Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tiểu luận phân tích chính sách thuế THỊ TRƯỜNG GIAO SAU TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.8 KB, 31 trang )

THỊ TRƯỜNG GIAO SAU TẠI VIỆT NAM
1. Cơ sở pháp lý của thị trường giao sau tại Việt Nam.
Sàn giao dịch hàng hóa đầu tiên ở Việt Nam đã ra đời năm 2002 nhưng đến năm
2005 mọi hoạt động của các sàn giao dịch hàng hóa mới được quy định tại Chương II,
Mục 3 trong Luật Thương mại 2005, với 11 điều về mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
hàng hóa.
Giống như luật về mua bán hàng hoá giao sau của các nước, Luật thương mại năm
2005 cũng đưa ra khái niệm về mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá. Khoản 1
Điều 63 Luật thương mại năm 2005 quy đinh: "Mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng
hoá là hoạt động thương mại theo đó các bên thoả thuận thực hiện việc mua bán một
lượng hàng hoá nhất định của một loại hàng hoá nhất định qua sở giao dịch hàng hoá
theo những tiêu chuẩn nhất định của sở giao dịch hàng hoá với giá được thoả thuận tại
thời điểm giao kết hợp đồng và thời gian giao hàng được xác đinh tại một thời điểm
trong tương lai".
Như vậy khái niệm mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá tại Luật thương
mại năm 2005 đã thể hiện đầy đủ bản chất của giao dịch hàng hoá trên thị trường hàng
hoá giao sau tập trung và cơ bản phù hợp với quy định của pháp luật các nước trên thế
giới. Quy định này của Luật cũng đã khẳng định Nhà nước thừa nhận về mặt pháp lí đối
với hoạt động này trong giao lưu thương mại ở Việt Nam và bước đầu tạo cơ sở pháp lí để
nó được diễn ra trên thực tế.
Thực tế tại Việt Nam, các tài sản cơ sở khác nhau hiện được quản lý bởi các cơ
quan chủ quản khác nhau. Phái sinh hàng hóa đặt dưới sự quản lý của Bộ Công Thương
và đã được điều chỉnh bởi Luật Thương mại 2005; Các giao dịch phái sinh tiền tệ lại do
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quản lý. Mỗi loại giao dịch phái sinh tiền tệ được quy định
bởi một văn bản riêng của NHNN, chưa có văn bản quy định thống nhất.
Trong khi đó, lĩnh vực chứng khoán do Bộ Tài chính quản lý, trực tiếp là
UBCKNN. Một số khái niệm cơ bản về chứng khoán phái sinh đã được quy định trong
Luật Chứng khoán. Tại khoản 8, điều 6 Luật Chứng khoán 2006 đã có giải thích: “Hợp
đồng tương lai là cam kết mua hoặc bán các loại chứng khoán, nhóm chứng khoán hoặc
chỉ số chứng khoán nhất định với một số lượng và mức giá nhất định vào ngày xác định
trước trong tương lai”. Tuy nhiên, đây cũng mới chỉ là những nền tảng pháp lý ban đầu


cho hợp đồng giao sau về tài chính.
Luật thương mại năm 2005 cũng mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra khái niệm về mua
bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá mà chưa đi vào quy định các vấn đề cụ thể về tổ
chức và hoạt động mua bán hàng hoá qua sở giao dịch. Hiện các quy định chi tiết về tổ
chức và hoạt động mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá đã được ghi nhận trong
Nghị định của Chính phủ số 158/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006. Thông tư
03/2009/TT-BCT cũng đã có những hướng dẫn cụ thể hơn về hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp
giấy phép thành lập và quy định chế độ báo cáo của sở giao dịch hàng hóa. Tuy nhiên, đó
chỉ mới là những căn cứ pháp lí cho việc ra đời của sở giao dịch hàng hoá ở nước ta.
Quyết định 252/2012/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược phát triển thị trường chứng
khoán Việt Nam giai đoạn 2011-2020, trong đó cũng định hướng xây dựng và phát triển
thị trường chứng khoán phái sinh mà khởi đầu là thị trường giao sau, cụ thể là thị trường
giao sau các mặt hàng nông sản, tiêu biểu là cà phê. Nhưng đến nay vẫn chưa có một văn
bản chính thức hướng dẫn triển khai chiến lược này.
2. Thực trạng thị trường giao sau tại Việt Nam từ 2002 đến nay.
Thị trường giao sau đã được hình thành tại Việt Nam được hơn 10 năm, nhưng
hầu như tất cả các sàn giao dịch giao sau đã phải đóng cửa một cách nhanh chóng sau
một thời gian ngắn vì hiệu quả hoạt động không cao. Chúng ta có thể kể đến các sàn giao
dịch giao sau tập trung sau đây:
1) Sàn giao dịch điều của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM phối
hợp với Hiệp hội Điều Việt Nam (năm 2002)
Tháng 3-2002, Sàn giao dịch hạt điều do Hiệp hội điều Việt Nam mở tại
Trung tâm GDCK TP HCM với mục đích là mang lại hiệu quả về việc cân bằng
giá cho người mua (doanh nghiệp) và người bán (nông dân) khi tham gia mua bán
qua sàn. Tuy nhiên chỉ sau một phiên giao dịch thì sàn này bắt đầu vắng và một
năm sau thì biến mất.
2) Sàn giao dịch thủy sản Cần Giờ (năm 2002)
Tháng 5/2002, Trung tâm giao dịch Thủy sản Cần Giờ (Cangio ATC) được
thành lập với số vốn đầu tư 7,5 tỷ đồng. Sự ra đời của Cangio ATC là điều trông
đợi không chỉ của người nuôi trồng thủy sản mà còn là sự kỳ vọng của toàn ngành

thủy sản, bởi đây là trung tâm giao dịch thủy sản đầu tiên trong cả nước với sự chỉ
đạo bài bản, chặt chẽ của lãnh đạo thành phố và mô hình tổ chức được học hỏi từ
Thái Lan. Cangio ATC được trang bị khá đầy đủ điều kiện cần thiết cho một sàn
giao dịch thủy sản như: có ngân hàng hỗ trợ, bộ phận kiểm tra chất lượng sản phẩm,
kho chứa hàng, cảng và nhiều công trình phụ trợ khác.
Do việc tìm đầu ra cho thủy sản là vấn đề cực kỳ quan trọng và để tránh khỏi
tình trạng người nuôi bị ép giá khi vào vụ thu hoạch rộ hàng năm, ngược lại người
mua cũng có được sản phẩm đảm bảo chất lượng, trung tâm giao dịch thủy sản ra
đời sẽ là nơi mà người bán và người mua gặp gỡ trực tiếp tự thương lượng giá
thông qua sàn giao dịch công khai của trung tâm. Ban đầu, Trung tâm giao dịch này
cũng thu hút được khá nhiều người tham gia vì giá sàn, sản lượng, kích cỡ tôm đều
được thỏa thuận công khai. Trong đó, lượng tôm được giao dịch tại đây chiếm đến
80% sản lượng nuôi tại Cần Giờ. Tuy nhiên chỉ vài tháng sau, Cangio ATC đã
chấm dứt hoạt động do nông dân vẫn thích bán trực tiếp cho thương lái hơn là bán
trực tiếp cho doanh nghiệp và doanh nghiệp cũng muốn mua sỉ qua thương lái hơn
là mua lẻ qua nông dân.
3) Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC, 12/2008) (Hiện nay chỉ
còn TT này còn hoạt động)
Được khởi công từ tháng 10/2005 và được hứa hẹn là “Trung tâm giao dịch
cà phê tầm cỡ Quốc Tế đầu tiên tại Việt Nam”. Trung tâm Giao dịch Cà phê Buôn
Ma Thuột (BCEC) đã được thành lập theo quyết định Quyết định 2278/QĐ-UBND
ngày 04 tháng 12 năm 2006 của UBND tỉnh ĐắkLắk, có trụ sở đặt tại 153 –
Nguyễn Chí Thanh – thành phố Buôn Ma Thuột – tỉnh ĐắkLắk.
Theo báo cáo của Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột, kể từ ngày
khai trương (tháng 12/2008) đến nay, trung tâm mới chỉ phát triển được 90 thành
viên. Trong đó có 63 thành viên đăng ký bán, 23 thành viên kinh doanh và 4 thành
viên môi giới… Với mục tiêu tạo lập kênh lưu thông hàng hóa tập trung sử dụng
công nghệ hiện đại bên cạnh thị trường hàng hóa truyền thống, nhưng sau gần 5
năm thí điểm, hoạt động của TTGD cà phê Buôn Ma Thuột đã không phát huy
được hiệu quả như mong đợi.

