Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

BÀI NGHIÊN CỨU TÁI CẤU TRÚC CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA KÍCH THÍCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ MỘT TRƯỜNG HỢP TẠI CÁC QUỐC GIA TIÊU BIỂU Ở CHÂU PHI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (677.46 KB, 20 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC



BÀI NGHIÊN CỨU
TÁI CẤU TRÚC CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA
KÍCH THÍCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ -
MỘT TRƯỜNG HỢP TẠI
CÁC QUỐC GIA TIÊU BIỂU Ở CHÂU PHI


GVHD : GS. Sử Đình Thành
Thực hiện : Nhóm 19
Lớp : Cao Học ngày 4
Khóa : K22




TP. Hồ Chí Minh - Năm 2013
TÁI CẤU TRÚC CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA KÍCH THÍCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ


1
DANH SÁCH CÁC THÀNH VIÊN


STT


Họ tên
Ngày tháng năm sinh
1
Võ Hoàng Mẫn
17/09/1988
2
Nguyễn Kim Minh Trâm
24/12/1989
3
Nguyễn Thị Út
16/03/1988
4
Phạm Hoàng Hà
27/10/1988
5
Nguyễn Phạm Nhật Triển
17/10/1987
6
Nguyễn Công Nguyên
05/12/1982


TÁI CẤU TRÚC CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA KÍCH THÍCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ


2
MỤC LỤC


TÓM TẮT 3

GIỚI THIỆU 4
I. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 7
1.1. Những câu hỏi nghiên cứu 7
1.2. Phương pháp nghiên cứu 7
II. XEM XÉT LÝ THUYẾT 8
2.1. Những ảnh hưởng tài chính về tài trợ bằng nợ trong nước và nợ nước ngoài 8
2.2. Vay nước ngoài so với trong nước 10
III. CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ THÔNG QUA THUẾ 11
IV. KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƢỚC CHÂU PHI 14
4.1. Cấu trúc thuế của Kenyan 14
4.2. Hệ thống thuế Uganda 14
4.3. Hệ thống thuế Ghana 15
4.4. Yêu cầu quản lý nợ 16
4.5. Chính sách tài khóa phân cấp 17
V. THẢO LUẬN VÀ KẾT LUẬN 18

TÁI CẤU TRÚC CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA KÍCH THÍCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ


3
TÓM TẮT
Quản trị tài khoá chỉ mạnh khi mà các chính phủ có thể thực hiện các chính sách tài
khóa một cách ổn định, và được ứng dụng một cách hiệu quả vào việc cung cấp những
hàng hóa và dịch vụ công. Bài viết này giới thiệu những chủ đề về chính sách tài khóa và
những ảnh hưởng tiềm tàng của nó trong hoạt động kinh tế. Bài viết này nghiên cứu sâu
những vai trò kinh tế và những phương pháp vay nợ trong và ngoài nước. Nó tập trung vào
các phương pháp thực hiện chính sách tài chính nhằm nhắc nhở và đánh giá những ảnh
hưởng của việc lựa chọn những chính sách thuế và những đòi hỏi đối với việc quản trị nợ.
Bài viết này cũng bao gồm lý thuyết cơ bản, chính sách và thực hành tài chính công gồm
việc phân quyền và những mối liên hệ tài chính phi chính phủ trong các nền kinh tế đang

phát triển và chuyển đổi của Châu Phi.
Từ khóa: Điều chỉnh tài khoá, các chính sách thuế, nợ trong và ngoài nước, tăng
trưởng kinh tế.
Phân loại JEL: E60, E62, H2, H62

TÁI CẤU TRÚC CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA KÍCH THÍCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ


4
GIỚI THIỆU
Bài viết này giới thiệu những nội dung quan trọng của chính sách tài khóa và những
ảnh hưởng tiềm tàng đối với hoạt động kinh tế. Hai công cụ chính của chính sách kinh tế vĩ
mô là chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Chính sách tài khóa có nghĩa là chính phủ
điều chỉnh mức độ chi tiêu để giám sát và ảnh hưởng đến kinh tế của một quốc gia. Nó là
bộ đôi chiến lược với chính sách tiền tệ - là việc ngân hàng trung ương ảnh hưởng tới cung
tiền tệ của một quốc gia. Hai chính sách này được sử dụng kết hợp khác nhau theo nhiều
cách khác nhau nhằm định hướng những mục tiêu kinh tế của một quốc gia. Việc quản trị
chính sách tài khóa là một công cụ mạnh mẽ trong việc ổn định nền kinh tế, là việc kiểm
soát khoản tiền, cấu trúc thuế, chi tiêu và quản lí nợ. Việc quản trị chính sách tài khóa ảnh
hưởng tới tổng cầu, phân phối của cải, khả năng sản xuất hàng hóa và dịch vụ của nền kinh
tế. Việc quản lí nợ và chính sách tài khoá một các hiệu quả là dạng công cụ ổn định kinh tế
vĩ mô được chấp nhận rộng rãi. Nó đảm bảo việc phân bổ có hiệu quả các nguồn lực công
và là một điều kiện tiên quyết cho tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra còn có sự đồng ý rộng rãi
về những yếu tố tạo nên việc quản trị tài chính hợp lí (Campos & Pradhan, 1996). Tuy
nhiên, cũng không thể và cũng không mong muốn cho việc quản lí ngân sách và tài chính
được bảo vệ hoàn toàn bởi những ảnh hưởng của chính trị. Khó khăn ở chỗ quản lý đồng
thời giữa ngân sách và chính trị bằng cách thiết kế và thực hiện khung thể chế pháp lý, cái
mà sẽ cải thiện chất lượng gia nhập chính trị và thúc đẩy trách nhiệm tài chính. Bài viết này
tổng kết những cách tiếp cận khác nhau đã sử dụng tại các nước đang phát triển trong các
đề xuất cải cách lĩnh vực công của họ, và sẽ khám phá mức độ kiểm soát thể chế tương tự

và những kích thích có thể được thiết lập trong những nền kinh tế mới nổi. Nó tập trung
vào quản trị hoặc khuôn khổ hiến pháp hơn là liên tục ra những quyết định mang tính chính
trị diễn ra trong những khuôn khổ này (Schick, 1998). Chính phủ tại các nước đang phát
triển nên thực hiện những bước quan trọng để tăng cường khuôn mẫu cho chính sách tài
khóa. Chính sách tài khóa là một công cụ trực tiếp vững chắc để duy trì tài chính công trên
mức trung bình, dựa trên những quy luật nghiêm ngặt. Chính sách tài khóa cùng với những
khuôn mẫu của chính sách tiền tệ cung cấp nền tảng ổn định cần thiết cho việc đạt được
TÁI CẤU TRÚC CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA KÍCH THÍCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ


5
những mục tiêu kinh tế chủ yếu của chính phủ và mức độ duy trì việc làm (Rena, 2011).
Chìa khóa để quản trị tài chính công thành công là vấn đề quản trị nhắm tới sự cân bằng
giữa vai trò kinh tế, quản lý và chính trị của tài chính công. Khi quản trị tài chính kém thì
có ít cơ hội thành công trong các mục tiêu của chính sách tài khóa.
Quản trị tài chính mạnh chỉ khi một chính phủ có thể thực hiện chính sách tài khóa
của họ theo cách bền vững, và được áp dụng một cách hiệu quả vào việc cung cấp hàng hóa
và dịch vụ công (Rena, 2011). Các tác động bên ngoài đối với việc quản trị doanh nghiệp
tốt là luật pháp, quy tắc và những chỉ dẫn cái mà cung cấp một sân chơi lành mạnh và kỷ
luật hành vi của những người trong cuộc, dù là người quản lý hay là cổ đông. Kinh nghiệm
trong một nền kinh tế thị trường đã phát triển chỉ ra rằng khuôn khổ luật pháp cho chính
sách cạnh tranh, khuôn khổ luật pháp cho việc thi hành đúng của các cổ đông, hệ thống kế
toán, kiểm toán, một hệ thống tài chính được kiểm soát chặt chẽ, hệ thống phá sản và thị
trường cho việc kiểm soát liên ngành là những chỉ thị sẽ cung cấp những chỉ dẫn thích đáng
và bắt các doanh nghiệp thi hành (Bird and Oldman, 1990).
Cách duy nhất để đảm bảo những người đóng thuế nhận giá trị thực đối với tiền của
họ là khi chính phủ thiết lập một mục tiêu dài hạn thông qua cải cách đầu tư và thuế. Những
dịch vụ công mạnh và đáng tin cậy là quan trọng cho việc kéo dài tăng trưởng kinh tế, giải
quyết loại trừ xã hội và cải thiện chất lượng cuộc sống của con người. Cải cách đầu tư và
thuế được coi như là một nền tảng cho một nền kinh tế mạnh hơn, hiệu quả hơn (Shome,

2004; Rena, 2011). Trên toàn cầu, tất cả các quốc gia có thể đối mặt với thách thức điều
chỉnh tài chính, đặc biệt là đối phó với những cú sốc không thể dự đoán được, hay những
chuyển đổi cấu trúc dài hạn của nền kinh tế. Điều chỉnh tài chính bị ảnh hưởng thông qua
kết cấu chi tiêu bị đòi hỏi thay đổi từ việc cung cấp trực tiếp hầu hết hàng hóa, dịch vụ, kế
hoạch chủ yếu, tới việc cung cấp mang tính lựa chọn hơn hoặc tài trợ chỉ cho những hàng
hóa, dịch vụ công và đảm bảo phân phối công bằng (Bougrand, Loko and Mlachila, 2002).
Ngân sách phải điều chỉnh nhanh chóng theo sự chuyển đổi thực tiễn của nền kinh tế, đòi
hỏi một sự định hướng lại lớn về vai trò của nhà nước, và có ảnh hưởng rộng khắp trên nền
kinh tế bằng cách tăng cường huy động nguồn thu, và cải thiện phân bổ nguồn lực và hiệu
quả thường thông qua cải cách thể chế và cấu trúc (Campos and Pradhan,1996; FitzGerald,
TÁI CẤU TRÚC CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA KÍCH THÍCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ


6
2003). Trong trường hợp của Ghana vào năm 2001, doanh thu thuế cơ bản thấp hơn 20%
tổng chi tiêu nội địa. Nó đã giảm thấp hơn khi sự tuân thủ của những người nộp thuế là
không hoàn toàn, bộ trưởng bộ tài chính Osafo-Maafo đã nói như thế. Do đó, khi chính phủ
Ghana muốn dựa nhiều hơn vào doanh thu thuế theo thời gian, họ đã đưa ra một cải cách
thuế tích cực hơn để mở rộng cơ sở và tăng cường sự tuân thủ. Chẳng han, những chính
sách có thể đòi hỏi những lựa chọn chính trị khó hơn và sử dụng những nguồn lực để nâng
cao tính hiệu quả quản trị thuế, như nó đóng một vai trò chính để nâng cao doanh thu thuế
(Governor of Bank of Ghana, 2001).
Việc cải cách thuế của chính phủ Ghana tạo ra công cụ chính sách chính cần thiết để
đẩy nhanh tiến độ tăng trưởng và giảm đói nghèo (Osei, 2006). Những thay đổi chính của
Ghana trong những chính sách tài khóa quản trị thuế đóng vai trò là một chìa khóa trong
việc huy động nguồn thu của các quốc gia và tổng thể tình hình tài chính. Những nhân tố
chính trích dẫn cho việc tăng doanh thu là mở rộng cơ sở thuế, cấu trúc thuế, và tái cấu trúc
quản trị thuế. Nếu việc quản trị thuế trở nên hiệu quả tại các nước đang phát triển, sự kết
hợp lớn giữa nguồn lực con người và vật chất chất lượng cần thiết để thực hiện như những
vai trò chuyên biệt của các tổ chức doanh thu (Fjeldstad, Odd-Helge, 2006; Rena, 2011).

Thiết kế một tài chính trung hạn phù hợp là khuôn mẫu thúc đẩy sự phân bổ bền vững
những dịch vụ công và cơ sở hạ tầng tốt hơn trong việc duy trì một cam kết đáng tin cậy để
đối mặt thận trọng trước nhiều thử thách. Nhiệm vụ chính của quản trị tài chính trong các
bộ này hầu như hướng tới sự phối hợp với chi tiêu và kiểm soát việc phân chia ngân sách.
Tuy nhiên, vì doanh thu, chính sách bị dàn xếp và sự giám sát hiện hữu của việc hiện thực
hóa doanh thu trở nên thoải mái, dẫn tới việc quản trị không hiệu quả và mất nguồn thu.
Bougrand, Loko, and Mlachila (2002) đã tìm thấy rằng nợ nước ngoài còn là cách lôi cuốn
nhất để bù đắp thâm hụt ngân sách, trong khi một rủi ro giảm giá đáng kể và kéo theo lãi
suất trong nước ở mức độ cao. Nhìn chung, thâm hụt dẫn tới một sự thay đổi trong tài sản
ròng của chính phủ có thể được tài trợ bởi cả việc giảm tài sản và xuất hiện những khoản
nợ mới trong nước và nước ngoài. Sự lựa chọn vay nợ trong nước và nước ngoài phụ thuộc
vào chi phí (lãi suất), cấu trúc kỳ hạn và những rủi ro.
TÁI CẤU TRÚC CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA KÍCH THÍCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ


7
Một nhân tố quan trọng của cải cách quản trị là tách bộ phận thu thuế hiện tại ra khỏi
bộ tài chính thành một cơ quan quyền lực thu thuế dưới sự quản lý của một ban quản trị độc
lập. Triêt lý đằng sau sự dịch chuyển này là đưa ra sự khuyến khích chính cho nhân viên để
cải thiện việc thi hành nhiệm vụ của họ và do đó tăng doanh thu. Việc cải cách đã có được
sự thành công vào những năm đầu tiên trong việc thực hiện chính sách của URA (bộ phận
quản trị thu thuế Uganda). Thu nhập được báo cáo đã tăng lên một cách đáng kể từ 7% của
GDP năm 1991 lên tới khoảng 12% năm 1997 (Fjeldstad 2003). Tham nhũng cũng giảm
đáng kể. Trong suốt thời kỳ này, rất nhiều nhà quan sát đã xem URA như là một mô hình
cho các nước Châu Phi (Kaweesa, 2004).
I. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Những câu hỏi nghiên cứu
1) Làm thế nào chính sách tài khóa ổn định nền kinh tế và giảm nợ công?
2) Việc huy động nguồn thu và những cải cách thuế có ảnh hưởng đến chính sách tài
khoá và loại bỏ tham nhũng không?

