Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Tiểu luận môn Quản trị ngân hàng VẤN ĐỀ SỞ HỮU CHÉO TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.9 KB, 33 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
TP.HCM
KHOA TÀI CHÍNH DOANH
NGHIỆP

8/2013
ĐỀ TÀI:
[ VẤN ĐỀ SỞ HỮU CHÉO
TẠI VIỆT NAM ]
Nhóm thực hiện:
1. Nghiêm Phúc Hiếu
2. Nguyễn Thị Thu Hà
3. Tôn Thất Khánh
Hoàng
4. Lê Thị Hữu
5. Đặng Phương Thảo
6. Lê Thị Tố Quyên
7. Huỳnh Than Hùng
8. Lương Thị Ngọc Mai
9. Hoàng Thị Thủy Tiên
10. Hồ Thu Hoài
11. Trịnh Thị Hoạt
GVHD: PGS.TS
Trương Quang
Thông
Môn: Quản trị Ngân hàng
Môn: Quản trị Ngân hàng

MỤC LỤC
MỤC LỤC 2


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ QUY ĐỊNH BẢO ĐẢM AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
CỦA TỐ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM 5
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ SỞ HỮU CHÉO TẠI VIỆT NAM 9
2.2 Phân loại sở hữu chéo trên thế giới 9
2.3.2 Các nhân tố thúc đẩy việc sở hữu chéo trong hệ thống NHTM ở Việt Nam 10
2.3.3 Tác động của sở hữu chéo đến hệ thống ngân hàng ở Việt Nam 14
2.3.4 Thực trạng sở hữu chéo ở Việt Nam 20
KẾT LUẬN 30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 31
DANH MỤC VIẾT TẮT
Số TT Tên viết tắt Tên đầy đủ
1 TCTD Tổ chức tín dụng

2 NHNN Ngân hàng nhà nước
3 NHTM Ngân hàng thương mại
4 WTO Tổ chức thương mại thế giới
5 NHTMNN Ngân hàng thương mại nhà nước
6 NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
7 DNNN Doanh nghiệp nhà nước
8 NH Ngân hàng
9 HĐQT Hội đồng quản trị
10 M&A Mua bán sát nhập
LỜI MỞ ĐẦU
***

Giai đoạn 2006-2012 chứng kiến sự tăng trưởng mang tính bùng nổ của hệ thống ngân
hàng Việt Nam về cả số lượng và vốn. Cùng với sự tăng trưởng là việc gia tăng sở hữu chéo
trong ngành ngân hàng với việc hàng loạt các ngân hàng thương mại nhà nước lẫn cổ phần,
doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp phi nhà nước tham gia sở hữu các ngân hàng. Trục
trặc của hệ thống ngân hàng liên tục phát sinh, bộc lộ với việc các ngân hàng thương mại

dùng sở hữu chéo để luồn lách, không tuân thủ các quy định bảo đảm an toàn hoạt động.
Số liệu thống kê và các tình huống cho thấy chỉ trong một thời gian ngắn (2006-2012) sở
hữu chéo đã hình thành rất phức tạp trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Thứ nhất, các tổng
công ty, tập đoàn nhà nước, tư nhân có sở hữu ngân hàng. Thứ hai, các ngân hàng thương
mại nhà nước và cổ phần cũng sở hữu các ngân hàng. Tác động tiêu cực của sở hữu chéo đã
được chỉ ra từ việc phân tích các số liệu thống kê và các nghiên cứu tình huống.
Báo cáo tập trung phân tích thực trạng sở hữu chéo tại Việt Nam, các quy định đảm bảo
an toàn, các yếu tố thúc đẩy cũng như các tác động hai mặt của sở hữu chéo đến hệ thống
ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung, để từ đó rút ra những biện pháp nhằm
hạn chế và ngăn chặn kịp thời vấn đề khá nhạy cảm của kinh tế Việt Nam này trong ngắn và
dài hạn.
Chúng tôi xin chân thành cám ơn PGS.TS Trương Quang Thông đã giúp đỡ chúng em
tận tình khi thực hiện đề tài này.

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ QUY ĐỊNH BẢO ĐẢM AN TOÀN TRONG
HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG CỦA TỐ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT
NAM
1.1 Quy định về vốn điều lệ của tổ chức tín dụng :
Vốn điều lệ là nguồn vốn ban đầu ngân hàng có được khi mới họat động và được ghi vào
bản điều lệ hoạt động của ngân hàng. Theo quy định của pháp luật, một tổ chức tín dụng
(TCTD) chỉ được phép hoạt động khi vốn điều lệ thực tế lớn hơn vốn điều lệ tối thiểu (vốn
pháp định). Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 của Chính phủ quy định đối
với các TCTD thì mức vốn pháp định áp dụng cho đến 31/12/2010 là 3.000 tỷ đồng; chi
nhánh ngân hàng nước ngoài là 15 triệu USD; với ngân hàng chính sách, ngân hàng phát
triển là 5.000 tỷ đồng; ngân hàng đầu tư, ngân hàng hợp tác và quỹ tín dụng nhân dân Trung
ương là 3.000 tỷ đồng; với công ty tài chính là 500 tỷ đồng; công ty cho thuê tài chính là
150 tỷ đồng. Mục đích của nghị định trên là sàng lọc lại hệ thống ngân hàng, chỉ có những
cá thể mạnh mới tồn tại.
1.2 Quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR)
Hệ số an toàn vốn (Vốn tự có / Tổng tài sản “có” rủi ro quy đổi - Capital Adequacy Ratio

- CAR) là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh năng lực tài chính của các ngân hàng. Chỉ tiêu
này được dùng để xác định khả năng của ngân hàng trong việc thanh toán các khoản nợ có
thời hạn và đối mặt với các rủi ro khác như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản…
Theo Điều 4 của Thông tư 13 có hiệu lực từ ngày 1/10/2010, quy định: TCTD trừ chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% giữa vốn tự có so
với tổng tài sản "Có" rủi ro của TCTD. Ngoài việc duy trì tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ theo quy
định nói trên, TCTD phải đồng thời duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% trên cơ sở hợp
nhất vốn, tài sản của TCTD và công ty trực thuộc.