Trung tâm giao dịch Cà phê Buôn Ma Thuột là một tổ chức dịch vụ thương
mại, thực hiện việc giao dịch mua, bán các loại cà phê được sản xuất tại Việt Nam
theo phương thức đấu giá tập trung, công khai; gồm giao dịch mua bán giao ngay
và giao dịch mua bán giao sau; hoạt động theo nguyên tắc thành viên. Các hoạt
động giao dịch trên được quản lý, điều hành bằng hệ thống hạ tầng công nghệ
thông tin, viễn thông, các phần mềm vận hành và được điều chỉnh bởi hệ thống các
quy chế, quy trình nghiệp vụ cụ thể.
Theo Quyết định 84/QĐ-UBND, ngày 15 tháng 01 năm 2007 của UBND tỉnh
Đắklắk, về việc phê duyệt Quy chế tổ chức hoạt động của Trung tâm Giao dịch Cà
phê Buôn Ma Thuột, Trung tâm có các nhiệm vụ chính:
 Tổ chức một sàn giao dịch đấu giá khớp lệnh tập trung, công khai cho các tổ
chức, đơn vị từ người sản xuất, chế biến đến kinh doanh, xuất khẩu mặt
hàng cà phê nhân theo mô hình hoạt động hiện đại phù hợp với xu thế và tập
quán kinh doanh, mua bán, giao dịch trên thế giới;
 Tổ chức biên tập và cung cấp thông tin và cung ứng các dịch vụ tư vấn về
trồng, chăm sóc, sản xuất, chế biến, kinh doanh … cà phê cho các tổ chức,
cá nhân có nhu cầu, đặc biệt hỗ trợ cung cấp thông tin và tư vấn cho nông
dân, người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm;
 Tổ chức hệ thống chế biến cùng với kho hàng nhằm chuẩn hóa và phục vụ
việc chuyển giao mặt hàng cà phê đưa vào giao dịch. Đồng thời phối hợp
với các đơn vị khác cung cấp các dịch vụ về ký gửi hàng hóa, tín dụng, môi
giới giao dịch, chế biến, dịch vụ kho bãi và xa hơn nữa là các dịch vụ
logistic và kho ngoại quan;
 Phối hợp với tổ chức môi giới (được Ngân hàng Nhà nước cho phép) tổ
chức giao dịch cà phê với các sàn giao dịch của thế giới (LIFFE – thị trường
London, NYBOT – New York,…).
Trung tâm giao dịch Cà phê Buôn Ma Thuột có hai tổ chức uỷ thác:
 Ngân hàng uỷ thác thanh toán là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ
thương (TECHCOMBANK), thực hiện các nghiệp vụ thanh toán cho các
hoạt động giao dịch tại Trung tâm.

 Tổ chức uỷ thác kiểm định chất lượng sản phẩm là Chi nhánh Công ty Giám
định hàng hóa nông sản xuất khẩu thuộc Bộ NN&PTNT tại ĐắkLắk
(CafeControl) thực hiện việc kiểm định chất lượng, phẩm cấp, chủng loại cà
phê .
Để làm tốt các chức năng, nhiệm vụ trên và nhằm tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho các các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, chế biến, xuất khẩu cà phê,
nhất là đối với người trực tiếp sản xuất cà phê, Trung tâm giao dịch Cà phê Buôn
Ma Thuột cùng với TECHCOMBANK và doanh nghiệp quản lý kho triển khai
hoạt động ký gửi hàng hóa, cung cấp dịch vụ tín dụng, các dịch vụ kho bãi, các
dịch vụ khác về kiểm định, gia công, chế biến, giao nhận hàng hóa khi khách hàng
có nhu cầu, với hệ thống gồm 04 kho và 01 xưởng chế biến ngay tại Trung tâm
Trong 5 năm qua, trung tâm đã rất cố gắng phát triển thành viên với 12
chương trình hội thảo giới thiệu hoạt động và hướng dẫn quy định về giao dịch, 18
đợt tiếp xúc trực tiếp với các doanh nghiệp, nhà sản xuất, nhà đầu tư, 15 đợt đào
tạo, tập huấn Nhưng vẫn khó phát triển thành viên, đặc biệt là với người nông
dân trồng cà phê. Khối lượng cà phê giao dịch qua trung tâm cũng ngày càng
giảm…
Niên vụ 2008 - 2009 có 18 lượt thành viên gửi cà phê tại kho của trung tâm
với số lượng 407 tấn, giao dịch khớp lệnh 93 tấn, giao dịch thỏa thuận bán ngoài
12 tấn và lượng tồn kho 302 tấn. Đến niên vụ vừa qua, chỉ có 24 lượt thành viên ký
gửi với số lượng 137 tấn, toàn bộ số cà phê này đều giao dịch thông qua mua bán
thỏa thuận
Giao dịch cà phê robusta trên BCEC năm 2011 đạt 696.97 tỷ đồng thì đến
năm 2012, giao dịch đã giảm đáng kể, chỉ còn 173.4 tỷ đồng. Trong niên vụ 2011 -
2012, lượng cà phê giao dịch tại trung tâm chỉ có hơn 100 tấn, trong khi sản lượng
cà phê của vùng là 400.000 tấn/năm. Sự hoạt động chưa hiệu quả của BCEC được
lý giải, là do phương thức hoạt động còn mới, trong khi bà con chưa nắm bắt được
nên rất khó để lôi kéo người dân vào tham gia giao dịch. Chứng kiến sự hoạt động
của trung tâm, các chuyên gia đánh giá BCEC như là một “sân chơi tốt nhưng
thiếu cầu thủ”.

Sàn giao dịch luôn vắng khách. Ảnh: Hữu Đức.
Trung tâm Giao dịch cà phê Buôn Mê Thuột (BCEC) chỉ mới áp dụng giao
dịch kỳ hạn vào tháng 3/2011 song về một phương diện nào đó cũng đã gặt hái
được những thành công nhất định. Tại BCEC, giá trị khớp lệnh đã được cải thiện
phần nào trong thời gian gần đây, dù giá trị giao dịch vẫn ở mức xấp xỉ 10 tỷ
đồng/tuần.
Tuy nhiên, BCEC cũng chưa thật sự là đòn bẩy cho các hoạt động sản xuất,
tiêu thụ cà phê trên địa bàn Tây Nguyên một cách căn cơ, bền vững. Từ đó, thương
hiệu cà phê Buôn Ma Thuột nói riêng và cà phê Việt Nam nói chung không hiện
diện trên bản đồ cà phê thế giới. Dù tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê được báo
cáo là 3,7 tỷ USD trong năm 2012.
Đây là nguyên do Bộ Công Thương đang xin ý kiến của các bộ, ngành liên
quan về phương án tổ chức và hoạt động của BCEC. Theo phương án này, BCEC
sẽ trở thành CTCP có sự tham gia của Nhà nước, còn sự tham gia của khu vực tư
nhân cũng giúp cho SGDHH này năng động ngay từ đầu, phù hợp với mô hình của
hầu hết các SGDHH lớn trên thế giới như: Sàn hàng hóa Chicago (CME), Sở giao
dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM)… Hơn nữa, đây cũng là điều kiện để đảm bảo
tính minh bạch, chế độ quản trị rủi ro hữu hiệu và tạo điều kiện để các thành viên
nước ngoài quan trọng như: CME, TOCOM… cùng tham gia về sau.
4) Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam (Vietnam Commodity Exchange -
VNX), tiền thân là Sở Giao dịch hàng hóa Triệu Phong, giao dịch kỳ hạn
dành cho ba mặt hàng được Bộ Công Thương cấp phép là cà phê, cao su và
thép (2010) ( VNX đã xin tạm ngừng hoạt động )
Sở Giao dịch hàng hóa Triệu Phong (TPE) chính thức hoạt động ngày
20/10/2010 là sở giao dịch hàng hóa đầu tiên được cấp phép hoạt động tại Việt
Nam. Cổ đông sáng lập của TPE gồm hai pháp nhân là Công ty cổ phần Chứng
khoán SME (SMES) và Công ty cổ phần vàng quốc tế Triệu Phong (TPG); và các
thể nhân khác. Ngày 11.01.2011 TPE chính thức đổi thành sở giao dịch hàng hóa
Việt Nam (VNX) và đi vào hoạt động với vốn điều lệ 150 tỷ đồng.
VNX thực hiện niêm yết và giao dịch Hợp đồng giao sau của 3 nhóm hàng

