Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tiểu luận Phân tích chính sách thuế Ảnh hưởng của lạm phát đến thuế thu nhập cá nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.08 KB, 21 trang )

Đề tài : Ảnh hưởng của lạm phát đến thuế TNCN. GVHD : PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng

MỤC LỤC

Lời mở đầu 2
Chương 1 : Tổng quan về Thuế TNCN và lạm phát 3
1. Thuế thu nhập cá nhân 3
1.1 Giới thiệu 3
1.2 Quan điểm, mục tiêu và yêu cầu của Thuế TNCN 3
1.2.1 Quan điểm và mục tiêu 3
1.2.2 Yêu cầu của Thuế TNCN 4
2. Lạm phát 4
2.1 Khái niệm lạm phát 4
2.2 Phân loại lạm phát 5
2.2.1 Lạm phát vừa phải 5
2.2.2 Lạm phát phi mã 5
2.2.3 Siêu lạm phát 5
2.3 Các chỉ số đo lường lạm phát 5
2.4 Nguyên nhân dẫn đến lạm phát 6
2.4.1 Lạm phát do cầu kéo 6
2.4.2 Lạm phát do cung 6
2.4.3 Lạm phát theo thuyết số lượng tiền tệ 7
Chương 2 : Ảnh Hưởng của Lạm Phát đến Thuế TNCN 7
1. Lạm phát tác động đến thuế TNCN hiện nay 7
1.1 Lạm phát tác động đến thuế TNCN từ tiền lương tiền công 7
1.2 Lạm phát tác động đến thuế TNCN từ thu nhập trên vốn 13
2. Thuế TNCN ảnh hưởng đến lạm phát ở Việt Nam 14
Chương 3 : Nhận Xét và Kiến Nghị 15
1. Nhận xét 15
1.1 Kết quả đạt được 15
1.2 Những mặt hạn chế 15


2. Kiến nghị 16
Tài liệu tham khảo 21
HV : Nguyễn Hồng Thái Trang 1
Đề tài : Ảnh hưởng của lạm phát đến thuế TNCN. GVHD : PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng

LỜI NÓI ĐẦU

Việt Nam đang trong thời kỳ mở cửa và hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Quá trình hội nhập kinh tế trong khu vực và tiến đến toàn cầu hoá, đang dần chứng
tỏ là một quy luật tiến bộ của loài người. Để bắt kịp với quá trình này thì mỗi quốc
gia phải liên tục có những cải cách nhằm làm phù hợp và thích nghi với môi trường
bên ngoài. Trong công cuộc cải cách đó, thì việc cải cách về thuế thu nhập cá nhân
luôn được hầu hết các quốc gia quan tâm.
Thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế trực thu có vai trò hết sức quan trọng.
Nó đã ra đời tương đối sớm ở các nước phát triển và ngày nay thì phát triển rộng rãi
ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Sự phát triển của nó đồng hành với sự phát
triển của nền kinh tế và ngày càng khằng định được vai trò, chức năng là một nguồn
thu quan trọng trong ngân sách nhà nước và là công cụ góp phần đảm bảo công
bằng xã hội một cách đắc lực, nhằm giúp người dân cải thiện cuộc sống vốn bị tác
động tiêu cực vì lạm phát tăng cao, bởi lạm phát và thuế thu nhập cá nhân là hai
vấn đề rất nhạy cảm, phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân, lạm
phát ở nước ta sẽ vẫn tiếp tục mang tính chất đặc trưng của nền kinh tế chuyển đổi,
động thái của lạm phát sẽ chịu sự quy định của nhiều nhân tố bên trong và bên
ngoài, ngắn hạn và dài hạn, liên quan đến quá trình chuyển đổi, hoàn thiện mô hình,
cơ chế nền kinh tế thị trường Việt Nam.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu và hoàn chỉnh pháp lệnh thuế thu nhập cá
nhân, sớm xây dựng thành Luật thuế thu nhập cá nhân phù hợp với tình hình thực tế
là một việc làm hết sức quan trọng và mang tính cấp thiết hơn bao giờ hết trong giai
đoạn này. Và đó cũng là lý do tôi chọn đề tài: “Ảnh hưởng của lạm phát tác động
đến thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam hiện nay”.

HV : Nguyễn Hồng Thái Trang 2
Đề tài : Ảnh hưởng của lạm phát đến thuế TNCN. GVHD : PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
VÀ LẠM PHÁT
1. Thuế Thu Nhập Cá Nhân
1.1 Giới thiệu :
Luật thuế thu nhập cá nhân (Thuế TNCN) được Quốc Hội khóa XII, kỳ họp
thứ 2 thông qua và ban hành ngày 21/11/2007, số hiệu 04/2007/QH12, về việc quy
định về đối tượng nộp thuế, thu nhập chịu thuế, thu nhập được miễn thuế, giảm thuế
và căn cứ tính thuế thu nhập cá nhân.
Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu điều tiết thu nhập của cá nhân,
được xây dựng trên các nguyên tắc “lợi ích”, “công bằng” và “khả năng nộp thuế”.
Theo nguyên tắc lợi ích thì mọi người trong xã hội đều được hưởng những thành
quả phát triển của đất nước về thể chế luật pháp, cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội, an
ninh trật tự … đồng thời cũng có nghĩa vụ đóng góp một phần thu nhập của mình
cho xã hội thông qua việc nộp thuế. Nguyên tắc “công bằng” và “khả năng nộp
thuế” thể hiện ở chỗ: người có thu nhập cao hơn thì nộp thuế nhiều hơn, người có
thu nhập như nhau nhưng có hoàn cảnh khó khăn hơn thì nộp thuế ít hơn, người có
thu nhập thấp chưa phải nộp thuế. Thời gian qua ở nước ta, khoảng cách chênh lệch
về thu nhập giữa nhóm người có thu nhập cao và nhóm người có thu nhập thấp cũng
có xu hướng ngày càng tăng (trong thời gian từ năm 1993 đến năm 2004, khoảng
cách này đã tăng từ 3,7 lần lên đến 13,5 lần). Như vậy, việc áp dụng thuế thu nhập
cá nhân sẽ góp phần đảm bảo tính hợp lý, công bằng, hiệu quả của hệ thống chính
sách thuế và hạn chế sự gia tăng khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng
lớp dân cư, đồng thời Nhà nước sẽ nắm được thông tin về thu nhập của cá nhân góp
phần phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
1.2 Quan điểm, mục tiêu và yêu cầu của Thuế TNCN :
1.2.1 Quan điểm và mục tiêu

Việc xây dựng Luật thuế thu nhập cá nhân phải đảm bảo các quan điểm và
hướng vào mục tiêu sau :
- Thứ nhất, đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư, góp
phần hạn chế khoảng cách về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội.
HV : Nguyễn Hồng Thái Trang 3
Đề tài : Ảnh hưởng của lạm phát đến thuế TNCN. GVHD : PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng

- Thứ hai, đảm bảo động viên một cách hợp lý thu nhập dân cư, khuyến khích mọi cá
nhân ra sức lao động, sản xuất kinh doanh, gia tăng thu nhập làm giàu chính đáng.
- Thứ ba, việc ban hành và áp dụng thuế thu nhập cá nhân có tính đến những bước
đi phù hợp với tình hình nước ta và thông lệ quốc tế; kế thừa có chọn lọc những quy
định trong chính sách thuế hiện hành.
- Thứ tư, đảm bảo huy động nguồn lực để Nhà nước giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội.
Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả ngân
sách, nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý của Nhà nước, tăng cường chống thất thu
thuế, việc áp dụng thuế thu nhập cá nhân góp phần huy động thêm nguồn lực, đảm
bảo ổn định, tăng trưởng nguồn thu ngân sách để giải quyết tốt hơn các mục tiêu
kinh tế – xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng của đất nước.
1.2.2 Yêu cầu của Luật thuế thu nhập cá nhân :
Xuất phát từ những quan điểm, mục tiêu trên, việc xây dựng Luật thuế thu
nhập cá nhân phải đảm bảo một số yêu cầu chủ yếu sau :
- Một là, nắm bắt thông tin về thu nhập của dân cư, từng bước quản lý tiến tới kiểm
soát thu nhập; phục vụ cho công tác hoạch định chính sách phát triển kinh tế – xã
hội của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ.
- Hai là, đảm bảo đơn giản, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, minh bạch và công khai.
- Ba là, phù hợp với thực tiễn và hệ thống pháp luật của Việt Nam, phù hợp với
thông lệ quốc tế.
2. Lạm phát.
2.1 Khái niệm lạm phát:
Lạm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng lên trong một

khoảng thời gian nhất định.
Lạm phát là sự mất cân đối giữa tiền và hàng trong nền kinh tế. Điều này có
thể được tóm tắt trong phương trình của Fisher :
M.V = P.Y
Trong đó: M: Lượng cung tiền danh nghĩa
V: Tốc độ lưu thông tiền tệ
P: Chỉ số giá (mức giá trung bình)
Y: Sản lượng thực
HV : Nguyễn Hồng Thái Trang 4
Đề tài : Ảnh hưởng của lạm phát đến thuế TNCN. GVHD : PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng

Nếu mức giá điều chỉnh để giữ cho sản lượng thực tế duy trì ở mức sản
lượng tiềm năng Y*, mức sản lượng này được giả định không thay đổi, thì khi đó
tổng khối lượng tiền lưu hành (M) và mức giá trung bình (P) phải vận động cùng
nhau. Và nếu thêm vào đó là tốc độ lưu thông tiền tệ (V) tăng thì (P) lại tăng rất
nhanh. Quan điểm trên giúp ta hiểu rõ về hiện tượng lạm phát, nhưng không chỉ ra
nguyên nhân nào dẫn đến lạm phát.
• Quan điểm khác cho rằng lạm phát là việc phát hành tiền giấy vượt quá mức
đảm bảo, vì vậy gây ra sự mất giá của tiền giấy làm cho giá cả hàng hóa bị đẩy lên
cao.
• Lại có quan điểm cho rằng lạm phát là sự tăng giá của các loại hàng hóa (tư
liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất và hàng hóa sức lao động). Khi mức giá chung của
giá cả và chi phí tăng, thì lạm phát xảy ra.
Khi mức giá chung (P) tăng lên thì sức mua của đồng tiền sẽ giảm xuống.
Nhìn chung, lạm phát là sự gia tăng quá mức của lượng tiền có trong lưu
thông dẫn đến đồng tiền bị mất giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hóa tăng lên
đồng loạt trong nền kinh tế.
2.2. Phân loại lạm phát:
Căn cứ vào tỷ lệ lạm phát, các nhà kinh tế học chia lạm phát ra làm 3 loại :
2.2.1 Lạm phát vừa phải (còn gọi là lạm phát nước kiệu hay lạm phát một

con số), khi giá cả hàng hóa và dịch vụ tăng chậm, dưới 10% một năm, đồng tiền
tương đối ổn định, nền kinh tế ổn định.
2.2.2 Lạm phát phi mã (còn gọi là lạm phát 2 hay 3 con số) khi giá cả hàng
hóa và dịch vụ tăng từ 10% đến 999%/năm, đồng tiền sẽ mất giá nhanh chóng, thị
trường tài chính bất ổn, nền kinh tế bất ổn.
2.2.3 Siêu lạm phát (lạm phát từ 4 con số trở lên) khi tỷ lệ lạm phát từ
1.000%/năm trở lên, đồng tiền mất giá nghiêm trọng, nền kinh tế càng bất ổn, cuộc
sống càng khó khăn, mọi thứ trở nên khan hiếm trừ tiền giấy.
2.3. Các chỉ số đo lường lạm phát:
Mức độ lạm phát được đo lường bằng tỷ lệ lạm phát. Tỷ lệ lạm phát (ký hiệu là
If) là tỷ lệ phần trăm gia tăng trong mức giá chung của thời kỳ này so với kỳ trước.
Mức giá chung (hay chỉ số giá) là mức giá trung bình của tất cả hàng hóa và
dịch vụ trong nền kình tế ở thời kỳ này so với kỳ gốc.
HV : Nguyễn Hồng Thái Trang 5
Đề tài : Ảnh hưởng của lạm phát đến thuế TNCN. GVHD : PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng

Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của
chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số,
cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép
đo phổ biến của chỉ số lạm phát :
 Chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI)
 Chỉ số giá hàng sản xuất (PPI)
 Chỉ số giảm phát theo GDP (Id)
2.4. Nguyên nhân dẫn đến Lạm phát
Tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau, các nhà kinh tế học đã chỉ ra những nguyên
nhân gây ra lạm phát. Có 3 nguyên nhân chính là :
2.4.1 Lạm phát do cầu kéo (Demand – pull inflation)
Là lạm phát xảy ra do tổng cầu tăng vượt quá mức tổng cung hàng hóa của
xã hội, dẫn đến áp lực làm tăng giá cả. Nguyên nhân cơ bản làm cho tổng cầu tăng
lên như sau:

 Chi tiêu của Chính phủ tăng lên làm cho mức cầu về hàng hoá tăng.
 Ngân hàng Trung ương tăng lượng cung tiền.
 Khu vực tư nhân lạc quan về nền kinh tế, nên chi tiêu dùng của các hộ gia
đình và đầu tư tự định tăng lên.
 Người nước ngoài tăng mua hàng hóa và dịch vụ trong nước.
Trong các phân tích trên, tổng cầu tăng làm cho sản lượng tăng lên, đồng
thời mức giá cũng tăng làm xảy ra tình trạng lạm phát trong ngắn hạn. Song nếu nền
kinh tế chưa đạt được mức sản lượng tiềm năng thì việc tăng tổng cầu trong trường
hợp này trở thành một chính sách lạm phát có hiệu quả để thúc đẩy sản xuất xã hội
làm cho kinh tế tăng trưởng.
2.4.2 Lạm phát do cung (lạm phát do chi phí đẩy):
Trong hoàn cảnh sản xuất không tăng hoặc tăng ít mà chi phí sản xuất tăng
vượt quá mức tăng của năng suất lao động thì sẽ sinh ra lạm phát do chi phí đẩy.
Chi phí sản xuất tăng lên tạo áp lực “đẩy” giá bán sản phẩm tăng lên hoặc có thể
làm giảm mức cung ứng hàng hoá của xã hội. Chi phí sản xuất tăng lên có thể xuất
phát từ những nguyên nhân sau :
 Tiền lương tăng lên trong khi năng suất lao động không đổi
 Thuế tăng, lãi suất tăng
 Thiên tai mất mùa, chiến tranh…
HV : Nguyễn Hồng Thái Trang 6
Đề tài : Ảnh hưởng của lạm phát đến thuế TNCN. GVHD : PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng

 Giá các nguyên vật liệu chính tăng cao…
2.4.3 Lạm phát theo thuyết số lượng tiền tệ
Những nhà kinh tế học thuộc phái tiền tệ cho rằng lạm phát là do lượng cung tiền
thừa quá nhiều trong lưu thông gây ra và được giải thích bằng phương trình số lượng sau:
M.V = P.Y
Trong đó: M: Lượng cung tiền danh nghĩa
V: Tốc độ lưu thông tiền tệ
P: Chỉ số giá (mức giá trung bình)

Y: Sản lượng thực
Nhóm nhà kinh tế thuộc trường phái tiền tệ cổ điển cho rằng giá cả phụ thuộc
vào lượng tiền phát hành. Khi lượng cung tiền tăng lên thì mức giá cũng tăng theo
cùng tỷ lệ, lạm phát xảy ra. Học thuyết này giả định V và Y không đổi.
CHƯƠNG 2
ẢNH HƯỞNG CỦA LẠM PHÁT ĐẾN
THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1. Lạm phát tác động đến thuế thu nhập cá nhân hiện nay:
1.1 Lạm phát tác động đến thuế TNCN từ tiền lương tiền công
Luật thuế thu nhập cá nhân có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009, theo đó
mức giảm trừ gia cảnh khởi điểm chịu thuế là 4.000.000 đồng/tháng, mức giảm trừ
người phụ thuộc là 1.600.000 đồng/tháng. Kể từ ngày 01/5/2012 khi mức lương tối
thiểu tăng từ 830.000 đồng lên 1.050.000 đồng, theo Nghị định số 31/2012/NĐ-CP
của Chính phủ thì sẽ có thêm nhiều cán bộ, công chức hành chính có tên trong danh
sách nộp thuế thu nhập cá nhân. Có thêm nhiều người thuộc diện nộp thuế thu nhập
cá nhân sẽ là điều rất tốt, làm tăng thu ngân sách Nhà nước và phản ánh được sự
phát triển của nền kinh tế làm gia tăng thu nhập cá nhân, nếu như giá trị đồng tiền
HV : Nguyễn Hồng Thái Trang 7
Đề tài : Ảnh hưởng của lạm phát đến thuế TNCN. GVHD : PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng

vào thời điểm hiện nay vẫn được giữ nguyên như giá trị đồng tiền vào thời điểm
đầu năm 2009.
Tuy nhiên, thực tế lại không được như vậy, giá cả hàng hóa bây giờ biến
động khác xa so với 3 năm về trước, trong khi Luật thuế thu nhập cá nhân lại quy
định con số khởi điểm “cứng” vào Luật. Tiền lương tăng nhưng giá cả thị trường đã
tăng trước một bước, thành ra thực chất của tăng lương không phải là tăng thu nhập,
mà chỉ là bù trượt giá của đồng tiền. Thu nhập cá nhân “không tăng” mà phải nộp
thêm thuế thu nhập cá nhân là sẽ làm cho nhiều người ăn lương gặp khó khăn, nhất
là những người có con đang học đại học xa nhà với nhiều khoản chi tiêu thực tế khá
tốn kém.

Luật quy định thuế thu nhập cá nhân thực hiện ổn định trong 5 năm, nhưng
trong 5 năm giá cả đã biến động rất nhiều và mức lương tối thiểu đã được Chính
phủ thay đổi tăng lên theo từng năm thì mức thuế thu nhập không còn phù hợp là
điều dễ hiểu. Do đó thuế thu nhập cá nhân không nên đưa ra con số khởi điểm chịu
thuế “cứng’ như hiện nay. Thuế không thể đi trước hoặc đi sau đời sống xã hội.
Vì vậy, để không ảnh hưởng đến đời sống của nhiều người trong đó có cán
bộ, công chức, viên chức, Luật thuế thu nhập cá nhân cần được nghiên cứu sửa đổi
trong thời gian sớm nhất, trong đó phải tính đến mức độ lạm phát qua từng năm để
chính sách thuế không còn bất cập như hiện nay.
Các nhà kinh tế học thường phân biệt 2 loại lạm phát : lạm phát có thể tiên
liệu và lạm phát không thể tiên liệu. Lạm phát không tiên liệu được xem là không
hiệu quả vì nó không cho phép điều chỉnh hành vi con người một cách tối ưu đối
với sự tăng giá. Hệ thống thuế thu nhập thường thì không được chỉ số hóa theo lạm
phát. Thế nhưng ngay cả khi lạm phát được tiên liệu một cách hoàn hảo, lạm phát
vẫn gây ra những lệch lạc.
Ví dụ thực tế cho thấy : Ông Nguyễn Văn A (độc thân) công tác ở Công ty X,
có thu nhập lương 1 gói là 9 triệu đồng (đã trừ các khoản bảo hiểm bắt buộc). Lạm
phát được tiên liệu hoàn hảo là 12%.
Theo luật thuế TNCN hiện hành thì Ông A được giảm trừ cho bản thân là 4
triệu đồng. Thu nhập chịu thuế là 9 triệu – 4 triệu = 5 triệu đồng, theo biểu thuế
TNCN thì Ông A đóng thuế bậc 1, thuế suất 5%, số tiền thuế TNCN phải nộp là : 5
triệu x 5% = 250 ngàn đồng/tháng.
HV : Nguyễn Hồng Thái Trang 8
Đề tài : Ảnh hưởng của lạm phát đến thuế TNCN. GVHD : PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng

Do tình hình lạm phát, giá cả hàng hóa trên thị trường tăng 12%, Công ty cho
phụ cấp trượt giá 12% vào trong lương 1 gói của Ông A, lúc này lương 1 gói làm
tròn của Ông A là 10,1 triệu đồng. Thu nhập chịu thuế 10,1 triệu – 4 triệu = 6,1 triệu
đồng, theo biểu thuế TNCN hiện hành thì Ông A đóng thuế bậc 2, thuế suất 10%, số
tiền thuế thu nhập cá nhân phải nộp là : 6,1 triệu x 10% = 610 ngàn. Thu nhập danh

nghĩa tăng lên 10,1 triệu, trong khi thu nhập thực tế không thay đổi, do ảnh hưởng
lạm phát làm cho số tiền thuế TNCN phải nộp tăng lên, sau khi đóng thuế TNCN thì
thu nhập thực tế bị giảm : 610 -250 = 360 ngàn.
Nếu phụ cấp trượt giá cho Ông A là 17% cộng vào tiền lương 1 gói thì lương
1 gói của Ông A là 10,53 triệu đồng và thu nhập chịu thuế là : 10,53 – 4 = 6,53
triệu. Thuế TNCN phải nộp là : 6,53 x 10% = 653 ngàn. Thu nhập thực tế tăng thêm
: (17%-12%) x 9 triệu – (653 ngàn – 250 ngàn) = 47 ngàn đồng. Thu nhập thực tế
tăng thêm không đáng kể. Điều này cho thấy dù thu nhập thực tế tăng thêm 5%
cũng chỉ bù đắp số thuế TNCN phải nộp.
Do đó, chính sự tác động của lạm phát giá cả hàng hóa dịch tăng lên, bên
cạnh đó tiền lương danh nghĩa cũng có xu hướng tăng lên và chịu ảnh hưởng của
thuế TNCN làm cho thu nhập thực tế cho người dân có thể giữ vững, tăng và giảm
xuống. Lạm phát cũng làm gia tăng số thuế thu được, nhờ đó chính phủ thu được
nhiều thuế hơn mà không phải thông qua luật. Cụ thể trong ví dụ, số thuế TNCN
tăng lên do yếu tố lạm phát : 653 – 250 = 403 ngàn.
Khi lạm phát không thể tiên liệu trước được thì sẽ làm cho thu nhập thực tế
của người dân giảm đáng kể. Ví dụ : lạm phát dự kiến 12%/năm, nhưng do tình hình
bất ổn kinh tế vĩ mô và suy thoái kinh tế toàn cầu làm cho lạm phát của quốc gia
tăng lên 60%/năm. Ông A có thu nhập 9 triệu, do tình hình lạm phát 50%, phụ cấp
trượt giá 50% cộng vào lương 1 gói : 9 triệu x (1+60%) = 14,4 triệu đồng. Thu
nhập chịu thuế = 14,4 – 4 = 10,4 triệu đồng. Thuế TNCN phải nộp từ bậc 1 nâng lên
đến bậc 3 với thuế suất 15% : 10,4 x 15% = 1,56 triệu. Thu nhập thực tế bị giảm :
1,56 triệu – 0,25 triệu = 1,31 triệu (giảm gần 15% so với thu nhập thực tế ban đầu)
mặc dù đã cộng trượt giá 50% vào tiền lương.
Ví dụ 2 : Ông B có thu nhập tiền lương 1 gói là 4 triệu đồng, bình quân thu
nhập 133 ngàn/ngày, đủ để đảm bảo chi tiêu hàng tháng với các khoản chi sinh hoạt
phí cố định, theo luật thuế TNCN hiện hành thì Ông B không phải nộp thuế, lạm
HV : Nguyễn Hồng Thái Trang 9
Đề tài : Ảnh hưởng của lạm phát đến thuế TNCN. GVHD : PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng


phát 60%, lương danh nghĩa tăng 60% để bù đắp trượt giá. Thu nhập danh nghĩa : 4
triệu x (1+60%) = 6,4 triệu, làm cho Ông B phải chịu thuế TNCN bậc 1 với thuế
suất 5%, thu nhập chịu thuế là : 6,4 – 4 = 2,4 triệu. Thuế TNCN phải nộp của Ông
B là : 2,4 x 5% = 120 ngàn (tính gần 1 ngày lương của Ông B lúc đầu)
Theo TS Trần Du Lịch “ Lạm phát là thuế vô hình đánh vào toàn dân. Mà
người thu nhập càng cố định thì thiệt hại càng lớn”. Chính vì vậy, lạm phát càng
tăng lên thì thu nhập thực tế của người dân càng giảm, sự sụt giảm cho thấy tác
động mạnh đến những người thu nhập thấp, mặc dù đã cộng vào tỷ lệ trượt giá vào
trong tiền lương.
Mức tăng giá tiêu dùng Nhóm I, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống, đã lên tới
65% trong giai đoạn 2009 - 2012. Nếu đề xuất mức thu nhập tối thiểu chịu thuế
chỉ tăng có 50%. Có nghĩa là lạm phát đã đánh thuế vô hình vào thu nhập của người
dân, và người nghèo hơn phải đóng thuế thu nhập.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) từ năm 2009-2012, theo Tổng Cục thống kê, CPI
chung năm 2009 tăng 6,88%, năm 2010 tăng 9,19%, năm 2011 tăng 18,13%, còn
năm 2012 mục tiêu Chính phủ đặt ra là tăng khoảng 9%. Như vậy, CPI năm 2012 so
với năm 2009 đã tăng trên 50%.
Mức tăng này còn cao hơn nếu tính theo CPI nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn
uống, gọi chung là Nhóm I. Năm 2009, CPI Nhóm I tăng 26,13%, năm 2010 tăng
10,71%, 2009 tăng 8,71%. Giả sử CPI Nhóm I năm nay tăng bằng mức CPI chung
là 9% thì với cách tính trên, CPI Nhóm I năm 2012 so với năm 2009 tăng tới trên
HV : Nguyễn Hồng Thái Trang 10
Đề tài : Ảnh hưởng của lạm phát đến thuế TNCN. GVHD : PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng

65%. Những con số này cho thấy, CPI chung và CPI Nhóm I năm 2012 so với năm
2009 đều tăng vượt 50%. Trong khi đó, mức giảm trừ 6 triệu và 2,4 triệu đồng mà
theo dự thảo điều chỉnh thuế TNCN dự định áp dụng từ năm 2014 chỉ tăng 50% so
với năm 2009. Có nghĩa, nếu so với mức tăng CPI thì mức tăng giảm trừ gia cảnh là
thấp hơn, ngay cả khi chỉ tính tới năm 2012. Hay nói cách khác, cùng một loại hàng
hóa dịch vụ, 6 triệu và 2,4 triệu của năm 2014 sẽ mua được ít hơn so với 4 triệu và