Như vậy, tỷ lệ an toàn vốn đã được nâng lên 9% thay cho mức 8% như quy định trước
đó. Theo NHNN, việc điều chỉnh này phù hợp với thực tế hiện nay, khi nhiều NHTM hoạt
động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, và nhằm tiến thêm một bước trong việc tuân
thủ 25 nguyên tắc thanh tra cơ bản của Ủy ban Basel.
1.3 Quy định về giới hạn tín dụng
Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN yêu cầu các TCTD (trừ chi nhánh ngân hàng nước
ngoài) phải xây dựng chính sách nội bộ về các tiêu chí xác định một khách hàng và “nhóm
khách hàng liên quan” và các giới hạn tín dụng áp dụng cho từng loại đối tượng này. Tiêu
chí chung để xác định “nhóm khách hàng có liên quan” được xác lập trên cơ sở quan hệ sở
hữu (ví dụ: một khách hàng cá nhân sở hữu tối thiểu 25% hoặc một khách hàng pháp nhân
sở hữu tối thiểu 50% vốn điều lệ của một khách hàng pháp nhân khác), quan hệ quản trị,
điều hành (ví dụ: một khách hàng cá nhân giữ chức danh chủ tịch hội đồng quản trị, tổng
giám đốc trong một khách hàng pháp nhân khác), hoặc quan hệ thành viên (ví dụ: một công
ty hợp danh và thành viên hợp danh của công ty đó cùng là khách hàng của một ngân hàng)
giữa hai hay nhiều khách hàng có quan hệ tín dụng với TCTD. Chắc chắn là các TCTD sẽ
gặp không ít khó khăn trong việc tuân thủ giới hạn tín dụng áp dụng cho nhóm khách hàng
có liên quan. Các ngân hàng sẽ phải cập nhật các thông tin liên quan đến không chỉ khách
hàng mà cả các khách hàng "có liên quan” của khách hàng đó và bổ sung các thông tin này
khi có thay đổi; với lượng khách hàng ngày càng lớn thì các hệ thống quản lý dữ liệu khách
hàng trong toàn hệ thống ngân hàng hiện nay chưa sẵn sàng để đáp ứng yêu cầu này. Ngoài
ra, việc quản lý thông tin giữa các chi nhánh khác nhau nằm trong cùng một ngân hàng cũng

không hề đơn giản đặc biệt khi không phải ngân hàng nào cũng có một hệ thống mạng máy
tính được kết nối hoàn chỉnh trên phạm vi toàn quốc.
Các giới hạn về tín dụng áp dụng đối với khách hàng có thể tóm tắt như sau:
 Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có; đối với
một nhóm khách hàng có liên quan không được vượt quá 50% vốn tự có.

 Tổng mức cho vay và bảo lãnh đối với một khách hàng không được vượt quá 25%
vốn tự có; đối với một nhóm khách hàng có liên quan không được vượt quá 60% vốn tự có.
TCTD không được cấp tín dụng không có bảo đảm, cấp tín dụng với những điều kiện ưu
đãi cho các doanh nghiệp mà TCTD nắm quyền kiểm soát; không được cấp tín dụng cho
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán mà TCTD nắm quyền kiểm
soát, không được cho vay không bảo đảm đối với các khoản vay nhằm đầu tư chứng
khoán
1.4 Quy định về góp vốn, mua cổ phần
Góp vốn, mua cổ phần là việc TCTD dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn cấu
thành vốn điều lệ, mua cổ phần của các doanh nghiệp, TCTD khác, cấp vốn điều lệ cho các
công ty trực thuộc của TCTD; góp vốn vào quỹ đầu tư, góp vốn thực hiện dự án đầu tư; bao
gồm cả việc ủy thác vốn cho các pháp nhân, tổ chức, doanh nghiệp khác thực hiện đầu tư
theo các hình thức nêu trên.
Điều 129 Luật TCTD 2010 quy định TCTD chỉ được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để
góp vốn, mua cổ phần vào doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư, TCTD khác… Mức góp
vốn, mua cổ phần trong một doanh nghiệp, quỹ đầu tư, TCTD khác không vượt quá 11%
vốn điều lệ của doanh nghiệp, quỹ đầu tư, TCTD đó và tổng mức góp vốn, mua cổ phần của
TCTD trong tất cả doanh nghiệp, quỹ đầu tư, TCTD khác không vượt quá 40% vốn điều lệ
và quỹ dự trữ của TCTD.
Ngoài ra Luật TCTD 2010 cũng có quy định cấm TCTD góp vốn, mua cổ phần của các
doanh nghiệp, TCTD khác là cổ đông, thành viên góp vốn của chính TCTD (cấm sở hữu
chéo).
1.5 Tỷ lệ về khả năng chi trả
TCTD phải thường xuyên đảm bảo tỷ lệ về khả năng chi trả như sau:


 Tỷ lệ tối thiểu 25% giữa giá trị các tài sản “Có” có thể thanh toán ngay (tại mọi thời
điểm) và các tài sản “Nợ” sẽ đến hạn thanh toán trong thời gian 1 tháng tiếp theo.
 Tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản “Có” có thể thanh toán ngay trong khoảng
thời gian 7 ngày làm việc tiếp theo và tổng tài sản “Nợ” phải thanh toán trong khoảng thời
gian 7 ngày làm việc tiếp theo.
Trên đây là một số quy định NHNN ban hành nhằm giám sát tốt hơn hoạt động của các
TCTD. Về mặt lý thuyết, nếu các TCTD tuân thủ các quy định này thì sẽ đảm bảo an toàn
cho hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên để thực hiện đúng, đầy đủ những
quy định này thì các TCTD sẽ tốn kém một số chi phí nhất định. Và sở hữu chéo được xem
như là một cơ chế được các TCTD sử dụng để có thể đáp ứng các quy định của pháp luật
mà còn tiết kiệm chi phí.

CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ SỞ HỮU CHÉO TẠI VIỆT NAM
2.1 Khái niệm, lịch sử ra đời
Sở hữu chéo có nguồn gốc từ thuật ngữ Cross-ownership hay Cross-holding trong luật
Anglo-American, luật Wechseloeitigo Beteiliguo của Đức và bộ luật mới của Pháp. Chúng
ta cũng có thể gọi nó là “đầu tư tương hỗ” hay “tham gia góp vốn tương hỗ”. Sở hữu chéo
chủ yếu nhắc tới hiện tượng mà các công ty khác nhau sở hữu cỗ phần lẫn nhau tùy theo
mục đích cụ thể. A. Alberto Onetti và Alessia Pisoni (2009) định nghĩa sở hữu chéo ở Đức
là việc các công ty, thuộc lĩnh vực công nghiệp và tài chính, nắm giữ lâu dài cổ phần của
nhau. Theo Scher (2001), sở hữu chéo ở Nhật Bản thường được hiểu là việc hai hoặc nhiều
công ty nắm giữ cổ phần của nhau. Chúng ta có thể hiểu theo hai khía cạnh sau. Thứ nhất,
sở hữu chéo giống như một dạng chiến lược cho quá trình phát triển của công ty. Mục đích
này có tác động tiêu cực đối với các công ty khác, nhưng nó cũng có những kết quả đôi bên
cùng có lợi. Thứ hai, công ty theo một cách nào đó để đạt được mục đích, bằng cách nắm
giữ cổ phần lẫn nhau theo dạng đầu tư tương hỗ.
2.2 Phân loại sở hữu chéo trên thế giới
Tùy vào bối cảnh, sở hữu chéo rất đa dạng khi kết hợp mọi thành phần tham gia kinh tế:
ngân hàng - doanh nghiệp sản xuất - công ty bảo hiểm - các quỹ đầu tư Nhưng trong nhiều