hóa gồm: cà phê (Robusta và Arabica), cao su (RSS3) và thép thỏi cán nóng
(HRC). VNX vốn được kỳ vọng sẽ là nơi tập trung đầu mối buôn bán, trước hết là
cà phê, cao su, thép luôn chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch XNK, với sự chuẩn
hóa chất lượng, thu hẹp tình trạng chênh lệch giá giữa hàng hóa Việt Nam so với
thị trường thế giới, giúp nông dân tránh tình trạng được mùa mất giá, được giá mất
mùa. Nhưng đa phần các giao dịch phái sinh cũng mới chỉ dừng ở mức thăm dò,
thử nghiệm, sự tham gia của các DN XNK và nhà đầu tư còn hạn chế.
Hoạt động giao dịch tại VNX rất trầm lắng. Theo báo cáo của VNX, tổng
khối lượng giao dịch năm 2012 rất thấp, trong đó phần lớn là giao dịch cà phê, cao
su rất ít và gần như chưa có giao dịch thuộc nhóm thép.(Tìm con số cụ thể?). Số
lượng tài khoản mở tại các thành viên của VNX chỉ hơn 2000 tài khoản, tổng mức
giao dịch các hợp đồng trong 6 tháng đầu năm 2012 chỉ đạt gần 849 tỷ đồng. Các
chủ đầu tư chỉ là cá nhân và tham gia chủ yếu để thăm dò thị trường. Vào tháng
8/2012, VNX đã gặp sự cố rủi ro về hệ thống công nghệ thông tin nên đã xin tạm
ngừng hoạt động, dự kiến hoạt động trở lại vào tháng 09/2013 nhưng đến nay vẫn
chưa có thông tin gì mới.
5) Sàn giao dịch hàng hóa Sài Gòn Thương Tín (Sacom-STE, 2010)
Ngày 5/11/2009, Tập đoàn Sacombank chính thức ra mắt Sàn giao dịch
hàng hóa Sài Gòn Thương Tín (Sacom-STE) với sản phẩm giao dịch đầu tiên là sắt
thép. Khoảng 5.300 tấn thép xây dựng và 480 tấn thép công nghiệp của Công ty
Thép Pomina đã giao dịch thành công trong phiên đầu tiên tại STE, tổng giá trị
giao dịch các loại thép trong ngày đầu tiên khoảng 70 tỉ đồng.
Tháng 3/2010, Sacom-STE tiếp tục thành lập sàn giao dịch đường với hai
mặt hàng là đường thô và đường tinh. Sacom-STE đã đầu tư một hệ thống cơ sở hạ
tầng gồm có phần mềm giao dịch, bảng điện tử, hệ thống lưu ký và đặc biệt, sàn
còn có Tập đoàn tài chính Sacombank đứng sau hỗ trợ cho giao dịch thanh toán.
Ngày 4/11/2011, Sacom - STE đã mở thêm phương thức giao dịch thép giao
sau và sàn giao dịch cao su theo phương thức giao ngay và giao sau. Mặc dù Việt
Nam có lượng cao su thiên nhiên xuất khẩu hàng năm khá lớn nhưng những doanh
nghiệp sản xuất sản phẩm từ cao su trong nước luôn gặp khó khăn trong việc tiếp

cận được nguồn nguyên liệu. Việc ra đời sàn giao dịch cao su Sacom - STE sẽ giúp
các doanh nghiệp có liên quan đến sản xuất và kinh doanh cao su có kênh tham
chiếu giá cả với thị trường trong nước và quốc tế. Qua đó, các doanh nghiệp có thể
định giá bán hàng, tránh tình trạng bị ép giá.
Như vậy, trong suốt quá trình hoạt động, Sacom – STE đã có 4 mặt hàng
giao dịch qua sàn theo phương cách khớp lệnh và thỏa thuận là đường trắng, hạt
điều, thép và cao su. Tuy nhiên, sau một thời gian đi vào hoạt động thì sàn giao
dịch điều, đường đã tạm thời đóng cửa vì hoạt động không hiệu quả.
6) Sàn giao dịch vàng kỳ hạn (còn gọi là giao dịch vàng tài khoản) mở tại các
công ty chứng khoán và các ngân hàng thương mại (giai đoạn trước
31/3/2010)
Có thể hình dung sàn vàng như một sàn giao dịch chứng khoán, nơi mà
người có nhu cầu mua và bán vàng “gặp nhau” để thực hiện giao dịch mình mong
muốn và được đảm bảo an toàn về tính pháp lý cho việc mua bán này.
Trên thực tế, nếu muốn thực hiện giao dịch mua bán vàng, nhà đầu tư có thể
tiến hành trên thị trường chợ đen, rất nhanh chóng, không cần qua thủ tục, hợp
đồng rườm rà. Tuy nhiên, kèm theo đó, mức độ rủi ro sẽ được đẩy lên cao, đặc biệt
đối với giao dịch có giá trị lớn. Thế nhưng, khi nền kinh tế càng phát triển với đầy
rẫy rủi ro, nhu cầu giao dịch an toàn, chuyên nghiệp, đảm bảo về mặt pháp lý ngày
càng được coi trọng. Xuất phát từ những nhu cầu này, sàn giao dịch vàng đã xuất
hiện ở Việt Nam, đi đầu là Sàn giao dịch Vàng ACB của Ngân hàng Á Châu.
Với doanh số giao dịch vàng mỗi ngày lên tới ngàn tỉ đồng, mô hình sàn
vàng thật sự là món lời béo bở cho những người cầm trịch. Sau ACB, Công ty Cổ
phần Vàng bạc đá quý Phú Nhuận PNJ đã hợp tác với Ngân hàng Đông Á thành lập
Công ty Vàng Bạc Quốc tế, giao dịch vàng miếng PNJ - Đông Á. Tiếp đó, cuối
tháng 5.2008, Công ty Vàng Bạc Đá quý Sài Gòn SJC cũng liên kết với VPBank và
Công ty Chứng khoán Hà Thành lập sàn giao dịch vàng tại Hà Nội. Cho tới nay,
trên thị trường có khoảng 8 ngân hàng thương mại tham gia thành lập sàn giao dịch
vàng gồm: ACB, Eximbank, Sacombank, Việt Á, Sài Gòn, Ngân hàng Phát triển
Nhà TP.HCM, Ngân hàng Phương Nam và Ngân hàng Nam Á.

Đỉnh điểm thời kỳ sôi động của thị trường vàng có thể nói là năm 2008.
Theo báo cáo của ACB về thị trường trong nước, có khi lượng vàng miếng giao
dịch đạt 400.000 lượng/ngày. Nếu cộng thêm lượng vàng giao dịch tại các ngân
hàng khác, tổng lượng vàng giao dịch tại thị trường trong nước có thể đạt mức
500.000 lượng/ngày, tương đương 19 tấn vàng.
Các sàn vàng đầu tiên ra đời đa phần giao dịch theo phương thức giao ngay,
tương tự như chứng khoán. Sàn giao dịch vàng Việt Nam thuộc Công ty CP Kinh
doanh và Đầu tư vàng Việt Nam (VGB) đã chính thức đi vào hoạt động, là sàn vàng
đầu tiên triển khai các hình thức giao dịch phong phú khác, bao gồm giao dịch kỳ
hạn, tương lai và quyền chọn.
Tuy nhiên, sự bùng nổ số lượng tài khoản giao dịch cũng như khối lượng
vàng được giao dịch mỗi ngày tại các sàn vàng không phải là dấu hiệu khẳng định
cho chất lượng hoạt động của bản thân các sàn vàng. Sàn giao dịch vàng, về lý
thuyết, sẽ tạo ra tính tập trung, an toàn và hiệu quả cho các chủ thể tham gia. Bù lại,
sàn sẽ được hưởng lợi từ nguồn thu phí giao dịch, chênh lệch giá trong giao dịch
mua bán. Tuy nhiên, sàn không được phép trực tiếp thực hiện giao dịch. Thế nhưng
thực tế còn tồn tại nhiều quy định ảnh hưởng trực tiếp theo chiều hướng xấu đến
quyền lợi của nhà đầu tư ngay từ trong hợp đồng. Chẳng hạn, điều khoản sàn không
chịu bất cứ trách nhiệm bồi thường thiệt hại nào nếu xảy ra sự cố ngừng trệ mạng
bất ngờ trong phiên giao dịch. Thêm vào đó, trong thời điểm này vẫn chưa có
khung pháp lý “chuẩn” để điều chỉnh hoạt động của sàn vàng, loại hình kinh doanh
sàn vàng hiện nay là khá rủi ro cho giới đầu tư và cả hệ thống tài chính vì kinh
doanh vàng tài khoản là một ngành đặc thù có liên quan đến cung cầu tiền tệ quốc
gia.
Kết quả là, theo Thông báo số 369/TB-VPCP của Văn phòng Chính phủ
ngày 30/12/2009 yêu cầu, chậm nhất đến ngày 31/3/2010 các sàn vàng phải “đóng
cửa”. Theo thông báo này, các sàn vàng đã lần lượt đóng cửa, tiếp tục chờ đợi
khung pháp lý mới chặt chẽ hơn, để việc giao dịch loại “hàng hóa đặc biệt” này
được diễn ra một cách chính thức, chuyên nghiệp.
7) Sàn Info vừa nhận được quyết định thành lập vào tháng 5/2013 và đang xin