1,6 triệu năm 2009.
Theo dự thảo điều chỉnh thuế TNCN, đến năm 2014, người nộp thuế sẽ được
giảm trừ 6 triệu đồng/tháng và người phụ thuộc được giảm trừ 2,4 triệu đồng/tháng.
Mức tăng của chiết trừ gia cảnh so với hiện nay là 50%. Cũng trong quãng thời gian
này, lương tối thiểu có mức tăng 98,79%, tăng từ 830.000 đồng/tháng hiện nay lên
1.650.000 đồng/tháng vào năm 2014.
Với mức tăng chỉ bằng 1/2 lương tối thiếu, đến khi luật có hiệu lực, người
đóng thuế trên thực tế phải nộp nhiều hơn hơn so với hiện nay. Ví dụ, một người
độc thân có thu nhập 9 triệu đồng/tháng ở thời điểm hiện tại, trừ đi mức chiết trừ gia
cảnh 4 triệu đồng, thu nhập đóng thuế là 5 triệu đồng thì số thuế phải đóng là
250.000 đồng/tháng.
Đến năm 2014, mức lương của người này sẽ tăng lên 17,89 triệu đồng/tháng
(tương đương mức tăng của lương tối thiểu 98,79%), trừ đi mức chiết trừ gia cảnh 6
triệu đồng, thu nhập chịu thuế là 11,89 triệu đồng, rơi vào bậc khung thuế suất bậc 2
thay vì bậc 1 hiện nay. Số thuế phải đóng là 939.000 đồng, tăng 275% so với mức hiện
tại. Nghĩa là, đến khi lương được tăng gấp đôi thì thuế phải nộp tăng gấp gần 3 lần.
Ví dụ này là minh chứng rõ ràng nhất, sự lỗi thời của ngưỡng thuế so với
lương cơ bản. Mà lương cơ bản lâu nay đã luôn lỗi thời so với tốc độ tăng của giá
cả. Người nộp thuế càng thêm thiệt thòi.
Việc tính toán thuế thu nhập cá nhân cũng có thể dựa vào mức lương tối
thiểu, vì đây là cơ sở thể hiện mức sống của người hưởng lương nói riêng và của
nền kinh tế nói chung. Cụ thể : năm 2006, khi Bộ Tài chính đưa mức khởi điểm
chịu thuế 4 triệu đồng/người/tháng vào dự thảo luật thì lương tối thiểu khi đó là 450
nghìn đồng (từ 1-10-2006). Như vậy, khởi điểm thu nhập chịu thuế lúc đó cao gấp
8,88 lần lương tối thiểu. Năm 2009, khi luật có hiệu lực thi hành, lương tối thiểu là
730 nghìn đồng, tức tỷ lệ giảm còn 5,47 lần. Hiện nay, lương tối thiểu 830 nghìn
HV : Nguyễn Hồng Thái Trang 11
Đề tài : Ảnh hưởng của lạm phát đến thuế TNCN. GVHD : PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng

đồng, từ 05/2012 tới đây, mức lương tối thiểu sẽ lên 1.050 nghìn đồng. Khi lương

tối thiểu thay đổi thì mức tính thuế cũng thay đổi, theo tình hình kinh tế - xã hội ở
nước ta thì mức dao động có thể từ 8-10 lần. Ví dụ : năm 2006, mức lương tối thiểu
450 nghìn đồng, mức chịu thuế 4 triệu đồng (tỷ lệ 8,88 lần), khi mức lương tối thiểu
lên 830 ngàn thì là: 830.000 x 8,8 = 7,3 triệu đồng, và đến tháng 5/2012 thì
1.050.000 x 8,8 = 9,24 triệu . Mức lương tối thiểu từ tháng 05/2012 là 1.050.000
đồng và nếu áp dụng thu nhập khởi điểm chịu thuế là 6 triệu như dự thảo thì chênh
lệch với mức lương tối thiểu chỉ là 5,71 lần (so với chênh lệch 5,47 lần như hiện
hành thì tỷ lệ này là tương ứng). Tuy nhiên, luật thuế sửa đổi dự kiến áp dụng từ
2014. Lộ trình cải cách tiền lương, thông thường mỗi năm điều chỉnh lương tối
thiểu một lần, như vậy từ nay đến 2014 còn hai lần điều chỉnh lương tối thiểu. Với
tỷ lệ điều chỉnh khoảng 15 đến 20% như mấy năm qua, thì hai lần điều chỉnh sẽ là
30-40%, tức lương tối thiểu đến 2014 khoảng 1,5 triệu đồng. Tỷ lệ chênh lệch giữa
lương tối thiểu và khởi điểm chịu thuế khi đó chỉ còn 4 lần, xem như là quá thấp,
không phù hợp bối cảnh kinh tế - xã hội.
Việc lấy mức lương tối thiểu làm căn cứ tính thuế sẽ đảm bảo "độ bền" cho
đạo luật và phù hợp sự phát triển nền kinh tế : khi đời sống cải thiện thì lương tối
thiểu tăng, mức đóng thuế cũng tăng theo. Ngược lại, nếu các nhà làm luật "tính
cứng" là 6 triệu hay 7 triệu, thì đạo luật sẽ nhanh chóng lạc hậu và phải thường
xuyên sửa đổi, đặc biệt trong bối cảnh lạm phát vẫn ở mức cao
Đối tượng bị thiệt khi lạm phát tăng cao là người có thu nhập trung bình và
khá. Có thể thấy điều này khi nhìn vào cơ cấu chi tiêu của các hộ gia đình có thu
nhập trên dưới 10 triệu -12 triệu đồng/tháng. Đây là nhóm hộ có tỉ lệ chi cho lương
thực, thực phẩm và hàng thiết yếu (ăn, mặc, ở) chiếm đa số, thậm chí đến 80% tổng
thu nhập. Do vậy, họ sẽ chịu tác động mạnh nhất từ việc tăng giá cả hàng hóa, dịch
vụ. Như vừa phân tích, CPI Nhóm I năm 2012 tăng hơn 65% so với năm 2009.
Nghĩa là họ đã chịu thiệt khi so với mức CPI chung và còn thiệt hơn nữa khi mua
lương thực, thực phẩm.
Ví dụ, giá nhà đất năm 2011 không tăng, thậm chí giảm, giúp kéo chỉ số CPI
chung xuống, nhưng giá lương thực, thực phẩm vẫn tăng cao. Nhiều hộ có thu nhập
trung bình không được hưởng mức giá nhà đất giảm, vì họ không có đủ tiền mua.

Trong khi đó, họ buộc phải chi cho ăn, mặc, sinh hoạt với giá tăng chóng mặt. Một
HV : Nguyễn Hồng Thái Trang 12
Đề tài : Ảnh hưởng của lạm phát đến thuế TNCN. GVHD : PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng

tô phở năm 2009 chỉ 12.000 đồng, nhưng nay đã lên tới 25.000 đồng. Hay như giá
gas vào tháng 3.2009 là 205.000 đồng/bình, nay đã tăng hơn gấp đôi.
Theo Vụ Lao động - Tiền lương, thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội, đến năm 2013, mức thu nhập bình quân của người lao động cả nước khoảng 5,5
triệu đồng/tháng thì thì theo dự thảo điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh 6 triệu và 2,4
triệu là có cơ sở. Nhưng nếu tính đến yếu tố lạm phát nói trên, thì các mức giảm trừ
6 triệu đồng và 2,4 triệu đồng chỉ có thể tương đối phù hợp nếu áp dụng ngay từ đầu
năm 2012. Còn đến năm 2014 mới áp dụng thì có nghĩa người dân có thu nhập thấp
hơn so với năm 2009 cũng phải nộp thuế thu nhập cá nhân.
1.2 Lạm phát tác động đến thuế TNCN từ thu nhập trên vốn
Lạm phát cũng tác động đến thuế TNCN từ thu nhập trên vốn.
Ví dụ 1 : Ông A mua một tài sản trị giá 100 triệu đồng. Ba năm sau bán được 300
triệu đồng. Giả sử thêm rằng, trong 3 năm đó mức giá chung tăng gấp ba. Xét về
khía cạnh giá thực, việc bán tài sản mang lại một khoản lãi thực bằng 0. Tuy nhiên,
Ông A phải chịu nghĩa vụ nộp thuế tính trên thu nhập từ vốn dựa trên sự chênh lệch
giữa giá mua và giá bán danh nghĩa. Do đó, Ông A phải chịu một khoản thuế tính
trên 200 triệu đồng lãi danh nghĩa làm giảm giá trị thực của tài sản khi bán ra, vô
tình thuế TNCN đánh trên số tiền gốc của Ông A khi có lạm phát. Tóm lại, vì phần
tăng lên của tiền lãi trên vốn (do lạm phát ) phải chịu thuế nên gánh nặng thuế thực
phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát.
Ví dụ 2 : Ông B mua 1 miếng đất có giá trị 200 triệu đồng, sau 3 năm bán được 600
triệu, chi phí có liên quan đến việc mua đất không đáng kể. Giả sử mức giá chung
trong 3 năm tăng gấp 3 lần, theo luật thuế TNCN hiện hành thì thu nhập chịu thuế là
600 – 200 = 400 triệu đồng, thuế TNCN phải nộp là 400 x 25% = 100 triệu đồng.
Các chi phí có liên quan được trừ vào thu nhập chịu thuế chưa tính đến tỷ lệ lạm
phát, nên thuế TNCN đã đánh vào số tiền gốc của Ông B.