mối quan hệ chằng chịt đó, mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp lại là đặc biệt hơn
cả. Căn cứ vào mối quan hệ giữa các công ty hay không mà sở hữu chéo được phân thành
hai loại: theo chiều dọc và theo chiều ngang. Loại đầu tiên chủ yếu liên quan tới cổ phẩn
của các công ty có mối quan hệ công ty mẹ - công ty con nắm giữ lẫn nhau và loại thứ hai
liên quan tới số lượng cổ phần các công ty nắm giữ lẫn nhau nhưng không có mối quan hệ
công ty mẹ - công ty con giữa các công ty. Nếu căn cứ theo các đặc điểm về cấu trúc của sở
hữu chéo, thì sở hữu chéo được hai thành 2 loại và 5 dạng cụ thể. Thứ nhất, sở hữu chéo
loại trực tiếp là cổ phẩn của nhiều công ty nắm giữ trực tiếp lẫn nhau, đây là loại sở hữu
chéo cơ bản nhất, và nó được gọi là sở hữu chéo thuần nhất. Thứ hai, loại sở hữu chéo phức

tạp, nguồn gốc dựa trên sở hữu chéo trực tiếp, và có thể chia thành bốn dạng cụ thể như
sau: dạng tuyến tính, dạng hình chuông, dạng bức xạ, dạng mắt lưới. Trong thực tế, việc xác
định loại sở hữu chéo không thật sự cần thiết giữa một trong năm dạng, và nó có thể pha
trộn giữa các loại, tạo thành những hình thức phức tạp hơn, ở Việt Nam thì phân loại theo
những hình thức khác.
2.3 Vấn đề sở hữu chéo ở Việt Nam
2.3.1 Phân loại sở hữu chéo ở Việt Nam
Theo nguồn Báo cáo Kinh tế vĩ mô 2012 của Ủy ban Kinh tế Quốc hội: có thể chia sở
hữu chéo trong ngân hàng thành 6 nhóm:
• Sở hữu của các NHTM nhà nước và NHTM nước ngoài tại các Ngân hàng liên
doanh: LaoVietBank, BIDC, VRB,…
• Cổ đông chiến lược nước ngoài tại các NHTM: Ngân hàng Tokyo Mitsubishi UBJ –
Vietinbank, Ngân hàng Mizuho – Vietinbank,…
• Cổ đông tại các NHTM là các Công ty quản lý quỹ.
• Sở hữu của NHTM nhà nước tại các NHTM cổ phần.
• Sở hữu lẫn nhau giữa các NHTM cổ phần.
• Sở hữu NHTM cổ phần bởi các tập đoàn, tổng Công ty Nhà nước và tư nhân.
Trong các mối quan hệ chồng chéo trên, điều đáng bàn nhất vẫn là mối quan hệ thuộc về
ba nhóm sau gồm: mối quan hệ giữa ngân hàng thương mại nhà nước – ngân hàng thương
mại cổ phần – các tập đoàn, tổng công ty nhà nước lẫn tư nhân.

2.3.2 Các nhân tố thúc đẩy việc sở hữu chéo trong hệ thống NHTM ở Việt Nam
Sở hữu chéo xuất phát từ yêu cầu có thực của đời sống kinh tế - xã hội và dưới sự thúc
đẩy của một vài nhân tố.
• Nhân tố thứ nhất: Những lỗ hổng trong luật quản lý ban hành và sự giám sát
lỏng lẻo của cơ quan có thẩm quyền.

Chính sách quản lý và hệ thống thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng chưa có hiệu quả
và hiệu lực cao trong bối cảnh các TCTD phát triển nhanh về số lượng và quy mô, đồng thời
hội nhập quốc tế sâu rộng. Nhiều quy định, chuẩn mực về an toàn hoạt động ngân hàng đã
được đổi mới theo hướng tiếp cận các chuẩn mực quốc tế, tuy nhiên vẫn còn rất chậm so với
các hệ thống ngân hàng trong khu vực và tụt hậu so với sự tiến bộ của các chuẩn mực quốc
tế. Riêng phần giám sát và hành pháp thì còn rất sơ sài và vì vậy đã có những lỗ hổng lớn.
- Sở dĩ Luật các tổ chức tín dụng và thông tư quy định giảm tỷ lệ sở hữu cá nhân và tổ
chức xuống là nhằm làm cho ngân hàng có tính đại chúng hơn. Ngoài ra, các nhà quản lý lo
ngại sự mất an toàn của hệ thống do tình trạng sở hữu chéo hoặc khi một cá nhân hoặc tổ
chức sở hữu tỷ lệ lớn có thể lũng đoạn ngân hàng. Tuy nhiên, luật vẫn còn những lỗ hổng
chưa chắt chẽ, vì những người muốn sở hữu tỷ lệ lớn hơn quy định không khó. Người chủ
sở hữu thực sự có thể không cần đứng tên mà vẫn chi phối ngân hàng thông qua một người
thứ ba.
- Điều 118 của Luật Doanh nghiệp quy định, các đối tượng là thành viên HĐQT, ban
kiểm soát, ban tổng giám đốc và những người có liên quan (người thân) phải công bố về tỷ
lệ sở hữu của mình và người có liên quan ở các tổ chức khác, dù tỷ lệ sở hữu cổ phần lớn
hay nhỏ; đồng thời phải công bố lợi ích có liên quan. Ngoài ra, để chống chuyển giá, Luật
Thuế yêu cầu doanh nghiệp phải tự công bố tất cả lợi ích thuế có liên quan đến ban tổng
giám đốc doanh nghiệp đó. Như vậy, có những quy định pháp lý rất cụ thể để cổ đông, nhà
đầu tư và thị trường có thể giám sát được vấn đề sở hữu chéo và các lợi ích liên quan đến sở
hữu chéo. Tuy nhiên, thực tế trong thời gian qua trên thị trường không có doanh nghiệp hay
cá nhân nào công bố những thông tin này và cũng không có ai giám sát để xử phạt vi phạm
trong lĩnh vực này.
- Luật các tổ chức tín dụng hiện hành có quy định về giới hạn tỉ lệ sở hữu cổ phần: một

cổ đông cá nhân không được sở hữu vượt quá 5% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng; một
cổ đông là tổ chức không được sở hữu vượt quá 15% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng,
trừ một số trường hợp đặc biệt; cổ đông và những người liên quan của cổ đông đó không