phép gia hạn để chuẩn bị các hoạt động giao dịch, sẽ chính thức đi vào hoạt
động vào đầu năm 2014
Đơn vị phụ trách: Công ty Cổ phần Đại Dương (Ocean Group)
Trụ sở chính: số 4 Láng Hạ, Thành Công, Ba Đình, Hà Nội (cùng là nơi tiến
hành giao dịch)
Người đại diện là bà Lê Thị Thu Thủy – Thành viên HĐQT Công ty Cổ phần
Tập đoàn Đại Dương. Tổng Giám đốc là bà Đặng Quỳnh Mai
Giấy phép số 2556/GP-BCT ngày 22/4/2013 của Bộ Công Thương
Vốn điều lệ: 150 tỷ đồng
Các mặt hàng được phép giao dịch: cà phê, cao su, thép
Điều kiện: Công ty CP Tập đoàn Đại Dương phải tiến hành được các hoạt
động giao dịch trong vòng 12 tháng kể từ ngày được cấp phép thành lập Sở Giao
dịch này
Sở Giao dịch hàng hóa INFO hiện là Sở Giao dịch hàng hóa thứ 2 tại Việt
Nam được cấp phép trong vòng 2 năm trở lại đây.Sở Giao dịch này có vai trò là cầu
nối cho sản xuất và thị trường, giữa thị trường trong nước và thế giới.Sở cũng hỗ
trợ các doanh nghiệp trong nước, đặt biệt là doanh nghiệp chế biến hàng nông sảncó
cơ hội tiếp cận thị trường mới.
Việc thành lập Sở Giao dịch hàng hóa INFO thể hiện một bước đột phá trong
sự hội nhập của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa và hệ thống kinh tế thế giới, hỗ
trợ tích cực các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là nông dân Việt Nam đẩy mạnh hoạt
động sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế.
Ngoài ra, hoạt động của Sở Giao dịch hàng hóa INFO sẽ xóa bỏ khoảng cách
giữa sản xuất và thị trường, chống đầu cơ và hiện tượng tư thương ép giá, góp phần
xóa bỏ tình trạng được mùa mất giá của bà con nông dân, đồng thời góp phần huy
động vốn phục vụ sản xuất, gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế.
Thông qua Sở Giao dịch này, hàng hóa đặc biệt là hàng nông sản – thế mạnh
của Việt Nam sẽ được lưu thông nhanh với số lượng lớn mang lại nhiều lợi ích cho
các nhà đầu tư cũng như sản xuất.
Thực tế cho thấy, các sàn giao dịch hàng hóa của Việt Nam hoạt động không

hiệu quả lắm.Một phần cũng là do thói quen kinh doanh, vẫn thực hiện các giao
dịch truyền thống như mua bán giao ngay. Người nông dân vẫn thích bán cho
thương lái hơn là bán trực tiếp cho doanh nghiệp.Ngược lại, doanh nghiệp cũng
muốn mua sỉ qua thương lái hơn vì mua lẻ qua nông dân thì họ không đủ vốn và
phương tiện để thực hiện giao dịch.Đơn cử như Trung tâm giao dịch cà phê Buôn
Ma Thuột (BCEC), mặc dù đã hoạt động được gần 7 năm (từ 13/12/2006) nhưng
BCEC cũng chưa thật sự là đòn bẩy cho các hoạt động sản xuất tiêu thụ cà phê trên
địa bàn Tây Nguyên 1 cách căn bản bền vững. Thêm vào đó việc bị hạn chế mặt
hàng giao dịch, INFO có lại đi vào vết xe của các sàn giao dịch hiện tại hay mở ra
một hướng đi khác, thật sự rất khó có thể khẳng định.
Tuy nhiên, bên canh những bất lợi thì một tín hiệu đáng mừng là các Sở
Giao dịch hàng hóa trên thế giới đánh giá rất cao thị trường Việt Nam.Những mặt
hàng của INFO được phép cung cấp cũng là các mặt hàng có thế mạnh của Việt
Nam.Tuy nhiên, thị trường hàng hóa tại việt Nam hoạt động chưa minh bạch so với
các thị trường khác trên thế giới, bởi vậy cần thời gian để INFO phát triển thực sự
mạnh mẽ. Hơn nữa đang ở trong giai đoạn kinh tế khó khăn chung cũng sẽ là thách
thức.
8) Hoạt động giao sau tại các Ngân hàng ở Việt Nam.
Bên cạnh các nghiệp vụ mang tính truyền thống, các ngân hàng đã không
ngừng phát triển các nghiệp vụ mới, hiện đại, trong đó, phải kể đến các các công
cụ phái sinh tiền tệ (Currency Derivaties) như các giao dịch, hợp đồng ngoại hối
kì hạn, hợp đồng ngoại hối hoán đổi, hợp đồng ngoại hối quyền chọn và hợp đồng
ngoại hối tương lai. Đây là những công cụ tài chính có thể đem lại lợi nhuận rất
cao cho ngân hàng thương mại (NHTM), nhưng nó cũng chứa đầy những rủi ro, vì
khi tham gia hoạt động kinh doanh tiền tệ này, ngân hàng sẽ tạo ra trạng thái ngoại
tệ mở và dẫn đến rủi ro tỷ giá cho ngân hàng. Vì vậy, mặc dù trên các thị trường
ngoại hối quốc tế, các công cụ này đã được triển khai và phát triển, nhưng tại Việt
Nam, số lượng NHTM thực hiện công cụ tài chính phái sinh tiền tệ còn rất khiêm
tốn và với tỷ trọng còn rất thấp.
Để thực hiện hoạt động mua bán ngoại tệ, triển khai các công cụ phái sinh

các NHTM đã cơ cấu tổ chức phòng kinh doanh tiền tệ và đầu tư hệ thống máy
móc thiết bị và công nghệ hiện đại như hệ thống Reuters Dealing, Reuters Extra,
Reuters Eikon, hệ thống SWIFT, hệ thống Corebanking, máy Fax, máy Scan, máy
điện thoại ghi âm tạo thuận lợi cho các giao dịch viên (Dealer) giao dịch tức thời
nhưng vẫn đảm bảo tính chất pháp lý của giao dịch.
Bên cạnh đó, để kiểm soát và ngăn ngừa, hạn chế rủi ro các NHTM cũng đã
xây dựng các hệ thống hạn mức như hạn mức/một giao dịch, hạn mức lỗ/một giao
dịch, trạng thái mở trong ngày, trạng thái mở qua đêm đối với từng chức danh và
báo cáo trạng thái ngoại tệ theo quy định của NHNN.
Bên cạnh một số kết quả nhất định và nổi bật thì sau hơn 10 năm quy định
và triển khai các công cụ tài chính phái sinh tiền tệ vẫn còn không ít những trở ngại,
bất cập, cản trở sự phát triển các công cụ này tại Việt Nam. Một số hạn chế về sự
phát triển các công cụ tài chính phái sinh tiền tệ tại NHTM Việt Nam trong thời
gian qua như:
- Các giao dịch mua bán ngoại tệ tại NHTM Việt Nam chủ yếu là giao dịch
giao ngay.
- Số lượng NHTM Việt Nam triển khai công cụ tài chính phái sinh tiền tệ
còn quá ít dẫn đến doanh số thực hiện công cụ tài chính phái sinh tiền tệ chiếm tỷ
trọng thấp, chưa đến 10%.
- Các công cụ tài chính phái sinh tiền tệ đã triển khai tại một số NHTM Việt
Nam chưa phong phú, chưa đa dạng, chưa tạo nhiều tiện ích nên chưa hấp dẫn đối
với khách hàng, vì vậy số lượng khách hàng tham gia còn khá khiêm tốn.
- Hoạt động mua bán ngoại tệ nói chung và thực hiện công cụ tài chính phái
sinh chủ yếu tập trung tại hội sở chính của từng hệ thống NHTM Việt Nam và một
số chi nhánh lớn của NH.
- Phần lớn các NHTM chưa thật sự quan tâm và đầu tư đúng mức để triển
khai có hiệu quả các công cụ tài chính phái sinh tiền tệ.
- Phần lớn các NHTM chưa chuẩn bị nguồn lực, hệ thống công nghệ để triển
khai công cụ tài chính phái sinh tiền tệ.
- Một số NHTM triển khai công cụ tài chính phái sinh tiền tệ thiếu sự kiểm