Vì vậy, từ những phân tích ở trên, việc điều chỉnh thuế suất thuế TNCN hoặc
điều chỉnh các mức giảm trừ để tính thuế thu nhập cá nhân phải dựa vào yếu tố lạm phát.
2. Thuế TNCN ảnh hưởng đến lạm phát ở Việt Nam:
- Theo các lý thuyết kinh tế, lạm phát và tăng giá có thể xuất phát từ nguyên nhân
cầu kéo hoặc chi phí đẩy. Trường hợp lạm phát do nguyên nhân cầu kéo làm giá cả tăng
HV : Nguyễn Hồng Thái Trang 13
Đề tài : Ảnh hưởng của lạm phát đến thuế TNCN. GVHD : PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng

cao. Nhà nước có thể dùng biện pháp điều chỉnh tăng thuế tiêu dùng làm giảm bớt áp lực
tăng cầu giả tạo, trên cơ sở điều chỉnh lại quan hệ cung cầu.
- Nếu lạm phát nảy sinh từ chi phí đẩy, thì việc giảm thuế đối với các yếu tố đầu
vào là cần thiết nhằm giảm nhẹ áp lực tăng chi phí và tạo điều kiện hạ giá bán sản phẩm,
trên cơ sở đó lập lại quan hệ cung cầu, ổn định giá cả thị trường.
Do vậy, đối với từng loại nguyên nhân lạm phát thì từng loại thuế có những tác động
điều chỉnh khác nhau như sau :
Lạm phát cũng như là một đòn bẩy vào chính mức thuế thu nhập của người có thu
nhập. Cụ thể môi trường lạm phát cao thì làm cho các khoản mất đi từ thuế có tác động
lớn hơn rất nhiều so với môi trường lạm phát thấp (thuế trên thuế). Chính vì vậy, giảm
thuế trong môi trường lạm phát cao có tác dụng tích cực về hỗ trợ mức sống, hỗ trợ vốn
cho việc tiếp tục duy trì hoạt động đầu tư, kinh doanh. Ở Việt nam để giải quyết vấn đề
lạm phát và sự bất ổn của nền kinh tế trong thời gian qua đã có những điều chỉnh miễn
giảm thuế TNCN như :
Cụ thể trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn bị ảnh hưởng của suy thoái nền kinh tế
toàn cầu và lạm phát năm 2009, Nhà nước đã cho giãn Luật Thuế TNCN ngay từ năm
đầu tiên có hiệu lực từ ngày 0/01/2009 được Nhà nước cho miễn thuế 6 tháng đầu năm,
và mới đây cũng do ảnh hưởng nền kinh tế khó khăn và lạm phát cao, đến năm 2011,
Chính phủ đã đề xuất và được Quốc hội chấp thuận cho miễn thuế TNCN từ ngày
01/08/2011 đến 31/12/2011 đối với các khoản thu nhập từ tiền lương, tiền công, nằm
trong bậc 1 của biểu thuế lũy tiến. Theo hướng dẫn tại Thông tư số 113/2011/TT-BTC
của Bộ Tài chính, kể từ ngày 19-9-2011, các khoản thu nhập vãng lai trên 1 triệu đồng

mới bị khấu trừ thuế (thay vì 500.000 đồng như trước đây). Cụ thể, các khoản chi trả tiền
hoa hồng, đại lý bán hàng, tiền lương, tiền công thu nhập từ 1 triệu đồng/lần trở lên áp
dụng mức khấu trừ tỷ lệ 10% trên tổng thu nhập với cá nhân đã có mã số thuế. Đối với
cá nhân chưa làm mã số thuế áp mức khấu trừ 20%. Đối với lạm phát do chi phí đẩy,
việc miễn giảm các loại thuế như trên là rất cần thiết. Đó cũng là một cách để hỗ trợ các
cá nhân kinh doanh trong tình hình khó khăn, chống suy giảm kinh tế, chống lạm phát.
Công cụ thuế phát huy tác động hiệu quả trong việc kiềm chế lạm phát.
CHƯƠNG 3
NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ
HV : Nguyễn Hồng Thái Trang 14
Đề tài : Ảnh hưởng của lạm phát đến thuế TNCN. GVHD : PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng

1. Nhận xét:
1.1 Kết quả đạt được :
Luật Thuế TNCN chính thức áp dụng từ 01/01/2009, đánh dấu một bước hoàn
thiện trong hệ thống thuế của Việt Nam.
 Góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, thu nhập bình quân đầu người
của cá nhân ngày càng tăng từ đó thuế thu nhập cá nhân góp phần quan trọng vào
việc tăng thu cho ngân sách Nhà nước.
 Góp phần thực hiện công bằng xã hội. Ở nước ta hiện nay, thu nhập của tầng lớp
nhân dân có sự chênh lệch nhau, số đông dân cư có thu nhập thấp nhưng cũng có
một số cá nhân có thu nhập cao, nhất là những cá nhân làm việc trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc có một số cá nhân người nước ngoài làm việc
tại Việt Nam. Mặc dù thuế TNCN chưa mang lại số thu lớn cho ngân sách Nhà
nước, song xét trên phương diện công bằng xã hội và phương diện quản lý vĩ mô
của Nhà nước thì thuế TNCN có vị trí cực kỳ quan trọng.
 Hệ thống thuế suất có nhiều bậc, tạo sự công bằng giữa các đối tượng nộp thuế. Đối
tượng điều chỉnh của thuế là người có thu nhập trong kỳ tính thuế, kể cả người cư
trú và người không cư trú, không phân biệt người Việt nam hay người nước ngoài.
1.2 Những mặt hạn chế :

