Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở hải quan quảng ninh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.08 KB, 83 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I
*
NGUYỄN QUỐC VƯƠNG
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở Hải
quan Quảng Ninh hiện nay
LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số:60340410
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS,TS TRẦN HÙNG
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng ta đặc biệt coi trọng công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ
trong quá trình xây dựng đất nước, coi đây là nhiệm vụ quan trọng mang tính
chiến lược, nó quyết định sự thành bại đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Chính vì vậy, qua mỗi giai đoạn lịch sử, Đảng luôn xây dựng được một đội
ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính
trị. Từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI cho đến nay Đảng tiếp tục khẳng
định rõ quan điểm phải đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cả về lý luận chính trị, phẩm
chất đạo đức cách mạng, trình độ chuyên môn và năng lực thực tiễn. Vì vậy,
quan tâm đào tạo bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý ở các doanh
nghiệp được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng. Đặc biệt là
trong gần 30 năm lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm xây dựng
đội ngũ cán bộ phục vụ sự nghiệp cách mạng.
Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII, Nghị
quyết Trung ương IX chỉ rõ: đa số cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng,
trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, có tư duy đổi mới, năng động
trong lãnh đạo, điều hành công việc, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong
công tác xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị, một bộ phận vươn
lên đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.


Cục Hải quan tỉnh Quảng Ninh - một đơn vị Hải quan cấp tỉnh trực thuộc
Tổng cục Hải quan, đóng trên địa bàn thành phố Hạ Long, đã đóng góp một
phần không nhỏ trong đà tăng trưởng của tỉnh Quảng Ninh, phải đảm nhiệm
những nhiệm vụ hết sức nặng nề trong công tác quản lý nhà nước về Hải quan
thông qua việc quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn nhằm góp phần
giữ vững ổn định kinh tế, chính trị, xã hội cho tỉnh.
2
Quá trình ra đời và phát triển của Cục Hải quan tỉnh Quảng Ninh gắn
liền với những điểm mốc lịch sử quan trọng của tỉnh Quảng Ninh và của Hải
quan Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng. Chỉ sau hơn một tuần kể từ ngày
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, ngày 10/09/1945 Chính
phủ Lâm thời đã ra Sắc lệnh số 27/SL thành lập Sở Thuế quan và Thuế gián
thu trực thuộc Bộ Tài chính. Đến ngày 05/02/1946, Bộ Tài chính ra Nghị định
số 192-TC về hệ thống tổ chức các cơ quan Thuế quan và Thuế gián thu từ
Trung ương đến địa phương và khu vực, Vùng Quảng Ninh ngày nay thuộc về
Khu vực thứ nhất của Bắc Bộ và có 4 Chánh thu sở, 5 Phụ thu sở, đây là mốc
lịch sử quan trọng đánh dấu sự ra đời của Tổ chức Hải quan trên đất Mỏ anh
hùng. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp (1946-1954), tổ chức Hải
quan trên đất Mỏ đã phối hợp với các lực lượng thực hiện chủ trương bao vây
kinh tế và đấu tranh kinh tế với địch, kiểm soát hàng hoá xuất nhập khẩu, đấu
tranh chống buôn lậu giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm. Ngay sau khi thành
lập Sở Hải quan Trung ương, ngày 15/12/1954, Bộ Công thương ra Nghị định
thành lập Chi sở Hải quan Hải Ninh làm nhiệm vụ cửa thuế xuất nhập khẩu và
quản lý xuất nhập khẩu trên địa bàn tỉnh Hải Ninh. Ngày 12/11/1960, Bộ
Ngoại thương ra Quyết định giải thể Chi sở Hải quan Hải Ninh và thành lập
Phòng Hải quan Hải Ninh trực thuộc Cục Hải quan Trung ương.
Trong quá trình xây dựng và phát triển, Hải quan Quảng Ninh luôn hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao, không ngừng cải cách thủ tục
hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động XNK, XNC, đầu tư, du lịch
phát triển, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và hiện đại hoá Hải quan.

Hàng năm, tổ chức chỉ đạo công tác thu thuế XNK đạt và vượt chỉ tiêu, năm
sau cao hơn năm trước; Công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương
mại (CBL& GLTM) thường xuyên được tăng cường và đổi mới, đã tập trung
3
đánh trúng đường dây, ổ nhóm, các đối tượng buôn lậu lớn có tổ chức, các mặt
hàng cấm, trị giá hàng hóa bị bắt giữ hàng năm khá lớn.
Thực tế đã chứng minh trong nhiều thập kỷ qua, đội ngũ cán bộ công
chức nói chung, Cục Hải quan tỉnh Quảng Ninh nói riêng đã thể hiện bản lĩnh
chính trị vững vàng, có ý thức tự chủ, tự cường, năng động sáng tạo, có trình
độ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn. Đội ngũ đó trưởng thành trong
kháng chiến, trong đấu tranh cách mạng, trong quản lý kinh tế và quản lý xã
hội, thích nghi dần với cơ chế mới. Đa số vẫn giữ được phẩm chất, lối sống
lành mạnh, chăm lo cho sự nghiệp chung.
Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu nhiệm vụ của sự nghiệp công nghiệp hóa
- hiện đại hóa đất nước, trước những thời cơ và vận hội đan xen những thách
thức lớn, đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo hiện nay đang bộc lộ một số
hạn chế, yếu kém, chưa đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của sự
nghiệp đổi mới. Nhìn chung đội ngũ cán bộ hiện nay xét về chất lượng và cơ
cấu có nhiều mặt chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ công nghiệp hóa và
hiện đại hóa, trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo và quản lý còn hạn chế, một
số cán bộ chủ chốt có biểu hiện chủ quan thiếu dân chủ.
Đối với ngành Hải quan nói chung và Hải quan Quảng Ninh nói riêng,
công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong giai đoạn hiện nay là vấn
đề bức thiết, không chỉ bắt nguồn từ thực tế mà đây là vấn đề về lâu về dài của
công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
Để đáp ứng nhu cầu của giai đoạn phát triển mới theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương, phải đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và chỉnh
đốn công tác tổ chức, nâng cao hiệu lực lãnh đạo, quản lý, trong đó việc nâng
cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở là một nhiệm vụ quan trọng và cấp
bách. Hệ thống quyền lực có phát huy được vai trò hay không còn tùy thuộc