soát dẫn đến tổn thất lớn cho NH. Điển hình là sự kiện kinh doanh ngoại tệ tại một
NHTM Việt Nam theo kết quả của Thanh tra NHNN, đến ngày 31/12/2004 kinh
doanh ngoại tệ lỗ của NH này lên tới 499,8 tỷ đồng, riêng quý IV/2004 chiếm
98,9% số lỗ nói trên (447,6 tỷ đồng). Trong số này, hoạt động kinh doanh đồng
EUR và USD lỗ tới 28,3triệu USD. Đặc biệt, liên tiếp trong những ngày cuối năm
2004, có 10 giao dịch mua ngoại tệ lên tới 30 triệu EUR/giao dịch. Rủi ro chủ yếu
từ rủi ro hoạt động, trong đó lỗ chủ yếu xuất phát từ các giao dịch không phải do
cán bộ phòng kinh doanh ngoại tệ thực hiện mà do lãnh đạo không trực tiếp kinh
doanh hoặc chỉ đạo cho nhân viên giao dịch thực hiện, giao dịch vượt quá hạn mức
quy định. Các báo cáo trạng thái ngoại tệ của NH này gửi về NHNN cũng không
phản ánh chính xác thực tế trạng thái của NH.
- Các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh tiền tệ và công cụ tài
chính phái sinh chậm thay đổi, chưa tương thích với thay đổi của thị trường. Chẳng
hạn như Quyết định số 1820/NHNN-QLNH ban hành ngày 18/3/2009 trong đó
quyền chọn chỉ được thực hiện giữa ngoại tệ và ngoại tệ, không được thực hiện
quyền chọn giữa ngoại tệ và VND, chưa có quy định rõ ràng về kế toán đối với DN
về phí quyền chọn sẽ được ghi nhận như một khoản chi phí hợp lý khi xác định thuế
thu nhập DN, quy định về tỷ giá của NHNN vẫn còn tạo sự chênh lệch giữa tỷ giá
niêm yết và tỷ giá trên thị trường.
Các giao dịch Hợp đồng giao sau xuất hiện tại Việt Nam chỉ mới trong
khoảng 10 năm trở lại đây, tập trung vào các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như cà
phê, cao su và gần đây đã phát triển sang các mặt hàng nguyên liệu phụ thuộc nhập
khẩu là chính như kim loại màu, ngũ cốc và bông sợi tuy nhiên số lượng giao dịch
còn khá khiêm tốn
Techcombank là đơn vị đầu tiên trên cả nước được ngân hàng nhà nước cho
phép tổ chức dịch vụ mua bán bằng hợp đồng giao sau với các thị trường quốc tế.
Ngoài ra, còn có một số ngân hàng cung cấp các công cụ phái sinh, trong đó
có hợp đồng giao sau như: BIDV, PG Bank, Sacombank, Maritime Bank nhưng
giao dịch cũng chưa sôi động.
Các mặt hàng được giao dịch ở các ngân hàng bao gồm:

- Cà phê ( Robusta & Arabica), Cao su (Tocom),
- Ngũ cốc : Soybean, Soymeal, Soyoil, Ngô, Lúa mỳ…,
- Kim loại màu: Đồng, Chì, Nhôm, Kẽm, Nikel, Thiếc,…,
- Kim loại quý: Bạc,
- Cotton: Bông sợi,
- Năng lượng: Dầu WTI, Dầu Nymex,
- Các loại hàng hóa khác: Đường, Nhựa, Gạo …vv
Với vai trò là trung gian giao dịch giữa các doanh nghiệp với các thị trường
và sàn giao dịch hàng hóa giao sau trên thế giới như: LIFFE, SICOM, TOCOM,
NYBOT, LME. CBOT v.v, các ngân hàng cũng đã trang bị các hệ thống giao dịch
điện tử và đặt lệnh và có đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, đội ngũ phân tích tin
nhanh nhạy với thị trường, sẵn sàng tư vấn về thông tin kinh tế hàng hóa cũng như
xu thế thị trường.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn không mấy mặn mà với việc
tham gia vào thị trường này.
3. Nguyên nhân thị trường giao sau chưa phát triển mạnh tại Việt Nam.
Lịch sử phát triển thị trường chứng khoán thế giới cho thấy thị trường giao dịch
giao sau thường bắt đầu từ các sản phẩm nông nghiệp, tiếp đến là năng lượng, nguyên
vật liệu; sau đó là thị trường giao sau dành cho các sản phẩm tài chính như chứng
khoán, ngoại hối, lãi suất, tỷ giá, chỉ số, và thậm chí là thị trường giao sau của chính các
sản phẩm phái sinh; ví dụ, cho đến tận đầu những năm 1970 mới xuất hiện hợp đồng
giao sau ngoại hối, trong khi thị trường giao sau các sản phẩm bơ và trứng đã xuất hiện
cả trăm năm trước. Như vậy, thị trường hợp đồng giao sau hàng hóa thường xuất hiện
trước thị trường hợp đồng giao sau sản phẩm tài chính.
Thị trường Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật này. Như đã trình bày ở
phần trên, đã có một loạt các sàn giao dịch giao sau dành cho các sản phẩm hàng hóa
thông thường đã được xây dựng. Mặc dù vậy, như một điểm chung dễ nhận thấy là hầu
như tất cả các sàn giao dịch giao sau này đã phải đóng cửa một cách nhanh chóng sau
một thời gian ngắn vì hiệu quả hoạt động không cao. Điều đáng chú ý là hầu hết các sàn
giao dịch này hoạt động một cách ảm đạm, chưa thu hút được nhiều đơn vị tham gia (trừ

sàn giao dịch vàng kỳ hạn). Trong khi đó, nhiều đơn vị trong nước lại phải đi tìm kiếm
nguồn hàng hoặc bán hàng qua các sàn giao dịch giao sau ở nước ngoài tại Mỹ, Nhật,
châu Âu.
Nguyên nhân thị trường giao sau Việt Nam chưa phát triển trong hơn 10
năm qua?
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng thị trường giao sau khó phát triển trong
suốt quá trình hình thành đến nay, trong đó, nguyên nhân chủ yếu chính là nhu cầu giao
dịch trong thị trường giao sau giữa các bên chưa cao dẫn đến sự thiếu vắng các đối
tượng tham gia
Như đã phân tích trong phần lý thuyết, các hợp đồng giao sau sẽ giúp người sản
xuất hoặc nắm giữ hàng hóa (như các mặt hàng nông sản, các chứng khoán…) tránh
được thiệt hại do giá giảm trong tương lai của các loại mặt hàng này, điều này đặc biệt
cần thiết đối với người nông dân, họ có thể chốt giá và tránh được thiệt hại do sự mất
giá của các nông sản mà họ có thể sản xuất ra trong tương lai, cho dù giá giao ngay trên
thị trường đi xuống, họ vẫn bán được hàng với giá cao hơn do đã được ấn định từ đầu,
điều này sẽ giúp tránh được quy luật luẩn quẩn mà nông dân Việt Nam luôn phải lo lắng
hàng năm là “được mùa - mất giá; được giá - mất mùa”. Các bên tham gia thị trường, từ
người nông dân, đến nhà sản xuất, người kinh doanh đều biết được mức giá tương ứng
với kỳ vọng hàng hóa trong tương lai nhằm định hướng, tính toán các kế hoạch sản xuất
kinh doanh.
Nếu hàng hóa cơ sở không phải là các loại nông sản mà là các loại chứng khoán
và sản phẩm tài chính, chức năng phòng ngừa biến động giá bất lợi nêu trên không hề
mất đi mà thậm chí còn khắt khe hơn. Ví dụ, các cổ đông/nhà đầu tư đang nắm giữ cổ
phiếu có thể bán một hợp đồng giao sau nếu dự đoán rằng giá cổ phiếu giảm nhằm
chuyển nhượng một khối lượng cổ phiếu nhất định với giá xác định trước trong tương
lai; hoặc các chủ sở hữu trái phiếu cũng có thể bán hợp đồng giao sau trái phiếu do lo
ngại môi trường lãi suất tăng.
Hiển nhiên là về phía các đối tác mua hợp đồng giao sau (mua hàng hóa cơ sở),
sẽ có những kỳ vọng trái ngược với phía người bán là nông dân, cổ đông hay chủ sở hữu
trái phiếu, tức là dự đoán giá hàng hóa cơ sở sẽ tăng và mong muốn xác định giá trước.