3) Tái cấu trúc chính sách tài khoá, làm thế nào để gia tăng nguồn vốn tư nhân của
Châu Phi?
1.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Bài viết này dựa trên dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các báo cáo của WorldBank,
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và các báo cáo của chính phủ các nước châu Phi được lựa chọn.
Các nhà nghiên cứu đã cố gắng phân tích dữ liệu bằng phương pháp mô tả và phân tích nội
dung. Các nhà nghiên cứu cũng xem xét các tài liệu thích hợp về các chủ đề cụ thể trên
khuôn khổ kinh tế vĩ mô. Bài viết được chia thành 5 phần: Phần đầu tiên giới thiệu, nghiên
cứu các câu hỏi và phương pháp luận; phần thứ hai xem xét các lí thuyết; phần ba phân tích
chính sách tài khóa thông qua thuế; phần bốn phân tích các chính sách tài chính và các vấn
đề tăng trưởng kinh tế của các nước châu Phi được chọn; phần năm tóm tắt các kết quả và
cuối cùng đưa ra những nhận xét, kết luận của nghiên cứu.
TÁI CẤU TRÚC CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA KÍCH THÍCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ


8
II. XEM XÉT LÝ THUYẾT
2.1. Những ảnh hƣởng tài chính về tài trợ bằng nợ trong nƣớc và nợ nƣớc ngoài
Tài liệu này nêu bật những vấn đề quan trọng về nợ trong nước và nước ngoài của
chính phủ và đưa ra các khuyến nghị hữu ích. Tỷ lệ nợ chính phủ trên GDP không nên quá
cao so với khả năng trả nợ (Rena, 2011). Tính bền vững tài chính phụ thuộc vào mức độ nợ
hiện tại (trong nước và nước ngoài), và sự sẵn sàng đánh thuế và áp dụng các biện pháp tích
cực khi cần thiết để trả lãi. Các nước đang phát triển ở châu Phi như: Ghana, Uganda và
Kenya, với một cơ sở thuế hạn chế, ngân sách eo hẹp, chi tiêu chính phủ cao, nợ là một vấn
đề nghiêm trọng và không nên đánh giá thấp. Nói chung, các nước đang phát triển dự kiến
sẽ phải đối mặt với tình trạng khan hiếm vốn sẽ có được một khoản nợ nước ngoài để bổ
sung tiết kiệm trong nước. Tỷ lệ vay nợ nước ngoài, mức độ "bền vững" của nợ nước ngoài
phụ thuộc vào mối quan hệ giữa tiết kiệm, đầu tư và tăng trưởng kinh tế trong và ngoài
nước. Bài học chính của lí thuyết "tăng trưởng với nợ" là một nước nên vay nước ngoài
miễn là vốn đó tạo ra một tỉ lệ lợi nhuận là cao hơn chi phí của các khoản vay (Terkper năm

1994; IMF, 2006; Rena, 2011). Trong trường hợp đó, các nước đi vay được nâng cao năng
lực và tăng sản lượng với sự trợ giúp của tiết kiệm nước ngoài.
Khi tình hình tài chính của chính phủ không bền vững có thể dẫn đến chi phí cao hơn
cho các khoản vay và / hoặc phân bổ tín dụng, quá trình này rất tốn kém và nó làm cho việc
vay nước ngoài trở nên kém hấp dẫn cho tài trợ đầu tư của chính phủ. Lí thuyết kinh tế học
thường cho rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có thể làm dịu những hạn chế tài chính
của các chính phủ bằng cách đem lại các nguồn vốn. Đây là một trong những lý do các nhà
hoạch định chính sách ở các nước nghiên cứu trên phải nới lỏng những hạn chế về FDI vào
và cung cấp các ưu đãi đặc biệt đối với FDI.
Cho đến gần đây, các thị trường vốn ở Ghana, Uganda, Nigeria và Kenya vẫn không
thể đưa ra những hỗ trợ hiệu quả cho khu vực tư nhân vì đây là những nước nhỏ, kém phát
triển và có hoạt động hạn chế. Sự tồn tại của một thị trường chứng khoán trong một số các
quốc gia này có thể cung cấp thêm các kênh để thông qua đó ảnh hưởng của chính sách tài
khóa, có thể tác động đến toàn bộ nền kinh tế (Dailami và Atkin,1990; Ademola, 1997).
Nghiên cứu đề xuất một chiến dịch để thúc đẩy đầu tư và giáo dục công chúng về thị
TÁI CẤU TRÚC CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA KÍCH THÍCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ


9
trường tài chính. Thực tế chứng minh rằng một thị trường vốn được tổ chức tốt là rất quan
trọng để huy động cả vốn trong nước và quốc tế. Trong các khu vực này, thị trường vốn
chưa đóng vai trò huy động vốn, mặc dù nó có thể là một nguồn cung cấp vốn nếu được tổ
chức đúng. Nếu chính phủ dự kiến sẽ tài trợ thâm hụt ngân sách thông qua quá tạo tiền,
lạm phát có khả năng tăng, tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ giảm và góp phần suy giảm vốn.
Dailami và Atkin năm 1990, mô tả việc cấp kinh phí để tài trợ cho sự hình thành vốn trong
nước là một yếu tố quan trọng trong triển vọng tăng trưởng kinh tế dài hạn ở các nước đang
phát triển. Trong năm 2001, các yếu tố quyết định trong khó khăn kinh tế của Ghana là khi
chi tiêu chính phủ nhiều hơn doanh thu trong đó chỉ riêng việc trả lãi vay là mục chi tiêu
lớn nhất. Để đảo ngược những khó khăn kinh tế, chính phủ đưa ra các biện pháp ngân sách
khác nhau để giảm chi tiêu và tăng doanh thu. Chính phủ đóng băng tất cả các chi phí,