được sở hữu vượt quá 20% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng. Nhưng trên thực tế việc
giám sát quy định về giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần vẫn bị buông lỏng dẫn đến những kẻ lợi
dụng vốn ảo thâu tóm ngân hàng.
Bên cạnh những lỗ hổng về luật quản lý là sự mập mờ về thông tin sở hữu trên sổ sách
của ngân hàng, việc tìm thông tin về các tổ chức tín dụng mua cổ phần của các tổ chức tín
dụng khác là điều hết sức khó. Rất ít ngân hàng công khai tỷ lệ đầu tư vào các tổ chức tín
dụng khác. Những trường hợp công bố chính thức như Vietcombank, Vietinbank không
nhiều. Không những vậy, những con số cũng có thể chưa phản ánh hết thực tế việc sở hữu
giữa các ngân hàng.
- Văn bản qui định của Chính phủ, cơ quan quan lý, NHNN về yêu cầu tăng vốn điều
lệ tối thiểu đối với các ngân hàng thương mại cổ phần, các ngân hàng đã phải chạy đua
nhằm đáp ứng được yêu cầu về vốn tối thiểu theo luật định là 1.000 tỷ và 3.000 tỷ tương
ứng vào năm 2008 và 2010 (theo Nghị định 141-CP/2006 và Thông tư 13/2010-TT/NHNN
liên quan đến tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu).
- Theo Quyết định 13/2008/QĐ-NHNN về mạng lưới hoạt động của ngân hàng thương
mại (NHTM), các ngân hàng phải đảm bảo vốn điều lệ đạt mức trên 100 tỷ đồng/chi nhánh
nếu chi nhánh được mở tại TP. HCM và Hà Nội, trên mức 50 tỷ đồng/chi nhánh nếu chi
nhánh được mở tại các địa phương khác
Vào thời điểm Việt Nam được chấp thuận gia nhập WTO vào năm 2007, khi đó các cơ
quan quản lý nhà nước và ngành Ngân hàng dự đoán: sẽ có một cuộc xâm nhập của các
ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam khi Việt Nam mở cửa ngành Ngân hàng vào năm
2011, vì thế các ngân hàng thương mại trong nước đã có cuộc đua tăng vốn điều lệ/vốn chủ
sở hữu nhiều hơn nữa nhằm đảm bảo năng lực tài chính, giữ thị phần trước sự cạnh tranh
của các ngân hàng nước ngoài thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Yêu cầu tăng vốn đối
với các ngân hàng Việt Nam chủ yếu xuất phát từ quy mô về tài sản và vốn chủ sở hữu của
các ngân hàng Việt Nam là quá nhỏ so với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới.

Điều này dẫn đến cuộc đua tăng vốn điều lệ trong hệ thống ngân hàng Việt Nam và kéo theo

đó là cuộc đua lãi suất giữa các ngân hàng nhỏ khát vốn. Trong khi nhóm các ngân hàng lớn
đã gia tăng vốn điều lệ nhanh chóng để tăng năng lực tài chính và chiếm lĩnh thị phần, đặc
biệt là tăng trưởng nóng về tín dụng và giành thị phần huy động vốn thì các ngân hàng
nhỏ phải tìm mọi cách để tăng vốn của mình không bằng chính thực lực của mình mà thực
hiện thông qua luân chuyển vốn lòng vòng, phát hành cổ phần, dẫn đến tình trạng sở hữu
chồng chéo, thâu tóm ngân hàng của một số nhóm cổ đông, tập đoàn, công ty. Thêm nữa là
việc các ngân hàng thương mại nông thôn được chuyển đổi thành các ngân hàng thương
mại cổ phần đô thị, và khuyến nghị của các nhà kinh tế cũng như của các cơ quan quản lý
nhà nước về sáp nhập các ngân hàng nhỏ để tạo ra những ngân hàng lớn hơn đã không được
thực hiện vào thời gian đó. Cùng với đó, các ngân hàng phải mở rộng các chi nhánh, phòng
giao dịch nhằm tăng nhanh nguồn vốn huy động, tăng nhanh cho vay để đảm bảo hiệu quả
hoạt động
Điều kiện tăng vốn thiếu chặt chẽ tạo điều kiện cho hiện tượng sở hữu chéo, góp vốn lẫn
nhau giữa các ngân hàng; giữa ngân hàng với các định chế tài chính phi ngân hàng; giữa
ngân hàng với các doanh nghiệp diễn ra khá phổ biến. Việc cho phép một ngân hàng mua cổ
phiếu ngân hàng khác, các cổ đông được sở hữu cổ phiếu nhiều ngân hàng khác nhau là cần
thiết; nhưng cũng cần thiết phải bổ sung các quy định giới hạn nghiêm ngặt hơn về mức sở
hữu cổ phần và quyền tham gia lãnh đạo của mỗi cá nhân, kiên quyết chấm dứt tình trạng
tồn tại những ngân hàng chỉ do một, hai cổ đông hoặc một nhóm cổ đông chi phối
• Nhân tố thứ hai: Lợi ích nhóm.
Các nhà quản lý nắm trong tay quyền lực kinh tế chính trị phân vùng kinh doanh với
nhau và chi phối các tập đoàn kinh tế nhà nước. Các tập đoàn đó có thể lập ra ngân hàng
thương mại cổ phần với danh hiệu là tư nhân mà về thực chất thì do một tay chân thân tín
của lãnh tụ đứng làm chủ. Các cá nhân làm chủ ngân hàng này mới lại lập thêm các công ty
đầu tư hay cơ sở tài chính để đứng tên vay tiền của ngân hàng mẹ. Bước kế tiếp, công ty đầu
tư hay cơ sở tài chính mới đi tìm các dự án tài trợ thật ra có sẵn trên giấy. Đây là loại dự án
ảo về chế biến, thương mại hay bất động sản với trị giá được ước tính rất cao để vay tiền


thật nhiều mà giá trị kinh tế hay kinh doanh thì rất đáng ngờ. Để rồi, cuối cùng những khoản
tiền đầu tư ấy lại quay trở lại túi của những cá nhân nắm quyền lực kinh tế chính trị này.
• Nhân tố thứ ba: Quy mô phát triển
Ngân hàng trong những năm qua là ngành có tốc độ phát triển nhanh đã thu hút các nhà
đầu tư trong nước và ngoài nước đầu tư vốn kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng. Đặc biệt,
nhiều tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước đầu tư, nắm giữ cổ phiếu và là cổ đông lớn
hoặc chủ sở hữu của ngân hàng và TCTD phi ngân hàng.
2.3.3 Tác động của sở hữu chéo đến hệ thống ngân hàng ở Việt Nam
Sở hữu chéo luôn có tác động hai chiều đối với nền kinh tế và với bản thân mỗi chủ thể
tập đoàn, ngân hàng và doanh nghiệp tham gia hình thức sở hữu loại này. Theo Tiến sĩ Võ
Trí Thành - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương cho biết: “Nếu
sở hữu trong một chừng mực nhất định nào đó, nếu năng lực tài chính và quản trị của doanh
nghiệp tốt thì sở hữu chéo có thể tạo ra những lợi thế nhất định trong kinh doanh. Ví dụ như
lợi thế quy mô, lợi thế kiểm soát chuỗi giá trị”. Tuy nhiên đối với hệ thống ngân hàng Việt
Nam hiện nay tình trạng chằng chịt trong sở hữu chéo giữa các ngân hàng như được đề cập
ở trên đang tiềm ẩn những rủi ro khó lường, đặc biệt là căng thẳng nợ xấu có thể gây ra sự
chệch hướng trong quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Như vậy sở hữu chéo bao gồm
cả những tác động tích cực và tiêu cực, nhưng dường như ở Việt Nam những tác động tiêu
cực lại thể hiện rõ rệt hơn.
2.3.3.1 Tác động tích cực: Sở hữu chéo ở một mức độ nhất định sẽ mang lại lợi ích
cho các chủ thể.
• Sở hữu chéo sẽ hỗ trợ nguồn vốn cho hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh, tạo
điều kiện trao đổi kinh nghiệm, nguồn nhân lực, tài chính, công nghệ giữa các đối tác:
Sở hữu chéo hình thành nên một cơ cấu sở hữu và quản trị ổn định trong các doanh nghiệp,
ngân hàng sẽ giúp các chủ thể tận dụng được nguồn vốn của các đối tác, mở rộng quy mô
sản xuất; tận dụng cơ hội kinh doanh trên thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh cho các

bên tham gia; hình thành danh mục đầu tư tối ưu, tăng lợi nhuận và phân tán rủi ro trong
hoạt động, góp nâng cao hiệu quả quản trị tài chính nói riêng và quản trị kinh doanh nói
chung.