Chính vì những kỳ vọng/dự đoán ngược chiều nhau này mà nhu cầu giao dịch giao
sau hình thành.
Thị trường giao sau còn tạo ra một kênh đầu tư tài chính thông qua các hoạt
động mua/bán hợp đồng giao sau của các nhà đầu cơ và kinh doanh chênh lệch giá.
Nhóm đối tượng này là những nhà đầu tư chuyên nghiệp và có thể định giá lại các hợp
đồng giao sau đã được phát hành để tìm ra chênh lệch tiềm năng, và động lực tìm kiếm
lợi nhuận chênh lệch giá sẽ khiến các đối tác này tham gia giao dịch hợp đồng giao sau.
Điều này tạo tính thanh khoản cho các hợp đồng giao sau đồng thời tăng tính hấp dẫn
cho thị trường phái sinh này.
Tuy nhiên, dù đã được tiếp thu học hỏi nhiều từ kinh nghiệm của nhiều nước trên
thế giới và thị trường giao sau cũng được hình thành được 11 năm qua nhưng tại Việt
Nam hiện nay, hầu như các đối tượng từ người mua, người bán đến những các nhà đầu
cơ, những nhà đầu tư chuyên nghiệp dường như vẫn chưa xuất hiện hoặc có số lượng rất
ít trên thị trường giao sau. Chúng ta có thể kể đến một số nguyên nhân chủ yếu của thực
trạng nảy như sau:
1. Quan niệm, tư tưởng truyền thống, nhận thức về phái sinh trong xã hội,
Có thể thấy, giao dịch giao sau là một nhu cầu có thực và rất hữu ích, cũng đã có
nhiều nông dân thực hiện ký kết bán hàng nông sản trong tương lai (có thể ngoài lý do
phòng ngừa giá giảm còn là nhu cầu tài chính). Đáng tiếc, hành động này của họ đôi
lúc bị quy cho là “bán non” mang nghĩa xấu.
Điều này rõ ràng ảnh hưởng đến các điều kiện hình thành thị trường hợp đồng
giao sau và đồng thời cũng đặt ra nhu cầu xây dựng và quản lý hiệu quả thị trường giao
sau ở nước ta.
Bên cạnh đó, nhận thức về phái sinh hàng hoá của xã hội; của các chủ doanh
nghiệp và chính đội ngũ điều hành doanh nghiệp cũng tạo nhiều rào cản. Mọi người có xu
hướng nhìn nhận đánh giá giao dịch hàng hoá phái sinh một cách tách biệt mà chưa gắn
kết vào hoạt động kinh doanh tổng thể của doanh nghiệp. Mọi việc sẽ trở nên rất nặng nề,
đặc biệt đối với các doanh nghiệp quốc doanh, nếu việc sử dụng các công cụ phái sinh
hàng hoá có thể phát sinh thua lỗ. Chỉ khi việc nhìn nhận và sử dụng các giao dịch phái
sinh hàng hoá được đặt trong bức tranh tổng thể hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,

cộng với sự thay đổi nhìn nhận về các công cụ phòng ngừa rủi ro từ các cơ quan chức
năng, các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp quốc doanh mới có động lực sử
dụng các công cụ phái sinh hàng hoá.
2. Trình độ nhận thức của người dân và năng lực chuyên môn của các
doanh nghệp còn chưa cao
Công tác tuyên truyền, phố biến kiến thức, đào tạo, tập huấn phương thức giao dịch
tại các sàn giao dịch vẫn chưa được thực hiện một cách rộng rãi cho cả bên cầu và bên
cung ứng hàng hóa giao dịch.Với tính chất một nước nông nghiệp như Việt Nam, đa số
người làm ra các sản phẩm nông sản vẫn là nông dân. Họ tham gia giao dịch tại sàn với tư
cách là người cung cấp hàng hóa, nhưng lại bị hạn chế về mặt phổ cập công nghệ thông
tin, cũng như quy trình giao dịch, lợi ích, hiệu quả khi lựa chọn hình thức giao sau thay vì
giao ngay truyền thống. Nhiều doanh nghiệp sản xuất cà phê vẫn chưa hiểu rõ bản chất
của sàn giao dịch là quản lý rủ ro về giá, tiết kiệm chi phí giao dịch, có thể linh hoạt trong
việc nắm giữ hợp đồng hoặc bán lại hợp đồng, nghĩa vụ mua hàng hóa cà phê khi doanh
nghiệp muốn.
Bên cạnh đó, khi tham gia các sàn giao dịch quốc tế, không phải doanh nghiệp nào
cũng có đủ người chuyên môn cao để phân tích, dự báo xu hướng giá thế giới, từ đó có
thể đưa ra quyết định chính xác được, điều này có thể khiến các doanh nghiệp còn e dè và
lo ngại sẽ chịu rủi ro nhiều hơn do đánh giá sai lệch.
3. Cơ sở pháp lý chưa được hoàn thiện
Việt nam vẫn chưa có văn bản pháp luật quy định cụ thể riêng cho các quan hệ hợp
đồng giao sau, chưa có khung pháp lý điều chỉnh thị trường giao sau và các giao dịch liên
quan. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khác khiến thị trường giao sau tại Việt
Nam còn nhiều bất cập, kém hấp dẫn nhà đầu tư. Mặc dù sàn giao dịch hàng hóa đầu tiên
ở Việt Nam ra đời năm 2002 nhưng đến năm 2005 mọi hoạt động của các sàn giao dịch
hàng hóa mới được quy định tại Luật Thương mại 2005 (Mục 3, 11 điều, khoản 1 điều
63).
Luật chứng khoán Việt Nam cũng đã có những quy định về các hình thức giao dịch
giao sau, tuy nhiên trên thực tế thì vẫn chưa thể áp dụng vì chưa được hướng dẫn thực
hiện cụ thể. Những phương thức này chỉ có thể áp dụng khi thị trường chứng khoán Việt

Nam đảm bảo được các yếu tố về hạ tầng kỹ thuật, pháp lý và phát triển đến một trình độ
cao hơn nhiều so với hiện nay.
Mô hình hoạt động giao dịch qua Sở giao dịch hàng hóa hiện nay chưa hoàn thiện
về chính sách nhà nước như chưa có quy định chuẩn mực về hoạt động tạo lập thị trường,
hướng dẫn hoạt động của ngân hàng thanh toán bù trừ, thuế, phí Cơ chế tài chính hiện
tại chưa cho phép trung tâm thực sự chủ động trong các hoạt động đầu tư cơ sở vật chất.
Các đơn vị phối hợp cũng rất khó khăn về tài chính dẫn đến không triển khai được hoạt
động hỗ trợ, tạo dựng thị trường giao dịch…
Nếu thiếu khung pháp lý thì DN sẽ ít mạnh dạn bước vào nghề mới nên sẽ hội
nhập chậm với thế giới, như vậy càng làm cho năng lực cạnh tranh của DN VN ngày càng
tụt hậu xa hơn so với đối tác nước ngoài.
4. Sự can thiệp của Nhà nước vào thị trường.
Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn chịu nhiều sự can thiệp của Nhà nước. Trong khi
nguyên tắc cần thiết, quan trọng để một sàn giao dịch hoạt động hiệu quả là sự tập trung,
tự do vận động, quyền tự quyết của nhà đầu tư. Mặc dù khi có sự can thiệp của Nhà nước,
thị trường có thể hạn chế những ảnh hưởng khi nền kinh tế bị suy thoái hay phát triển quá
lệch lạc. Tuy nhiên, như trong Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC), do
các doanh nghiệp nòng cốt trong sản xuất cà phê đều thuộc doanh nghiệp nhà nước nên có
hiện tượng bù giá, bù lỗ, khiến các doanh nghiệp tư nhân khác ít hào hứng khi tham gia
giao dịch trên thị trường giao sau.
5. Mức độ phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường vốn còn thấp
Hiện này, ở Việt nam vẫn còn thiếu vắng các nhà đầu tư am hiểu về lợi ích cũng
như kỹ thuật tính toán lợi nhuận từ các nghiệp vụ phái sinh nói chung và về giao sau nó
riêng. Bên cạch đó, các nhà môi giới, các nhà cơ lợi còn quá ít trên thị trường tiền tệ, thị
trường chứng khoán để thúc đẩy các nhà đầu tư tham gia mạnh mẽ thị trường giao sau.
Điều quan trọng là do doanh nghiệp chần chừ không hiểu và không biết, chưa mạnh dạng
tham gia.
6. Trình tự, thủ tục không tiện lợi, chi phí cao
Thị trường giao sau sử dụng hệ thống, mô hình giao dịch khá tiên tiến, hiện đại nên
các quy định có tính chặt chẽ, ràng buộc cao.