 Mức giảm trừ cá nhân và giảm trừ cho người phụ thuộc theo Luật hiện hành là chưa
hợp lý, chưa tính đến sự mất giá của đồng tiền. Theo thời giá hiện nay, việc quy
định mức giảm trừ đối với đối tượng cá nhân người nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng;
mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng/tháng. Sau 2 năm triển
khai thực hiện, với tốc độ lạm phát hàng năm khá cao, mức giảm trừ này đã bộc lộ
những bất cập. Với tốc độ trượt giá hiện nay, mức thu nhập 4 triệu đồng/tháng
(tương đương 130.000 đồng/ngày) chỉ đủ để chi phí ăn ở, đi lại… cho một người ở
mức khá "tiết kiệm", mà chưa tính đến các nhu cầu giải trí, nghỉ dưỡng. Việc tích
lũy lại càng xa vời. Mức giảm trừ gia cảnh lại càng bất cập hơn, bởi đối tượng phụ
thuộc thường là những trẻ em đang trong độ tuổi ăn học, hay những người già rất
cần được chăm sóc sức khỏe. mà mức thu nhập 4 triệu đồng/tháng hiện nay chưa đủ
chi phí cho nhu cầu tối thiểu của người dân mà vẫn phải nộp thuế TNCN.
 Mức giảm trừ gia cảnh 1,6 triệu đ/người cũng sớm trở nên lạc hậu. Hơn nữa, việc
xác nhận hành chính (ở cấp chính quyền địa phương hoặc cơ quan) về vị thế và thực
HV : Nguyễn Hồng Thái Trang 15
Đề tài : Ảnh hưởng của lạm phát đến thuế TNCN. GVHD : PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng

tế đã tính hay chưa tính giảm trừ gia cảnh người phụ thuộc gây nhiều phiền toái và
khó chính xác cho cả người nộp thuế, lẫn cơ quan thu thuế.
 Biểu thuế suất quá dày, khoảng cách giữa các bậc chịu thuế quá thấp. Biểu thuế
suất như hiện nay không tạo động lực cho người dân làm việc, tăng thu nhập vì thu
nhập vừa nhích lên đã rơi vào bậc thuế khác và phải đóng thuế nhiều hơn.
 Mức giảm trừ gia cảnh hiện nay không tính đến khu vực, có nghĩa là ở nông thôn,
thành thị, miền núi hay đồng bằng đều áp dụng như nhau, nhưng thực tế cho thấy
mức chi tiêu cho sinh hoạt hàng ngày của một cá nhân ở thành thị là lớn hơn nhiều
so với ở nông thôn và miền núi. Thuế TNCN đã vô tình đánh vào chi phí của họ,
làm cho thu nhập thực tế giảm xuống.
 Thuế TNCN đánh trên đầu tư vốn như cổ tức, cá nhân đầu tư vốn mua cổ phần của
doanh nghiệp, sau khi doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp mới chia cổ
tức, cá nhân được nhận cổ tức, lại chịu thuế TNCN.

2. Kiến nghị :
 Việc điều chỉnh thuế TNCN nên dựa vào mức lương tối thiểu chung, vì cập nhật kịp
thời biến động giá cả nhưng vẫn đạt được mục tiêu Bộ Tài chính đặt ra là độ ổn
định chính sách, không cần sửa luật nhiều lần. Mặt khác, phương án này còn có cơ
sở pháp lý là dựa trên quyết định điều chỉnh tiền lương tối thiểu của Chính phủ để
điều chỉnh, nếu đưa ra một số cố định về việc giảm trừ thì phải có quy định rõ ràng
về khoản giảm trừ trượt giá mà người nộp thuế được trừ, căn cứ vào tốc độ trượt giá
hằng năm để giảm bớt gánh nặng cho người nộp thuế. Việc sửa Luật thuế thu nhập
cá nhân không nên chỉ đặt nặng mục tiêu số thu ngân sách mà cần hài hòa cả ba
mục tiêu là đời sống người nộp thuế ổn định, thực hiện dễ dàng và nguồn thu ngân
sách trong chừng mực nào đó không ảnh hưởng quá lớn.
 Lạm phát và thuế TNCN là 2 vấn đề rất nhạy cảm, phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống người dân. Nếu chờ làm theo thủ tục, lấy ý kiến, chờ trình… sẽ làm
người dân phải chịu thiệt. Cần nhanh chóng đưa vấn đề sửa đổi Luật Thuế TNCN ra
xin ý kiến Quốc hội để điều chỉnh sớm ngay từ bây giờ để không bị lạc hậu so với
thực tế và đặc biệt cần xin ý kiến Quốc hội ủy quyền cho Chính phủ linh hoạt thay
đổi mức chịu thuế vì cứ vài năm lại thay đổi luật, nếu chờ Quốc hội họp thì mất
nhiều thời gian.
HV : Nguyễn Hồng Thái Trang 16
Đề tài : Ảnh hưởng của lạm phát đến thuế TNCN. GVHD : PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng

 Trong 2 năm qua, mức giảm trừ gia cảnh luôn thấp so với mức tăng lạm phát khiến
đời sống người dân khó khăn. Nên sửa đổi mức giảm trừ gia cảnh theo chỉ số giá để
mức giảm trừ sát thực tế.
 Việc tăng mức khởi điểm chịu thuế là cần thiết và tất yếu. Tuy nhiên, cách tốt nhất
là tính theo lương tối thiểu. Cách tính này đáp ứng được cả 2 nhu cầu: phù hợp với
mức sống thực tế của người dân và dễ áp dụng; hạn chế tình trạng lạm dụng, thiệt
hại cho cả người nộp thuế và Nhà nước.
 Nên quy định phần trăm hoặc số lần so với mức lương tối thiểu để sau này cơ quan
thuế chỉ cần nhân với mức lương tối thiểu và số lần quy định trong luật thì sẽ ra

được mức chịu thuế cho từng thời điểm.
 Cần áp dụng kết hợp nhiều hình thức giảm trừ như : giảm trừ đối với các khoản chi
phí hợp lý trong thu nhập chịu thuế, các chi phí hợp lý của cá nhân như : chi phí
sinh hoạt bình quân, chi phí nuôi dưỡng người phụ thuộc : ăn uống, khám chữa
bệnh, học phí…, chi phí phục hồi sức lao động… nếu các cá nhân chứng minh được
các chứng từ hợp lệ, điều này còn khuyến khích các cá nhân tiêu dùng hàng hóa
dịch vụ sẽ yêu cầu đơn vị cung cấp hóa đơn chứng từ, hạn chế trốn tránh thuế trong
mua bán hàng hóa dịch vụ. Nếu cá nhân không chứng minh được chứng từ hợp lệ
thì áp dụng cách giảm trừ tiêu chuẩn.
Luật thuế TNCN phải đảm bảo việc khấu trừ những chi phí một cách hợp lý để
duy trì cuộc sống có chất lượng của cá nhân nộp thuế và tiếp tục tạo ra thu nhập.
Việc khấu trừ những chi phí hợp lý là cần thiết. Tuy nhiên, khấu trừ những khoản
chi phí nào, mức khấu trừ bao nhiêu, phương thức khấu trừ như thế nào là những
vấn đề lớn cần được cân nhắc, tính toán kỹ trên cơ sở những số liệu điều tra cụ thể,
chính xác, không nên thiết kế một cách áp đặt hoặc chung chung khó áp dụng. Để
đảm bảo việc áp dụng được chính xác và thuận tiện, việc quy định các khoản chi phí
được khấu trừ phải hết sức cụ thể, chính xác và minh bạch.
 Cần tính đến phương án điều chỉnh tăng mức khởi điểm chịu thuế tương ứng với
mức lạm phát tăng. Cụ thể : lạm phát tăng 5% thì tự động điều chỉnh khởi điểm chịu
thuế 5%.
 Cần nới rộng cơ sở tính thuế ở bậc 1 của thuế lũy tiến từng phần. Ví dụ : hiện nay
nâng lên đến 10 -15 triệu có thuế suất 5%.
 Cần miễn giảm thuế TNCN từ đầu tư góp vốn mua cổ phần vào doanh nghiệp, đặc
biệt đối với những doanh nghiệp đầu tư vào các vùng khó khăn cần khuyến khích
HV : Nguyễn Hồng Thái Trang 17
Đề tài : Ảnh hưởng của lạm phát đến thuế TNCN. GVHD : PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng

đầu tư tư nhân, do tác động lạm phát ảnh hưởng làm giảm thu nhập thực tế và làm
giảm hiệu quả đầu tư.
PHẦN KẾT LUẬN.

Tóm lại, thuế thu nhập cá nhân là một công cụ quan trọng của Nhà nước, nó
vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, vừa là công cụ điều tiết vĩ mô nền
kinh tế .Việt Nam đang bước vào hội nhập sâu, rộng với kinh tế quốc tế và tiến trình
chuyển đổi dần cơ cấu tỷ trọng tăng dần của các sắc thuế trực thu đang là xu hướng
tất yếu. Thuế TNCN cũng đóng một vai trò đáng kể trong nguồn thu ngân sách và là
nghĩa vụ của tất cả những người lao động trên lãnh thổ Việt Nam. Thuế TNCN điều
tiết thu nhập cá nhân, thể hiện rõ nghĩa vụ của công dân đối với đất nước và được căn
cứ trên các nguyên tắc : lợi ích, công bằng và khả năng nộp thuế. Do đó song với
HV : Nguyễn Hồng Thái Trang 18
Đề tài : Ảnh hưởng của lạm phát đến thuế TNCN. GVHD : PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng

việc hoàn chỉnh luật thuế thu nhập cá nhân thì kiềm chế lạm phát là việc làm cần thiết
và hết sức cấp bách được đặt ra hàng đầu trong giai đoạn hiện nay.
Thêm vào đó, pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân mới ra đời, do vậy nó chưa
được sự nhận thức và thực hiện rộng rãi của dân cư. Những tiền đề căn bản cho việc
thực hiện tốt công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân ở nước ta vẫn còn rất hạn chế,
Nhưng việc thực hiện pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân chưa thực sự hiệu quả như
khả năng của nó chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan. Những nguyên nhân
đó xuất phát từ phía cơ quan làm luật, cơ quan thuế, một số cơ quan khác có liên
quan đến quá trình thu nộp thuế, và ý thức của những người có nghĩa vụ kê khai và
nộp thuế. Các văn bản pháp luật hiện nay về thuế thu nhập cá nhân còn một số vấn
đề chưa thực sự hợp lý. Trong quá trình thực hiện, cơ quan thuế chưa tìm ra cách tổ
chức thu thuế đối với các cá nhân có nghĩa vụ kê khai và nộp thuế một cách có hiệu
quả, rất nhiều đối tượng nộp thuế đã bị bỏ sót. Để khắc phục những bất cập đang
tồn tại trong pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao và quá trình
thực hiện của nó, chúng ta cần có những sửa đổi một cách đồng bộ trên cả phương
diện văn bản pháp luật và công tác tổ chức thu nộp thuế thu nhập cá nhân.
Đối với văn bản qui định về thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
hiện nay, chúng ta nên điều chỉnh lại sao cho bao quát được hết các khoản thu nhập
của dân cư. Chúng ta nên nới rộng cơ sở tính thuế nhằm bao quát được rộng rãi hơn

tầng lớp dân cư nộp thuế, đồng thời có khả năng tăng được nguồn thu cho ngân
sách. Căn cứ tính thuế cũng cần phải quan tâm đến yếu tố gia cảnh của người nộp
thuế chịu sự ảnh hưởng của lạm phát.
Về công tác tổ chức thực hiện, chúng ta nên xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên
trách trong lĩnh vực quản lý việc kê khai và nộp thuế thu nhập cá nhân. Công tác
quản lý cần kết hợp ở cả nơi các cá nhân làm việc và nơi cư trú nhằm đảm bảo tính
chính xác và đầy đủ. Sự kết hợp giữa các cơ quan quản lý đối tượng lao động và cơ
quan thuế cần phải được tăng cường, công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục về
thuế thu nhập cá nhân cũng phải được chú trọng hơn nữa, để thuế thu nhập cá nhân
ở Việt Nam sẽ phát triển và sớm trở thành một sắc thuế quan trọng trong hệ thống
thuế Việt Nam, phát huy tốt những vai trò và chức năng của nó để đưa nền kinh tế
phát triển liên tục và ổn định đồng thời đảm bảo được sự công bằng trong xã hội.
HV : Nguyễn Hồng Thái Trang 19
Đề tài : Ảnh hưởng của lạm phát đến thuế TNCN. GVHD : PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ phân tích được một số khía cạnh
của tác động của lạm phát đến thuế TNCN chưa bao quát được hết tất cả, cũng như
chưa khảo sát điều tra thực tế và chưa nghiên cứu phân tích đưa ra được mức giảm
trừ hợp lý cụ thể khi biết được tỷ lệ lạm phát. Đây là hướng nghiên cứu mở rộng
của đề tài sau này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ PGS.TS Sử Đình Thành và TS. Bùi Thị Mai Hoài, Tài chính công và phân
tích chính sách thuế, NXB LĐXH TP.HCM, 2010.
2/ Luật thuế TNCN số 04/2007/QH12 ngày 21/11/2007;
3/ Thông tư 84/2008/TT-BTC ngày 30/09/2008 của Bộ tài chính hướng dẫn thi
hành một số điều luật của Thuế thu nhập cá nhân.
4/ Thông tư 113/2011/TT-BTC ngày 04/08/2011 của Bộ Tài Chính
HV : Nguyễn Hồng Thái Trang 20
Đề tài : Ảnh hưởng của lạm phát đến thuế TNCN. GVHD : PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng


5/ Hướng dẫn quyết toán thuế TNCN năm 2011 của Tổng Cục Thuế - tạp Chí
Thuế Nhà nước
6/ Sách Kinh tế Vĩ Mô của Trường Đại Học Kinh tế TP.HCM- NXB Thống kê
2009
7/ Trang web : sbv.gov.vn, tuoitre.vn, nld.com.vn
HV : Nguyễn Hồng Thái Trang 21

×