vào đội ngũ cán bộ, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cán bộ là cái gốc của mọi
4
công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
Chính vì vậy muốn có đội ngũ cán bộ tốt phải làm tốt công tác cán bộ.
Trong quá trình học tập chương trình Cao cấp lý luận Chính trị, được
nghiên cứu nhiều bộ môn, trên nhiều lĩnh vực đã giúp tôi có được cách nhìn
toàn diện hơn vị trí của đội ngũ cán bộ nói chung, đặc biệt là đội ngũ cán bộ
công chức tại Hải quan Quảng Ninh . Từ nhận thức trên đây, vận dụng kiến
thức, lý luận được trang bị trong quá trình học tập chương trình Cao cấp lý
luận Chính trị tại Học viện Chính trị Khu vực I, xuất phát từ thực trạng đội ngũ
cán bộ côngchức của Cục Hải quan tỉnh Quảng Ninh, tôi đã chọn vấn đề:
“Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở Hải quan Quảng Ninh hiện nay”
làm đề tài luận văn tốt nghiệp chương trình cao cấp lý luận Chính trị .
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ công chức, đánh giá
thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ, tìm ra giải pháp để xây dựng đội ngũ cán
bộ của Cục Hải quan tỉnh Quảng Ninh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị
trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích trên, luận văn cần giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng đội
ngũ cán bộ theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam.
- Phân tích vị trí, vai trò, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ của Cục Hải quan
tỉnh Quảng Ninh
5
- Nêu những luận chứng khoa học, lý luận và thực tiễn cho việc đề xuất các
giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Cục Hải quan tỉnh Quảng
Ninh

3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu triển khai trên cơ sở quan điểm chủ nghĩ Mác
- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về cán bộ và công tác cán bộ.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp lô gíc với lịch sử, phân tích với tổng hợp.
Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp cụ thể như thống kê, so sánh,
điều tra trong khai thác, xử lý số liệu, thông tin tài liệu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là chất lượng đội ngũ cán bộ Cục Hải quan tỉnh
Quảng Ninh
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Những nhân tố, những điều kiện, những vấn đề có liên quan đến chất
lượng đội ngũ cán bộ Cục Hải quan tỉnh Quảng Ninh . Các số liệu và tài liệu
khảo sát, phân tích chủ yếu được đề cập trong khoảng 5 năm, từ năm 2010 đến
nay
5. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Dưới hình thức một công trình nghiên cứu khoa học, luận văn đã hệ
thống hóa những vấn đề lý luận chung về cán bộ và công tác cán bộ, vận dụng
6
lý luận đó để phân tích và đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo
Cục Hải quan tỉnh Quảng Ninh trong thời gian qua, chỉ ra nguyên nhân của
thực trạng trên và bước đầu rút ra một số kinh nghiệm, đề xuất những giải
pháp chủ yếu tham mưu cho lãnh đạo Đảng, chính quyền về xây dựng, quy
hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu học tập, nghiên cứu, tham khảo
tham mưu cho các cấp lãnh đạo của Cục Hải quan tỉnh Quảng Ninh, của ngành
trong công tác cán bộ và những ai quan tâm tới vấn đề này.

6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết
7
Chương 1
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
Ở CỤC HẢI QUAN TỈNH QUẢNG NINH - CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cán bộ và công tác cán bộ
1.1.1. Khái niệm cán bộ
Vấn đề cán bộ và công tác cán bộ vận động theo nhu cầu của thực tiễn
cách mạng và đòi hỏi của quần chúng nhân dân, nó được đặt ra như một yêu
cầu tất yếu, là cái gốc của mọi công việc, của mọi thành công.
Khái niệm cán bộ có nhiều cách hiểu với những phạm vi rộng, hẹp khác
nhau và ở từng quốc gia cũng khác nhau. Từ điển tiếng Việt định nghĩa: Cán
bộ là người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan Nhà nước
(như cán bộ Nhà nước, cán bộ khoa học, cán bộ chính trị). Người làm công tác
có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người thường, không
có chức vụ (như cán bộ và chiến sỹ, cán bộ và công nhân nhà máy )
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách Nhà nước.
Có nhiều quan niệm về cán bộ, nhìn chung đều chỉ con người làm việc
trong hệ thống Đảng, mặt trận tổ quốc, đoàn thể, lực lượng vũ trang, Nhà nước
từ trung ương đến cơ sở. Cán bộ thể hiện một tổ chức, có ảnh hưởng tới hoạt
8
động của tổ chức và các quan hệ lãnh đạo, quản lý, điều hành góp phần định
hướng phát triển của tổ chức.