Người bán phải có hàng hóa, được kiểm định gắt gao về chất lượng và số lượng
theo tiêu chuẩn chất lượng quốc tế trước khi phát hành hợp đồng giao sau hay hợp đồng
kỳ hạn; người mua phải thực hiện ký quỹ với một tỷ lệ được xác định tùy thuộc vào giá trị
hợp đồng. Điều đó đã rạo rào cản cho các nhà đầu tư tham gia vào thị trường. Ví dụ, theo
quy định tại BCEC, nông dân muốn vào sàn cần có đủ 1 tấn cà phê thì có thể tham gia
giao dịch. Hàng hóa của nông dân đưa vào được phía trung tâm kiểm định chất lượng và
phân loại cà phê sau đó được cấp chứng thư hàng gửi kho. Sau đó, phía nông dân phải chờ
khách mua mới chốt được giá bán. Mọi hoạt động mua bán diễn ra thông qua các lệnh
trên hệ thống điện tử. Dù đã tổ chức thực hiện từ 2005 nhưng đến nay, người nông dân
cũng vẫn còn rất xa lạ với những trình tự này, dù có thể được giá cao nhưng họ phải tốn
tiền vận chuyển, và sự kiểm tra chất lượng khó khăn hơn nhiều, thời gian chờ đến khi có
người mua cũng là một trở ngại.
Nếu so sánh với thị trường giao ngay vốn đơn giản, quen thuộc, dễ thực hiện thì thị
trường giao sau trở nên ít được người dân và doanh nghiệp ưa chuộng. Hơn thế nữa,
truyền thống kinh doanh ở Việt Nam chủ yếu là kinh doanh nhỏ lẻ, mua bán trực tiếp trên
thị trường giao ngay, nhất thời người mua và người bán khó có thể thay đổi thói quen giao
dịch này.
Mặc khác do những biến động về giá nguyên liệu, nhiên liệu đầu vào tại Việt Nam
khá lớn, khiến nông dân trong nhiều trường hợp buộc phải mua chịu, bán non cho các
thương lái, đại lý mà gần như họ không còn sự lựa chọn nào khác.
Trong nhiều trường hợp, người nông dân sẽ phải chịu chi phí cao, chứa đựng
nhiều rủi ro hơn thay vì phòng ngừa được rủi ro biến động giá trong tương lai của các
loại hàng hóa do họ không dự đoán được sự biến động giá cả của các nguyên liệu đầu
vào lẫn giá cả của sản phẩm đầu ra.
7. Thiếu các sản phẩm tài chính hỗ trợ nhà đầu tư
Thị trường giao dịch giao sau cũng tỏ ra kém hấp dẫn với nhà đầu tư do họ bị hạn
chế trong việc sử dụng các sản phẩm tiên tiến, các nghiệp vụ giúp tối đa hóa lợi nhuận.
Nếu một nhà đầu tư thực hiện giao dịch hợp đồng giao sau trên Sở giao dịch Futures Tài
chính Quốc tế London (LIFFE), người đó sẽ được tiếp cận nhiều sản phẩm tài chính hiện
đại được thiết lập tại sàn, ví dụ như hợp đồng quyền chọn. Khi anh ta dự đoán giá cả hợp

đồng giao sau kỳ hạn 3 tháng giảm, anh ta sẽ thực hiện hành vi bán khống số hợp đồng đó
mà không bị bất cứ giới hạn nào. Đồng thời, để giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra trong
trường hợp dự đoán của anh ta có thể sai, anh ta có thể mua thêm hợp đồng quyền chọn
mua. Nếu giá hợp đồng giao sau thật sự tăng trong tương lai, anh ta sẽ không thực hiện
hợp đồng quyền chọn mua, chỉ mất khoản phí cố định và thu về lợi nhuận cao từ việc bán
khóng số hợp đồng trên. Song nếu hoàn cảnh tương lai xảy ra ngược lại với những gì anh
ta dự đoán, anh ta sẽ thực hiện hợp đồng quyền chọn mua, nhằm giảm bớt thu lỗ từ hoạt
động bán khống, với mức lỗ tối thiểu bằng với phí quyền chọn.
Thế nhưng đối với một nhà đầu tư tại sàn giao dịch ở Việt Nam, anh ta lại mất đi
rất nhiều cơ hội để có thể tìm kiếm lợi nhuận như nhà đầu tư tại LIFFE. Do trình độ tổ
chức, quản lý, công nghệ phần mềm tại Việt Nam còn hạn chế nên tất cả các sàn giao dịch
vẫn chưa thể đáp ứng trong việc cung cấp các hợp đồng quyền chọn và không cho phép
nhà đầu tư thực hiện hành vi bán khống. Điều này cũng là một trong những nguyên nhân
khiến thị trường phái sinh chưa thể thu hút nhiều nhà đầu tư tham gia.
8. Cơ sở vật chất không đủ điều kiện.
Địa điểm, cơ sở vật chất phục vụ giao dịch, hệ thống thanh toán bù trừ phục vụ
giao dịch hàng ngày còn kém, thông tin biến động giá cả được cập nhật đến các bên tham
gia chưa được nhanh chóng, kịp thời. Hệ thống công nghệ thông tin còn khá lạc hậu so
với các thị trường giao sau trên thế giới.
9. Vai trò của các ngân hàng thương mại chưa được phát huy.
Từ 2003 đến nay, NHNN chỉ cho phép một số NHTM thực hiện thí điểm một số
sản phẩm phái sinh giá cả hàng hóa đối với một số DN với phạm vi hẹp và điều kiện chặt
chẽ. Trường hợp NHTM làm đối ứng với đối tác ở nước ngoài để phòng ngừa rủi ro thì
đều thông qua thành viên của các SGDHH ở nước ngoài, chưa phát sinh trường hợp
NHTM mở tài khoản để giao dịch trực tiếp trên các sàn giao dịch ở nước ngoài.
10.Cơ chế quản lý không hiệu quả.
Nhìn chung thị trường phái sinh Việt Nam vẫn còn khá non trẻ, bên cạnh cơ sở
pháp lý chưa rõ ràng, cơ chế quản lý sàn giao dịch vẫn chưa đạt chuẩn. Những thiếu sót,
chậm trễ này đã tạo nên những bất ổn về cơ cấu và quá trình hoạt động của hệ thống, gây
ra những tranh chấp giữa các nhà đầu tư trong việc mua bán, thực hiện hợp đồng khi đến