• Giúp các ngân hàng tăng vốn đáp ứng theo yêu cầu của Chính phủ: Theo nghị
định 141/2006/NĐ-CP các NHTM hoạt động trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, phải đáp
ứng yêu cầu tăng vốn đạt 1000 tỷ đồng năm 2008 và 3000 tỷ đồng vào năm 2010. Trong
một thời gian ngắn việc phải huy động số vốn lớn là không dễ dàng đối với các NHTM. Sở
hữu chéo giúp các Ngân hàng giải quyết nhu cầu tăng vốn, đối phó với quy định của Chính
phủ một cách nhanh chóng và đơn giản. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân
gia tăng tình trạng sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.
• Sở hữu chéo giúp các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận nguồn vốn từ các ngân
hàng: Một lợi ích nữa phải kể tới đó là việc sở hữu chéo giữa các ngân hàng và tập đoàn,
tổng công ty sẽ tạo điều kiện để cho các doanh nghiệp, công ty con của những tập đoàn sở
hữu các ngân hàng này có thể dễ dàng vay được vốn từ ngân hàng kia khi mà cả hai ngân
hàng cùng thuộc sở hữu của một chủ thể.
 Dẫn chứng thực tế: Tập đoàn Masan và Techcombank
Mối quan hệ này dựa trên cả 2 con đường: sở hữu cổ phần và những người điều hành
nằm trong hội đồng quản trị lẫn nhau. Chẳng hạn, Masan sở hữu 19,71% vốn điều lệ của
Techcombank. Đồng thời, nếu như ở Masan, ông Nguyễn Đăng Quang và Hồ Hùng Anh lần
lượt giữ vị trí Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị thì ở Techcombank, vị trí này đảo
ngược lại khi ông Hồ Hùng Anh là Chủ tịch và ông Quang là Phó Chủ tịch.
Sự gắn kết bền chặt này đã mang lại lợi ích cho cả 2 bên. Năm 2011, Techcombank đạt
lợi nhuận thuần hơn 3.000 tỉ đồng, tăng hơn 50% so với năm 2010. Tỉ lệ dư nợ trên huy
động của ngân hàng này là 64,3%, một trong những mức thấp nhất thị trường. Doanh thu
Masan Consumer năm 2011, trước khi mua Vinacafe, đạt 7.057 tỉ đồng, lợi nhuận 2.254 tỉ

đồng. Tuy nhiên, sau khi cộng với Vinacafe, con số doanh thu đã lên đến 8.310 tỉ đồng
(tăng 17,7%) và lợi nhuận là 2.466 tỉ đồng (tăng 9,4%).
Sự thành công ở trên đến từ mô hình mà tập đoàn Masan sử dụng trong chiến lược phát
triển của mình. Masan xuất phát từ công ty hàng tiêu dùng sản xuất mỳ ăn liền, nước chấm
với sự góp sức của các nguồn tài chính nước ngoài, Masan đã mở rộng đa ngành với 3 lĩnh
vực là hàng tiêu dùng, ngân hàng và khoáng sản thông qua Masan Consumer (tiêu dùng),
Ngân hàng Techcombank (tài chính) và Masan Resources (khai thác khoáng sản). Masan

phát triển theo mô hình “sở hữu tài sản” (là những công ty có năng lực huy động vốn từ
nhiều nhà đầu tư khác nhau. Số vốn này được dùng để đầu tư vào các công ty hoặc tài sản
khác nhau và tổ chức theo các hình thức công ty con, công ty liên doanh hoặc liên kết. Khác
với mô hình quỹ đầu tư, mô hình này không nhằm mục đích mua đi, bán lại các công ty, tài
sản để tạo nguồn thu trong ngắn hạn mà chủ yếu nhằm gia tăng quy mô của tổ chức kinh
doanh.) Chiến lược sở hữu tài sản được Masan xác định khá rõ: chỉ đầu tư chi phối vào
những công ty có khả năng dẫn đầu thị trường, trước mắt là tiêu dùng và tuyên bố không
đầu tư vào bất động sản. Và một đặc điểm khác biệt trong mô hình của Masan là các công
ty con không liên kết hoặc trở thành đối tác của nhau, nghĩa là Techcombank không tài trợ
vốn cho Masan Consumer, hoặc Masan Resources không liên doanh với Masan Consumer.
Các công ty con này đang được điều hành bởi 4 tổng giám đốc.
2.3.3.2 Tác động tiêu cực: Sở hữu chéo tiềm ẩn rủi ro tăng vốn ảo, thâu tóm ngân
hàng và rủi ro hệ thống. Đặc biệt nó gây ra những hệ lụy nghiêm trọng đó là tình trạng
căng thẳng nợ xấu trong thời gian qua.
• Rủi ro tăng vốn ảo: Sở hữu chéo hình thành những khoản vốn khổng lồ nhưng chỉ
có trên giấy tờ, sổ sách mà không được đưa ra thị trường, cho nền kinh tế.
Như đã nói ở trên, các ngân hàng thương mại Việt Nam phải có số vốn điều lệ thực góp
là 1000 tỷ đồng vào năm 2008 và tăng lên 3000 tỷ đồng vào năm 2010. Trong một thời gian
ngắn để tăng được lượng vốn hàng nghìn tỷ đồng không phải là điều đơn giản. Để lách quy
định này, thông qua sở hữu chéo cổ đông của ngân hàng X có thể đi vay vốn của ngân hàng

Y để đầu tư vào ngân hàng X và ngược lại. Tuy nguồn vốn của từng ngân hàng tăng, nhưng
tổng thể nguồn vốn toàn hệ thống thì không hề thay đổi. Tình trạng vốn ảo gây ra bởi sở
hữu chéo sẽ làm sai lệch việc đánh giá rủi ro của hệ thống ngân hàng, bởi đánh giá hoạt
động của một ngân hàng có rất nhiều chỉ số được xác định dựa trên số vốn tự có mà vốn
điều lệ là một yếu tố cấu thành nên vốn tự có của ngân hàng lại có một phần là vốn ảo, do
vậy kết quả tính toán các chỉ số này trong toàn hệ thống còn mang giá trị ảo. Chính kết quả
này kéo theo hệ lụy làm sai lệch về quản trị ngân hàng cũng như việc đánh giá rủi ro, trích
lập dự phòng hay giám sát đối với hoạt động tài chính nói chung.
• Rủi ro thâu tóm đối với hoạt động ngân hàng:

Theo quy định hiện nay, một cổ đông là cá nhân không được sở hữu quá 5%, một tổ chức
không được sở hữu quá 15%, cổ đông và những người liên quan của cổ đông đó không
được sở hữu vượt quá 20% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng (trừ những trường hợp đặc
biệt theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ) nhằm hạn chế việc thâu tóm ngân hàng trái
pháp luật. Tuy nhiên để lách các quy định trên, các cổ đông sở hữu số vốn nhỏ hơn 5% vốn
điều lệ lại ủy quyền cho những cá nhân tổ chức không có họ hàng với mình để đầu tư vào
một ngân hàng. Ví dụ cho trường hợp này là ông Đặng Thành Tâm (Tuy ông Đặng Thành
Tâm chỉ sở hữu 2,97% tại Navibank và không có cổ phần tại NH Phương Tây, nhưng ông
lại sở hữu gián tiếp cả hai NH này. Ông Tâm nắm 23,69% cổ phần tại Công ty Cổ phần
Viễn thông Sài Gòn và 34,94% cổ phần Tổng Công ty Phát triển nhà Kinh Bắc (KBC).
Công ty Cổ phần Viễn thông Sài Gòn trực tiếp sở hữu 9,41% NH Phương Tây. Còn KBC
đầu tư 483 tỉ đồng tại Công ty Cổ phần Năng lượng Sài Gòn - Bình Định, vốn chiếm 9,85%
cổ phần tại NH Phương Tây và 11,93% tại NH Navibank. Như vậy khi sở hữu chéo diễn ra
thì quy định này dường như bị vô hiệu hóa.
Sở hữu chéo khiến cho một số người sở hữu đồng thời nhiều ngân hàng và doanh nghiệp
khác nhau, từ đó chi phối hoạt động kinh doanh ngân hàng. Điều này được thể hiện rất rõ
thông qua hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại, mặc dù có quy định các
ngân hàng không được phép cho cổ đông của mình vay vốn, nhưng trên thực tế họ lại có thể

cho vay đối với các công ty, doanh nghiệp con của những cổ đông này. Một khi giám sát
không chặt chẽ, các chủ sở hữu có thể chi phối để dòng tiền chuyển sang cho vay các dự án
sân sau của mình. Bên cạnh đó, cơ chế quản lý giám sát lỏng lẻo còn có thể dẫn tới tình
trạng thẩm định một cách sơ sài, việc này có thể khiến kết quả đánh giá khả năng tài chính,
khả năng trả nợ và sự đảm bảo an toàn cho khoản vay không chính xác. Như vậy sở hữu
chéo không những dẫn tới thâu tóm ngân hàng mà còn gây ra rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt
động ngân hàng.
• Tiềm ẩn rủi ro hệ thống
Do mạng lưới chằng chịt phức tạp trong mối quan hệ sở hữu giữa các ngân hàng, khi xuất
hiện rủi ro rất dễ xảy ra hiệu ứng domino không chỉ trong hoạt động ngân hàng. Ban đầu rủi
ro xảy ra với một hoặc một vài tổ chức riêng lẻ, sau đó sẽ nhanh chóng lan ra các tổ chức

khác bởi những mối liên quan về nguồn vốn kinh doanh. Tiếp đó rủi ro sẽ lan ra hoạt động
của các doanh nghiệp bởi quan hệ giữa dòng vốn đầu tư, cho vay, hoạt động sản xuất kinh
doanh của ngân hàng, bởi mâu thuẫn giữa dòng vốn ảo chỉ có trên sổ sách và hoạt động sản
xuất kinh doanh thực. Đặc biệt khi nó bị lạm dụng để phục vụ lợi ích nhóm hay để che giấu
tình trạng ọp ẹp về tài chính của các doanh nghiệp và ngân hàng có liên quan.
• Nợ xấu là một trong những hệ lụy nghiêm trọng
Nguyên nhân đến từ việc cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại,khi mà hoạt động
này không dựa vào quy định tín dụng chặt chẽ mà chủ yếu từ quan hệ thân thiết “sân sau”.
Các chủ sở hữu có thể tác động gây áp lực để thực hiện cấp tín dụng cho các hoạt động kinh
doanh theo mục đích riêng của mình; hoạt động này được thực hiện với sự qua loa trong
khâu thẩm định, và lỏng lẻo trong thanh tra giám sát, giải ngân và thực hiện khoản vay. Việc
nguồn lực phân bổ không được đánh giá, giám sát đầy đủ sẽ dễ gây ra nợ xấu. Khi đã xuất
hiện nợ xấu, việc xử lý sẽ khó khăn hơn nhiều, do mối quan hệ lằng nhằng của sở hữu chéo.
Đó cũng là một trong những lý do khiến NHNN khó nắm được chính xác số nợ xấu của toàn
bộ hệ thống ngân hàng.

 Dẫn chứng thực tế: Ngân hàng TMCP An Bình.
Ngân hàng TMCP An Bình (ABB) có hai cổ đông lớn là Tập doàn điện lực VN (EVN)
và Công ty cổ phần xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội (Geleximco). Theo quy định của Luật
các tổ chức tín dụng, NHTM không duợc cấp tín dụng cho cổ đông là pháp nhân có dại diện
góp vốn. Hai cổ đông này đều cử đại diện tham gia Hội đồng quản trị của ABB. Ðại diện
của Geleximco (Ông Vũ Văn Tiền) là Chủ tịch HÐQT và các đại diện của EVN (Ông
Nguyễn Văn Hội và ông Ðào Duy Hưng) là thành viên HÐQT của ABB. Tuy nhiên, thông
qua việc đầu tư trái phiếu, ABB đã tài trợ cho cả hai pháp nhân là cổ đông của ngân hàng.
Trong năm 2010, ABB đã tài trợ 1000 tỷ VND cho EVN và 500 tỷ cho Geleximco. Tình
huống ABB còn góp phần giải thích một lý do nữa về việc tại sao các DNNN có động cơ
tham gia góp vốn vào các NHTMCP. Sau khi tham gia góp vốn vào ABB, EVN mở tài
khoản tiền gửi tại chính ngân hàng này. Doanh số tiền gửi của EVN tại ABB trong năm
2010 và 2011 lần luợt là 24.000 tỷ đồng và 9.500 tỷ đồng, số dư tiền gửi ngày 31/12/2010
và 31/12/2011 là 1461 tỷ đồng và 1758 tỷ đồng. Trong bối cảnh các cuộc chạy đua lãi suất

để thu hút tiền gửi các năm qua thì các khoản tiền gửi lớn của tập đoàn EVN thực sự là một
sự hỗ trợ lớn cho ABB. Vấn đề là lợi ích của các khoản tiền gửi mang lại có hoàn toàn thuộc
về EVN hay là đã duợc phân bổ cho một vài cá nhân có thẩm quyền của Tập doàn này.
Bằng nhiều hình thức thông qua sở hữu chéo các NHTM dã lách qua khung giám sát.
Hậu quả của các hành vi lách luật của các NHTM là những khoản nợ xấu và tài sản kém
chất luợng mà cổ đông thiểu số và nguời gửi tiền sẽ phải gánh chịu nếu Chính phủ không
giải cứu. Sở hữu chéo khiến cho việc giám sát các NHTM của NHNN gặp khó khăn, tuy
nhiên biểu hiện đầu tiên và rõ ràng nhất luôn là sự thiếu hụt thanh khoản diễn ra trong một
thời gian dài của NHTM yếu kém.