Hồ Chí Minh đã nói: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng,
của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, đem
tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính
sách cho đúng”. Từ các khái niệm trên, cũng như căn cứ vào thực tiễn vị trí vai
trò của người cán bộ trong xã hội, chúng ta nhận thấy rằng cán bộ là những
người đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội. Hoạt động của họ mang tính chính trị, gắn liền với chính trị.
Cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vị trí, vai trò nòng cốt của
một tổ chức, đơn vị, có tác dụng ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các
quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành góp phần cho sự ổn định
và phát triển của tổ chức.
1.1.2. Công tác cán bộ
Có nhiều quan niệm khác nhau về cán bộ, đối với bất kỳ xã hội nào từ
khi có giai cấp thì giai cấp nắm quyền chính trị bao giờ cũng chú trọng xây
dựng đội ngũ cán bộ của mình để bảo vệ chế độ do chính giai cấp cầm quyền
đó tạo nên. Để có đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu, nhất thiết phải làm công tác
cán bộ.
C.Mác và Ph.Ănghen luôn cho rằng giai cấp vô sản và chính Đảng của
mình muốn giành được quyền lãnh đạo, giữ vững được chính quyền thì phải
xây dựng được đội ngũ cán bộ trung thành và tài năng đáp ứng được nhiệm vụ
cách mạng. Từ thực tiễn lịch sử phát triển của xã hội loài người và quá trình
truyền bá lý luận khoa học vào phong trào công nhân, C.Mác rút ra kết luận:
“Bất cứ một tư tưởng nào dẫu có cao siêu, vĩ đại đến đâu thì tư tưởng vẫn mãi
mãi là tư tưởng nếu tư tưởng đó không có người truyền bá, vận dụng vào đời
sống xã hội”.
9
V.I.Lê nin đã kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, trong tác
phẩm “Những nhiệm vụ bức thiết của phong trào quần chúng”, V.I. Lênin viết:
“Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị nếu nó
không đào tạo ra được những hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị,

những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”.
Qua thực tiễn lãnh đạo công cuộc xây dựng CNXH, V.I. Lênin đã
tổng kết và khẳng định “Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản
lĩnh hiện nay đó là then chốt, nếu không tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định
đều là giấy lộn”.
Tổ chức và cán bộ là hai vấn đề có liên hệ mật thiết với nhau, để xây dựng
tổ chức và hoạt động hiệu quả đòi hỏi mỗi cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải có năng
lực, có tài tổ chức. V. Lênin nhấn mạnh đến năng lực tổ chức thực tiễn, muốn
quản lý tốt thì ngoài cái tài thuyết phục thì phải biết tổ chức thực tiễn.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng Hồ Chí Minh đặc biệt coi
trọng công tác cán bộ. Trên cơ sở kế thừa chủ nghĩa Mác-Lênin, Người nói:
“Cán bộ là cái gốc của mọi công việc vì họ đem chính sách của Đảng, của
Chính phủ giải thích cho dân hiểu và thi hành, đồng thời đem tình hình của dân
chúng báo báo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ dân để có chính sách đúng
đắn” [12, tr.269].
Để hình tượng hóa vai trò của cán bộ, Bác coi cán bộ là tiền vốn của
Đảng, có vốn thì sẽ làm ra lãi. Bất cứ chính sách, công tác gì, nếu có cán bộ sẽ
thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ. Người
kết luận: “Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [12,
tr.272].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là rất rõ ràng. Tư tưởng Hồ Chí Minh
về tổ chức thực hiện đường lối, chủ chương của Đảng Người viết “Từ nay,
công việc gì bất kỳ thành công hay thất bại, chúng ta cần phải nghiên cứu đến
10
cội rễ, phân tích thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái chìa khóa phát
triển công việc và giúp cán bộ tiến tới, có như thế thì người có tài, tài mới
dụng”. Bác còn nói: “Cách tổ chức công việc, lựa chọn cán bộ, kiểm tra cán
bộ, nếu ba điều này một Đảng nào làm sơ sài thì chính sách có đúng đắn mấy
cũng vô ích”. Hồ Chí Minh luôn quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội
ngũ cán bộ. Người yêu cầu phải xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức Nhà

nước phải vừa “hồng” vừa “chuyên”, vừa có đức, vừa có tài trong đó đức là
gốc, đặt lên hàng đầu, tiêu chuẩn trung thành với sự nghiệp cách mạng, chí
công, vô tư, liên hệ mật thiết với nhân dân, vì nhân dân phục vụ. Mọi cán bộ
công chức Nhà nước đều phải thành thạo công việc, dám nghĩ, dám làm, dám
chịu trách nhiệm, phải gương mẫu trước dân, không được làm trái pháp luật,
cậy thế, tư túi, chia rẽ, kiêu ngạo, hống hách với dân, không được lợi dụng
chức quyền tham nhũng, đục khoét của công, hoặc để người thân lợi dụng làm
điều phi pháp hoặc trục lợi.
Hơn 80 năm qua, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, vận dụng Chủ
nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn coi cán bộ là khâu
then chốt, trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng, là nguyên nhân thành,
bại của cách mạng, là những nhân tố có ý nghĩa quyết định sự thắng lợi khi có
đường lối đúng đắn. Do vậy cán bộ và công tác cán bộ được Đảng quan tâm và
khẳng định công tác đó là: Đảng phải chịu trách nhiệm về đội ngũ cán bộ của
mình. Ở mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng ta đòi hỏi yêu cầu đội ngũ cán bộ khác
nhau, nhưng mục tiêu của Đảng là xuyên suốt. Đảng ta đã xác định cán bộ là
khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng.
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 cho đến Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng vẫn khẳng định “Đổi mới công tác
cán bộ lãnh đạo các cấp là mắt xích quan trọng nhất mà Đảng ta phải nắm chắc
để thúc đẩy những cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng”.
11
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII năm 1991 cũng khẳng định “Tiếp
tục đổi mới công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu công
cuộc đổi mới và kế tục sự nghiệp là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Mục tiêu
của công tác cán bộ là xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ có chất lượng mà
nòng cốt là cán bộ chủ chốt của các ngành, các cấp cơ sở”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII về chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước đã xác định rõ 5 quan điểm cơ bản như sau:

Một là, phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa để xây dựng đội ngũ cán bộ.
Để thực hiện được yêu cầu nhiệm vụ trên đây của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, nhân tố quan trọng quyết định hàng đầu là Đảng phải xây
dựng được một đội ngũ cán bộ có trình độ chính trị, phẩm chất đạo đức, có tài
năng. Bởi vì, nếu không có đội ngũ cán bộ có đầy đủ tài năng và trí tuệ thì
đường lối, chính sách có đúng mấy cũng không trở thành hiện thực trong cuộc
sống. Mặt khác, yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước là căn cứ để Đảng đề ra tiêu chuẩn cán bộ, để xây dựng nội
dung, phương hướng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, xem xét đánh giá cán bộ, bố
trí sử dụng cán bộ trong mỗi địa phương, mỗi cấp mỗi ngành.
Hai là, quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy
truyền thống yêu nước và đoàn kết dân tộc.
Thường xuyên quán triệt và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của
Đảng là vấn đề cơ bản có tính chất nguyên tắc, xuyên suốt trong quá trình xây
dựng Đảng cũng như xây dựng đội ngũ cán bộ đã được Đảng ta tổng kết trong
quá trình hoạt động thực tiễn của Đảng trong những thập kỷ qua. Quan điểm
giai cấp công nhân trong xây dựng đội ngũ cán bộ được thể hiện ở tất cả các
12
khâu từ tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng đến đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ và
chính sách đối với đội ngũ cán bộ.
Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ
chức kỷ luật của giai cấp công nhân cho đội ngũ cán bộ để đào tạo một đội ngũ
cán bộ thực sự trung thành với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân.
Tăng cường số cán bộ xuất thân từ giai cấp công nhân, trước hết là cán bộ chủ
chốt trong hệ thống chính trị.
Phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết tập hợp rộng rãi các loại cán
bộ, trọng dụng nhân tài, không phân biệt Đảng viên hay người ngoài Đảng, dân
tộc, tôn giáo, người ở trong nước hay người Việt Nam định cư ở nước ngoài,
không định kiến với người trước đây có sai lầm nay đã sửa chữa. Kế thừa và

phát huy truyền thống tốt đẹp của đội ngũ cán bộ hiện tại và tương lai.
Ba là, gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng tổ chức và đổi
mới cơ chế chính sách. Xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng tổ chức và đổi mới
cơ chế chính sách có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn
nhau. Bộ máy tổ chức mạnh, hoạt động có hiệu quả trước hết phụ thuộc vào
đội ngũ cán bộ là những thành viên trong tổ chức đó mạnh hay yếu. Bởi vì, nếu
phần lớn đội ngũ cán bộ trong bộ máy đó mà yếu, không đáp ứng được yêu cầu
thì không thể có tổ chức bộ máy mạnh mẽ. Mặt khác nếu tổ chức yếu, hoạt
động rời rạc, không có sự gắn kết, hoạt động không có hiệu quả thì không thể
có một đội ngũ cán bộ mạnh. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ phải chú ý xây
dựng tổ chức bộ máy.
Đảng ta đã tổng kết: Tổ chức mạnh làm cho từng người mạnh, từng
người mạnh sẽ làm cho tổ chức mạnh. Vì vậy, xây dựng tổ chức phải gắn với
từng người và ngược lại, xây dựng đội ngũ cán bộ phải gắn liền với xây dựng
bộ máy tổ chức. Tổ chức mạnh còn trên cơ sở coi trọng chất lượng đội ngũ để
13
xác định số lượng cán bộ trong bộ máy tổ chức nhằm tránh tình trạng bộ máy
cồng kềnh, vừa thừa và vừa thiếu cán bộ.
Xây dựng đội ngũ cán bộ phải coi trọng việc đổi mới cơ chế chính sách.
Bởi vì cơ chế chính sách là động lực thúc đẩy đội ngũ cán bộ phát triển. Nếu
cơ chế chính sách đúng sẽ làm cho đội ngũ cán bộ phấn khởi, nhiệt tình hăng
say công tác, ngược lại, nếu chính sách sai hoặc không phù hợp dẫn đến cán bộ
lợi dụng sơ hở để làm sai hoặc không kích thích lòng nhiệt tình, hăng say công
tác dẫn đến làn việc cầm chừng.
Khi quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ phải gắn với
xây dựng tổ chức Đảng, bộ máy Nhà nước và kiện toàn các tổ chức quần
chúng trong hệ thống chính trị và gắn với đổi mới cơ chế chính sách.
Bốn là, thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân
dân, nâng cao trình độ dân trí để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ.
Cán bộ và phong trào cách mạng của quần chúng có mối quan hệ biện

chứng với nhau. Phong trào cách mạng của quần chúng là “vườn ươm”, là nơi
sản sinh ra cán bộ tốt, là môi trường để rèn luyện, thử thách, sàng lọc cán bộ,
xem xét, đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ, là thước đo để đánh giá phẩm chất,
năng lực của cán bộ. Vì vậy, mọi hoạt động của cán bộ đều phải được kiểm
nghiệm của hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của quần chúng.
Thực tiễn đã chứng minh, nơi nào có phong trào cách mạng quần chúng tốt thì
nơi đó có nhiều cán bộ tốt, ngược lại nơi nào không có cán bộ tốt hoặc ít cán
bộ tốt thì nơi đó không thể tạo ra được phong trào cách mạng của nhân dân.
Muốn xây dựng một đội ngũ cán bộ cơ bản, có hệ thống phải quan tâm
đến phát triển sự nghiệp, giáo dục đào tạo, nâng cao trình độ dân trí, đồng thời
thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân để giáo
dục, rèn luyện, đào tạo, đánh giá, sàng lọc, tuyển chọn cán bộ.
14
Mọi phẩm giá, bằng cấp, danh hiệu và chức vụ, tài năng và cống hiến
của cán bộ phải được kiểm nghiệm của hoạt động thực tiễn, phải dựa vào quần
chúng để phát hiện, kiểm tra và giám sát cán bộ.
Năm là, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ
cán theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các
tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị. Đảng cầm quyền phải trực tiếp
nắm rõ cán bộ, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng, cho cả hệ thống
chính trị và trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đảng thực hiện đường lối, chính sách cán bộ thông qua các tổ chức và
đội ngũ Đảng viên trong các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, thực
hiện đúng quy trình, thủ tục pháp luật của Nhà nước, điều lệ của đoàn thể và tổ
chức xã hội.
Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy là nhân tố quyết định sự
thành công của công tác cán bộ. Ở đâu cấp ủy và tổ chức Đảng, trước hết là
cán bộ lãnh đạo chủ chốt, có quan điểm đổi mới đúng đắn, thực hiện sự dân
chủ, khách quan, công tâm thì ở đó công tác cán bộ thu được những kết quả
tốt. Đảng phân công, phân cấp quản lý cán bộ cho các cấp ủy và tổ chức Đảng,