hạn.
Việc phối hợp, liên kết chặt chẽ, logic giữa các đơn vị thành viên của hệ thống
cũng là nhân tố quan trọng góp phần cải thiện cấu trúc, hoạt động của sàn giao dịch. Chỉ
xét riêng bộ phận thanh toán bù trừ của sàn giao dịch cà phê BCEC, số lượng thành viên
khá ít ỏi. Hiện nay tại Việt Nam, số lượng ngân hàng thương mại cổ phẩn hoạt động khá
nhiều với mức vốn huy động lên đến vài ngàn tỷ đồng, song chỉ có 7-8 ngân hàng được
cấp phép thực hiện thanh toán bù trừ cho các nhà đầu tư nội địa, là trung gian môi giới
giữa các doanh nghiệp trong nước với các sàn giao dịch hàng hóa nước ngoài. Tại BCEC
chỉ có 1 ngân hàng thực hiện thanh toán. Điều đó cho thấy thị trường giao sau vẫn chưa
thật sự thu hút các đơn vị thành viên cùng tham gia tổ chức, mức độ liên kết giữa các đơn
vị thành viên còn khá lỏng lẽo, chưa thể hiện được hết ưu thế, lợi ích của việc hình thành
sàn giao dịch cà phê.
Tính minh bạch, chế độ quản trị rủi ro trên thị trường còn nhiều bất cập. Cơ chế
kiểm soát các giao dịch với các đối tác ở nước ngoài để hạn chế rủi ro vẫn còn chưa tốt.
11.Thông tin thị trường chưa minh bạch
Đối với các ngân hàng và các công ty môi giới phải công khai các thông tin giao
dịch trên sàn: hiện nay chỉ có các thành viên mới nắm được các thông tin trên sàn, các
doanh nghiệp phải mua bản quyền để đăng ký làm thành viên, các doanh nghiệp nhỏ lẻ
chưa thể truy cập được các thông tin giao dịch trong ngày nên không nắm bắt được thông
tin mà phải chờ đọc báo mới biết được thông tin. Mức độ hiệu quả của thị trường nhằm
đảm bảo sự công bằng trong giao dịch. Thông tin càng minh bạch càng thu hút nhiều chủ
thể tham gia hơn.
4. Điều kiện hình thành và phát triển thị trường giao sau.
Để có thể khiến cho thị trường hợp đồng giao sau phát huy đầy đủ được những
chức năng quan trọng nói trên, điều cần thiết là những nền tảng phát triển của nó phải
được đáp ứng ngay từ ban đầu. Những điều kiện như vậy có thể được nhìn nhận dưới ba
góc độ: thể chế-luật pháp; kinh tế-tài chính; và hạ tầng kỹ thuật, kèm theo đó là những
nhu cầu tất yếu về sự tồn tại của thị trường này vì quyền quyết định sự thành công của thị
trường chủ yếu thuộc về những người trực tiếp tham gia thị trường.
1) Điều kiện thể chế, luật pháp

Một là, thể chế kinh tế thị trường là điều kiện tiên quyết cho việc hình thành nhu
cầu giao dịch các sản phẩm phái sinh khác nhau. Thị trường chứng khoán nói chung
và thị trường hợp đồng giao sau nói riêng là thuộc tính của nền kinh tế thị trường. Kinh
tế thị trường với những hệ giá trị và quy luật kinh tế của nó sẽ là nền tảng quan trọng
nhất để hình thành một cách tự phát hoặc có tổ chức nhu cầu giao dịch giao sau đi kèm
với những đặc trưng vốn của của loại hình thị trường này. Ví dụ, cơ chế xác định giá
dựa trên cơ sở cung cầu và sự tự nguyện trao đổi giữa các bên tham gia; hoặc thị trường
vốn hình thành tạo điều kiện thuận lợi cho việc tham gia và hiện thực hóa các loại hình
hợp đồng giao sau khác nhau. Vì thế, việc tiếp tục kiên trì thúc đẩy và hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường sẽ tạo ra môi trường sống cho thị trường giao dịch giao sau các
sản phẩm khác nhau được hình thành.
Hai là, cần xây dựng triết lý kinh doanh mới về vấn đề đầu tư. Một trong những
tính chất của thị trường giao dịch sản phẩm giao sau là tính “đánh cược” vào tương
lai dựa trên dự đoán; trong khi đó bản thân việc dự đoán luôn có xác suất đúng, nên
kết quả thu được từ việc tham gia giao dịch giao sau có thể rơi vào trạng thái lãi hoặc
lỗ. Chính vì vậy, tính “đánh bạc” (gambling) của thị trường hợp đồng giao sau là khó
tránh khỏi và thậm chí còn rõ rệt hơn nhiều so với mua bán hàng hóa trên thị trường cơ
sở. Điều này đòi hỏi việc tuyên truyền một triết lý kinh doanh mới: “đầu tư chứ không
phải cờ bạc”, nhất là tại các nước không cho phép loại hình casino tồn tại. Tại Việt
Nam, trước thực trạng suy thoái mạnh mẽ của TTCK trong thời gian gần đây, đã xuất
hiện nhiều quan niệm không thiện cảm về TTCK như là một “thị trường ảo”, “không
thực”, hoặc “phi sản xuất”. Do vậy, một khi xã hội chấp nhận triết lý kinh doanh mới
nói trên, TTCK sẽ có điều kiện mở rộng và sẽ có được môi trường tốt cho hoạt động
giao dịch giao sau phát triển vững chắc.
Ba là, một điều kiện nền tảng quan trọng là cần có hệ thống văn bản pháp luật,
quy định rõ ràng về điều kiện thành lập, tham gia và hoạt động của thị trường giao dịch
giao sau. Hệ thống văn bản pháp quy có thể được ban hành trước mở đường cho
hoạt động giao dịch hợp đồng giao sau hình thành. Tuy nhiên, khi thị trường đã đi vào
hoạt động, cần có hành lang pháp lý khuyến khích và hỗ trợ các SGDCK trong việc cải
tiến, phát triển các sản phẩm mới phù hợp hơn. Xuyên suốt trong quá trình đó là những

nội dung quản lý hướng tới bảo vệ nhà đầu tư thông qua các quy định về ký quỹ, bảo
lãnh, hỗ trợ thanh toán hoặc các biện pháp quản lý rủi ro khác.
Bốn là, cần phân định rạch ròi chức năng quản lý, giám sát thị trường giao sau.
Do đặc thù thị trường giao sau có thể giao dịch nhiều loại hàng hóa gốc khác nhau, nên
liên quan đến phạm vi quản lý của nhiều cơ quan quản lý chuyên ngành và dễ dẫn tới
xung đột lợi ích. Thực tiễn cho thấy nếu có sự chồng chéo và không rõ ràng trong
chức năng, nhiệm vụ quản lý, giám sát thị trường sẽ dẫn tới sự thất bại thị trường
phái sinh nói chung và phái sinh trái phiếu nói riêng. Như vậy, việc phân định rạch ròi
chức năng sẽ đem lại các lợi ích: i) Tránh xung đột giữa các bên tham gia thị trường;
ii) Tạo điều kiện tập trung trách nhiệm quản lý những rủi ro đặc thù của hàng hóa
gốc; iii) Tạo cơ chế hoạt động nhanh nhạy và hiệu quả trước thay đổi của thị trường
phái sinh. Trên cơ sở đó, việc phân loại chức năng quản lý, giám sát thị trường giao sau
có thể theo một trong hai hướng: i) Theo hàng hóa – tính chất của loại hình công cụ cơ
sở; hoặc ii) Theo chức năng quản lý thị trường
cơ sở.
2) Điều kiện kinh tế - tài chính
Một là, cần phải tồn tại nhu cầu cao về giao dịch sản phẩm Hợp đồng giao sau
và nhu cầu này xuất phát từ nhiều bên tham gia. Nói cách khác, cần phải có nhu cầu
thiết thực về việc sử dụng sản phẩm Hợp đồng giao sau và nhu cầu này phải có trước
khi thị trường được xây dựng.
Như trên đã đề cập, nhu cầu về giao dịch giao sau nói chung trước hết xuất phát
từ phía những đơn vị sở hữu hàng hóa cơ sở với mong muốn hạn chế thiệt hại khi giá
giảm; đồng thời những đơn vị nhập hàng/ tổ chức sản xuất cũng mong muốn rào
chắn rủi ro giá thành tăng trong tương lai; trong khi đó nhu cầu từ một bên thứ ba là
các tổ chức, cá nhân mong muốn kinh doanh nhằm mục tiêu hưởng lợi nhuận chênh
lệch từ các Hợp đồng giao sau. Một khi không có nhu cầu cao của các bên nói trên thì
không thể có thị trường giao sau. Ví dụ, sàn giao dịch café ỏ Việt Nam (BCEC) khó
phát triển vì đa số nông dân trồng café không có nhu cầu giao dịch qua sàn; lý do cơ
bản bởi vì họ nhận thấy giao dịch qua các đại lý trung gian thuận tiện và tiết kiệm thời
gian hơn nhiều, đó là chưa kể yêu cầu ký quỹ của sàn mà nhiều nông dân không có

đủ khả năng. Về phía các công ty kinh doanh café, họ cũng không nhận thấy mình có
nhu cầu rõ rệt về việc kinh doanh qua sàn tập trung vì vẫn có thể thu mua café đủ phục

×