ngoại trừ tiền công, tiền lương và các mục liên quan, để cải thiện tình hình tài chính và thực
hiện tốt nghĩa vụ của nhà nước, và đưa ngân sách về mức khà quan hơn. Chính phủ đã cải
thiện tình hình tài chính của mình với hệ thống ngân hàng với số tiền 551.000.000.000$ vào
nửa đầu tháng 5 năm 2003. Tuy nhiên, chứng khoán nợ công trong nước vẫn còn tăng 3,9%
trong quý đầu năm 2003 so với mức tăng 8,5% trong cùng kỳ năm 2002 (Ngân hàng của
Ghana, 2003).
Nếu thâm hụt được tài trợ từ dự trữ ngoại tệ có từ vay nợ của một quốc gia, thâm hụt
rõ ràng sẽ không bền vững. Sẽ ít đe dọa đến khả năng thanh toán hơn nếu được tài trợ trực
tiếp bằng tài sản vì nó mang lại lợi thế của chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý và tạo
việc làm. Tùy chọn khác cho thâm hụt tài khoản vãng lai bền vững là một khoản vay dài
hạn với lãi suất thấp, trong nhiều trường hợp nó cũng tỏ ra thích hợp và có thể là câu trả lời
cho mối đe dọa thâm hụt ngân sách của các quốc gia. Ngân hàng của Uganda phải đối mặt
với những thách thức đối với cán cân thanh toán đã có những bước đi nhất định và đã rút ra
rằng nợ lớn hơn dẫn đến thanh toán lãi ròng cao hơn, đổi lại nợ cần phải được tài trợ bởi
thặng dư thương mại. Merwe cho rằng việc cân bằng thặng dư trên tài khoản vãng lai để cải
thiện mạnh về mặt thương mại bằng cách khuyến khích dòng chảy vốn cho những khó khăn
có thể phát sinh trong quản lý thanh khoản trong nước là một việc làm thông minh. Năm
TÁI CẤU TRÚC CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA KÍCH THÍCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ


10
2001 thâm hụt tài khoản lớn của Uganda đã tiếp tục được tài trợ chủ yếu bởi dòng vốn tài
trợ và mức độ thấp hơn của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) (Merwe, 2002).
Vay nước ngoài là một lựa chọn khôn ngoan miễn là vốn vay tạo ra một tỉ lệ lợi nhuận
cao hơn chi phí của các khoản vay. Ở hầu hết các nước đang phát triển nguồn lực trong
nước không hỗ trợ những nỗ lực phát triển đất nước. Tài trợ bên ngoài là cần thiết để bổ
sung nguồn lực trong nước và phải có mức trần để tránh mức nợ cao và không bền vững.
Trong năm 2002, Nigeria huy động nguồn lực bên ngoài dẫn đến việc tạo ra các gánh nặng
nợ không bền vững, chủ yếu là do tài trợ và sử dụng kinh phí không phù hợp (IMF, 2005).
Thách thức chính đối với Nigeria và hầu hết các quốc gia châu Phi là khoảng cách giữa nhu

cầu phát triển và nguồn thu hạn hẹp. Thông qua nghiên cứu và phát hiện của chúng tôi, việc
có một chiến lược huy động nguồn lực hiệu quả là hoàn toàn có thể (Ademola, 1997).
Trong trường hợp của Uganda không có sự khác biệt về nhu cầu có nguồn thu được cải
thiện và sử dụng nó một cách hiệu quả. Mặc dù một số đề xuất đã được đưa ra cho Uganda
và các nước phát triển khác đã liên tục gặp phải rất nhiều khó khăn khi kết hợp lại thành
một chính sách chính xác và đáng tin cậy (Fjeldstad, Odd-Helge, 2006). Để tránh vay nước
ngoài, một quốc gia nên giới hạn trong khả năng các nguồn tài nguyên của mình, và đảm
bảo rằng vị thế hiện tại là phù hợp với các nguồn tài chính có sẵn.
2.2. Vay nƣớc ngoài so với trong nƣớc
Các chính phủ cũng có thể có các phương tiện khác nhau theo ý của họ để đạt được ít
nhất là các mục tiêu mà công cụ nợ trong nước đã được thiết kế nhắm tới. Không có nhiều
sự lựa chọn cho các nước đang phát triển hoặc các nền kinh tế mới nổi, nếu họ phải loại bỏ
vay nợ nước ngoài, họ phải phát triển thị trường trong nước trong giới hạn chứng khoán
chính phủ. Nếu vay nước ngoài của Chính phủ là quá mức, lãi suất trong nước sẽ rơi quá
sâu, và chính sách tài khóa sẽ bị ảnh hưởng (Montiel, và Reinhart, 1999). Điều này sẽ làm
giảm sút các quỹ, dẫn đến vay nước ngoài nhiều hơn để hỗ trợ dự trữ ngoại hối của đất
nước tại các ngân hàng trung ương. Nếu nợ nước ngoài vượt quá 20-25% GDP, nó có thể sẽ
phản tác dụng, tiêu chuẩn quốc tế cho nợ nước ngoài là 9% GDP (IMF năm 2006; Rena,
2011). Tiếp tục vay nợ nước ngoài sẽ đặt ra nghi vấn về tình hình tín dụng của đất nước; sẽ
tăng trả nợ nước ngoài và dễ đưa đất nước vào bất kỳ một cú sốc đột ngột bên ngoài nào đó.
TÁI CẤU TRÚC CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA KÍCH THÍCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ


11
Điểm mấu chốt cho vay nợ dài hạn là khắc phục vấn đề về những thay đổi thuế lớn do
huy động các nguồn lực tài chính từ nền kinh tế trong nước. Vay nước ngoài sẽ hấp dẫn nếu
tiết kiệm thấp, và tránh đươc việc lấn át việc sử dụng tiết kiệm có sẵn trong nước của khu
vực tư nhân. Như đã nói ở trên, việc lựa chọn giữa vay nước ngoài và trong nước, phụ
thuộc vào chi phí (lãi suất), cơ cấu kỳ hạn và rủi ro. Nợ trong nước cũng có thể được sử
dụng để đạt được mục tiêu chính sách tiền tệ. Đây là trường hợp đặc biệt khi trong nước có