2.3.4 Thực trạng sở hữu chéo ở Việt Nam
Sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có từ khá lâu. Thời gian đầu chủ yếu
do các ngân hàng quốc doanh góp vốn với tư cách cổ đông Nhà nước với mục đích giúp
Nhà nước kiểm soát hoạt động của các ngân hàng cổ phần. Do đó, không phải mọi hình thức
sở hữu chéo ở Việt Nam đều đáng lo ngại mà trái lại trong một chừng mực nhất định cũng
có những tác động tích cực. Nhưng sở hữu chéo ở Việt Nam là nguy hiểm vì nó gắn với
những lĩnh vực rủi ro rất cao. Ví dụ sự “lằng nhằng” trong bất động sản, tài chính, ngân
hàng, giữa vay thương mại tín dụng và cái gọi là đầu tư tài chính. Và những điều đó cộng
hưởng với hệ thống giám sát, đặc biệt giám sát dòng tiền chưa tốt; các nhóm lợi ích; và nó
lại diễn ra trong bối cảnh không chỉ bên ngoài khó khăn mà trong hệ thống tài chính ngân
hàng có nhiều biểu hiện rủi ro, yếu kém làm cho cộng hưởng các vấn đề của sở hữu chéo trở
nên nghiêm trọng. Theo luật doanh nghiệp năm 2005 (điều 146) đã quy định, tập đoàn tài
chính theo mô hình công ty mẹ - công ty con và Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày
01/10/2010 của chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của luật doanh nghiệp
(điều 38) quy định về tập đoàn kinh tế, nhưng chưa có hướng dẫn riêng đối với việc thành
lập, hoạt động, thanh tra giám sát an toàn hoạt động tập đoàn tài chính. Theo đó, những tổ
chức tín dụng hoạt động dưới hình thái tập đoàn tài chính này sẽ không được giám sát chặt
chẽ trên phương diện hợp nhất và đây chính là lỗ hổng dẫn đến việc sở hữu chéo giữa các
thành viên và đối tượng có liên quan trong tập đoàn tài chính không sớm được phát hiện, đo
lường và kiểm soát kịp thời bởi các cơ quan quản lý nhà nước. Từ đó, dẫn tới việc những

người quản lý, điều hành, cổ đông có ảnh hưởng trọng yếu hoặc nắm quyền kiểm soát đối
với tập đoàn tài chính này đã và đang lợi dụng khe hở pháp lý để thực hiện những giao dịch
có tính chất nội bộ thiếu minh bạch có thể gây rủi ro lớn cho tổ chức tín dụng thuộc tập
đoàn.
Hiện tại có gần tám NHTM cổ phần có quan hệ cổ phần với bốn NHTM nhà nước, tiêu
biểu là Vietcombank, hiện đang sở hữu 11% tại Ngân hàng Quân đội, 8,2% tại Eximbank,
4,7% tại Ngân hàng Phương đông, 5,3% tại Ngân hàng Sài Gòn. Trong khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh, sở hữu chéo phổ biến dưới hai hình thức là ngân hàng sở hữu lẫn nhau và

doanh nghiệp sở hữu ngân hàng. Từ những thông tin công bố của các ngân hàng, hiện có ít
nhất sáu NHTMCP có cổ đông là một NHTMCP khác. Chẳng hạn, NHTMCP XNK Việt
Nam Eximbank hiện sở hữu 10,6% cổ phần tại Sacombank, 8,5% cổ phần tại Ngân hàng
Việt Á. Hay NHTMCP Hàng Hải (Maritime bank) được sở hữu bởi Agribank trong khi đó
nó lại đang sở hữu NHTMCP Quân đội (MB) và ngân hàng phát triển Mê Kông (MDB)….
Sở hữu NHTMCP bởi các tập đoàn, tổng công ty nhà nước và tư nhân: trong giai đoạn bùng
nổ các NHTMCP và quỹ đầu tư tài chính, rất nhiều tập đoàn và tổng công ty nhà nước đã
tham gia góp vốn hình thành các tổ chức tín dụng này. Hiện tại có khoảng gần 40 các doanh
nghiệp nhà nước và tư nhân có sở hữu trên 5% tại các NHTMCP. Hơn nữa, hầu hết các tập
đoàn nhà nước đều có các công ty tài chính. Ví dụ như tập đoàn điện lực EVN đầu tư 24,3%
vào ngân hàng An Bình, tập đoàn dầu khí Petro Việt Nam đầu tư vào ngân hàng dầu khí
Toàn Cầu, hai tập đoàn kinh tế nhà nước là tập đoàn Than – Khoáng sản và tập đoàn Cao Su
đều đầu tư hơn 6% vào NHTMCP Sài Gòn – Hà Nội,… Mối quan hệ giữa NHTMCP với
các tập đoàn tư nhân ngày càng trở nên phức tạp. Nhiều ngân hàng có thể được sở hữu bởi
rất nhiều công ty gia đình hoặc các thành viên gia đình vốn đồng thời lãnh đạo ở các doanh
nghiệp khác.
Hình 1: Sở hữu chéo giữa 2 NHTMCP

Hình 2: Sở hữu chéo giữa NHTMCP và doanh nghiệp

Việc sử dụng lợi thế sở hữu và kiểm soát vận hành ngân hàng để ảnh hưởng đến các ngân

hàng trong việc cung cấp vốn giá rẻ bằng việc huy động vốn từ dân để tài trợ cho các dự án,
cơ sở kinh doanh có lợi ích liên quan của giới chủ ngân hàng không còn là chuyện mới với
công chúng Việt Nam. Cộng đồng doanh nghiệp từ lâu đã hiểu rõ lợi ích của sở hữu chéo
giữa tài chính - ngân hàng và sản xuất - thương mại. Lợi dụng sở hữu chéo để cấp vốn giá rẻ
từ ngân hàng cho doanh nghiệp thân hữu dẫn tới phân bổ bất hợp lý nguồn lực của nền kinh
tế. Nhóm doanh nghiệp nhận được dòng vốn lớn với chi phí thấp sẽ có năng lực cạnh tranh
vượt trội mà không cần tới bất kỳ cải thiện nào trong quản lý, hay tiến bộ trong công nghệ
sản xuất. Cùng lúc đó, phần còn lại của nền kinh tế phải gánh chịu chi phí vốn cao và bị bào
mòn năng lực cạnh tranh. Tóm lại, sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế suy giảm. Để bù
đắp năng lực kinh doanh yếu, nhóm doanh nghiệp thân hữu ngày càng đòi hỏi lượng vốn
đầu vào lớn hơn. Điều này khiến nguồn vốn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu đầu tư, mở rộng sản
xuất-kinh doanh với phần còn lại của xã hội trở nên khan hiếm và đẩy chi phí vốn lên cao
hơn. Trong vòng xoáy này, đại bộ phận doanh nghiệp đi tới chỗ không thể đạt được hiệu
suất lợi nhuận đủ trang trải chi phí đầu vào (trong đó, chi phí vốn có tỷ trọng đáng kể nhất).
Hệ quả là tình trạng co hẹp sản xuất, thua lỗ và phá sản tràn lan. Lúc này xuất hiện cơ hội để
các doanh nghiệp dồi dào tài chính triển khai mạnh mẽ các hoạt động thâu tóm. Các thế lực
độc quyền ra đời. Sự tồn tại của hành vi thao túng và lũng đoạn hoạt động ngân hàng thông
qua sở hữu chéo là tín hiệu báo động năng lực quản trị nội bộ yếu kém tại những tổ chức
kinh doanh dựa trên niềm tin của công chúng và thường được quan niệm là có tính chuyên
nghiệp cao này.Việc ông Đặng Văn Thành và con trai Đặng Hồng Anh bị Sacombank
phong tỏa 80 triệu cổ phần của chính ngân hàng (STB: HOSE) để cấn trừ vào các khoản
vay, đầu tư trái phiếu và phải thu khác của gia đình cổ đông sáng lập Sacombank này bổ
sung thêm một bằng chứng về điểm yếu của hệ thống ngân hàng Việt Nam: Sở hữu chéo
chằng chịt và quản trị nội bộ không tốt.
Ngoài ra, làn sóng nâng cấp ngân hàng nông thôn lên ngân hàng thương mại cổ phần và
lập mới ngân hàng những năm 2006-2007 với chủ ngân hàng là những người sở hữu các
công ty, tập đoàn kinh doanh vô hình chung khiến một số ngân hàng này trở thành “sân

