh với Liên Xơ. Sau đó khi nhận ra cái gót chân
Asin trong cơng cuộc cải tổ của Liên Xơ như đường lối xét lại hệ tư
tưởng tư sản, chính sách thỏa hiệp, nhân nhượng vô nguyên tắc với
Mỹ và phương Tây thì các thế lực chống chủ nghĩa xã hội đã theo sát
q trình cải tổ và lái nó theo ý đồ của chúng. Trong nội bộ Liên Xô
và Đông Âu.
Việc hứa hẹn viện trợ kinh tế được dùng làm một vũ khí rất lợi hại để
lái cải tổ theo quỹ đạo mà phương Tây mong muốn. chủ nghĩa đế
quốc đã đẩy mạnh thực hiện diến biến hịa bình.
“ Tồn bộ vũ khí của chúng ta, các hiệp định mậu dịch, viện
trợ kinh tế sẽ không đi đến đâu nếu chúng ta thất bại trên

mặt trận tư tưởng”( NichXon)

Bài tiểu luận nhóm 1 lớp 79 k34


23

Vậy chủ nghĩa xã hội sụp đổ
có phải là tất yếu lịch sử?
Trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội
mơ hình Xơviết trì trệ và khủng
hoảng thì cải cách, cải tổ, đổi mới

tất yếu mới có thể đưa đất nước
ra
khỏi khủng hoảng. Nhưng sự sụp
đổ của chủ nghĩa xã hội không
thể là tất yếu vì thực tế ở những
nước xã hội chủ nghĩa khác qua cải cách đổi mới đã đưa đất nước
từng bước thốt khỏi khó khăn. khủng hoảng như Trung Quốc, Việt
Nam. Vấn đề là ở chỗ cải cách, cải tổ, đổi mới như thế nào, cần phải
giữ vững nguyên tắc nào mà thôi.

KẾT LUẬN: Lịch sử 90 năm qua đã diễn ra với biết bao thăng trầm, nhưng
Cách mạng Tháng Mười với những giá trị lớn lao của nó vẫn đang tiếp tục tác động
mạnh mẽ đến tồn bộ sự nghiệp cách mạng thế giới và công cuộc đổi mới của nước ta.
Cách mạng Tháng Mười Nga đã ghi vào lịch sử thế giới hiện đại những trang chói lọi
nhất. Đó là một cuộc cách mạng chưa từng có trong thế kỷ XX, một cuộc cách mạng
mở đầu “một sự nghiệp mới mẻ” - “sự nghiệp sáng tạo ra một kiểu chế độ nhà nước
xưa nay chưa từng có”, “mở ra một thời đại mới trong lịch sử thế giới”. Lịch sử nhân

loại đã từng có khơng ít các cuộc cách mạng có ảnh hưởng tới sự phát triển xã hội,
song Cách mạng Tháng Mười Nga là một cuộc cách mạng mang ý nghĩa lịch sử tồn
cầu. Nó là cột mốc đánh dấu thời kỳ đấu tranh cách mạng mới vì những mục tiêu của
thời đại là hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Sự thắng lợi của cách mạng Tháng Mười đã đánh dấu sự ra đời của nhà nước xã hội
chủ nghĩa hiện thực đầu tiên trên thế giới. Chủ nghĩa xã hội đã phát triển mạnh mẽ và
trở thành hệ thống của thế giới đã chứng minh được tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội.
Sau nhiều thập kỷ tồn tại và phát triển, giờ đây chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xơ và
Đơng Âu đã khơng cịn tồn tại với tư cách là một hệ thống thế giới, song điều đó
khơng có nghĩa là con đường đi tới chủ nghĩa xã hội đã bị chặn lại. Trên phạm vi toàn
thế giới, nhiều quốc gia, dân tộc vẫn phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, theo
lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười. Điều đó cho phép chúng ta khẳng định rằng, đi
tới chủ nghĩa xã hội là quy luật tiến hóa của xã hội lồi người.
việc sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là một tổn thất nặng nề,
song không phải do bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa Mác - Lê-nin
sinh ra. Vì vậy, việc coi sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước
Đông Âu là sự kết thúc của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác - Lê-nin là hồn tồn
vơ căn cứ, hoàn toàn trái với lý luận, thực tiễn hết sức phong phú, sinh động đã và
đang diễn ra trong đời sống chính trị của thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Bài tiểu luận nhóm 1 lớp 79 k34


24

1. GIÁO TRÌNH NHỮNG NGUN LÍ CƠ BẢN CHỦ NGHĨA MAC- LENIN (
NXB CHÍNH TRỊ QUỐC GIA)
2. LỊCH SỬ 11 (NXB GIÁO DỤC)
3. BÀI VIẾT THAM KHẢO CỦA NGUYỄN DUY QUÝ GS,VS, VIỆN KHOA
HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM.

4. TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN ƠN TẬP NHỮNG NGUN LÍ CƠ BẢN CHỦ
NGHĨA MAC- LÊN NIN (KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ TRƯỜNG ĐH
KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH)
NHẬN XÉT CỦA CƠ GIÁO
...............................................................................................................................

Bài tiểu luận nhóm 1 lớp 79 k34


25

...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................

...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................

Bài tiểu luận nhóm 1 lớp 79 k34


26


Bài tiểu luận nhóm 1 lớp 79 k34



×