cán cân thanh toán thặng dư, tạo ra bởi dòng viện trợ lớn hoặc xuất khẩu dầu. Trong những
tình huống này, các dòng ngoại tệ làm tăng tính thanh khoản, điều này có thể làm suy yếu
sự ổn định của kinh tế vĩ mô và các ngân hàng trung ương thông thường sẽ quyết định can
thiệp bằng cách bán trái phiếu chính phủ hoặc trái phiếu ngân hàng trung ương để ngăn
chặn áp lực lạm phát từ thanh khoản dư thừa (Dieterich, 2004). Nguồn thu ngoại hối được
chào đón ở các nước đang phát triển, nhưng cũng tạo ra những thách thức cho các nhà
hoạch định chính sách trong nước. Nhờ dòng vốn từ nước ngoài, đầu tư không còn bị giới
hạn bởi những hạn chế trong nước. Đặc biệt, các nền kinh tế chuyển đổi có thu nhập thấp
và trung bình với hạn chế về tiết kiệm trong nước, nhưng triển vọng lợi nhuận đầu tư cao,
có thể đạt được đầu tư cao hơn thông qua các dòng vốn này. Dòng vốn chảy vào các nền
kinh tế cũng cho phép các mô hình tiêu thụ hoạt động hiệu quả hơn theo thời gian. Đối với
các nền kinh tế chuyển đổi, thế hệ đầu sẽ gánh chịu một tỷ trọng lớn trong chi phí của quá
trình chuyển đổi. Tăng mức tiêu thụ cho thế hệ này có thể giúp duy trì sự ủng hộ về chính
trị cần thiết để cải cách kinh tế. Cuối cùng, dòng chảy xuyên biên giới có thể làm giảm rủi
ro đầu tư thông qua đa dạng hóa (Montiel và Reinhart, 1999).
III. CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ THÔNG QUA THUẾ
Thiết lập một hệ thống thuế khóa hợp lý và hiệu quả ở các quốc gia đang phát triển là
không hề đơn giản, trừ khi nền kinh của các nước đang phát triển hòa nhập một cách chặt
chẽ với nền kinh tế thế giới. Chỉ có hệ thống thuế là phương tiện hợp lý tăng ngân sách
chính phủ, và chính phủ dùng để chi tiêu đối với hàng hoá và dịch vụ. Hệ thống thuế tuyệt
đối ở các nước đang phát triển nên tăng thuế đối với các khoản thu cần thiết để tăng thu
ngân sách mà không cần phải vay mượn quá mức, vì nếu tăng thuế một cách bất chấp sẽ
không kích thích nền kinh tế phát triển(Rena, 2011).
TÁI CẤU TRÚC CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA KÍCH THÍCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ


12
Hầu hết nhân lực ở châu Phi cận Sahara được sử dụng trong ngành nông nghiệp hoặc
trong các doanh nghiệp nhỏ bị đánh thuế thu nhập và thuế tiêu dùng (đây là cách để tăng
nguồn thu cho ngân sách), điều này càng làm cho nền kinh tế của họ bị suy giảm. Chính

sách thuế ở các nước đang phát triển gây khó hiểu trên nhiều phương diện: như là tỷ số thu
ngân sách/GDP thì gây bất ngờ khi so sánh với các nước phát triển. Thuế đánh trên thu
nhập của người lao động đóng một vai trò nhỏ, và các nước đang phát triển/nghèo hơn thu
thuế trung bình chỉ có hai phần ba hoặc ít hơn doanh thu thuế mà các nước giàu hơn thu
được, như một phần của GDP (Gordon và Li, 2005; Rena, 2011).
Để cải cách việc quản lý thuế một cách hiệu quả không phải là một quá trình dễ dàng
cho các nền kinh tế mới nổi, khi tiền lương của cán bộ thuế thấp, không có một hệ thống
máy tính hoạt động hiệu quả và đội ngũ nhân viên được đào tạo tốt. Hơn nữa ,thị trường tài
chính trong nước rất quan trọng để giảm thiểu các vấn đề về thông tin trong quyết định đầu
tư. Nhiều tiềm năng tăng trưởng của châu Phi vẫn còn bị kiềm hãm lâu dài, bởi vì chúng ta
không thể phát triển đủ nhanh chóng và rộng rãi các liên kết cơ sở hạ tầng cần thiết, đặc
biệt là trong giao thông vận tải. Như chúng ta đã thấy kết quả là hầu hết các chính phủ châu
Phi cận Sahara buộc phải có một cơ chế là cho phép họ sử dụng bất cứ chính sách thuế nào
đã lựa chọn sẵn, chứ không phải là thiết lập một hệ thống thuế hợp lý, hiện đại và hiệu quả.
Độ lớn của thặng dư hoặc thâm hụt ngân sách của chính phủ thì có thể do số liệu thống kê
là quan trọng nhất, nó đánh giá tác động của chính sách tài chính của chính phủ lên trên nền
kinh tế. Và vấn đề ở đây là nhiều chính phủ trung ương đang rơi vào trong một cuộc khủng
hoảng tài chính và đang liều lĩnh thực hiện các chiến lược để giảm những cam kết chi tiêu
của họ (Seidman, 2003). Kết quả là tổng thu thuế thường bất thường hoặc giảm xuống thấp
hơn mức phân cấp chi tiêu, dẫn đến khoảng cách tài khóa nghiêm trọng ở cấp địa phương.
Ngoài ra, chính sách được truyền tải cho nền kinh tế có thể ảnh hưởng đến các chính sách
trong các nền kinh tế. Mặt khác lập luận này được nhấn mạnh rằng người nộp thuế ít thì
không thể mong đợi sẽ nộp thuế dựa trên một cấu trúc thuế phức tạp và một chế độ thuế
đơn giản hóa cần phải được thiết lập cho họ. Đây là nguồn gốc của ý tưởng về một "thuế
riêng", và nảy sinh chủ yếu ở hầu hết các tiểu vùng Sahara, mặc dù ý tưởng này chắc chắn
rằng không hạn chế trong từng quốc gia riêng lẻ. Trong một khuôn khổ như vậy, những
TÁI CẤU TRÚC CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA KÍCH THÍCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ


13

người nộp thuế ít sẽ phải trả chỉ một loại thuế, kết hợp từ các loại thuế khác nhau mà những
người nộp thuế nhiều hơn sẽ phải trả tiền riêng. Vì sự ra đời của một thuế hỗn hợp, nhiều
quản trị viên thuế đã lập luận rằng hành vi trốn thuế trong nhóm người nộp thuế ít đã giảm.
Tuy nhiên, tranh luận rằng hành vi trốn thuế của những người nộp thuế ít đã giảm là do các
chế độ đơn giản hóa, có xu hướng đánh thuế ít hơn thu nhập so với thu nhập tiềm năng của
họ (Shome, 2004).
Quản lý kinh tế trong nền kinh tế mở phụ thuộc chủ yếu là sự ổn định của chính sách
và sự điều chỉnh lại cơ cấu nền kinh tế. Thị trường vốn không thích bất ngờ, họ thích chính
sách kinh tế vĩ mô lành mạnh, minh bạch và hệ thống chính trị ổn định. Các nước đang phát
triển đối mặt với các thay đổi từ bên ngoài, thay đổi giá cả thế giới, và thị trường tín dụng
toàn cầu có năng động hay không được xác định bởi chu kỳ tài chính trong các nền kinh tế
cốt lõi. Kết quả là sự ổn định trong nhu cầu để đáp ứng với những cú sốc bất ngờ tạm thời
và đưa ra điều chỉnh cho những người thường xuyên xác định con đường phát triển, chứ
không phải quá trình tạm thời tối ưu hóa bởi khu vực tư nhân và khu vực công (FitzGerald,
2005).
Chúng tôi cho rằng chi phí thấp như vậy ở nước đang phát triển là kết quả của các mô
hình của thuế. Nếu mô hình của thuế đã được thay đổi, chi phí cũng sẽ thay đổi. Các lĩnh
vực chính của các chi tiêu công là lĩnh vực sức khỏe và giáo dục. Với một ngân sách hạn
chế, rất khó để đáp ứng các nhu cầu công cộng, và rất phổ biến ở các nước nghèo / đang
phát triển. Có một sự cần thiết cho chính sách tài khóa là không chỉ bằng cách cắt giảm chi
phí, mà còn phải cải cách thuế. Chúng ta cũng nên chỉ ra rằng hệ thống thuế ở nhiều nước
châu Phi không phải là có cấu trúc và hiệu quả giống như một nguồn thu thuế, và đã làm
cho nó hầu như không thể cải thiện từ nền kinh tế đi xuống. Một thiếu hụt nguồn thu liên
tục phát sinh là việc bình thường từ một hệ thống thuế có vấn đề về cấu trúc. Chỉ đơn giản
bằng cách cắt giảm chi tiêu không cần phát triển một hệ thống thuế hiệu quả sẽ làm suy yếu
sự phát triển và hạn chế việc xây dựng các cơ quan nhà nước có hiệu quả. Như để thúc đẩy
niềm tin trong một nền kinh tế trong nước vững mạnh và ổn định, một đồng tiền ổn định là
điều cần thiết cho giá cả ổn định thông qua các kiểm soát khác nhau của cơ chế.
(FitzGerald, 2003; Gordon và Li, 2005).
TÁI CẤU TRÚC CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA KÍCH THÍCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ



14
IV. KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƢỚC CHÂU PHI
4.1. Cấu trúc thuế của Kenyan
Cấu trúc thuế hiện tại bao gồm 2 thuế chính trực tiếp (thuế cá nhân và thuế doanh
nghiệp) và 3 thuế chính gián tiếp (Thuế giá trị gia tăng, thuế môn bài, thuế hải quan). Nhìn
vào mối liên hệ sử dụng các công cụ theo thời gian cho thấy rằng tầm quan trọng của thuế
thu nhập cá nhân đã giảm, mặc dù nó vẫn đóng một vai trò quan trọng đóng góp vào tổng
doanh thu thuế (Rena, 2011). Theo như các khảo sát kinh tế khác, thuế thu nhập chiếm
44,6% trong giai đoạn 1968/1969 – 1972/1973, nhưng đã giảm xuống trung bình còn
35.8% giai đoạn năm 2001/2002 – 2005/2006. Thuế doanh nghiệp chiếm tỷ lệ lớn hơn thuế
thu nhập cá nhân tới giai đoạn 1997/1998, sau đó thuế thu nhập cá nhân trở nên quan trọng
hơn. Ví dụ trong năm 2005/2006 thuế thu nhập chiếm 38.5% của tổng doanh thu thuế,
trong đó 54,4% là thuế thu nhập cá nhân, 45,6% là thuế thu nhập doanh nghiệp. Thuế giá trị
gia tăng đã có phần quan trọng theo thời gian, trong thuế mậu dịch thì giảm. Khoảng giai
đoạn 2001/2002 – 2005/2006, VAT chiếm trung bình 27,5%, thuế môn bài chiếm 20,1%,
thuế hải quan khoảng 13%. Những loại thuế đã tiến triển theo thời gian từ cấu trúc thuế ban
đầu đã kế thừa từ hệ thống thuế của Anh (Wanjala1 & Bernadette, 2006).
4.2. Hệ thống thuế Uganda
Hệ thống thuế Uganda vào giai đoạn 1990-2004 đã chịu sự cải tiến linh động trên 14
năm của kỳ hạn chính sách và của chính phủ. Trước năm 1991, Thủ tướng phụ trách tài
chính quản lý trung tâm thuế chính phủ (Kaweesa, 2004). Khu vực công lớn hơn khu vực tư
và góp phần rất ít tới thuế cơ sở. Khu vực tư thì hiệu suất thu nhập thấp, nhưng chiếm ưu
thế bởi tồn tại nông nghiệp (khoảng 60% GDP). Thêm vào đó, khu vực thương mại thì
không chính thức và khó khăn tới thuế. Cơ sở thuế của Uganda vẫn hẹp đáng kể từ khi độc
lập dẫn đến thuế thu nhập không tương xứng. Tới ngày nay tỷ trọng của thuế thu nhập với
GDP chỉ khoảng 13% so với các nước châu Phi vùng Saharan trung bình 18-20%. Năm
1889 tỷ trọng thuế thu nhập với GDP rất ít khoảng 4%. Hơn nữa, cần tạo thuế thu nhập thì
chủ yếu phụ thuộc vào nhập khẩu. Trên 60% của tổng thuế thu nhập được nâng lên từ thuế

trong nhập khẩu với đóng góp ít hơn 40% từ thuế quốc nội (Bird và Oldman, 1990;
Wanjala1 & Bernadette, 2006; Seidman, 2003). Viễn cảnh này được cho là một nhân tố.
TÁI CẤU TRÚC CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA KÍCH THÍCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ


15
4.3. Hệ thống thuế Ghana
Hai bài học thực tế đã thực hiện tại Ghana năm 1985 để làm tăng tổng thu nhập chính
phủ trong nước là việc thành lập Ban thư ký tổng thu nhập Quốc Gia (NRS) và tạo ra 2 tổ
chức lớn về tổng thu nhập như Hải Quan, Sở thuế môn bài và phòng ngừa (CEPS) và Sở
tổng thu nhập quốc nội (IRS), là tồ chức độc lập bên ngoài các dịch vụ dân sự. Thuế thu
nhập được giới thiệu tại Ghana là theo pháp lệnh thuế thu nhập năm 1943 (Terkper, 1994).
Có 3 yếu tố chính được đưa ra cho việc tăng doanh thu là: việc mở rộng điều lệ cơ bản của
thuế, là kết quả của tự do hóa nền kinh tế; thay đổi cấu trúc của thuế; và mở rộng việc tồ
chức lại những cơ quan quản lý thuế trong nước. Nó được thừa nhận rộng rãi rằng cải cách
trong quản lý thuế là thích hợp hoặc là hầu như không thể thiếu cho quá trình cải cách hiệu
quả cấu trúc thuế tại bất kỳ nước nào.
Đất nước với sự nghèo nàn và thu nhập trung bình sẽ có mức phân phối lại thấp. Đất
nước mà thu nhập vượt quá mức thu nhập trung bình sẽ có mức phân phối lại cao, trong đó
trong nền kinh tế có thu nhập cao sẽ có mức phân phối lại cao nhất. Phân phối lại thu nhập
từ khu vực tư nhân cho chính phủ là một sự tăng thuế. Trong điều kiện chi tiêu chính phủ
tăng trong cơ cấu vốn (Bird và Oldman, 1990; Rena, 2011). Khi một nước cải tạo chính
sách tài khoá bằng cách giảm thuế, các mức thuế quan hoặc các rào cản thương mại cơ bản
khác, sẽ tiến tới hội nhập vào nên kinh tế thế giới. Một vài nước phát triển thì phụ thuộc
vào trợ giúp của nước ngoài cho phân nửa ngân sách của họ và vì thế hệ thống vốn trong
những nước này sẽ khó khăn. Một trong những lý do mà các nước này không thể vượt qua
trở ngại để mở rộng và đa dạng hóa xuất khẩu của họ đó là thuế quan cao và thất bại trong
việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và theo kịp những thay đổi trong cầu quốc tế. Do tác động
tiêu cực của thâm hụt tài chính không ổn định kéo dài trong các nền kinh tế mới nổi, hiện
có một sự đồng thuận giữa các bên liên quan về sự cần thiết để giải quyết các vấn đề một

cách hiệu quả (Seidman, 2003; Gordon và Li, 2005). Các tài liệu cho thấy ba cách tiếp cận
vấn đề này đó là: gia tăng thu nhập, giảm chi phí hoặc kết hợp cả hai. Chủ yếu là việc đánh
giá về qui trình ngân sách cho thấy vấn đề xuất kinh phí hàng năm luôn luôn dựa trên thu
nhập dự kiến, do đó độ chính xác của dự báo doanh thu là một điều kiện cần thiết cho việc
thiết kế một khuôn khổ phù hợp để quản lý thâm hụt ngân sách trong bất kỳ quốc gia nào.
TÁI CẤU TRÚC CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA KÍCH THÍCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ


16
Nó cũng cho thấy rằng việc giảm đáng kể trong chi tiêu công và quản lý thận trọng của các
nguồn lực tài chính là những giải pháp khả thi nhất đối với vấn đề thâm hụt ngân sách
không bền vững. (Ariyo, 1997).
Trong trường hợp Ghana, suốt thập niên 1990, tình hình tài khóa của chính phủ trung
ương đã cải thiện đáng kể. Các hoạt động kinh tế tiếp tục cải thiện ở Ghana trong nửa đầu
năm 2006, được hỗ trợ bởi thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô mạnh mẽ và một môi trường
thuận lợi cho bên ngoài. Kinh tế phát triển tương đối mạnh mẽ, lạm phát giảm, và vị thế
bên ngoài đã tăng đáng kể, cho phép dự trữ quốc tế cung cấp một trái đệm chống lại những
cú sốc. Thực hiện chương trình của Ghana trong chương trình hỗ trợ PRGF là thỏa đáng.
Thập niên 1990, thiếu hụt tài chính kể cả trợ cấp trung bình khoảng 9% GDP, nhưng nó đã
giảm đều đặn kể từ sau đó về khoảng 3,5% GDP năm 2004. Cải thiện này là phần nào do
tăng trường mạnh, nhưng các biện pháp thuế mới, nâng cao quản lý tổng thu nhập, và kỷ
luật chi tiêu tất cả đều đóng một vai trò trong đó (theo Thống đốc ngân hàng Ghana, 2001).
Tổng thu nhập thuế cao nhất khoảng 24% GDP, và điều này cho phép chi tiêu thường
xuyên tăng hơn 20% GDP. Theo đánh giá hiện tại, chính phủ đã đạt được mục tiêu trung
hạn được nêu trong chiến lược giảm nghèo của Ghana, giảm một nửa tỷ lệ nợ trong nước so
với GDP từ mức cuối năm 2002 đến cuối năm 2005 (khoảng 11,5% GDP) (IMF, 2006).
Chính sách tài khoá trong đường hướng năm 2006 để thực hiện các mục tiêu cắt giảm tỷ lệ
nợ trong nước so với GDP. Việc hợp nhất tài khoá đã xảy ra trong suốt chương trình hỗ trợ
PRGF đã làm giảm đáng kể chi trả lãi vay trong nước và cho phép quần chúng khu vực tư
nhân đầu tư thông qua lãi suất giảm liên tục, trong khi tăng chi tiêu cho các vấn đề liên

quan đến nghèo đói.
4.4. Yêu cầu quản lý nợ
Nghiên cứu này nhằm mục đích để thảo luận về mối quan tâm chung của việc quản lý
nợ trong và ngoài nước, và việc áp dụng thực hiện các khái niệm kiểm toán trong việc đánh
giá những tác động của các biện pháp cải cách. Chi phí của nợ đề xuất để đạt được những
mục tiêu này là để tạo ra một dữ liệu định lượng nhằm đo lường kết quả và mục tiêu phát
triển quốc gia. Nguyên nhân chính của các cuộc khủng hoảng nợ là nền kinh tế yếu kém, dự
báo doanh thu và chi tiêu, các chính sách thuế và chi tiêu không chính xác (Thống đốc ngân
TÁI CẤU TRÚC CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA KÍCH THÍCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ


17
hàng Ghana (2001; IMF, 2006). Cải cách quản lý nợ đã thực sự được đưa vào các chương
trình nghị sự của các nước đang phát triển và các tổ chức tài chính quốc tế trong nhiều năm,
với một số thành công trong việc loại bỏ các biến dạng kinh tế (Terkper, 1994). Tuy nhiên,
nhiều vấn đề vẫn chưa được giải quyết trong khi những thay đổi về cấu trúc, như phân cấp,
có thêm vấn đề mới trong bài toán nan giải tài chính công. Cắt giảm chi tiêu tập trung vào
các chương trình đầu tư và các dịch vụ xã hội không chỉ không bền vững mà còn có thể tạo
nên mối đe dọa cho tính hiệu quả của các chính sách công. Trong trường hợp của các
chương trình xã hội, điều này cũng có thể làm tổn hại đến khả năng của các chính phủ trong
việc thực hiện vai trò quản lý nợ (Fiszbein, 1997). Nhưng những gì chúng ta vẫn chưa làm
ở châu Phi theo bất kỳ cách bền vững nào là để đảm bảo rằng các dịch vụ tài chính cho các
chính phủ, các doanh nghiệp và hộ gia đình được thực hiện với chi phí hiệu quả nhất, được
xem xét điều chỉnh phù hợp. Phát triển tốt thị trường tài chính và vốn giúp giảm chi phí vay
vốn của khu vực tư nhân và khu vực công, thực hiện chiến lược vay ngắn hạn với chi phí
hiệu quả và dễ dàng hơn để tài trợ trong dài hạn. Điều này có một ý nghĩa đặc biệt trong
việc xác định các vấn đề quan trọng và khó khăn của việc quản lý tài nguyên và đưa ra các
khuyến nghị để cải thiện. Do thiếu số lượng nhân viên có trình độ, thiếu tính nhất quán
trong vấn đề chính sách, thiếu quy trình lập kế hoạch quản lý nợ chính thức và sự quan tâm
chưa đầy đủ của các cấp có thẩm quyền là thách thức cơ bản bên ngoài (IMF, 2006). Sự

chậm trễ trong việc cung cấp thông tin tài chính và không sẵn sàng để cung cấp các báo cáo
thành quả đã gây ra khó khăn để đánh giá hiệu suất của quản lý nợ.
4.5. Chính sách tài khóa phân cấp
Phân cấp tài khóa là chiến lược được nhiều nước nỗ lực thực hiện để khuyến khích
phát triển kinh tế bên ngoài các khu vực đô thị lớn. Mục tiêu chính của phân cấp tài khóa là
đưa chính phủ đến gần hơn với mọi người, và điều này đòi hỏi sự vững mạnh về tài chính
của chính quyền địa phương. Chính sách này sẽ cung cấp cho chính quyền địa phương một
số quyền hạn về thuế, chịu trách nhiệm về chi phí, và cho phép họ quyết định mức và cơ
cấu ngân sách chi tiêu của họ. Bằng cách này, những người ở cấp quản lí thấp nhất sẽ có
thể lựa chọn loại chính quyền mà họ muốn, và sẽ tích cực tham gia quản trị. Kết quả cuối
cùng là dịch vụ của chính quyền địa phương sẽ tốt hơn và cử tri sẽ hài lòng hơn. Phân cấp
TÁI CẤU TRÚC CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA KÍCH THÍCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ


18
tài khóa đòi hỏi chính quyền địa phương với một số quyền tự chủ phải đưa ra quyết định tài
chính độc lập (Fiszbein, 1997). Phân cấp tài khóa cũng được định nghĩa là một sự chuyển
giao trách nhiệm, nguồn lực và trách nhiệm giải trình cho cộng đồng địa phương, nâng cao
mức độ tham gia quản lý của công dân. Khi chính quyền địa phương đã có thể đưa ra quyết
định sáng tạo, tác động tích cực của nó trên vốn chủ sở hữu là một trong những hiệu ứng
đáng chú ý của việc phân cấp cho mỗi chi phí vốn. Mô hình tương tự của phân cấp được
quan sát trong phần thứ hai của nghiên cứu bao gồm Philippines, Ghana, Uganda và
Zambia. Chính quyền ở Philippines có thẩm quyền quyết định cao nhất, một phần do năng
lực thể chế của đất nước cũng như hình thức phân cấp. Quan trọng nhất là đầy đủ nguồn
nhân lực để thực hiện quyền hạn được phân cấp và đầy đủ tất cả các năng lực mà chính
quyền địa phương yêu cầu, đặc biệt về các khía cạnh kỹ thuật của các chức năng phân cấp
và nâng cao doanh thu. Việc chuyển giao nhân lực có kỹ năng giữa các trung tâm cho chính
quyền địa phương (LGS) dẫn đến xung đột quyền lợi của các nhân viên này giữa các trung
tâm, nơi họ đã được triển khai và nơi tất cả các quyết định nhân sự được thực hiện và các
địa phương nơi họ phục vụ. (Fiszbein and Campbell, 1997).

V. THẢO LUẬN VÀ KẾT LUẬN
Các phân tích đã phần nào chỉ ra hiệu quả của quản lý thuế và chính sách tài khóa ở
các nước đang phát triển. Nhìn chung, các kết quả đã phản ánh các tác động của độ trễ do
hành chính và sai sót trong việc thực hiện các chính sách tài khóa và thuế. Do tác động tiêu
cực của thâm hụt tài chính không bền vững lâu dài ở các nước đang phát triển ở châu Phi,
cho nên hiện nay có một sự đồng thuận giữa các bên liên quan về sự cần thiết để giải quyết
các vấn đề một cách hiệu quả. Các nghiên cứu chỉ ra ba cách tiếp cận mục tiêu này là: gia
tăng doanh thu, giảm chi phí hoặc kết hợp cả hai. Việc đánh giá quy trình ngân sách ở phần
lớn các quốc gia cho thấy rằng đề xuất chi tiêu hàng năm luôn cao hơn trên doanh thu dự
kiến, do đó độ chính xác của dự báo doanh thu là điều kiện cần thiết cho việc xây dựng một
khuôn khổ phù hợp để quản lý thâm hụt ngân sách. Trong mỗi cách, môi trường chính trị,
kinh tế và xã hội sẽ định hình thể chế khu vực công, bao gồm các chính phủ, cơ quan lập
pháp, tư pháp, ngành dân chính và một loạt các tổ chức bán chính phủ. Nhìn chung có hai
yếu tố bên ngoài có liên quan đến vấn đề này. Thứ nhất, một số yếu tố như điều kiện tài
TÁI CẤU TRÚC CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA KÍCH THÍCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ


19
chính, kinh tế sẽ xác định tính khả thi của các lựa chọn bằng cách phân định mức độ tổng
thể của “nguồn cung cấp vốn”. Thứ hai, các yếu tố khác hạn chế hoặc khuyến khích các nhà
cung cấp dịch vụ sử dụng các nguồn lực sẵn có hiệu quả nhất. Chúng bao gồm các hệ thống
chính trị, các khuôn khổ hành chính và pháp lý, bản chất của xã hội dân sự, và bản chất của
sự tương tác khu vực tư nhân. Việc đánh thuế tài sản và thu nhập cá nhân trong những
trường hợp này vẫn còn là một thách thức. Nếu thực hiện được, thuế tài sản và thu nhập cá
nhân là một trong những cách mà qua đó có thể thực hiện được việc phân phối lại thu nhập.
Phát triển kinh tế và ổn định chính trị ở Châu Phi rất quan trọng đối với cả người dân
ở Châu Phi và các quốc gia khác trên thế giới. Sự thành công của việc này chủ yếu phụ
thuộc vào việc chính nhân dân châu Phi xây dựng được một nền kinh tế, luật pháp, chính trị
và các chính sách phù hợp. Quyền tự chủ về doanh thu trong các trường hợp là yếu tố quan
trọng của cải cách hành chính và phải được thực hiện ở tất cả các nước trong nghiên

cứu.Tuy nhiên, nâng cao hiệu quả khu vực công cộng, khả năng quản lý tài chính và giám
sát ngân sách có thể đóng một vai trò quan trọng trong các nền kinh tế. Khi ưu tiên thực
hiện doanh thu, việc thực hiện thuế hoặc các biện pháp tài chính phải được xem là cốt lõi
của chính sách tài khóa. Các nước đang phát triển đã ngày càng phát triển để nhận được
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để tạo ra một cơ sở hạ tầng quan trọng, nhưng liệu
rằng các nước này sẽ có khả năng quản lý và ứng phó với biến động kinh tế quốc tế hay
không. Chúng tôi đồng ý với nguyên tắc rằng chính sách tiền tệ là công cụ chính để ổn định
kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, chính sách tài khóa có khả năng đóng một vai trò ổn định trong
thời kỳ suy thoái nghiêm trọng và khi lạm phát là rất thấp. Thiếu hụt tài chính và công khai
hoạt động của các doanh nghiệp đặt ra các yêu cầu vay vốn của chính phủ, và áp đặt một
gánh nặng tài chính và kinh tế với cả nền kinh tế. Trong khi đó giải quyết các nghĩa vụ
thanh toán một cách kịp thời, nâng cao thu nhập đầy đủ và giám sát các chính sách ngân
sách có thể giúp ngăn chặn được những tổn thất tài chính. Nói chung, không có khả năng
nâng cao doanh thu thỏa đáng, do đó làm cho không thể đạt được trạng thái cân bằng. Cải
thiện hệ thống thuế, lao động và thu nhập vốn, thuế nhập khẩu và các loại thuế ở nước
ngoài khác, cũng sẽ đóng một vai trò tiềm tàng trong việc phát triển kinh tế Châu Phi.

×