đồng thời thường xuyên kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ của các ngành,
coi đây là một trong những nội dung quan trọng nhất của lãnh đạo.
Đại hội toàn quốc lần thứ IX cùa Đảng khẳng định “Tiếp tục đổi mới
công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý
ở các cấp vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối
sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân
dân. Có cơ chế chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
trọng dụng người có đức, có tài ”.
Văn kiện Đại hội X cùa Đảng cũng nêu rõ “Xây dựng đội ngũ cán bộ
đồng bộ, cơ cấu hợp lý, chất lượng tốt, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế
15
tiếp vững vàng, bồi dưỡng nhân tài theo định hướng quy hoạch”. Về công tác
cán bộ văn kiện cũng khẳng định: Triển khai tương đối đồng bộ các khâu công
tác cán bộ, đánh giá, quy hoạch, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ
và thực hiện chính sách cán bộ.
Văn kiện Đại hội Đảng khóa XI vẫn tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh của toàn
dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Nhìn lại các Nghị quyết của Đảng nêu trên cho thấy Đảng ta luôn nhấn
mạnh công tác cán bộ, nhất là cán bộ cơ sở. Công tác cán bộ và cán bộ cơ sở
ảnh hưởng sâu sắc đến phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính vì vậy
trong quá trình đổi mới hiện nay các cấp ủy Đảng phải quán triệt sâu sắc quan
điểm của Đảng, công tác cán bộ phải gắn chặt với đường lối chính trị của
Đảng, gắn với công tác tổ chức, với phong trào cách mạng ở địa phương.
1.2. Nội dung cơ bản công tác cán bộ ở Cục hải quan tỉnh Quảng
Ninh
1.2.1. Xác định tiêu chuẩn cán bộ
Tiêu chuẩn cán bộ là những quy định đối với cán bộ về phẩm chất đạo
đức chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ,

ngoại ngữ, năng lực trí tuệ, khả năng đoàn kết, tập hợp quần chúng, lề lối làm
việc, tác phong công tác và sức khỏe. Xây dựng tiêu chuẩn cán bộ là nội dung
quan trọng trong công tác cán bộ.
Tiêu chuẩn cán bộ là cơ sở và tiền đề làm căn cứ xem xét, đánh giá, lựa
chọn, bố trí, sắp xếp, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử, bố trí công tác, giao nhiệm
vụ, quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật và giải
quyết chế độ chính sách vĩ mô phục vụ cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ của
Nhà nước. Tiêu chuẩn cũng là cơ sở để từng bước người cán bộ phấn đấu, tự
16
rèn luyện để khẳng định mình. Để có được đội ngũ cán bộ xứng đáng thực sự
là công bộc của dân, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng, của thời
đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những tiêu chuẩn cơ bản đối với người
cán bộ như sau:
Đạo đức là cái gốc của người cán bộ: Theo Hồ Chí Minh, đạo đức là nền
tảng, là cái gốc rễ, là cội nguồn thắng lợi của mọi công việc. Người viết:
“Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây
phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì
muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát
mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì
còn làm nổi việc gì?”. Để trở thành người cán bộ cách mạng chân chính, điều
cốt yếu đầu tiên là phải có đạo đức cách mạng, phải giữ vững đạo đức cách
mạng. Đạo đức cách mạng thể hiện ở cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và
phải luôn gần gũi nhân dân, học hỏi ở nhân dân, dựa vào nhân dân để thực hiện
nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Người nói: “Không gần gũi dân thì
không hiểu dân, không hiểu dân thì không học hỏi được kinh nghiệm của dân
và sáng kiến của dân, không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân”.
Muốn có đạo đức cách mạng thì cần phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân,
cần phải tự đánh thắng lòng “tà” là kẻ thù của chính mình, vì chủ nghĩa cá
nhân là một thứ “vi trùng” rất độc hại, nó là “căn bệnh mẹ” đẻ ra nhiều thói hư