sau” của các tập đoàn, cả nhà nước lẫn tư nhân. Để tăng vốn chủ sở hữu nhanh chóng trong
một thời gian ngắn, nhóm ngân hàng này và ngay chính các tập đoàn đằng sau các ngân

hàng này cũng phải vay vốn từ các ngân hàng khác để đáp ứng yêu cầu. Vấn đề sở hữu chéo
và những bất cập của nó có thể phát sinh từ đây, gắn với việc chuyển đổi các ngân hàng
nông thôn lên đô thị, sau đó là yêu cầu tăng nhanh và mạnh vốn điều lệ từ cỡ vài trăm tỷ
đồng lên 3000 tỷ. Như vậy thì nguồn để tăng vốn lấy từ đâu? Mặc dù theo quy định thì các
ngân hàng không được cho các cổ đông của mình vay vốn nhưng các ngân hàng có thể lách
quy định này bằng cách cho các công ty con của các doanh nghiệp vay vốn. Ngoài ra, việc
sở hữu chéo giữa các ngân hàng cũng tạo điều kiện để cho các doanh nghiệp sở hữu ngân
hàng này có thể dễ dàng vay được vốn từ ngân hàng kia. Đây là một trong những nguyên
nhân khiến nợ xấu, nợ quá hạn “dắt dây” trong toàn bộ hệ thống các tổ chức tín dụng của
Việt Nam. Tác hại và thiệt hại từ hành vi này bắt đầu được nhắc tới khi nền kinh tế Việt
Nam rơi vào khó khăn, cộng đồng doanh nghiệp suy kiệt nguồn lực, khó tiếp cận nguồn vốn
ngân hàng. Sở hữu chéo trở nên nghiêm trọng với những cáo buộc vi phạm pháp luật dành
cho những nhân vật như Nguyễn Đức Kiên và nhóm lãnh đạo ngân hàng ACB.Việc tái cơ
cấu ngân hàng là không dễ dàng, nó đang chậm lại do vấn đề nợ xấu, đặc biệt là tính chất sở
hữu chồng chéo giữa các ngân hàng, lợi ích nhóm.Vì lẽ đó, việc khoanh lại nhóm các ngân
hàng yếu kém để tái cấu trúc không hề dễ dàng, nếu không có quyết tâm về mặt chính sách
và không có một quy tắc mạch lạc trong việc xác định loại ngân hàng tái cơ cấu, biện pháp
tái cơ cấu, các biện pháp kiểm soát đặc biệt của Nhà nước, và tôn trọng sự thật về các chỉ
số, tránh để khủng hoảng niềm tin xảy ra thì sẽ khó thực hiện được tái cơ cấu ngân hàng.
CHƯƠNG 3: CÁC BIỆN PHÁP KIỂM SOÁT SỞ HỮU CHÉO
3.1 Tách bạch sở hữu và giám sát đối với NHTMNN

Cần tách bạch giữa việc sở hữu, quản lý của NHNN đối với NHTMNN: NHNN cần
được độc lập trong việc giám sát hoạt động của các NHTM. Theo đó, cần tách bạch giữa
việc sở hữu, quản lý của NHNN đối với các NHTMNN.
Nhất quán trong quá trình giám sát các NHTM. Các NHTMNN cần chịu sự giám sát
chặt chẽ như các NHTMCP khác. Không có ngoại lệ trong giám sát: Một quan điểm cần
nhất quán khi giám sát các NHTM là không có ngoại lệ trong việc tuân thủ quy định bảo
đảm an toàn hoạt động. Các NHTMNN cần chịu sự giám sát chặt chẽ như các NHTMCP
khác. Việc duy trì các ngoại lệ trong giám sát đối với các dự án vay vốn của các tổng công

ty, tập đoàn kinh tế nhà nước sẽ tạo nên một tâm lý ỷ lại lớn trong các NHTMNN do tổn
thất của các NHTMNN từ việc vi phạm khung giám sát sẽ được Chính phủ giải cứu.
Giảm tỷ lệ sở hữu Nhà nước tại các NHTMNN: Việc giảm tỷ lệ sở hữu Nhà nước tại các
NHTMNN có sẽ có hai tác dụng. Thứ nhất, giảm sức ép buộc các NHTMNN phải cho vay
chỉ định. Thứ hai, khi có thêm sự giám sát mạnh mẽ của các cổ đông bên ngoài (không phải
Nhà nước), NHTMNN buộc phải tuân thủ tốt hơn các quy định của NHNN.
3.2 Giải pháp giảm sở hữu chéo
Các DNNN và các NHTMNN phải thoái vốn ở NHTMCP: Tình huống ABB trong đã chỉ
ra các tác động tiêu cực của mối quan hệ ủy quyền tại các DNNN có quan hệ SHC với
NHTM. Do nắm giữ cổ phần, DNNN sẽ dễ dàng vay vốn từ NHTM mà họ sở hữu. Vấn đề
nảy sinh ở đây là các giao dịch vay vốn này thường vi phạm khung giám sát và không được
giám sát. Vì vậy để loại bỏ tác động tiêu cực của SHC đến an toàn hoạt động của NHTM,
Chính phủ cần yêu cầu các DNNN và NHTMNN đang nắm giữ cổ phần của các NHTMCP
phải thoái vốn, chỉ tập trung vào hoạt động kinh doanh cốt lõi. Điều này sẽ góp phần hạn
chế những khoản cho vay, đầu tư theo quan hệ giữa DNNN và NHTMCP. Để tập trung vào
các hoạt động kinh doanh cốt lõi và hạn chế các giao dịch vay vốn vi phạm khung giám sát
tránh rủi ro.

×