và tật xấu và hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm như quan liêu, mệnh lệnh, bè phái,
chủ quan, tham ô, lãng phí cho nên chống chủ nghĩa cá nhân là phải thường
xuyên, liên tục. Đã là cán bộ cách mạng thì phải quyết tâm chống chủ nghĩa cá
nhân, loại bỏ những khuyết điểm, tự xây dựng rèn luyện cho mình những phẩm
chất đạo đức cách mạng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, một khi con người đã có
ít quyền hành mà thiếu lương tâm, không giữ đúng đạo đức cách mạng thì dễ
17
trở nên lụi bại, thành sâu mọt của dân. Người khẳng định, đạo đức còn là thước
đo lòng cao thượng của con người, là tiêu chí để đánh giá khả năng làm việc, là
chuẩn mực dễ kiểm tra chất lượng công việc của mỗi con người.
Hồ Chí Minh xem đạo đức cách mạng không chỉ là động lực thúc đẩy
cán bộ, đảng viên hoàn thành sứ mệnh của mình mà còn giúp cho người cán
bộ, đảng viên vượt qua mọi khó khăn, chống lại chủ nghĩa cá nhân, xây dựng
bản lĩnh chính trị vững vàng “thắng không kiêu, bại không nản” sẵn sàng tiến
lên vì độc lập tự do cho dân tộc, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Người cán bộ phải có tài năng để tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương
của Đảng: Đạo đức là yêu cầu đầu tiên, quan trọng nhất, là gốc của người cán
bộ cách mạng, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh không hề xem nhẹ mặt tài năng,
mà luôn luôn coi trọng năng lực lãnh đạo và thực hành công việc của người
cán bộ. Quan điểm của Người đó là Đảng yêu cầu cán bộ, đảng viên chẳng
những thạo về chính trị mà còn phải giỏi về chuyên môn, không thể lãnh đạo
chung chung, phải nắm vững quy luật phát triển của cách mạng, phải tính
toán cẩn thận những điều kiện cụ thể, những biện pháp cụ thể. Tài năng
không bỗng nhiên mà có, vì vậy Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ
cách mạng phải luôn luôn chăm lo rèn luyện, nâng cao trình độ và chính
Người là tấm gương sáng ngời về tinh thần tự rèn luyện, nâng cao trình độ,
năng lực hoạt động để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Tài năng của
người cán bộ, Đảng viên phải được thể hiện qua 3 điều kiện:
Một là, phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng.
Hai là, phải tổ chức thi hành cho đúng.

Ba là, phải tổ chức kiểm soát cho đúng.
Muốn giỏi và làm đúng được như vậy, người cán bộ phải ý thức được
việc tu dưỡng, chăm lo rèn luyện tài năng.
18
Tóm lại, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “đức” là tiêu chí hàng đầu, là cái
gốc, là cái không thể thiếu, là điều kiện cần phải có ở mỗi cán bộ, nhưng "nếu
có đức mà không có tài ví như ông bụt không làm hại gì, nhưng cũng không
lợi gì cho loài người". Do đó “Đức” và “Tài” luôn luôn song hành trong một
chủ thể người cán bộ.
Người cán bộ phải nâng cao trình độ lý luận: Nâng cao trình độ lý luận
là một trong những tiêu chuẩn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra cho cán bộ,
đảng viên. Trong tác phẩm “Đường Kách Mệnh” (1927), trang đầu tiên, Người
trích lời dạy của Lê nin: “…Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách
mệnh vận động ”.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (1947) ở phần I: “Phê bình và
sửa chữa”, Hồ Chí Minh nêu lên việc đầu tiên là “phải sửa đổi lối làm việc của
Đảng”. Người cho rằng, khuyết điểm có nhiều thứ trong đó khuyết điểm to
nhất là bệnh chủ quan. Mà nguyên nhân là kém lý luận, hoặc khinh lý luận,
hoặc lý luận suông.
Lý luận là ngọn đuốc soi đường, là kim chỉ nam cho công việc thực tế.
Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi. Chính vì vậy, mỗi cán bộ,
đảng viên cần phải trang bị cho mình một trình độ lý luận nhất định. Nếu
không nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, lấy chút kinh nghiệm do làm lâu ngày mà có được sẽ dễ rơi vào tình
trạng khinh lý luận, tự ý làm sai, thậm chí đi ngược lại với đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Học lý luận nhưng không áp dụng vào công việc thực tế thì cũng là lý
luận suông, “dù xem được hàng ngàn, hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết
đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách”. Những người cán bộ
như vậy, trong công việc sẽ làm việc một cách cứng nhắc, sách vở, dập khuôn

máy móc, không có óc sáng tạo và sẽ thường mắc phải căn bệnh chuyên quyền
19
độc đoán. Hồ Chí Minh đã viết: “Có kinh nghiệm và không có lý luận, cũng
như một mắt sáng, một mắt mờ” như thế họ mới chỉ là cán bộ “một nửa”. Cho
nên cần phải học, nghiên cứu lý luận và áp dụng thực tiễn mới thành người cán
bộ hoàn toàn. Còn những người lý luận suông là học không đi đôi với hành, lý
luận không gắn liền với thực tiễn, như vậy cũng xem như là không biết lý luận.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực về gắn liền lý luận với thực
tiễn và vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt
Nam.
1.2.2. Đánh giá cán bộ
Đây là khâu rất quan trọng và khó, rất nhạy cảm trong công tác cán bộ.
Nếu đánh giá đúng sẽ bố trí đúng cán bộ và cán bộ sẽ phát huy được ưu điểm
và thế mạnh của mình, còn ngược lại nếu đánh giá sai sẽ bố trí sai. Đánh giá
cán bộ hiện nay vẫn là khâu yếu nhất và chậm đổi mới. Cần phải đổi mới mạnh
mẽ khâu này, đây là khâu then chốt trong công tác cán bộ.
Đánh giá cán bộ phải được thực hiện một cách toàn diện, từ nguồn gốc,
trình độ, khả năng thực sự của người cán bộ. Nếu công tác đánh giá được thực
hiện tốt thì các bước tiếp theo của công tác cán bộ sẽ càng hoàn thiện. Đây là
vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm. Việc đánh giá, lựa chọn cán bộ ngoài
những tiêu chuẩn cụ thể, còn phải gắn với việc xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ
cách mạng. Khi chưa có chính quyền, Đảng cần có một đội ngũ cán bộ có
nhiều kinh nghiệm, tri thức về đấu tranh vũ trang, vận động quần chúng, hoạt
động bí mật. Đảng đòi hỏi rất nhiều ở đội ngũ cán bộ, đảng viên lòng trung
thành, dũng cảm, dám xả thân hy sinh vì sự nghiệp độc lập dân tộc. Khi giành
được chính quyền, ngoài những yêu cầu trên, Đảng rất cần một đội ngũ cán bộ
có kinh nghiệm và tri thức về quản lý kinh tế, xã hội, quản lý Nhà nước v.v
Lúc này, Đảng yêu cầu ở người cán bộ, đảng viên không chỉ lòng trung thành,
biết đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc, giai cấp lên trên lợi ích cá nhân, có bản
20

lĩnh chính trị vững vàng, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có tri
thức, chuyên môn nghiệp vụ và tài tổ chức hoạt động thực tiễn.
Kế thừa tư tưởng vĩ đại của V.I.Lê nin, xuất phát từ hoạt động thực tiễn
của sự nghiệp cách mạng. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (10/1947)
trong mục IV - Vấn đề cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những tiêu chí
để lựa chọn cán bộ là:
Những người tỏ ra rất trung thành và hăng hái trong công việc, trong lúc
đấu tranh.
Những người liên lạc mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân chúng.
Luôn luôn chú ý đến lợi ích của dân chúng. Như thế, thì dân chúng mới tin cậy
cán bộ và nhận cán bộ đó là người lãnh đạo của họ.
Những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề, trong những hoàn
cảnh khó khăn.
Ai sợ phụ trách và không có sáng kiến thì không phải người lãnh đạo.
Người lãnh đạo đúng đắn cần phải: Khi thất bại không hoang mang, khi
thắng lợi không kiêu ngạo, khi thi hành các Nghị quyết kiên quyết, gan góc
không sợ khó khăn.
Những người luôn luôn giữ đúng kỷ luật.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: Làm cán bộ không phải để thăng
quan, phát tài. Chính phủ là đầy tớ của nhân dân, cán bộ làm việc gì cũng phải
vì dân, vì nước, nếu làm tròn nhiệm vụ là vẻ vang, là anh hùng. Việc lựa chọn
cán bộ phải gắn với công tác quy hoạch của mỗi ngành, mỗi địa phương, khắc
phục và tránh tình trạng việc lựa chọn cho đông để rồi “ngồi không xơi nước”;
“lắm sãi không ai đóng cửa chùa”. Những người được lựa chọn phải thật sự là
người của dân chúng, để gánh trọng trách mà dân giao phó.
21
Thực tế đã chứng minh, muốn có một đội ngũ cán bộ với những tiêu
chuẩn đáp ứng được những yêu cầu của sự nghiệp cách mạng phần lớn phụ
thuộc vào công tác lựa chọn, đánh giá cán bộ.
1.2.3. Quy hoạch cán bộ

Trên cơ sở đánh giá cán bộ sẽ xây dựng được quy hoạch cán bộ đúng. Vì
quy hoạch cán bộ là quá trình thực hiện đồng bộ các chủ trương, biện pháp tạo
nguồn để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp trên cơ sở dự báo nhu cầu, nhằm đảm bảo thực hiện tốt nhiệm
vụ chính trị trong thời gian cụ thể. Khi có quy hoạch cán bộ cần phải đưa cán bộ
đi đào tạo bồi dưỡng để bổ sung những mặt còn thiếu của cán bộ.
1.2.4. Điều động, luân chuyển cán bộ
Là khâu tạo điều kiện để rèn luyện, bồi dưỡng, thử thách cán bộ, nhất là
cán bộ trẻ, có triển vọng, giúp cán bộ trưởng thành hơn và toàn diện hơn, vững
vàng hơn, đáp ứng yêu cầu cán bộ trước mắt và lâu dài của toàn hệ thống chính
trị, các cấp, các ngành, các địa phương. Từng bước điều chỉnh việc bố trí cán
bộ hợp lý hơn, tăng cường được cán bộ cho những nơi có yêu cầu cấp bách,
nhất là cán bộ cho nông thôn, một số địa bàn, đơn vị có nhiều khó khăn. Cần
có sự phân biệt giữa điều động và luân chuyển cán bộ.
1.2.5. Thực hiện tốt chế độ, chính sách đối với cán bộ
Chế độ chính sách đối với cán bộ cũng là khâu rất quan trọng trong công
tác cán bộ, tạo điều kiện để cán bộ yên tâm công tác. Đây là một vấn đề có tác
động mạnh mẽ tới việc hình thành và phát huy tiềm năng của từng người và
toàn bộ đội ngũ cán bộ. Thực tế cho thấy, chính sách đãi ngộ cán bộ không
công bằng, hợp lý là nguyên nhân làm hạn chế lòng nhiệt tình, sức cống hiến
và sự đoàn kết của đội ngũ cán bộ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính sách đối
với cán bộ chủ yếu là “sao cho đối đãi đúng với mọi người”.
22
1.2.6. Quản lý cán bộ
Là hoạt động chủ động, thường xuyên có mục đích của cơ quan quản lý
cán bộ, của cấp có thẩm quyền quyết định, tác động có định hướng vào đội ngũ
cán bộ và từng cán bộ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thường xuyên và chủ động
của chủ thể quản lý đối với khách thể quản lý, quản lý cán bộ bằng các khâu
trong công tác cán bộ.
Như vậy, các khâu trong công tác cán bộ đòi hỏi phải được tiến hành

đồng bộ, không được coi nhẹ khâu nào, giữa các khâu có mối quan hệ biện
chứng, ràng buộc nhau, khâu này là tiền đề, là cơ sở của khâu kia. Điều đó
được thể hiện ở việc không xây dựng được tiêu chuẩn cho các loại cán bộ thì
không có cơ sở để đánh giá cán bộ, từ đánh giá đúng sẽ đưa đi đào tạo, bồi
dưỡng, điều động, luân chuyển và bổ nhiệm cán bộ, khi đã có đội ngũ cán bộ
cần căn cứ theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị, nhu cầu công tác để sử dụng cán
bộ phù hợp với khả năng của từng người, đồng thời phải phân công phân cấp
quản lý đội ngũ cán bộ một cách rõ ràng, hợp lý, có quan điểm và phương pháp
đánh giá, sử dụng cán bộ một cách khách quan, khoa học, công tâm. Xử lý tốt
các mối quan hệ giữa đức và tài, quyền hạn và trách nhiệm, nghĩa vụ và lợi ích,
tiêu chuẩn và cơ cấu, năng lực thực tế và bằng cấp. Việc giáo dục lý tưởng, bản
lĩnh chính trị và đạo đức cách mạng, rèn luyện, thử thách, tuyển lựa cán bộ
phải từ trong hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân.
Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ về quan điểm, nội dung, phương pháp
tổ chức quản lý, chế độ trách nhiệm, bộ máy và con người làm công tác cán bộ,
triển khai đồng bộ các mặt như đánh giá, quy hoạch, huấn luyện, đào tạo, bồi
dưỡng và bố trí, sử dụng cán bộ là nhiệm vụ chiến lược có ảnh hưởng quan
trọng đến sự ổn định và phát triển của cơ quan, ngành địa phương. Đổi mới
phương pháp đánh giá cán bộ thông qua việc xây dựng và thực hiện hệ thống
các quy chế đánh giá cán bộ. Cần sớm ban hành quy định về thẩm quyền và
23
trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo chủ trì các tổ chức Đảng, “Rà soát, bổ sung
hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ, phân tích rõ chức năng, nhiệm vụ, trách
nhiệm và thẩm quyền của mỗi cán bộ, tăng cường tính công khai, minh bạch,
trách nhiệm trong hoạt động”.
Phải thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra: Kiểm tra là để biết được
trình độ năng lực của cán bộ đến đâu, việc bố trí và sử dụng cán bộ có đúng
với yêu cầu công việc hay chưa. Mục đích của kiểm tra là để phát huy ưu
điểm, khắc phục ngăn ngừa khuyết điểm và ngăn chặn không cho những kẻ cơ
hội chui vào bộ máy. Đây là trách nhiệm của người phụ trách cơ quan làm

công tác cán bộ. Việc kiểm tra không phải là để theo dõi, nghi ngờ cán bộ mà
ngày nào cũng kiểm tra, nhưng cũng không thể chủ quan, lơ là công tác kiểm
tra. Kiểm tra phải được thực hiện thường xuyên để uốn nắn, sửa chữa khi cán
bộ mắc sai lầm, khuyết điểm. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Không phải ngày
nào cũng kiểm tra, nhưng thường xuyên kiểm tra để giúp họ rút kinh nghiệm,
sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm. Giao công việc mà không kiểm tra,
đến lúc thất bại mới chú ý đến. Thế là không biết yêu dấu cán bộ”.
Việc kiểm tra, quản lý cán bộ còn có tác dụng ngăn ngừa, chống lại
những tệ nạn tham nhũng, quan liêu rất dễ xảy ra trong cán bộ, khi mà người
cán bộ có chức, có quyền, nắm giữ những vị trí quan trọng trong Đảng, hệ
thống chính quyền.
1.3. Sự cần thiết của công tác cán bộ và yêu cầu đối với cán bộ ở Cục
Hải quan tỉnh Quảng Ninh
Trong những năm gần đây đội ngũ cán bộ Cục Hải quan tỉnh Quảng
Ninh đã không ngừng trưởng thành về mọi mặt, nâng cao vai trò tiên phong,
gương mẫu, chủ động sáng tạo, tổ chức các hoạt động có hiệu quả để phát huy
vai trò sức mạnh của tổ chức mình
24
Tuy nhiên việc xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở hiện nay còn rất nhiều
mặt yếu kém, bất cập trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và
vận động quần chúng. Tình trạng tham nhũng, quan liêu, mất đoàn kết nội bộ,
vừa vi phạm quyền làm chủ của dân, vừa không giữ vững kỷ cương, phép nước
xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi nghiêm trọng. Chức năng nhiệm vụ của các
bộ phận trong hệ thống chính trị chưa xác định rành mạch, trách nhiệm chưa
rõ, nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới, còn có nhiều biểu hiện
của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp. Đội ngũ cán bộ cơ sở ít được đào tạo,
bồi dưỡng, chính sách đổi mới cán bộ cơ sở còn chắp vá.
Những bất cập trong lãnh đạo, quản lý, một số trường hợp vi phạm chế
độ chính sách, vi phạm quyền làm chủ của người lao động, tình trạng quan
liêu, tham nhũng, mất đoàn kết ở một số bộ phận cán bộ, đảng viên, nội dung,

phương thức hoạt động chậm đổi mới đã làm cho hoạt động kém hiệu quả.
Với vị trí chức năng và nhiệm vụ cán bộ công chức là lực lượng nòng
cốt, là hạt nhân đoàn kết, giáo dục, tổ chức ở cơ sở thực hiện mọi đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, là chiếc cầu nối liền
giữa Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, xây dựng được một đội
ngũ cán bộ trong sạch vững mạnh là nhân tố quyết định sự lớn mạnh của đơn
vị
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4, Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa
XI) một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay đã nêu: “Từ khi thực
hiện đường lối đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, Ban chấp hành
Trung ương, Bộ chính trị, Ban Bí thư các khóa đã ban hành nhiều chủ trương,
nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trên cơ sở đó, công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng đã thu được nhiều kết quả tích cực. Năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng cao, phương thức lãnh đạo của
Đảng từng bước được đổi mới, vai trò lãnh đạo của Đảng được giữ vững, niềm
25

×